Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Bảo tồn và phát huy nghệ thuật chèo làng khuốc xã phong châu, huyện đông hưng, tỉnh thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.08 MB, 71 trang )

Trêng §¹I HäC néi vô hµ néi
KHOA VĂN HÓA - THÔNG TIN VÀ XÃ HỘI

BÁO CÁO
TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG NĂM 2017
ĐỀ TÀI
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY NGHỆ THUẬT CHÈO LÀNG
KHUỐC XÃ PHONG CHÂU, HUYỆN ĐÔNG HƯNG,
TỈNH THÁI BÌNH

Người hướng dẫn : Ths. Nghiêm Xuân Mừng
Chủ nhiệm đề tài : Đinh Thị Ngọc Anh
Lớp
: ĐH QLVH 14B

Hà Nội, tháng 4 năm 2017


Trêng §¹I HäC néi vô hµ néi
KHOA VĂN HÓA - THÔNG TIN VÀ XÃ HỘI

BÁO CÁO
TỔNG HỢP KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG NĂM 2017
ĐỀ TÀI
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY NGHỆ THUẬT CHÈO LÀNG
KHUỐC XÃ PHONG CHÂU, HUYỆN ĐÔNG HƯNG,
TỈNH THÁI BÌNH

Người hướng dẫn : Ths. Nghiêm Xuân Mừng


Chủ nhiệm đề tài : Đinh Thị Ngọc Anh
Thành viên
: Nguyễn Thị Thuận
Nguyễn Thị Thương
Vì Thị Phước Hạnh
Lớp
: ĐH QLVH 14B

Hà Nội, tháng 4 năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Chúng tôi xin cam đoan đề tài nghiên cứu khoa học “Bảo tồn và phát huy
nghệ thuật chèo làng Khuốc xã Phong Châu, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình”
là công trình của chúng tôi. Các số liệu thống kê, kết quả nghiên cứu được sử
dụng trong đề tài là khách quan, trung thực.
Hà Nội, ngày 15 tháng 04 năm 2017
CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI

Đinh Thị Ngọc Anh


LỜI CẢM ƠN
Trải qua thời gian và quá trình nghiên cứu, với sự hướng dẫn tận tình của
các thầy cô trong Khoa Văn hóa - Thông tin và Xã hội, sự cố gắng khắc phục
khó khăn của bản thân, chúng tôi đã hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học
“Bảo tồn và phát huy nghệ thuật chèo làng Khuốc xã Phong Châu, huyện Đông
Hưng, tỉnh Thái Bình”. Qua đây chúng tôi đã rút ra được nhiều bài học, kinh
nghiệm bổ ích trong công tác quản lý di sản, quản lý văn hóa, bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa cổ truyền trong hối cảnh hiện nay đồng thời giúp chúng tôi

hiểu rõ hơn lý thuyết, kiến thức đã được nhà trường trang bị, áp dụng vào thực
tiễn công việc.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, các cô trong Khoa Văn hóa Thông tin và xã hội đã định hướng, tư vấn, giúp đỡ chúng tôi trong quá trình lựa
chọn và thực hiện đề tài. Xin chân thành cảm ơn thầy Nghiêm Xuân Mừng,
giảng viên hướng dẫn, đã trực tiếp tận tình hướng dẫn chúng tôi hoàn thành công
trình nghiên cứu. Xin chân thành cảm ơn các cô, các bác, các nghệ nhân làng
Khuốc, cùng các cơ quan chức năng quản lý văn hóa tại tỉnh Thái Bình đã nhiệt
tình giúp đỡ chúng tôi trong việc tìm hiểu nghiên cứu lịch sử hình thành, quá
trình phát triển, ý nghĩa các giá trị, các giải pháp bảo tồn và phát huy nghệ thuật
chèo của làng.
Hà Nội, ngày 15 tháng 04 năm 2017
CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI

Đinh Thị Ngọc Anh


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN................................................................................................3
LỜI CẢM ƠN......................................................................................................4
MỤC LỤC............................................................................................................5
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT.................................................................7
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu..................................................................................................................................2
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu..........................................................................................2
4. Lịch sử nghiên cứu.....................................................................................................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu..........................................................................................................................4
6. Mục tiêu nghiên cứu..................................................................................................................................5
7. Cấu trúc của đề tài.....................................................................................................................................5


CHƯƠNG 1..........................................................................................................6
TỔNG QUAN VỀ NGHỆ THUẬT CHÈO VÀ CHÈO LÀNG KHUỐC.......6
1.1. Khái quát về nghệ thuật sân khấu chèo.................................................................................................6
1.1.1. Nguồn gốc, xuất xứ và tên gọi của chèo..............................................................................................6
1.1.1.1. Nguồn gốc, xuất xứ của chèo............................................................................................................6
1.1.1.2. Tên gọi của chèo...............................................................................................................................8
1.1.2.Quá trình phát triển của nghệ thuật chèo............................................................................................9
1.1.3.Nội dung chủ yếu của nghệ thuật chèo..............................................................................................11
1.1.4.Đặc trưng của nghệ thuật chèo..........................................................................................................13
1.2. Khái quát về làng Khuốc và chèo làng Khuốc.......................................................................................18
1.2.1. Làng Khuốc.........................................................................................................................................18
1.2.1.1.Vị trí địa lý, dân cư...........................................................................................................................18
1.2.1.2. Tình hình kinh tế, văn hóa xã hội và an ninh chính trị....................................................................19
1.2.2. Nghệ thuật chèo làng Khuốc..............................................................................................................21
1.2.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển.....................................................................................................21
1.2.2.2. Môi trường diễn xướng..................................................................................................................22

