Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

BẢO tồn các GIÁ TRỊ về tín NGƯỠNG dân tộc XTIÊNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (589.11 KB, 44 trang )

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới cô ThS.
Trần Thị Phương Thúy người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo tận tình và giúp đỡ
tôi trong suốt thời gian học tập nghiên cứu và hoàn thành bài tiểu luận này. Tôi
xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các quý thầy cô, tập thể cán bộ Khoa Văn hóa
Thông tin và Xã hội, Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã quan tâm, tạo mọi điều
kiện cho tôi trong suốt thời gian làm tiểu luận. Giúp tôi được tiếp cận với môn
học “Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam”. Qua đó có cái nhìn khái quát về
nền Văn hóa Việt Nam nói chungvà nền văn hóa dân tộc Xtiêng nói riêng.
Xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến gia đình, quý thầy cô, bạn bè, những
người đã luôn động viên, khuyến khích, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực
hiện tiểu luận này.
Đây là lần đầu tiên tôi làm tiểu luận cũng như được tiếp cận với việc làm
một văn bản khoa học chắc chắn không tránh khỏi những sơ suất. Vì vậy tôi rất
mong sẽ nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô để bài tiểu luận được
hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN


MỞ ĐẦU
Việt Nam là một quốc gia mang trong mình một nền văn hóa rất đặc biệt.
Nó đa dạng, phong phú và thống nhất giữa các vùng, các dân tộc. Một nền văn
hóa của 54 tộc người anh em, mỗi tộc người đều có những nét văn hóa riêng biệt
của mình, đều góp những mảng màu rực rỡ trong bức tranh văn hóa dân tộc Việt
Nam. Khi các nền văn hóa gặp nhau, chúng không bài trừ lẫn nhau mà thay vào
đó là sự giao thoa kỳ diệu.
Chính vì lẽ đó, tôi đã đi tìm hiểu về vùng đất Tây Nguyên, vùng đất được


coi là vùng văn hóa đa bản sắc của các dân tộc thiểu số bản địa với những yếu tố
đan xen, giao hòa giữa dòng văn hóa bản địa truyền thống với văn hóa đương
đại. Đặc biệt là không gian văn hóa cồng chiêng đã được UNESCO công nhận là
kiệt tác “Văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại”, đó là niềm tự hào
của anh em dân tộc Tây Nguyên.
Là một dân tộc thuộc cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên, chủ nhân lâu
đời của miền đất Nam Trường Sơn, dân tộc Xtiêng là một trong số những dân
tộc thiểu số bản địa có dân số đông nhất ở Bình Phước. Dân tộc Xtiêng có một
nền văn hóa mang nhiều sắc thái chung với những người anh em Tây Nguyên
nhưng cũng không thiếu những nét độc đáo, phong phú mang tính chất đặc thù
bản sắc của dân tộc mình. Cư ngụ ở Nam Tây Nguyên, dân tộc Xtiêng như một
cánh cửa đón nhận sự giao lưu, hội nhập của văn hóa người Việt, người Khmer,
người Mnông. Các nghi lễ không chỉ là nghi thức thể hiện sự tôn kính của con
người với các đối tượng được suy tôn, mà nó còn là cầu nối giữa quá khứ với
hiện tại và tương lai. Với dân tộc Xtiêng, nghi lễ là một thành tố, là nhu cầu
không thể thiếu trong đời sống gia đình, đời sống cộng đồng.
Vì lẽ đó, những gì thuộc bản sắc văn hóa Xtiêng rõ ràng phải có một sức
sống mãnh liệt mới có thể tồn tại và phát triển được. Để hiểu rõ hơn về điều đó,
tôi đã lựa chọn tín ngưỡng của dân tộc Xtiêng làm dân tộc mà tôi nghiên cứu lần
này. Thông qua quá trình tìm hiểu này, tôi mong muốn bài tìm hiểu của mình có
thể đóng góp một phần vào sự nghiệp văn hóa của Việt Nam, giúp cho các nhà
quản lý văn hóa có thêm tư liệu để củng cố thêm trong tiến trình phát triển văn
hóa cũng như thực hiện Nghị quyết Trung ương V khóa VIII và điều 30 của
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992.

3


PHẦN 1: KẾT QUẢ TÌM HIỂU TÍN NGƯỠNG CỦA DÂN TỘC XTIÊNG.
1.Khái quát chung về tộc người.

1.1. Nguồn gốc lịch sử.
Dân tộc Xtiêng là 1 trong các dân cư cư trú ở nước ta từ rất lâu đời, họ đã
sớm quần tụ ở vùng biên giới Tây Nam. Thuộc cộng đồng các dân tộc Tây
Nguyên, là chủ nhân lâu đời của miền đất Nam Trường Sơn. Trước đây, dân tộc
Xtiêng phân bố trải dài từ vùng núi Bà Đen (Tây Ninh) đến Bà Rá (Sông Bé cũ).
Đầu Thế kỷ XX, khi thực dân Pháp chiếm đất của dân tộc Xtiêng để lập đồn
điền cao su, đã đẩy dân tộc Xtiêng ngày càng lùi sâu vào vùng rừng núi phía
Bắc.
1.2. Tộc người.
Tên tự gọi: Xtiêng. Tên gọi khác: S’tiêng, Giẻ xtiêng, Xa Điêng hoặc Xa
Chiêng. Thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer trong ngữ hệ Nam Á. Trong các
dân tộc thuộc ngữ hệ Môn - Khmer ở Tây Nguyên thì dân tộc Xtiêng là nhóm cư
dân có dân số đông thứ ba sau Ba Na và H'Rê.
1.3. Dân số và địa bàn cư trú.
Tập trung 99,3% tại các tỉnh Bình Phước, Đồng Nai và Tây Ninh. Có mặt
tại 34 tỉnh thành trên tổng số 63 tỉnh/thành phố trên khắp cả nước. Đông nhất tại
Bình Phước (Chiếm 95% tổng số người Việt Nam tại đây).
Địa bàn cư trú: phía Bắc giáp người Mnông, phía Đông giáp người Mạ,
phía Nam giáp người Việt và phía Tây giáp người Khmer.
1.4. Đặc điểm cơ bản về văn hóa.
1.4.1. Văn hóa trong sản xuất.
Dân tộc Xtiêng gồm 2 nhóm chính: Nhóm Bù Đek ở vùng thấp, họ biết
làm ruộng nước, công cụ sản xuất còn thô sơ như rìu, dao để khai phá; dùng
trâu, bò kéo cày và tuốt lúa bằng tay. Nhóm Bù Lơ ở vùng cao, làm rẫy là chủ
yếu, sống gần người Mnông và người Mạ. Nhìn chung, đời sống kinh tế của dân
tộc Xtiêng chủ yếu gắn với phá rẫy, chọc lỗ tra hạt. Xưa kia,nền kinh tế truyền
thống là nền kinh tế tự cung tự cấp. Hình thức chủ yếu là trồng trọt các loại hoa
màu và trỉa lúa trên các triền đồi, các hoạt động khai thác tự nhiên: săn bắn, hái
4



lượm, đánh bắt cá,...Bên cạnh đó còn có sự phát triển của các nghề đan lát, rèn ,
dệt, chăn nuôi và trao đổi hàng hóa. Ngày nay, trên đồi chủ yếu là trồng các cây
công nghiệp, cây nông nghiệp ngắn ngày và dài hạn. Sản phẩm thu được không
còn được tích trữ trong kho mà được đem ra trao đổi buôn bán.
1.4.2. Văn hóa trong kinh tế.


Văn hóa trong trao đổi buôn bán, phương tiện vận chuyển:
Dân tộc Xtiêng trao đổi buôn bán theo 2 cách:
Cách thứ nhất: Thương lái mang hàng đến làng để đổi hàng.
Cách thứ hai: Dân tộc Xtiêng mang hàng ra chợ bán.
Thứ mà dân tộc đem đổi thường là trâu, nồi gốm, lâm thổ sản, mật ong,
ngà voi, sừng tê giác,... Quần áo mà phụ nữ dệt được sẽ không mặc mà được
mang ra để đổi lấy quần áo may sẵn. Phạm vi buôn bán từ phía Đông đến mạn
biển Bình Định, phía Tây Bắc đến biên giới Thái Lan. Voi được đem sử dụng
vào việc chuyên chở hàng.



Văn hóa trong trang phục:
Trang phục nơi đây khá đơn giản, đàn bà mặc váy hoặc áo cũng có khi cở
trần. Đàn ông đóng khố cởi trần. Mùa đông lạnh họ chỉ choàng thêm tấm vải cho
đỡ rét. Tóc được búi sau gáy, tai sâu lỗ, đeo lục lạc và rất nhiều trang sức trên
người.Ngày nay, nam giới mặc như người Việt, nữ giới hay dùng áo cánh, sơ mi,
ở vùng gần Khmer cũng thường gặp phụ nữ Xtiêng mặc váy Khmer.