CHƯƠNG 2........................................................................................................24
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC BẢO TỒN NGHỆ THUẬT CHÈO...............24
LÀNG KHUỐC................................................................................................24
2.1. Sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền và sự hưởng ứng của nhân dân địa phương với nghệ thuật
chèo..............................................................................................................................................................24
2.1.1. Sự quan tâm đầu tư của các cấp chính quyền đối với chèo làng Khuốc...........................................24
2.1.2 Sự hưởng ứng của nhân dân địa phương đối với nghệ thuật chèo...................................................25
2.2. Hoạt động tổ chức biểu diễn chèo........................................................................................................28
2.2.1. Cơ cấu tổ chức...................................................................................................................................28
2.2.2. Thời gian hoạt động..........................................................................................................................29
2.2.3. Nguồn kinh phí hoạt động.................................................................................................................30
2.2.4. Hình thức tổ chức hoạt động biểu diễn sinh hoạt chèo.....................................................................31
2.3. Công tác đào tạo thế hệ trẻ..................................................................................................................34

2.3.1. Hoạt động đưa chèo vào học đường.................................................................................................34
2.3.2. Hoạt động mở lớp dạy hát chèo, diễn chèo......................................................................................35


2.4. Hoạt động tuyên truyền quảng bá nghệ thuật chèo làng Khuốc.........................................................36
2.4.1. Các hình thức tuyên truyền quảng bá nghệ thuật chèo....................................................................36
2.4.2. Hiệu quả của việc tuyên truyền quảng bá.........................................................................................38

CHƯƠNG 3........................................................................................................39
GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY NGHỆ THUẬT CHÈO................39
LÀNG KHUỐC.................................................................................................39
3.1. Cơ sở pháp lý của việc bảo tồn phát huy di sản văn hóa nói chung và nghệ thuật chèo nói riêng......39
3.1.1. Chủ trương của Đảng và Nhà nước...................................................................................................39
3.1.2. Các văn bản pháp lý...........................................................................................................................41
3.2. Những vấn đề đặt ra trong công tác bảo tồn và phát huy nghệ thuật chèo tại làng Khuốc................42
3.2.1. Thuận lợi............................................................................................................................................42
3.2.2. Khó khăn............................................................................................................................................45
3.3. Giải pháp và khuyến nghị về việc bảo tồn và phát huy nghệ thuật chèo làng Khuốc..........................48
3.3.1. Tuyên truyền, giáo dục, quảng bá nghệ thuật chèo..........................................................................48
3.3.2. Đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất cho hoạt động biểu diễn, sinh hoạt chèo........................................49
3.3.3. Đào tạo đội ngũ, diễn viên nhạc công không chuyên........................................................................49

KẾT LUẬN........................................................................................................51
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................52
PHỤ LỤC...........................................................................................................53


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt


Đọc là

CLB

Câu lạc bộ

NSƯT

Nghệ sĩ ưu tú

Nxb
PGS.TS

Nhà xuất bản
Phó giáo sư. Tiến sĩ

TW

Trung ương

UBND

Ủy ban nhân dân

VHTT&DL

Văn hóa - Thể thao và
Du lịch



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chèo là một loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian Việt Nam. Chèo phát
triển mạnh ở phía bắc Việt Nam mà trọng tâm là vùng đồng bằng Bắc Bộ. Loại
hình sân khấu này phát triển cao, giàu tính dân tộc. Chèo mang tính quần chúng
và được coi là một loại hình sân khấu của hội hè với đặc điểm sử dụng ngôn ngữ
đa thanh, đa nghĩa kết hợp với cách nói ví von giàu tính tự sự, trữ tình. Nếu sân
khấu truyền thống Trung Quốc có đại diện tiêu biểu là Kinh kịch của Bắc Kinh
và sân khấu Nhật Bản là Kịch Nô thì đại diện tiêu biểu nhất của sân khấu truyền
thống Việt Nam là chèo.
Nghệ thuật chèo đã hiện hữu trong đời sống tinh thần của dân tộc Việt
Nam không phải một, hai thế hệ mà là lớp lớp thế hệ; không phải một, hai thế kỷ
mà nhiều thế kỷ; không phải một, hai nơi mà khắp cả vùng đồng bằng châu thổ
sông Hồng. Nó là kết tinh những vẻ đẹp tâm hồn của người lao động, là thành
quả của trí tuệ dân gian, là công trình sáng tạo nghệ thuật thẩm mỹ, là khát vọng
về tự do, công bằng và lý tưởng nhân văn hướng tới chân - thiện - mỹ.
Nghệ thuật chèo - một thực thể văn hóa dân tộc không chỉ là đối tượng
nghiên cứu của văn học, mà còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều bộ môn: âm
nhạc học, vũ đạo học, dân tộc học, đạo đức học, nghệ thuật học…
Vẻ đẹp của hình tượng, hình ảnh của tư duy sáng tạo đậm chất dân gian,
những vấn đề xã hội - đạo đức tình cảm thường được gửi gắm trong mỗi vở
chèo. Tìm hiểu về nghệ thuật chèo, ta có thể khám phá cả lời ăn tiếng nói của
nhân dân, những tri thức về phong tục tập quán, về những ứng xử đạo đức tinh
thần… đến cả những dấu ấn của tính thời đại, cấu trúc thôn xã, những quan hệ
chính trị - kinh tế - văn hóa.
Có thể nói, sân khấu dân tộc nói chung và nghệ thuật chèo nói riêng đều
được sáng tạo theo quy trình sáng tạo văn hóa, và là cơ sở để chuyển tải các giá
trị văn hóa, là phương tiện lưu giữ văn hóa truyền từ đời này sang đời khác.
Nghệ thuật chèo vốn được sản sinh ra từ các làng quê vùng châu thổ Bắc
Bộ và hiện vẫn người dân tại các làng quê trân trọng, nâng niu gìn giữ như một