Văn hóa trong ẩm thực:

Nhìn chung đồ ăn của dân tộc Xtiêng đều được đem nướng trong các ống
tre. Đặc sản của cư dân là cơm lam, canh thụt... Lương thực chính trong bữa ăn
hàng ngày là gạo tẻ, gạo nếp và đồ ăn thu hoạch được ở ven rừng, ven sông suối
như cá, tôm, bí,... Đồ ăn được mọi người yêu thích là món đọt mây nướng bằng
ống tre. Trước đây họ thường ăn bằng tay nhưng nay đã chuyển sang dùng bát
đũa. Để đựng cơm canh hay nước, họ chế tác vỏ bầu thành những hình dạng
thích hợp. Nước lã, rượu cần là các đồ uống truyền thống. Rượu cần thường chỉ
được dùng trong các ngày lễ tết, hội hè, đám hỏi,… Một đặc điểm nữa ở dân tộc
Xtiêng là họ thích ăn trầu và hút thuốc lá.
5


1.4.3. Văn hóa tinh thần.
Trước kia dân tộc Xtiêng theo tín ngưỡng đa thần, vạn vật hữu linh,
nhưng khoảng từ Thập kỷ 80, họ đã chuyển sang đạo Tin lành và Thiên chúa. Để
đáp ứng nhu cầu tâm linh của tín đồ, một vài thôn đã có nhà nguyện, tuy được
xây dựng bằng những chất liệu đơn giản nhưng rất sạch sẽ và có sự chăm sóc
của các tín đồ. Đối với những thôn chưa có nhà nguyện, nhà thờ, tín đồ Xtiêng
thường đi lễ tại nhà thờ của huyện ít nhất một tháng một lần. Niềm tin vào Đạo
của tín đồ Xtiêng khá mạnh mẽ. Đây cũng là một vấn đề hai mặt đáng quan tâm,
khi niềm tin tôn giáo tác động tích cực sẽ giúp người dân sống tốt đời đẹp đạo,
nhưng đồng thời các nhà quản lý cũng cần quan tâm để tránh các thế lực lợi
dụng niềm tin tôn giáo để chống đối, phá hoại.
Xưa kia, đa số người dân đều không biết chữ, họ chỉ giáo dục và truyền
lại những kinh nghiệm sống cho con cháu bằng lối giáo dục truyền thống.
Nhưng hiện nay, đa số người dân đều biết chữ phổ thông. Sự giao lưu, tiếp biến
về ngôn ngữ còn thể hiện trong việc đặt tên con cái. Kết quả khảo sát hộ gia đình
ghi nhận việc dùng họ Điểu (đối với nam), họ Thị (đối với nữ) vẫn giữ nguyên
như trước kia, nhưng riêng tên đã có nhiều thay đổi.
1.4.4. Văn hóa xã hội.

Trong đời sống xã hội, hình thức sống chủ yếu là những gia đình nhỏ sống
tập trung trong những ngôi nhà sàn từ ba đến bốn thế hệ. Sau khi cưới, các cặp
vợ chồng sẽ sống luân phiên ba năm ở nhà bố mẹ vợ và ba năm ở nhà bố mẹ
chồng. Khi đã chuẩn bị đầy đủ cho cuộc sống riêng, họ có quyền tách ra thành
một gia đình nhỏ. Ngày nay không còn tồn tại nét sống đẹp này. Hôn nhân của
dân tộc Xtiêng khá bền chặt, nam nữ được tự do tìm hiểu lẫn nhau. Là cuộc hôn
nhân ngoại tộc, người trong dòng họ, người cùng huyết thống không được lấy
nhau. Trong gia đình, vợ chồng sống hòa thuận, ông bà, cha mẹ, con cái, anh chị
em luôn thương yêu và giúp đỡ lẫn nhau, đây là một trong những truyền thống
tốt đẹp của nhóm dân cư này.
Làng là đơn vị cấu thành xã hội. Đứng đầu là già làng có uy tín đại diện
cho cộng đồng giải quyết các vấn đề trong sinh hoạt xã hội và trong đời sống
6


tinh thần. Già làng điều hành làng theo hệ thống luật tục. Giữa già làng và thành
viên trong làng đều có sự bình đẳng, tính huyết thống trong cộng đồng làng là
sợi dây liên kết bền chặt giữa các thành viên trong làng với nhau. Trong xã hội
hiện nay, bên cạnh già làng còn có trưởng thôn, là một người phải có học vấn và
được nhân dân bầu chọn. Khác với già làng, người nắm bắt những tâm tư,
nguyện vọng của nhân dân; Trưởng thôn sẽ thay mặt chính quyền địa phương
quản lý cộng đồng dưới sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước. Hiện tại làng có nhiều
tổ chức đoàn thể xã hội: Chi hội phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn thanh niên,...
Sự tiếp thu những yếu tố mới đã tạo cho đời sống dân tộc Xtiêng ngày càng
phong phú và da dạng, tạo điều kiện cho con người phát triển về mọi mặt. Xưa
kia, đa số người dân đều không biết chữ, họ chỉ giáo dục và truyền lại những
kinh nghiệm sống cho con cháu bằng lối giáo dục truyền thống. Nhưng hiện nay,
đa số người dân đều biết chữ phổ thông.
Dân tộc Xtiêng có một nền văn học dân gian phong phú với nhiều huyền
thoại, truyền thuyết, ca dao,…. Nội dung thường kể về nguồn gốc tộc người,

dòng họ, ca ngợi tinh thần đấu tranh chống thiên tai, phản ánh đời sống sinh hoạt
hàng ngày, những làn điệu hát đối đáp, giao duyên giữa nam và nữ. Về âm nhạc,
các dân tộc nhóm Môn- Khmer có rất nhiều nhạc cụ phong phú và đa dạng như:
Cồng chiêng - một nhạc cụ tiêu biểu nhất và các loại đàn, sáo,… Chất liệu được
dùng để tạo ra nhạc cụ là từ nguồn có sẵn trong tự nhiên như tre, nứa. Với quan
niệm cộng đồng gồm hai nửa hôm qua và hôm nay, thế giới hữu hình luôn có
liên hệ với thế giới vô hình mà cồng chiêng với âm thanh, âm nhạc và sức mạnh
thiêng liêng của nó chính là “cầu nối”. Hầu hết mọi hoạt động văn hóa của
người Tây Nguyên đều có cồng chiêng, con người lớn lên trong một không gian
đầy tiếng nhạc cồng chiêng. Đón đứa trẻ trào đời là nhạc cồng chiêng, và cũng
tiếng nhạc cồng chiêng sẽ tiễn đưa con người đó ra huyệt mộ, linh hồn người đó
sẽ theo cồng chiêng về với tổ tiên, về với nguồn cội. Có thể nói cuộc đời con
người “dài theo tiếng cồng chiêng”.
Tiểu kết 1:
Tôn giáo tín ngưỡng của dân tộc Xtiêng đã có nhiều thay đổi từ sau những
7


năm 1975, nhất là 20 năm trở lại đây. Số lượng người Xtiêng theo đạo Tin lành
và đạo Thiên chúa ngày càng tăng đã tác động lớn trên nhiều mặt của đời sống,
đặc biệt là thế giới quan và nhân sinh quan của dân tộc Xtiêng. Qua cái nhìn
khái quát về điều kiện tự nhiên, hoạt động kinh tế, sinh hoạt văn hóa tinh thần,
xã hội của dân tộc Xtiêng là cơ sở để tôi tìm hiểu kỹ hơn về tín ngưỡng của dân
tộc Xtiêng.
2. Kết quả nghiên cứu về tín ngưỡng của dân tộc Xtiêng.
2.1. Tín ngưỡng cầu mong bình an (Tarăm prắk tròok bri).
Tín ngưỡng thờ tổ tiên để tưởng nhớ người đã khuất là nét truyền thống
tại nơi đây. Dân tôc Xtiêng tin vào tín ngưỡng đa thần, vạn vật hữu linh, mọi vật
đều có hồn. Các linh hồn đó là những lực lượng siêu nhiên, có thể khống chế sự
phát triển của cây trồng, vật nuôi, có thể làm hại con người. Trong nhà sàn dân

tộc Xtiêng đều có cột thờ ma vì người ta tin tưởng, con người khi chết biến
thành ma.
Là cư dân trồng trọt vùng nhiệt đới, điều kiện công cụ sản xuất còn thô sơ
được dùng bằng tay, chưa dùng mấy sức kéo của gia súc, điều kiện phân công
lao động còn kém, hoạt động kinh tế chủ yếu là nương rẫy. Năng xuất không
cao, thời tiết thất thường, có khi bị mất mùa do hạn hán, sâu hay chim rừng phá
hoại,... Nên các dân tộc Môn - Khmer đều theo tin ngưỡng vạn vật hữu linh,
cuộc sống của con người bị các lực lượng siêu nhiên chi phối. Họ cho rằng các
vị thần đóng vai trò quan trọng và có tác động trực tiếp đến cuộc sống con
người, có chức năng bảo hộ, giúp đỡ và tạo cho hạt lúa thật to, cây lúa nặng hạt.
Đó là các vị thần như: Thần rừng (Bri), Thần đất (The), Thần trời (Nar), Thần
lúa (Pa)...
Trước khi chọn nơi gieo hạt, dân tộc Xtiêng cúng vái ông bà rừng để được
phá rừng làm rẫy. Thần lúa được hình dung là người phụ nữ trẻ và đẹp. Trong
các lễ cúng, các vị thần hoặc các siêu nhiên nói chung được nhắc đến để cầu xin,
tạ ơn, hay thông báo điều gì đó. Vật hiến tế là rượu, gà, lợn, trâu, bò, số lượng
càng nhiều và con vật càng lớn chứng tỏ lễ cúng càng to, thần linh càng quyền
thế, quan trọng.
8


Người dân quan niệm rằng trời có liên quan đến các lễ nghi nông nghiệp.
Thần mặt trời là thần phồn thực, mang đến cho con người sự sinh sôi, vui tươi,
no đủ. Những người ban đêm biến thành ma quỷ đi hút máu người làm người
khác ốm đau, chết chóc, người bị nghi là ma sẽ bị chặt đầu và chôn sống trong
rừng, phụ nữ sẽ bị bán làm nô lệ.
2.2. Tổ chức lễ hội.
2.2.1. Lễ hội trong nông nghiệp.
Phương thức sản xuất nông nghiệp chủ yếu là trồng trọt lúa rẫy. Trong
mỗi giai đoạn sản xuất đều có các nghi lễ liên quan. Họ tổ chức lễ này với ước

mong cho công việc trồng trọt suôn sẻ, mùa màng bội thu, không bị chim chóc
và thú rừng phá hoại. Khác với các lễ hội vòng đời người, nghi lễ vòng đời cây
trồng của dân tộc Xtiêng nhiều hơn về số lượng, phong phú về hình thức tổ
chức. Do tập quán sản xuất chủ yếu là trồng lúa nên lễ hội vòng đời cây trồng
cũng chỉ liên quan đến cây lúa là chủ yếu. Từ ảnh hưởng của Ấn Độ, Phật giáo ở
đây rất phát triển. Các hình thức nghi lễ tôn giáo theo vạn vất hữu linh, nên đồng
bào tin rằng rừng, cây, nương lúa,…đều có hồn, có ma. Và điều quan trọng là
hồn lúa được hình tượng thành một bà cụ già - mẹ lúa. Đề cầu mùa dân tộc rất
kiêng kỵ liên quan đến chu kỳ trồng lúa từ tìm nương, gieo hạt cho đến thu
hoạch, cúng cơm mới. Đầu mùa sản xuất, khi gieo hạt người ta kiêng cữ không
cho người lạ vào bản vào nương rẫy; lúc chăm sóc lúa kiêng không bón phân
cho lúa sợ lúa giận vì nhơ bẩn mà bỏ đi; khi thu hoạch, từ rẫy về kho thóc phải
căng dây đưa đường cho hồn lúa; qua suối phải bắc cầu tượng trưng cho hồn lúa
qua, vì hồn lúa sợ nước ướt. Khi qua ngã ba đường phải cắm hoa để hồn lúa khỏi
lạc đường, ở kho thóc phải bắc cầu thang cho hồn lúa lên xuống,...
2.2.1.1.Lễ chuẩn bị chọn đất làm rẫy (pêl-nong):
Được tổ chức vào tháng giêng nhằm để thăm dò, đánh giá lại quyền sử
dụng đất đai đối với một vùng định sẽ phát rẫy sau này. Khi chọn được địa điểm
phù hợp để làm rẫy, dân tộc Xtiêng tiến hành nghi lễ cúng Thần linh (Giàng) để
xin thần linh, ông bà phù hộ giúp đỡ cho họ được bình yên, gieo trồng được mùa
sau đó mới tiến hành khai hoang để canh tác. Rẫy của người nào thì gia đình đó
9


tự tổ chức cúng tại rẫy. Mặc dù đây là lễ có quy mô nhỏ nhưng là nghi lễ đầu
tiên trong các Lễ hội vòng đời cây trồng – Lễ hội nông nghiệp của dân tộc
Xtiêng.
2.2.1.2. Lễ cúng thần lúa.
Có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc gắn bó mật thiết giữa con người
với môi trường sống. Do một gia đình tổ chức, cho dù khó khăn nhưng họ vẫn

mời tất cả cộng đồng về dự.
2.2.1.3. Lễ lên nhà lúa, mừng lúa mới (Hao trôl Bva hoặc năng bar)
hoặc lễ cúng cơm mới (pư ba khiêu).
Là nghi lễ và lễ hội có quy mô lớn nhất, quan trọng nhất trong nghi lễ
vòng đời cây trồng. Được tổ chức vào thời kỳ sau khi thu hoạch xong lúa trên
ruộng, trên rẫy, thóc lúa vào bồ, vào kho yên ổn. Thường là từ tháng 10 đến
tháng 12. Trước đây, lễ cúng được tiến hành 3 lần trong năm và cứ 3 năm đảo lệ,
dân tộc Xtiêng lại tổ chức lễ lớn hơn các năm khác. Hiện giờ hầu hết lễ hội chỉ
được cúng một lần trong năm. Lễ hội thường được tổ chức với hai mức độ khác
nhau, theo từng hộ gia đình hoặc theo quy mô cộng đồng (cả sóc cùng tổ chức).
Trong đó, quy mô tổ chức cộng đồng là quy mô truyền thống và phổ biến hơn.
Dân tộc Xtiêng trước đây thu hoạch lúa rẫy và để ở ngoài đồng (mỗi nương rẫy
thường có một căn chòi tạm dùng làm nơi ở tạm và bảo quản nông sản sau khi
thu hoạch). Sau khi thu hoạch hoàn tất, họ đưa lúa về nhà và làm lễ để tạ ơn ông
trời, ông bà đã cho họ một vụ mùa bội thu.
Lễ hội kéo dài từ một đến ba ngày. Trong các nghi lễ, nhất là Lễ cúng cơm
mới, Lễ thu hoạch lúa, dân tộc Xtiêng thường có tục hiến sinh (giết gà, heo,
trâu) để tế thần. Ở lễ hiến sinh có tục đâm trâu (có nơi gọi là lễ đâm trâu) khá
hấp dẫn, lôi cuốn các thành phần trong buôn (bon) tham gia. Cùng với tiếng
nhạc cồng chiêng là tục đâm trâu, Lễ hiến sinh đã trở thành một nội dung quan
trọng của dân tộc Xtiêng trong đời sống hàng ngày.
Trong lễ hội này người ta có sự chuẩn bị công phu: rượu ngâm trước hàng
tháng, chọn cây nêu và chạm trổ hoa văn cây nêu (cột buộc trâu) thật đẹp, chăm
sóc con trâu kĩ lưỡng để tế thần, chuẩn bị quần áo đẹp để đi trẩy hội. Ngày lễ
10


chọn một số trai, gái trong bon khỏe và đẹp nhảy múa vòng quanh con trâu theo
vùng ngược kim đồng hồ để làm lễ đâm trâu. Trâu được mổ thịt chia đều cho
dân bon cùng mở hội hân hoan, mừng lúa rẫy tươi tốt. Trai làng cùng nhảy múa,