1


bảo vật của chính họ. Làng chèo Khuốc, xã Phong Châu, huyện Đông Hưng,
tỉnh Thái Bình là một trong những cái nôi của những làn điệu hát chèo. Nhắc
đến chèo Thái Bình, phải kể tới chèo làng Khuốc. Từ lâu, chèo Khuốc đã nổi
tiếng khắp cả tỉnh Thái Bình và nước, đã đi vào câu ca:
Hỡi cô thắt dải lưng xanh
Có xem chèo Khuốc với anh thì về
Tuy nhiên, trong sự vận động và phát triển không ngừng của xã hội, nghệ
thuật chèo ở làng Khuốc, xã Phong Châu, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình
cũng bị mai một rất nhiều.
Nghiên cứu về hoạt động biểu diễn nghệ thuật chèo ở làng Khuốc không
chỉ nhằm đề ra các giải pháp bảo tồn phát huy một di sản văn hóa quý báu của
làng Khuốc, của tỉnh Thái Bình mà còn của cả nước.
Là những sinh viên đang theo học chuyên ngành Quản lý văn hóa của
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội chúng tôi mong muốn được tìm hiểu về nghệ
thuật chèo để nâng cao kiến thức, hiểu biết về nghệ thuật chèo, một di sản văn
hóa quý báu của dân tộc nay còn được bảo lưu tại làng Khuốc xã Phong Châu,
huyện Đông Hưng tỉnh Thái Bình, đồng thời đề xuất những giải pháp bảo tồn và
phát triển nghệ thuật chèo của làng quê này. Chính vì vậy chúng tôi đã chọn đề
tài “Bảo tồn và phát huy nghệ thuật chèo làng Khuốc xã Phong Châu, huyện
Đông Hưng, tỉnh Thái Bình” làm đề tài nghiên cứu khoa học.
2. Mục đích nghiên cứu
Qua việc nghiên cứu đề tài sẽ làm nổi bật được những đặc trưng cơ bản
của nghệ thuật chèo làng Khuốc. Đồng thời chỉ ra được thực trạng của nghệ
thuật chèo làng Khuốc hiện nay. Trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp để bảo
tồn và phát huy nghệ thuật chèo làng Khuốc tại xã Phong Châu, huyện Đông
Hưng, tỉnh Thái Bình hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng và công tác bảo tồn, phát huy nghệ thuật chèo ở làng Khuốc
(xã Phong Châu, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình).
2


3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: làng Khuốc (xã Phong Châu, huyện Đông Hưng,
tỉnh Thái Bình)
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2000 đến năm 2017.
4. Lịch sử nghiên cứu
Đến nay có rất nhiều công trình nghiên cứu về nghệ thuật chèo. Qua tìm
hiểu chúng tôi được biết một số công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu
đầu ngành của làng Chèo như: GS. Trần Bảng với công trình “Chèo - một hiện
tượng sân khấu dân tộc”, “Nói chuyện về chèo”, “Chèo - sân khấu tự sự” hay
như trong cuốn “Sân khấu truyền thống bản sắc dân tộc và sự phát triển” của
TS Đào Mạnh Hùng (chủ biên) - Nxb Sân khấu năm 2003 cũng có nói về nghệ
thuật chèo và cuốn “Những làn điệu chèo cổ và hát dân ca đồng bằng Bắc Bộ”
(tập 1) do nhóm tác giả nghiên cứu và được xuất bản ở Nhà văn hoá trung tâm
tỉnh Thái Bình năm 2003.
Ngoài ra còn có rất nhiều nhà nghiên cứu như: PGS. Hà Văn Cầu với “Sự
phát triển của nghệ thuật Chèo từ thế kỉ XV đến thế kỉ XIX”, Nxb Nghiên cứu
nghệ thuật năm 1985, “Hề Chèo chọn lọc”, Nxb Văn hóa, Hà Nội năm 1976;
nhạc sĩ Hoàng Kiều với “Tìm hiểu các làn điệu chèo cổ”, Nxb Sân khấu, Nhà
hát Chèo Việt Nam năm 2003… tất cả đều đi sâu vào tìm hiểu nghệ thuật chèo.
Hoặc một số những chuyên luận nghiên cứu với chủ đề “Đi tìm bản sắc dân tộc
trong Chèo từ góc nhìn văn hóa”, hay nghiên cứu về “Thi pháp chèo” dưới sức
ép thẩm mỹ của ý đồ giáo huấn đạo đức của PGS Tất Thắng...
Về nghệ thuật chèo ở làng Khuốc, hiện nay đã có rất nhiều bài viết đề cập
đến nghệ thuật chèo và công tác bảo tồn phát huy nghệ thuật chèo làng Khuốc

như: “Chèo Làng Khuốc - Khoảng lặng thu hút giới trẻ” của tác giả Nguyễn Lan
được đăng trên Cổng thông tin điện tử của Sở VHTT&DL tỉnh Thái Bình; “Nỗi
niềm chiếng chèo làng Khuốc” của tác giả La Duy đăng trên Baomoi.com,
“Người lưu giữ nghệ thuật chèo truyền thống” của tác giả Hồng Thắm được
đăng trên báo thaibinhtv.vn, “Lửa chèo làng Khuốc” của Tất Đạt đăng trên báo
Thái Bình… Tuy nhiên các bài báo, công trình nghiên cứu này chưa đề cập một
3


cách tổng thể, có hệ thống về thực trạng của nghệ thuật chèo và việc biểu diễn
chèo tại làng Khuốc. Vì vậy công trình của chúng tôi được thực hiện với mong
muốn là một công trình nghiên cứu có hệ thống về thực trạng và giải pháp bảo
tồn, phát huy nghệ thuật chèo tại làng Khuốc - xã Phong Châu - huyện Đông
Hưng - tỉnh Thái Bình.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điền dã: Nhóm tác giả đã thực hiện chuyến đi thực tế, về
tận địa bàn làng Khuốc, tham dự hội làng, quan sát các hoạt động biểu diễn sân
khấu chèo của các câu lạc bộ và của nhân dân. Ghi chép các dữ liệu thu thập
được từ thực tế như cơ sở vật chất (nhà tổ chèo, chiếng chèo làng Khuốc, các
lớp học chèo, cơ sở vật chất đầu tư cho hoạt động biểu diễn, sinh hoạt sân khấu
chèo…), sự hưởng ứng của nhân dân địa phương với nghệ thuật chèo, sự quan
tâm của các cấp chính quyền trong việc bảo tồn và phát huy nghệ thuật chèo
làng Khuốc...
- Phương pháp quan sát phỏng vấn, mô tả: Nhóm tác giả thực hiện việc
thâm nhập thực tế, quan sát, ghi chép, phỏng vấn cán bộ lãnh đạo địa phương,
cán bộ văn hóa, các nghệ nhân chèo, phỏng vấn người dân và các em học sinh
đang tham gia các lớp học chèo.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Thực hiện việc lập bảng hỏi, phát
phiếu điều tra tới người dân làng Khuốc các lứa tuổi khác nhau, các đối tượng
khác nhau: cán bộ, nghệ nhân, người dân, các cháu học sinh về nhu cầu thưởng

thức nghệ thuật chèo, về thực trạng nghệ thuật chèo, về bảo tồn phát triển nghệ
thuật chèo… ở làng Khuốc.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Trên cở sở những tư liệu và dữ liệu
thu thập được từ thực tế, nhóm tác giả đã tiến hành phân loại, xử lý, tổng hợp,
phân tích và đưa ra những nhận định khách quan về thực trạng của công tác bảo
tồn, phát huy nghệ thuật chèo ở làng Khuốc hiện nay, những mặt tích cực, những
mặt hạn chế và những vấn đề đặt ra. Từ đó giúp địa phương có thể đưa ra những
chủ trương sát hợp trong công tác bảo tồn, phát huy nghệ thuật chèo ở làng
Khuốc hiện nay.
4


6. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu giúp mọi người hiểu rõ hơn về nghệ thuật chèo nói
chung và nghệ thuật chèo làng Khuốc nói riêng. Từ nguồn gốc xuất xứ, quá trình
hình thành phát triển, những đặc trưngcơ bản của nghệ thuật chèo cho đến thực
trạng cùng các giải pháp bảo tồn và phát huy nghệ thuật chèo làng Khuốc, xã
Phong Châu, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài chia làm
3 chương.
Chương 1: Tổng quan về nghệ thuật chèo và chèo làng Khuốc
Chương 2: Thực trạng công tác bảo tồn nghệ thuật chèo làng Khuốc
hiện nay
Chương 3: Giải pháp bảo tồn và phát huy nghệ thuật chèo làng
Khuốc