một số người khỏe mạnh trai tráng thì tham gia “đâm trâu” cùng với già làng
(hoặc người có uy tín trong làng) được làng cử ra làm trưởng lễ.
2.2.1.4. Lễ cầu mưa (Hônh My hoặc Broh ba):
Được tổ chức vào trước hoặc sau khi gieo hạt, quy mô tổ chức chủ yếu là
theo từng sóc. Khi thời tiết của năm nào đó đã đến mùa gieo hạt mà theo kinh
nghiệm dân gian, dân tộc Xtiêng nhận biết rằng sẽ rất lâu mới có mưa đó là khi
họ nhìn thấy con gà rừng làm tổ và đẻ trứng ở dưới đất hoặc không an tâm vì
gieo hạt mà trời không có dấu hiệu mưa thì họ sẽ làm Lễ cầu mưa để xin ông
trời cho mưa xuống. Lễ hội cầu mưa được tổ chức với mục đích nhằm tri ân các
vị thần như Thần trời (Bra Aân - Bra Trốk), Thần đất (Bra ter), Thần lúa (Bra
va), … và rất nhiều các vị thần khác đã cho những cơn mưa để gieo trồng ở các
vụ mùa trước; cầu xin các vị thần ban cho thần dân Xtiêng và muôn loài những
cơn mưa đúng thời điểm, mùa vụ để con người có nước sinh hoạt, gieo trồng...
Lễ hội cầu mưa là một lễ hội tín ngưỡng phồn thực, cầu mong cho mưa thuận
gió hoà, để vạn vật được sinh sôi nẩy nở. Lễ hội thường được diễn ra trong vòng
một ngày.
Đây là lễ hội rất quan trọng, trong đó có tục đâm trâu với điệu múa lao
độc đáo cùng màn biểu diễn cồng chiêng, giáo huấn về luật tục và xướng sử thi.
Vật dụng đặc trưng và không thể thiếu của lễ hội là cây nêu, cồng chiêng và các
loại nhạc cụ truyền thống. Lễ vật để dâng cúng bao gồm: máu gà, máu heo; gan
gà, gan heo; rượu cần, cơm ống, canh bồi, canh thụt… Đến giờ làm lễ, cả làng
tập trung đầy đủ, trâu buộc chặt vào cây nêu, mọi người đứng thành vòng tròn
chứng kiến nghi lễ. Sau khi đông đủ cả làng, già làng tuyên bố lý do buổi lễ, một
đến ba người đàn ông ở độ tuổi trung niên cầm lao hoặc chà gạc để giết trâu. Già
làng lấy máu bôi lên cột cây nêu, dùng gạo trắng và muối rải lên mình trâu. Sau
đó ngồi bên ché rượu cần để cúng các vị thần lúa, thần mưa, thần rừng, cầu cho
mưa thuận gió hoà để dân làng có một mùa vụ năm mới bội thu, cầu cho vạn vật
11



sinh sôi nảy nở. Kết thúc nghi lễ, mọi người xẻ trâu lấy thịt nướng, uống rượu
cần và tận mục sở thị những màn biểu diễn cồng chiêng, những điệu múa cùng
các nghệ nhân và nam nữ miền sơn cước. Cuộc vui tiếp tục cho đến khi màn
đêm buông xuống, mọi người sẽ được già làng giáo huấn về luật tục và xướng
sử thi cho đến sáng hôm sau.
Thông qua việc truyền dạy và phục hồi lễ hội cầu mưa, nhiều giá trị văn
hoá khác cũng được phục hồi, sống lại: nghệ thuật đánh cồng chiêng, trống, sáo,
kèn và các bài hát đối đáp, múa dân ca, nghệ thuật điêu khắc dân gian, trang trí
dân gian (Trang trí cây nêu, trang phục), nghệ thuật ẩm thực cũng được tái hiện
qua việc chế biến và uống rượu cần, nấu cơm lam, canh bồi,… Nhằm truyền dạy
cho thế hệ trẻ tự hào về truyền thống văn hoá của dân tộc mình.
Ngoài ra còn có các lễ hội khác có quy mô nhỏ hơn, cúng theo từng hộ gia
đình: Lễ cúng tỉa lúa, Lễ cúng lúa trổ bông, Lễ cúng gặt lúa,…Các nghi lễ này
chủ yếu do người đàn ông trong các hộ gia đình thực hiện với các lễ vật đơn
giản, thời gian tổ chức ngắn.
2.2.2. Lễ hội, tín ngưỡng.
2.2.2.1. Lễ đâm trâu.
Lễ đâm trâu (Ăn trâu) là một bộ phận không thể thiếu trong lễ hội của dân
tộc Xtiêng. Các lễ hội thường được tổ chức vào mùa xuân lúc bắt đầu một chu
kỳ sản xuất nương rẫy mới. Đồng bào đâm trâu để: Tạ ơn thần linh, cầu cho thóc
lúa đầy kho, dân làng khỏe mạnh, mưa thuận gió hòa, mừng chiến thắng, mừng
được mùa, mừng làm ăn phát đạt, hoặc nhân dịp tết cổ truyền,... Thường kết hợp
với những sự kiện quan trọng của làng. Mỗi gia đình người Xtiêng đều có cột
đâm trâu, mâm treo lễ vật, cây thương đâm trâu.
2.2.2.2. Múa dâng lễ, Bà bóng dâng lễ hay Lễ cúng bà bóng (Mê Vra Ri).
Bà bóng là lễ hội tương tự hình thức hầu đồng của người Việt. Có hai
trường hợp cúng Bà bóng, một là cúng theo hộ gia đình và hai là cúng theo cộng
đồng, buôn làng (Sóc). Đối với hộ gia đình, khi trong nhà có người ốm nặng, gia
đình sẽ mời Bà bóng về làm lễ cúng bắt ma, trừ tà chữa bệnh cho người ốm. Họ
thường quan niệm, người bị ốm là do ma bắt hồn. Trường hợp cúng theo quy mô

12


cộng đồng là khi trong sóc có những điềm xấu hoặc xảy ra những chuyện không
may: cư dân gặp dịch bệnh, thời tiết thay đổi bất thường hoặc sóc có nhiều
người chết cùng lúc thì già làng mời Bà Bóng về cúng để trừ tà, xua đuổi ma
quỷ và gọi hồn. Dù ở trường hợp nào thì lễ vật chính để cúng thường là: gà, heo,
các món ăn truyền thống (cơm ống, rượu cần, canh bồi, canh thụt…).
Suốt quá trình diễn ra lễ hội có những hoạt động mang đặc trưng riêng của
lễ hội này là hát múa Bà bóng, biểu diễn cồng chiêng rất đặc sắc. Lễ hội kéo dài
trong thời gian bảy ngày với nhiều nghi thức nghi lễ khá phức tạp. Hai ngày đầu
tiên họ tiến hành cúng tại khu vực cư trú của Sóc để mời gọi thần linh, cúng xua
đuổi tà ma, sau đó nghỉ một ngày. Lượt cúng thứ hai Bà bóng sẽ tiến hành tại nơi
mà họ cho là có ma quỷ ở để làm hại dân làng hoặc bắt hồn người sống, thường
là một gốc cây to, một hòn đá lớn, một bờ suối…để xua đuổi tà ma ra khỏi buôn
sóc, sau đó tiếp tục nghỉ một ngày nữa và lần cúng cuối cùng diễn ra tại sóc hoặc
gia đình.
Múa tín ngưỡng của dân tộc Xtiêng phần lớn do Bà bóng thực hiện, Bà
bóng được xem như người có nhiều phép thuật có khả năng sai khiến âm binh,
trừ ác quỷ, chữa bệnh cho người. Những phép thuật ấy thông qua sự trình diễn
của Bà bóng, thông qua những lời khẩn cầu, những điệu múa, điệu hát và múa
dâng lễ cầu khẩn các thần linh (Yang) phù hộ.
Múa dâng lễ là điệu múa khởi đầu để cúng khấn các vị thần linh, rồi tiếp
đến các nghi lễ của tín ngưỡng thờ thần linh. Múa dâng lễ có hai cách: một là
đội mâm lễ vật hoa quả, trái cây, hoặc múa tay không, không có đội mâm lễ vật
mà chỉ là tượng trưng. Trong tín ngưỡng, các điệu múa tham gia như là một
thành tố quan trọng không thể thiếu vắng. Những điệu múa do các thầy cúng,
ông bóng, bà bóng thực hiện. Thầy cúng, bà bóng là trung gian chuyển tải mối
quan hệ giữa thần linh với người trần gian. Từ nhu cầu của sinh hoạt văn hóa tín
ngưỡng mà người Xtiêng đã sáng tạo hình thái múa tín ngưỡng. Múa tín ngưỡng

có đặc điểm cơ bản là yếu tố ngẫu hứng và mang tính độc diễn. Tuy theo bài
bản, quy ước chung, nhưng nó vẫn mang dấu ấn sáng tạo cá thể. Đó là phụ thuộc
vào nghệ thuật của các thầy cúng, bà bóng. Song nó vẫn bảo tồn đặc trưng, bản
13


sắc, bài bản, quy ước của từng tộc người. Do vậy, đều là tín ngưỡng cầu mùa, tín
ngưỡng thờ thần nước, thần núi, thần rừng nhưng nghệ thuật múa tín ngưỡng có
phần khác nhau, mặt khác còn phụ thuộc vào phong tục, tập quán, nghi lễ, luật
tục và truyền thống văn hóa của từng người.
2.2.2.3. Lễ quay cây nêu (cây Ser).
Các dân tộc thiểu số vùng Tây Nguyên nói chung, dân tộc Xtiêng nói
riêng, cây nêu là một biểu tượng thiêng liêng, một biểu tượng của tín ngưỡng,
nghi lễ cộng đồng. Nó gắn bó với con người trong sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng
lớn của toàn cộng đồng. Trong đó ẩn chứa các hồn, các thần linh và nhiều phong
tục, tập quán, luật tục, văn hóa nghệ thuật của tộc người. Cây nêu cũng được
xem như cây vũ trụ có ảnh hưởng tới đời sống văn hóa tín ngưỡng của mọi
thành viên trong cộng đồng. Nơi đây cũng là nơi gửi gắm nỗi niềm tâm linh, ước
vọng của con người. Nên nhiều tín ngưỡng nghi lễ lớn quan trọng đều diễn ra ở
quanh cây nêu, cây vũ trụ.
Cây nêu được trang trí rất đẹp, rực rỡ nhiều màu sắc, hoa văn. Cây nêu
thường được làm bằng cây tre lớn, cây vầu, hoặc gỗ. Trên cây nêu thường có
những lông chim và hoa Cam rai hoặc chim thần thường ở trên đỉnh cây nêu.
Phía dưới là bông lau, bông lúa, những loài động vật như chim, cá, ếch, mặt trời,
mặt trăng… và các loài hoa dây bằng giấy hoặc vải. Khi vào rừng lấy cây tre, gỗ
và khi dựng cây nêu đều phải tiến hành nghi lễ cầu cúng, cho hồn vía thần vào
cây nêu. Đó là một nghi lễ luật tục rất quan trọng không thể bỏ qua. Họ có thể
thực hiện nghi lễ bằng động tác múa tay không hoặc động tác múa có đạo cụ
( hoa Cam rai ). Hoa Cam rai là các khúc tre, thanh tre vót mỏng, uốn cong, tỏa
ra như bông hoa. Hoa Cam rai là loại hoa cao quý để dâng lễ, cúng thần linh.