5



Chương 1
TỔNG QUAN VỀ NGHỆ THUẬT CHÈO VÀ CHÈO LÀNG KHUỐC
1.1. Khái quát về nghệ thuật sân khấu chèo
1.1.1. Nguồn gốc, xuất xứ và tên gọi của chèo
1.1.1.1. Nguồn gốc, xuất xứ của chèo
Từ bao đời nay sân khấu chèo và hát chèo đã trở thành một loại hình sinh
hoạt văn hóa nghệ thuật quen thuộc của người dân Việt Nam, nuôi dưỡng đời
sống tinh thần dân tộc bởi cái chất trữ tình đằm thắm sâu sắc.
Có nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc và sự hình thành của chèo, tuy
nhiên có thể tóm tắt một số ý kiến đã phát biểu từ trước đến nay, về nguồn gốc
và thời điểm xuất hiện của chèo như sau:
- Chèo có nguồn gốc ngoại lai, bắt đầu từ sự kiện quân ta cầm giữ nghệ
nhân Lý Nguyên Cát ở trận Tây Kết.
- Chèo khởi lên từ sự kiện Trịnh Trọng Tử cho quân hát khúc Long ngân
đang khi đưa tang vua Trần Nhân Tông.
- Chèo chỉ động tác chèo thuyền, đề nói nguồn gốc chèo xuất phát từ trò
tang lễ và lao động.
- Chèo là hình thức sân khấu thuần tuý dân tộc, bắt nguồn từ kho tàng văn
hoá nghệ thuật dân gian phong phú lâu đời Việt Nam.
- Về thời điểm hình thành, có những ý kiến cho chèo có ở nước ta từ thời
tiền sử, thế kỷ thứ IV trước Công nguyên đến thế kỷ thứ I sau Công nguyên;
hoặc thế kỷ thứ X (thời nhà Ðinh); hoặc thế kỷ XIV (cuối nhà Trần)...
- Quan điểm của các nhà nghiên cứu hiện đại đầu ngành cho rằng: chèo
bắt nguồn từ dân ca, dân vũ và các trò diễn trong dân gian. PGS.TS Hà Văn Cầu
trong Quá trình hình thành và phát triển của nghệ thuật Chèo viết: “Chèo ra đời
từ thời Đinh. Chèo là nghệ thuật dân gian được xây dựng trên cơ sở trò nhại,
múa và hát dân gian”. Vũ Khắc Khoan trong Tìm hiểu sân khấu chèo cũng có
viết: “Nguồn gốc của chèo là một nền ca vũ cổ sơ của dân tộc, thường được biểu
diễn trong các dịp tang lễ thời trước, lời ca than vãn, điệu vũ hình dung những
động tác chèo thuyền, chiếc thuyền thần thoại chở linh hồn người chết sang thế

6


giới bên kia” hay giáo sư Trần Bảng cho rằng: “Chèo là nghệ thuật tổng hợp bắt
nguồn từ kho tàng văn nghệ dân gian, lấy dân ca dân vũ làm nền tảng, thể hiện
sự hợp tác lý thú giữa văn hóa cổ điển và dân gian” [1; tr10]...
Như vậy, cho đến nay, có rất nhiều ý kiến của các nhà nghiên cứu đưa ra
các giả thuyết khác nhau về nguồn gốc và thời điểm hình thành nghệ thuật sân
khấu chèo. Tuy nhiên phần đông các nhà nghiên cứu có tên tuổi và uy tín đều
không tán thành ý kiến cho rằng chèo bắt đầu thành hình từ sự kiện quân ta cầm
giữ nghệ nhân Lý Nguyên Cát ở trận Tây Kết, hoặc bất cứ nguồn gốc ngoại lai
nào. Dựa trên những gì ghi khắc trong sử sách, bi ký qua các thời Ðinh, Tiền Lê,
Lý đến cuối thời Trần, đã có thể rút ra nhận xét:
Một là: các hình thái hát (kết hợp) múa, các trò hề riễu đã xuất hiện và tồn
tại ở nước ta từ rất lâu.
- Thời Ðinh tương truyền có Phạm Thị Chân, Ðào Văn Xó là những
người sáng lập chèo – những vũ ca tài ba trong triều đình nhà Đinh thế kỷ X,
chịu trách nhiệm dạy quân lính múa hát, đánh trống, gẩy đàn, diễn các tích trò,
lúc đó gọi là hát trò nhời hay gọi là hát chèo.
- Thời Lý với tầng lớp tăng lữ đông đảo có thế lực, kết hợp với quý tộc cũ
mới, thêm Nho giáo, rồi qua chiến tranh giữ mà chín muồi dần tinh thần dân tộc
dẫn tới sự ra đời chữ Nôm với sự liên kết giữa tăng lữ Từ Ðạo Hạnh, nho sĩ Mai
Sinh, nghệ nhân Phan Khất. Và phần lớn các vua Lý đều thích múa hát với Ðào
Thị, Ðỗ Anh Vũ...
- Thời Trần, Nho giáo ngày một lấn át Phật Giáo, Ðạo Giáo, nảy sinh tầng
lớp nho sĩ vừa sử dụng tốt chữ Hán, vừa mầy mò xây dựng chữ Nôm, vừa chan
hoà với văn hoá dân gian, như Chu Văn An, Nguyễn Thuyên, Dư Nhuận Chi,
Nguyễn Sỹ Cố, Trần Nhật Duật,...
Hai là: sự xuất hiện những mảnh trò có tích đơn giản, những nghệ nhân
vươn lên chuyên nghiệp nhiều loại, như giáp (kép), đào, lão, mụ, hề, những trò

nhại (về phú hào, trưởng giả), những bài giáo (như giáo trống, giáo hương,...) để
từ đấy tổ chức Giáo phường, tập hợp người nghề, lần đầu tiên cho nhà nước
quản lý, với những phường trò, phường hát…
7