2.2.2.4. Lễ cúng thần rừng.
Khi vào rừng lấy cây tre, gỗ và khi dựng cây nêu đều phải tiến hành nghi
lễ cầu cúng, cho hồn vía thần vào cây nêu. Đó là một nghi lễ luật tục rất quan
trọng không thể bỏ qua. Tùy từng tín ngưỡng cụ thể mà lễ cũng sẽ diễn ra với
hình thức và nội dung khác nhau.

14


2.2.2.5. Lễ phá báu (Hanh T’ranh).
Đây là lễ hội được thực hiện trước khi tiến hành khai thác thủy sản tự
nhiên ở các hồ nước. Theo đặc điểm cư trú, mỗi làng của dân tộc thường có một
Bàu nước tự nhiên và trở thành tài sản của cộng đồng do già làng đại diện quản
lý. Khi chưa được sự cho phép của dân làng thì không một ai được phép đánh
bắt thủy sản dưới Bàu nước, nếu vi phạm sẽ bị làng phạt nặng.
Vào khoảng tháng hai dương lịch, khi nước trong bàu đã cạn, cá cũng đã
đủ lớn là lúc phù hợp để tiến hành lễ hội, khai thác thủy sản trong Bàu. Già làng
các sóc dùng một thanh tre có khắc ngày tổ chức lễ hội của làng mình và gửi đến
các làng khác để biết họ biết thời gian tổ chức lễ hội của làng và sắp xếp thời
gian để tổ chức lễ hội ở làng mình cho phù hợp. Vì trong khu vực có nhiều địa
điểm tổ chức lễ hội, do đó để tránh trùng lặp, họ có những quy ước về gửi thông
báo, làng nào sẽ gửi trước và sóc nào sẽ gửi sau.
Đến ngày đi hội, già làng ngồi trên chiếc xe bò được trang trí rất đẹp, vừa
đi vừa hát bài hát mời gọi dân làng đi lễ hội. Cư dân trong làng nghe được sẽ
cùng gọi nhau đi lễ hội, khi đi, mỗi người mang theo những vật dụng và đồ dùng
cần thiết như đồ xúc cá, đồ đựng cá và đặc biệt rượu cần và cồng chiêng là hai
thứ không thể thiếu. Đến địa điểm diễn ra lễ hội, mọi người sẽ làm công tác
chuẩn bị như làm chòi tạm, lấy củi nhóm bếp…Già làng sẽ chuẩn bị bày soạn lễ
vật và tiến hành nghi thức cúng thần linh. Sau nghi thức cúng thần linh, già làng
ra hiệu lệnh và dân làng bắt đầu xuống bàu bắt cá. Hầu hết là phụ nữ và trẻ em,

những người đàn ông ở trên bờ giao lưu với những người bạn bè đến từ các sóc
khác. Các già làng cũng sẽ ngồi uống rượu giao lưu với các già làng đến từ các
làng khác và xem cư dân bắt cá. Những con cá bắt được đầu tiên và to nhất sẽ
được dâng tặng già làng, đây vừa là nghĩa vụ, vừa là tình cảm với bề trên, người
có công lao với dân làng và vừa là phước của người bắt được. Khi những người
dưới bàu đã bắt đước cá họ sẽ đưa lên bờ để những người đàn ông tiến hành chế
biến để dùng và giao lưu với bạn bè anh em các làng. Lúc này, không khí của
hội bắt đầu rộn rã, tiếng cồng chiêng, tiếng hát, tiếng cười nói vang cả núi rừng.
Cứ thế, họ vừa bắt cá, vừa chế biến cá bắt được dùng tại chổ, vừa uống rượu
15


giao lưu với nhau cho đến ngày kết thúc. Một địa điểm có thể diễn ra từ một đến
ba ngày tùy thuộc vào độ lớn của bàu nước, lượng cá trong bàu và tình hình của
cuộc vui. Kết thúc lễ hội ở địa điểm này, người dân lại tiếp tục di chuyển đến địa
điểm khác như đã định để tiếp tục lễ hội. Sau khoảng một tháng, lễ hội mới kết
thúc trong toàn khu vực, mọi người lại bắt tay vào mùa vụ sản xuất mới. Tùy
vào phong tục của mỗi khu vực mà họ có cách tổ chức có những phần khác
nhau, nhưng cơ bản đều tổ chức theo hình thức nói trên.
Lễ hội là dịp để các gia đình của các sóc ấp khác gặp gỡ trao đổi tình cảm,
là dịp để trai giá tìm hiểu, trao gởi tình yêu cho nhau và dịp để giao lưu vui vẻ
sau những tháng ngày lao động mệt nhọc. Đây là lễ hội hết sức đặc biệt, người
dân hình tượng hóa một hoạt động đánh bắt và khai thác thủy sản thành một hoạt
động mang tính lễ hội dân gian. Thường tại những nơi dân tộc Khmer hoặc dân
tộc Xtiêng sinh sống đều có một bàu nước tự nhiên và họ xem đó là tài sản
chung của cộng đồng, già làng là người đại diện quản lý. Suốt thời gian trong
năm, nếu chưa có sự cho phép của già làng thì không ai được khai thác thủy sản
trong bàu nước (kể cả người ngoài làng), nếu ai vi phạm thì sẽ bị xử theo phong
tục của làng.
2.2.2.6. Lễ hội lập làng mới

Theo phong tục của dân tộc Xtiêng, khi một địa điểm bon, sóc của họ gặp
những vấn đề đe dọa đến sự an toàn của cộng đồng như hỏa hoạn, dịch bệnh,
nhiều người chết… thì họ sẽ tính chuyện đi tìm nơi cư trú mới. Việc chuyển làng
phải có sự họp bàn thống nhất giữa các thành viên trong cộng đồng làng. Khi
mọi người đã thống nhất chuyển làng mà có một hoặc hai gia đình nào đấy
không muốn chuyển, nếu đêm đó người ta ngủ mà mơ thấy điềm xấu hoặc có
một tai họa nào đó xảy ra thì những gia đình này phải chịu sự trừng phạt của dân
làng và thần linh.
Người được dân làng cử đi chọn đất lập làng mới là vị chủ làng và các cụ
lớn tuổi trong làng, vì những người này có nhiều kinh nghiệm cũng như có
những hiểu biết trong các khâu chọn đất, cúng thần linh. Ngày đi chọn đất lập
làng phải là ngày đẹp trời , trên đường đi những người này phải tuyệt đối giữ im
16


lặng và ai hỏi cũng không trả lời. Nếu họ gặp con mang, con nai kêu hoặc con
rắn nằm chắn ngang đường, con chim khướu đầu bạc (chim Prang) kêu chặn
đường ở phía trước hoặc kêu giật lùi ở đằng sau thì sẽ lập tức quay về vì đây là
điềm xấu. Còn nếu không gặp các con vật trên hoặc gặp con chim khướu kêu ở
bên trái, đáp xuống ở bên phải thì đó là điềm tốt nên họ cứ tiếp tục đi cho đến
khi tìm được vùng đất ưng ý. Khi đã chọn được vùng đất ưng ý, chủ làng mới
lấy quả trứng gà đem theo ra khấn thần linh xin phép thần cho mình được thử
đất, nếu đất lành, đất tốt lúc bóp trứng thì quả trứng vỡ ra, còn nếu đất không tốt
thì lúc bóp trứng không vỡ. Khấn xong, chủ làng bóp quả trứng gà, trường hợp
trứng vỡ coi như thần linh đã cho phép họ được dựng làng tại nơi đây, nhưng
cũng có trường hợp trứng không vỡ điều đó có nghĩa là thần linh không ưng
thuận phải đi chọn ở nơi khác.
Sau khâu thử đất thành công, người ta dọn sạch một khoảnh đất khoảng 2
mét rồi lấy cây lồ ô dài khoảng 1,5 mét chẻ phần đầu thành bốn nhánh dài cắm
làm dấu với ngụ ý bốn phía của khoảnh đất này đã có chủ. Người chủ làng và

các cụ già quay về thông báo cho dân làng biết đã tìm được vùng đất để lập làng
mới, nếu như trong lúc đi chọn làng người ta đi trong im lặng thì lúc về mọi
người nói cười rất vui vẻ. Lúc này dân làng làm thịt heo, gà, lấy ché rượu cần
cúng thần linh, nhờ thần linh che chở cho dân làng được khoẻ mạnh để họ yên
tâm làm ăn, sinh sống. Đêm đó mà một ai đó trong làng mơ thấy diềm lành thì
người ta mới bắt đầu đến dựng làng, ngược lại nếu ai đó mơ thấy điềm xấu như
nước có màu đỏ, bị hổ vồ chết, làng bị cháy hoặc người khác đến phá làng của
mình,…thì họ không đến vùng đất đó nữa. Xong khâu chọn đất, người ta bắt đầu
vào rừng tìm gỗ, chặt lồ ô, cắt cỏ tranh…để dựng nhà. Ngày đầu tiên vào rừng
tìm vật liệu làm nhà đồng bào cũng có những kiêng cữ như ngày đầu tiên đi
chọn đất lập làng, nếu thuận lợi thì công việc mới được tiến hành, còn không
thuận lợi thì lập tức quay về để ngày khác làm tiếp.
Chuẩn bị xong mọi việc dân tộc Xtiêng đợi ngày lành tháng tốt mới dựng
nhà, họ rất kiêng làm nhà vào tháng 3 âm lịch; thông tin tốt hay xấu cho việc
dựng nhà được dân tộc Xtiêng phỏng đoán qua điềm báo mộng hoặc qua tiếng
17


chim kêu.
Lúc làm nhà thì mỗi gia đình tự làm lấy, nhà ở truyền thống của dân tộc
Xtiêng là nhà dài nên cần rất nhiều nhân lực. Để công việc được tiến hành nhanh
chóng và thuận tiện nên giữa các gia đình trong làng có sự hoán đổi công cho
nhau. Đối với những trường hợp gia đình neo đơn, tàn tật…thì được các thành
viên trong làng đến giúp đỡ. Trước khi dựng nhà mới, dân làng làm thịt con gà
lấy máu đổ xuống chân cột, nhất là chân cột đầu tiên để khấn thần linh cầu mong
mọi điều tốt lành. Dựng xong nhà, dân tộc Xtiêng làm heo, gà, ché rượu cần
cúng các thần linh, đồng thời lấy máu của các con vật hiến sinh bôi lên miệng
ché rượu, các cột nhà, mái nhà, sàn nhà cho mọi thứ đều được ăn rồi mới dọn
nhà đến ở.
Dân tộc Xtiêng có tục cấm làng khi vừa mới dựng làng xong. Trong thời

gian bảy ngày kể từ ngày dựng xong làng mới thì những người lạ không được
phép vào làng. Dấu hiệu cấm làng là một nhánh lá xanh được cắm hoặc treo đầu
làng, cũng có thể là một dây thừng căng ngang lối vào. Trong thời gian này việc
đưa vào làng các ché đầy rượu, các cối và chày giã gạo, các nia, mẹt,…đều bị
cấm. Đồng thời, mọi người trong làng không được nấu nướng trên nhà mà họ
chỉ làm bếp nấu ở dưới nhà, thức ăn của mọi người là các loại rau, thịt nào đó
trừ thịt heo và gà thì không được ăn vì đây là điều kiêng. Dân tộc Xtiêng quan
niệm rằng việc giữ cho làng càng im lặng trong thời gian này càng tốt, có như
vậy dân làng mới được ấm no, khoẻ mạnh và hạnh phúc.
Sau ba năm cư trú, nếu cư dân trong sóc làm ăn tốt, lúa thóc được mùa, gà
heo mau lớn, cư dân không gặp các vấn đề rủi ro như trước nữa tức là nơi đó có
thể cư trú lâu dài được. Do đó, họ sẽ tổ chức Lễ ăn mừng sóc mới – gọi là Nhiệt
Rông Xa Cất. Từ sau lễ hội này, địa điểm cư trú này mới trở thành nơi cư trú
chính thức của cộng đồng. Ngược lại, nếu cuộc sống của họ không tốt, gặp
những rủi ro như trước thì họ sẽ tiếp tục tiến hành tìm kiếm địa điểm cư trú mới
với các nghi lễ tương tự cho đến khi nào tìm được nơi cư trú ổn định thì mới
thôi.
Chuẩn bị cho lễ hội, trước ngày diễn ra lễ chính khoảng một tháng, cư dân
18


trong sóc tiến hành chuẩn bị một số việc như: làm rượu cần, trang trí nhà cửa,
nấu cơm ống, làm cây nêu…Lễ hội diễn ra ở khuôn viên sân trước nhà của
người lớn tuổi nhất trong sóc – già làng. Lễ hội có các hoạt động chính như:
đâm trâu, giết heo cúng thần linh, giao lưu giữa các cư dân trong sóc và đại biểu
khách mời từ các sóc khác. Ngoài các nghi thức nghi lễ cúng thần linh được tổ
chức long trọng, mang đậm đặc trưng văn hóa của dân tộc Xtiêng thì có một
nghi lễ hết sức độc đáo và ấn tượng, đó là lễ đón khách. Khi các đại biểu khách
mời của các sóc khác đến tham dự lễ hội, già làng nơi tổ chức lễ hội tổ chức
nghi thức đón tiếp long trọng, độc đáo. Đội đón tiếp xếp thành hai hàng đứng

hai bên đường, một bên là đội công chiêng, già làng cùng với một người đàn ông
lớn tuổi (đứng đầu hàng) tay cầm thuốc lá đã được vấn sẵn để mời khách là đàn
ông; một bên là đội múa và một người bưng trầu (đứng đầu hàng) mời đại biểu
là nữ. Đại biểu đi vào khu vực dự lễ sẽ được mời trầu, mời thuốc, đội cồng
chiêng và đội múa sẽ biểu diễn liên tục từ người khách đầu tiên cho đến khi vị
khách cuối cùng vào sân lễ. Sau khi đại biểu đã vào hết khu vực sân lễ, lễ hội
mới chính thức bắt đầu. Sau khi tiến hành nghi lễ cúng thần linh với nghi lễ hiến
sinh được hoàn tất, heo và trâu sẽ được mọi người mang chế biến và đãi khách.
Các đội cồng chiêng, đội múa, đội kèn của các sóc sẽ cùng nhau giao lưu, uống
rượu liên hoan. Lễ hội thường kéo dài từ một đến bảy ngày.
2.2.2.7. Lễ cột tay.
Là lễ hội dành cho những người bị bắt hay đi lạc mới trở về. Nghi thức
của lễ này khá đơn giản: khi người bị bắt hay đi lạc vừa trở về, tất cả bà con họ
hàng của người đó và toàn thể dân làng liền tập trung tại nhà đó. Tại đây, nghi lễ
cột tay chính thức diễn ra. Đầu tiên, cha mẹ của đương sự được cột tay sẽ van
vái cầu xin thần linh chứng giám cho buổi lễ và ban phước lành cho anh ta. Van
vái xong, họ sẽ lấy một đoạn chỉ đỏ cột lên cánh tay của người đó. Sau khi cha
mẹ đã cột tay xong sẽ đến lượt anh em, họ hàng và dân làng xúm lại cột tay
người đi lạc và cầu chúc sức khỏe và may mắn. Khi người cuối cùng cột tay
xong thì buổi lễ kết thúc. Sau đó, mọi người cùng bày tiệc ăn mừng, ngồi quấn
quýt bên nhau suốt cả ngày. lễ hội diễn ra khoảng ba ngày, cũng có khi diễn ra
19


cả tuần liền.
2.2.2.8. Tín ngưỡng về Đá ( tục cúng Đá).
Dân tộc Xtiêng cho rằng, nguồn gốc của vũ trụ, muôn loài đều từ đá mà
ra: từ “cột đá mẹ” hình thành nên vũ trụ và muôn loài, người con trai và người
con gái cũng được sinh ra từ tảng đã lớn. Trong tâm thức của những người
nguyên thủy Xtiêng xưa, đá ẩn chứa sức mạnh vô biên, là chốn linh thiêng của