Từ những tư liệu và đặc điểm trên, các nhà nghiên cứu đi đến khẳng định:
chèo bắt nguồn từ kho tàng văn hoá nghệ thuật dân gian, dân tộc, với sự đóng
góp quan trọng của giới trí thức bình dân và quý tộc, từng tồn tại lâu đời trên đất
nước Việt Nam, phát triển mạnh mẽ nhất ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ.
Tổng hợp các ý kiến về nguồn gốc ra đời của chèo, ta có thể rút ra đôi
điều về nguồn gốc hình thành nghệ thuật chèo như sau: Chèo bắt nguồn từ kho
tàng dân ca, dân vũ, dân nhạc và trò diễn dân gian, bao gồm những trò nằm
trong phạm trù tín ngưỡng, những trò trình diện, trình nghề luôn thấy trong các
hội làng, mà nó cấu thành ngôn ngữ nghệ thuật tạo dựng được số hình ảnh có
tính cách nói lên đức độ, với nghệ thuật thể hiện phức tạp tinh tế hơn. Vùng
đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi của chèo, từ cái nôi ấy sau bao nhiêu thăng trầm
của lịch sử nghệ thuật chèo ngày càng phát triển và khẳng định được tầm quan
trọng trong nền văn hóa dân gian dân tộc.
1.1.1.2. Tên gọi của chèo
Hiện nay, đã từng có rất nhiều cách giải thích về tên gọi của chèo với
những quan điểm khác nhau.
- Chữ “chèo” từ chữ trào, nghĩa là giễu cợt mà ra. “Tiếng chèo bởi chữ
trào nói chệch ra. Trào có nghĩa là cười. Ngoài Bắc Kỳ người ta gọi là hát chèo,
nghĩa là diễn cái sự tích bật cười của nguời đời cố làm vui để mà xxem cho thỏa
thích để dạy nguời ta răn chừa” [8; tr461]. Trong Việt Nam văn học sử yếu,
Dương Quảng Hàm cũng đồng tình với ý kiến trên nhưng có phần dè dặt: “ Chữ
chèo có người cho là từ chữ trào mà ra. Trào có nghĩa là giễu cợt. Lối chèo
thường diễn những việc vui cười, những cái tật rởm thói xấu của người đời. Lời
văn có nhiều lời khôi hài bông lơn để người xem buồn cười” [4].

- Chữ chèo từ chữ “chầu” mà ra. Do các bản hát Chèo viết bằng chữ Nôm,
chữ Chèo được tạo bởi chữ khẩu một bên và chữ chầu một bên nên người ta cho
rằng hát chèo là hát chầu thần, chầu thánh, nên Chèo đọc lệch từ chữ chầu.
- Chữ chèo là từ chữ “trèo” mà ra. Vũ Ngọc Phách trong Ca trù bị khảo có
viết: “Đời vua Thần Tông nhà Lê (1649 - 1662), ngày sinh nhật, vua ngự ở điện
Vạn Thọ, chúa Trịnh dẫn trăm quan vào làm lễ mừng. Trong cung yến ẩm suốt
ngày và hát đủ mọi lối, có ban nữ nhạc hát múa khúc Đại thực. Các quan dẫn
8


người nhà vào chen chúc, ai cũng muốn đến gần xem cho rõ. Vua thấy thế mới
truyền cho tiểu giám lấy những hòn đá lớm để nữ nhạc trèo lên đó hát, chủ ý cho
mọi người cùng trông thấy và cùng nghe thấy. Từ đấy thay đổi khúc hát Đại
thạch” [10]. Có thể do đấy mà gọi là hát trèo, rồi đọc chệch là hát chèo.
- Chữ chèo là từ chữ trò mà ra. Vũ Hiệp đưa ra ý kiến: “Danh từ chèo bắt
nguồn từ chữ trò mà ra, rồi lâu ngày chữ trò mới đọc trại đi thành chữ chèo”.
- Chữ chèo là từ chữ chèo thuyền mà ra. “Chữ chèo để chỉ một hình thức
sân khấu cổ truyền, xuất phát từ chữ chèo gắn với động tác chèo thuyền trên
sông nước” [12].
Tổng hợp các ý kiến trên, có thể thấy nhóm ý kiến cho rằng chèo bắt
nguồn từ chữ “trào” được nhiều nhà nghiên cứu tán thành hơn cả. Chèo chính là
nghệ thuật sân khấu cổ truyền của Việt Nam, không có nguồn gốc mang tính
ngoại lai.
1.1.2.Quá trình phát triển của nghệ thuật chèo
Chèo bắt nguồn từ âm nhạc và múa dân gian, nhất là trò nhại từ thế kỷ X.
Sự phát triển của chèo có một mốc quan trọng là thời điểm một binh sĩ quân đội
Mông Cổ đã bị bắt ở Việt Nam vào thế kỷ XIV. Binh sĩ này vốn là một diễn viên
nên đã đưa nghệ thuật Kinh kịch của Trung Quốc vào Việt Nam. Trước kia chèo
chỉ có phần nói và ngâm các bài dân ca, nhưng do ảnh hưởng của sự kiện người
lính bị bắt mang tới, chèo có thêm phần hát. Vào thế kỷ XV, vua Lê Thánh Tông