thần linh. Xuất phát từ cuộc sống gần gũi với thiên nhiên (ở trong các hang đá,
công cụ sản xuất từ đá), cùng với nhận thức cảm giác về đá mà người nguyên
thủy đã phú cho đá những sức mạnh linh hồn vô biên. Chính vì thế, họ xem đá là
chỗ dựa tinh thần. Tín ngưỡng thờ đá xuất phát từ thực tế trên. Loài người được
sinh ra từ đá, nghĩa là sinh ra từ nơi linh thiêng. Và con người luôn mang trong
mình sức mạnh vô biên từ nguồn gốc linh thiêng ấy.
Nguồn gốc của tục cúng Thần Đá hằng năm của dân tộc Xtiêng: vì mặt
trăng bị ăn bởi mặt trời nên mọi vật ngoài trời đều hóa thành những tảng đá lớn.
Dân làng đi lăn những tảng đá ấy xuống bờ suối. Có cô gái Xtiêng xuống suối
gùi nước, ngồi lên tảng đá để nghỉ, về nhà cô ngã bệnh. Thầy cúng cho biết cô
gái bị bệnh là do Thần Đá trừng phạt. Gia đình cô gái phải làm lễ cúng Thần Đá.
Sau chín ngày chín đêm, cô gái tỉnh lại và từ đó, dân tộc Xtiêng có tục cúng
Thần Đá.
Giữa đá và linh hồn con người có mối liên quan mật thiết. Đá cũng như
con người, cũng có sự sống, cũng có linh hồn. Đá còn có thể là nơi trú ngụ cho
linh hồn con người. Đá còn là đặc trưng cơ bản của núi (núi là nơi thông linh
giữa đất và trời) nên đá còn là phương tiện truyền đạt những mong muốn của
con người với các thế lực siêu nhiên khác. Xuất phát từ đặc điểm của đá là cứng,
vững chắc, nên người nguyên thủy đã phú cho đá những sức mạnh không gì có
thể sánh bằng. Hơn nữa, dân tộc Xtiêng không thể giải thích được một số hiện
tượng tự nhiên xảy ra trong cuộc sống nên họ đã dùng chính những kết quả
trong quá trình quan sát, trải nghiệm cuộc sống xung quanh để lí giải vấn đề.
Xuất phát từ lối tư duy này, dân tộc Xtiêng có tục thờ Đá, cúng thần Đá.
Đá có linh hồn, có sức mạnh vạn năng, có khả năng che chở, bảo vệ cho
20


con người. Chi tiết khi mọi người đi chôn Điểu Tế về, họ dùng đá, gậy gộc xua
đuổi linh hồn của ông ta thể hiện quan niệm của dân tộc Xtiêng về vai trò, sức
mạnh của đá. Theo quan niệm của dân tộc Xtiêng, đá có khả năng trừ ma quỷ,

ngăn không cho linh hồn người chết về làm hại họ. Đó là tín ngưỡng, tâm thức
về đá, là mối quan hệ tổng hòa giữa tín ngưỡng, tâm thức về đá với các tín
ngưỡng khác trong đời sống tinh thần của dân tộc Xtiêng.
Tín ngưỡng về đá và tín ngưỡng phồn thực: lễ vật không thể thiếu trong
nghi lễ đám cưới của dân tộc Xtiêng là vấn đá. Một số người già Xtiêng cho
biết, đá vấn trong váy là lễ vật rất quan trọng trong nghi lễ đám cưới. Món đồ
này có ý nghĩa: ước muốn về sự sinh sôi, nảy nở, về những đứa con khỏe mạnh.
Dân tộc Xtiêng tin rằng, sự kết hợp giữa đá và một đồ dùng của người phụ nữ sẽ
tạo ra một sức mạnh cộng hưởng, có thể đem lại hiệu quả, tạo ra sự sinh sôi, nảy
nở. Bản chất sự sống ở trong đá sẽ tiếp thêm sinh lực cho những biểu tượng về
sự sinh sản, để đáp ứng nguyện vọng của con người về sự sinh sôi của cây cối,
vật nuôi và cả con người. Tín ngưỡng về đá và nghi lễ nông nghiệp: đá là nơi
con người có thể gửi gắm những mong muốn của mình đến các lực lượng siêu
nhiên, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, cha trời-mẹ đất hòa thuận
với nhau để muôn vật sinh sôi nảy nở. Điều này giải thích vì sao trong lễ mừng
lúa mới, dân tộc Xtiêng thường có tục cúng Thần Đá.
2.2.3.Tín ngưỡng trong lễ vòng đời con người. (Âp prăh kungpu múh)
2.2.3.1. Tín ngưỡng đặt tên con (Smó Shắc con):
Đây là nghi lễ đầu tiên của đời người. Theo phong tục của dân tộc Xtiêng,
khi một đứa trẻ mới sinh được bảy ngày, người cha sẽ tiến hành lễ đặt tên cho
con. Lễ hội diễn ra trong thời gian một ngày trên sàn nhà của người chủ gia đình
với các nghi thức như cúng thần linh, cột chỉ cầu phúc, giao lưu với người thân,
hàng xóm. Người nhà chuẩn bị lễ vật cúng thần linh để xin đặt tên gồm một cây
nêu dựng giữa nhà, đội cồng chiêng và múa ngồi xung quanh để biểu diễn cồng
chiêng, múa hát khi gia chủ tiến hành nghi lễ cúng đặt tên. Lễ hội thường diễn ra
trong một ngày và có sự tham gia của người thân và bà con láng giềng.
Dân tộc Xtiêng quan niệm “vạn vật hữu linh”, nên con người tuy đã chết
21



đi nhưng vẫn còn hồn, người chết chưa phải đã chấm dứt cuộc sống mà là tiếp
tục sống ở thế giới khác, không sống bằng thể xác mà sống bằng linh hồn. Vì
vậy, hồn người chết có thể phù trợ - tăng sức mạnh cho con cháu, cộng đồng
nhưng cũng có thể phá hoại, trừng phạt con cháu, cộng đồng nếu đối xử với hồn
người chết không nghiêm túc, trong đó có việc lấy tên của họ để đặt tên cho con
cháu, hoặc nhắc tên của họ một cách tuỳ tiện, thiếu tôn trọng. Không phải tất cả
những ông, bà đã chết đều được con cháu lấy tên để đặt tên cho con cháu thế hệ
sau. Theo truyền thống, chỉ những người giàu có, có uy tín với buôn làng, những
người chết lành (tối kỵ nhất là lấy tên của người chết bất đắc kỳ tử). Phải được
con, cháu trong gia đình nằm mơ thấy hồn của người đã chết xin thai giáng thì
mới được lấy tên để đặt tên cho con cháu. Những người nằm mơ thấy hồn ông,
bà xin giáng thai (xin trở lại kiếp người) cũng là những người có đức hạnh. Việc
chọn những ông, bà đã chết có lai lịch tốt để đặt tên cho con cháu của mình cũng
phải được cân nhắc thật kỹ, có thể họ đặt tên cho con cháu đúng như tên của
người đã chết, nhưng cũng có thể chỉ đặt tên gần giống. Vì họ quan niệm trong
tên đó có thể đem lại hạnh phúc cho con, cháu họ, nhưng cũng có thể ngược lại.
Việc lấy tên của người đã chết để đặt tên cho con cháu có ý nghĩa quan trọng
trong việc giáo dục cho con cháu học tập, noi gương và tôn trọng, biết ơn đối
với ông, bà của mình. Mặc khác, đây cũng là hình thức để cho con cháu trong
dòng tộc, cộng đồng không quên tên cũng như công lao đóng góp của người đã
khuất. Dân tộc Xtiêng không có phong tục ghi chép gia phả, vì ngày xưa họ
không có chữ viết, vì họ không cho phép nhắc tên người chết một cách tuỳ tiện,
nên con cháu, dòng tộc ít khi nhớ tên, tuổi của ông, bà, tổ tiên mình.
2.2.3.2. Lễ cột chỉ tay, lễ trưởng thành (Toon ty kon):
Thường được tổ chức lúc con cái được 13 tuổi. Với dân tộc Xtiêng, việc
nuôi con trưởng thành đến tuổi 13 là một niềm hạnh phúc không gì sánh bằng.
Xuất phát từ điều kiện khắc nghiệt của môi trường tự nhiên, điều kiện kinh tế,…
việc nuôi con khôn lớn trưởng thành là một dấu mốc quan trọng được đánh dấu
bằng một nghi lễ mà bất cứ một ai đã trải qua nghi lễ này thì suốt đời không thể
quên. Nghi lễ trưởng thành mang tính cộng đồng rất cao.