không cho biểu diễn chèo trong cung đình, do chịu ảnh hưởng của đạo Khổng,
chèo trở về với nông dân, kịch bản lấy từ truyện viết bằng chữ Nôm.
Thế kỷ XVIII, hình thức chèo đã được phát triển mạnh ở vùng nông thôn
Việt Nam và tiếp tục phát triển, đạt đến đỉnh cao vào cuối thế kỷ XIX. Những vở
nổi tiếng như: Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ, Kim Nham, Trương Viên
xuất hiện trong giai đoạn này.
Đến thế kỷ XIX, chèo ảnh hưởng của tuồng, khai thác một số tích truyện
như Tống Trân, Phạm Tải, hoặc tích truyện Trung Quốc như Hán Sở tranh hùng.
Đầu thế kỷ XX, chèo được đưa lên sân khấu thành thị trở thành chèo văn
minh. Có thêm một số vở mới ra đời dựa theo các tích truyện cổ tích, truyện
Nôm như: Tô Thị, Nhị Độ Mai... Trước cách mạng tháng Tám, sân khấu chèo có
9


nguy cơ tan rã.
Sau Hội nghị bàn về văn hóa dân tộc tại căn cứ Việt Bắc năm 1951, đã
xuất hiện phong trào phục hồi nền văn hóa dân tộc. Những nghệ nhân Cả Tam,
Trùm Thịnh, Diệu Hương... từ khắp đất nước về Việt Bắc sưu tầm, nghiên cứu,
soạn thảo chèo, chính thức đặt nền móng cho nghệ thuật chèo hiện đại phục vụ
cách mạng.
Hòa bình lập lại trên miền Bắc, nhất là sau khi Trường Sân khấu dân tộc
(nay là trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh) ra đời năm 1959, nghệ thuật chèo
bước vào thời kỳ rực rỡ nhất của thế kỷ XX. Các đoàn chèo lần lượt ra đời thay
cho gánh hát, phường chèo, tiêu biểu là Đoàn chèo Trung ương, Đoàn chèo nhân
dân khu tả ngạn (tiền thân của Đoàn chèo Hải Phòng hiện nay), Đoàn chèo Hà
Nội, Đoàn chèo Tổng cục Chính trị (nay là Đoàn chèo 2 Trung ương), Đoàn
chèo Thanh Hóa, Đoàn chèo Thái Bình, Đoàn chèo Hà Nội, Đoàn chèo Hải
Dương.
Đến năm 1975, xuất hiện trên sân khấu chèo hàng loạt vở có giá trị tư
tưởng, nghệ thuật cao như : “Chị Tâm làng cốc” của Tào Mạt, “Trần Quốc Toản

ra quân” của Hoài Giao. Cùng thời điểm đó, một số vở về đề tài lịch sử như
“Tướng quân Phạm Ngũ Lão”, “Tầm vóc đại hồng” và một số vở viết theo
truyện dân gian, huyền thoại, cổ tích, góp vào sân khấu chèo thêm phần rực rỡ.
Cho đến những năm 1980, đầu những năm 1990 của thế kỷ XX, khi cơ
chế bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường, sân khấu dân tộc nói chung và
sân khấu chèo nói riêng đã chịu ảnh hưởng nặng nề, chèo bước vào một thời kỳ
mới.
Nhiều làn điệu chèo, điệu múa tiềm ẩn trong dân gian là những vốn quý
trong kho cổ đã được phát hiện, sưu tầm, được trau chuốt và đưa vào các vở
chèo hiện đại. Chiếu chèo từ đấy đã có bước đột phá về hình thức, bước lên sân
khấu chính quy, với dàn âm thanh điện tử, lấp lánh ánh đèn điện mầu, trang phục
cũng lộng lẫy hơn, vì vậy tính hấp dẫn của chèo càng tăng lên. Các vở chèo hiện
đại có hơi hướng kịch nói với cả chất bi hài, có giọng điệu cải lương.
Có thể nói, cùng với sự phát triển đi lên của dân tộc, nghệ thuật sân khấu
10