22


Theo một số già làng dân tộc Xtiêng, đến ngày lễ trưởng thành, các chàng
trai, cô gái Xtiêng đi ra suối tắm rửa sạch sẽ như một cách “lột xác” để bước vào
nghi lễ. Việc ra suối tắm rửa sạch sẽ trước khi diễn ra nghi lễ là một cách để
chứng minh trước thần linh về sự tinh khiết, trong sạch của mình. Đồng thời, đó
còn là cách để cho mọi người biết được rằng, chàng trai đã được Thần Nước ban
cho sức mạnh. Cũng như nhiều dân tộc ít người ở vùng Tây Nguyên, dân tộc
Xtiêng cũng có phong tục “cà răng căng tai” trong nghi lễ trưởng thành. Con
trai, con gái đến tuổi 15-16 dùng đá (để mài) hoặc dùng dao (để cắt) làm cho
răng cụt đi. Đến ngày lễ, các chàng trai, cô gái đều phải đi ra suối tắm, rửa sạch
răng, vận y phục đẹp và trở về làng để cà răng. Tục cà răng liên quan sâu xa đến
tục trưởng thành, đó cũng là nghi lễ hành xác chịu đau đớn và thử thách rất lớn.
Việc cà răng, căng tai là cách đánh dấu thời kỳ trưởng thành của các chàng trai,
cô gái. Sau đó, các chàng trai sẽ vào rừng đi săn thú dữ. Đó chính là mốc trưởng
thành của các chàng trai Xtiêng. Tuy nhiên, ngày nay tục cà răng căng tai đang
dần bị mai một, không còn được phổ biến như trước.
Thời gian để tiến hành nghi lễ thường là vào tháng 2, tháng 3 âm lịch, khi
ngoài đồng, hay trên rẫy chỉ còn lại những gốc rạ, trên chòi lúa đã đầy ắp… là
thời điểm nông nhàn nhất có thể tập trung được nhiều người đến dự lễ. Đây là
một trong những nghi lễ quan trọng trong các nghi lễ vòng đời người của dân
tộc Xtiêng. Để thực hiện được nghi lễ này, gia đình có khi là cả gia tộc có con,
cháu sắp đến tuổi trưởng thành phải chuẩn bị lễ vật trước đó từ 1 đến 3 năm.
Tùy theo điều kiện kinh tế của gia đình hoặc gia tộc lễ vật có thể là một con heo
nuôi từ nhỏ, có khi là một con trâu, ngoài ra rượu cần, gạo nếp để nấu cơm lam
là những lễ vật cũng phải chuẩn bị trước đó một thời gian dài. Lễ trưởng thành
là một nét đẹp văn hóa mang nhiều giá trị nhân văn sâu sắc, thể hiện tình yêu
thương, trách nhiệm của gia đình và gia tộc đối với con, cháu. Qua nghi lễ
những người có uy tín như: già làng, cha, mẹ… có những lời răn dạy con trẻ

những quy tắc ứng xử với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, sống và làm
việc theo gương những người đi trước, không được làm những điều trái với
thuần phong mỹ tục, trái với đạo lý của gia tộc, phải chăm chỉ làm ăn, nghe lời
23


người lớn thì sau này sẽ trở thành người tốt, có ích cho gia đình và xã hội. Ngoài
ra nghi lễ là cầu nối tình cảm giữa mọi người trong gia đình, dòng tộc, anh em,
bạn bè. Nghi lễ là dịp để mọi người họp mặt đông đủ, gia đình đoàn tụ. Trong
nghi lễ anh em, bạn bè của gia đình cùng làm lễ cho đứa trẻ, chúc phúc cho gia
đình, dâng tặng cho đứa trẻ những bộ khung dệt thổ cẩm, những con vật nuôi
nếu là bé gái, các bộ cung tên, chà gạc nếu là bé trai. Những người đến vui chơi
với gia đình không phân biệt già, trẻ, gái, trai không phân biệt địa vị xã hội. Họ
đến dự lễ với một điều rất đơn giản là chúc phước lành cho đứa trẻ, sau đó cùng
với gia chủ và mọi người vui chơi, ca hát. Ngoài việc chúc phúc cho đứa trẻ và
gia chủ, thì địa điểm hành lễ còn là nơi để mọi người có dịp để thoải mái vui
chơi sau những tháng ngày lao động vất vả. Những làn điệu dân ca, dân vũ, hát
đối đáp, các làn điệu cồng chiêng…được các nghệ nhân, nam thanh, nữ tú cùng
nhau hòa tấu ngân vang giữa núi rừng…tiếp nối năm này qua năm khác, đời này
qua đời khác, những mê khúc ấy được lưu truyền - bảo tồn và phát triển. Nghi lễ
cũng là dịp để gia đình hiến sinh các con vật dâng lên thần linh Bra Trốc (thần
trên trời cao), Brate (thần dưới đất). Trước là để tạ ơn trời, đất đã phù hộ cho
con, cháu của họ khôn lớn trưởng thành, sau đó cầu xin thần linh ban ơn phù hộ
cho con cháu có sức khỏe, ngoan ngoãn, chăm chỉ học tập, làm được nhiều việc
tốt. Phần lễ vật còn lại được chia đều cho mọi người tham dự để cùng ăn uống.
Đây cũng là một nét đẹp trong nếp sống cộng đồng của dân tộc Xtiêng. Lễ
trưởng thành là một nghi lễ đặc trưng của dân tộc Xtiêng, mang những giá trị
nhân văn cao cả. Qua nghi lễ ta thấy được cách ứng xử của con người với con
người, con người với thần linh và những nét văn hóa đặc sắc riêng của dân tộc
Xtiêng.

2.2.3.3. Sinh đẻ.
Dân tộc Xtiêng sợ đụng chạm đến thần linh, ma quỷ vậy nên khi trong
làng có người đàn bà đang sinh, người ốm đau thì cấm người lạ vào nhà,làng.
Dấu hiệu để nhận biết là nhành gai, lá xương rồng treo ở cổng làng. Phụ nữ
kiêng cữ cẩn thận ngay từ thời kỳ mang thai. Việc sinh nở xưa kia, phụ nữ tự
xoay xở ngoài rừng một mình. Nay nhiều người ở vùng có tập quán dựng kho
24


thóc trong nhà vẫn ra đẻ ở ngôi nhà nhỏ dựng gần bên nhà ở, bởi họ cho rằng
nếu đẻ ở nhà sẽ xúc phạm đến "thần lúa", đẻ xong sẽ phải cúng một con lợn cho
"thần lúa".
2.2.3.4. Cưới xin (Ka Sai).
Thông thường con trai từ 19-20 tuổi, con gái tuổi từ 15-17 tuổi bắt đầu đi
tìm bạn đời. Đàn ông Xtiêng làm chủ gia đình, quyền thừa kế thuộc về con trai
cả. Nếu con gái hưởng tài sản thì người chồng của cô gái đó phải ở rể suốt đời.
Cưới hỏi là phong tục lâu đời của dân tộc Xtiêng, có nhiều đặc điểm hết sức độc
đáo từ lễ dạm ngõ, lễ hỏi và lễ cưới. Mặc dù lễ cưới mang tính chất cá nhân
nhưng do đặc điểm cư trú của dân tộc Xtiêng (hầu hết cư dân trong sóc đều có
quan hệ thân tộc) nên thường thu hút sự tham gia của cả cộng đồng và trở thành
ngày hội chung của cả cộng đồng. Khi một gia đình có tổ chức cưới hỏi cho con,
cư dân trong toàn sóc sẽ cùng góp sức cùng gia đình có tổ chức đám cưới.
Lễ cưới của dân tộc Xtiêng trải qua nhiều nghi lễ, ít nhất phải có lễ hỏi
(pê ir) và lễ cưới (karơsai). Trong hôn lễ có tục buộc chỉ vào cổ tay đôi vợ chồng
để cầu nguyện cho họ giàu có và con đàn cháu lũ. Đám hỏi phải có hai người
làm mai (người làm chứng, gọi là Đhran) đi sang nhà gái hỏi cưới cô gái. Sau
khi đã biết ngày làm đám cưới, hai ông mai lại tiếp tục sang nhà cô gái thông
báo ngày cưới và lúc này có tục "bẻ cây thách cưới" (gọi là kích năng). Tục kích
năng nghĩa là cha cô gái bẻ những cây que và đưa cho ông mai đếm để biết bao
nhiêu tố trâu, bò, heo... phải đưa sang nhà gái. Đến ngày đám cưới, nhà gái

chuẩn bị ba tố rượu và con heo. Khi nhà trai mang đồ vật sang nhà gái (được
ông mai đưa đi), sau khi thủ tục kiểm tra số lượng tài sản mọi người cùng vào
nhà. Trong lễ cưới hỏi của dân tộc Xtiêng, sau các nghi lễ cúng thần linh, ông
bà, còn có nghi thức ăn đầu heo hát đối đáp giữa đại diện hai gia đình diễn ra
vào buổi chiều cùng ngày. Nội dung suốt quá trình hát đối đáp chủ yếu nói về
truyền thống lịch sử của hai gia đình, khuyên dạy hai con dâu rể ăn ở hiếu thảo
với cha mẹ, hoặc cha mẹ hai bên phải dạy bảo hai con dâu, rể…Nghi lễ cưới hỏi
được tiến hành long trọng, nhiều công đoạn khá phức tạp, thể hiện tình cảm giữa
các thế hệ, tình cảm cộng đồng. Theo phong tục truyền thống của dân tộc
25


×