chèo đang có nhiều khởi sắc, chuyển mình và có nhiều sự đổi mới, bứt phá, sáng
tạo cho phù hợp với mỗi thời kỳ lịch sử, đồng thời đáp ứng nhu cầu sáng tạo và
hưởng thụ văn hóa tinh thần của nhân dân lao động. Chèo thực sự là một loại
hình nghệ thuật sân khấu của dân tộc, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, là tinh
hoa, hồn cốt của dân tộc Việt Nam.
1.1.3.Nội dung chủ yếu của nghệ thuật chèo
Nghệ thuật chèo là một sản phẩm văn hóa đặc trưng của Việt Nam nó có ý
nghĩa như một biểu trưng của văn hóa Việt. Xuất phát từ những mong ước bình
dị thường ngày của nhân dân lao động, chèo chính là “xã hội mới” của nhân dân
- nơi có thể chia sẻ, cảm thông về những cảnh đời cay đắng, những éo le ngang
trái nhân dân lao động phải trải qua để cùng buồn, cùng vui, cùng mong ước cho
một cuộc sống mới công bằng, ấm no.
Nghệ thuật chèo luôn hiện hữu không thể thiếu trong đời sống tinh thần

của dân tộc Việt Nam. Nội dung của mỗi tác phẩm nghệ thuật chèo chính là kết
tinh từ vẻ đẹp tâm hồn của người lao động, là thành quả của trí tuệ dân gian, là
công trình sáng tạo nghệ thuật thẩm mỹ, là khát vọng về tự do, công bằng và lý
tưởng nhân văn hướng tới chân - thiện - mỹ của nhân dân lao động trong thời kỳ
phong kiến.
Thực tế xã hội luôn là những khía cạnh nội dung được truyền tải trong các
tác phẩm nghệ thuật, văn học. Cũng như vậy, chèo sinh ra, tồn tại và phát triển
trong xã hội phong kiến từ những mâu thuẫn giai cấp tầng lớp luôn ở vào thế
căng thẳng. Xoay quanh hiện thực xã hội lúc bấy giờ, đây chính là cơ sở để xây
dựng nên những giá trị nội dung xuyên suốt trong mọi tác phẩm chèo.
Những hình ảnh cuộc sống bình dị của người dân nông thôn xã hội cũ
luôn xuất hiện trong các tích trò của chèo. Các câu chuyện hàng ngày xảy ra nơi
thôn dã, hoặc trong nhà “quan”, những mối quan hệ tốt xấu về mẹ chồng nàng
dâu, dì ghẻ con chồng, vợ chồng bè bạn, anh em tớ thầy… Như nàng Châu Long
“chẳng quản công phu” “vâng lời chồng đi nuôi bạn ăn học”, biết kín đáo đoan
tiết với chồng.
Các tích chèo cổ thường tái hiện hình ảnh cuộc đời hoặc một khoảng thời
11


gian cuộc đời có tác dụng quyết định số phận nhân vật. Đặc biệt, nhân vật thư
sinh là nhân vật được hướng ánh nhìn hơn cả. Thư sinh là những người cầm cây
mực trong nhà, lấy học hành thi đỗ làm đường tiến thân.
Chèo cũng nêu bật số phận cuộc đời của những người phụ nữ với vẻ đẹp
tâm hồn và đức tính hy sinh cao cả: chăm sóc cha mẹ, con cái; nuôi chồng ăn
học và đối mặt với mọi biến cố trong xã hội. Người phụ nữ đã bộc lộ tâm trạng
và cách ứng phó với những khó khăn gặp phải, làm nổi bật lên khía cạnh đạo
đức: hiếu, nghĩa, tiết hạnh.
Bên cạnh đó chèo cũng thể hiện tính chiến đấu sâu sắc. Xuất phát từ thực
tiễn xã hội phong kiến bất công, các làn chèo tập trung phê phán, tố cáo hành vi

bỉ ổi, hống hách của bọn phong kiến thống trị, những quan niệm lỗi thời, những
thói xấu của tầng lớp thống trị do vậy đã tạo nên những trường hợp khôi hài
châm biếm mỉa mai những thói hư tật xấu như: keo kẹt, dở hơi, dại gái…
Chèo còn là lời ca của sự lạc quan của nhân dân lao động về một xã hội
công bằng và dân chủ. Cuộc sống của nhân dân lao động, đặc biệt là nông dân
vô cùng khó khăn, khổ cực khi phải chịu những bóc lột, đày đọa của bọn cường
hào hống hách. Họ không muốn tiếp tục cuộc sống bần cùng hàng ngày mà họ
vẫn đang phải chịu đựng. Họ muốn ước mơ của họ trở thành sự thật. Nếu chưa
biến thành sự thật ngoài đời thì cũng phải thể hiện ít nhiều trên sân khấu để
những điều ấy có thể phần nào an ủi, động viên, chia sẻ với họ thêm yêu cuộc
sống, thêm tin vào con người, trân trọng tình người.
Nghệ thuật chèo nổi bật với chân lý thiện ác. Cái thiện luôn chiến thắng
cái ác. Do vậy mà trong chèo, phân ra hai vai chính đó là vai chín (các vai chính
diện, là người tốt, lương thiện) và vai lệch (vai phản diện, gian ác, xấu xa).
Những người tốt, những người giữ đúng lễ nghĩa thánh hiền, người có đạo đức
trước mắt có chịu bao cực khổ đắng cay cuối cùng cũng sẽ được hạnh phúc. Kẻ
xấu sau cùng tất bị trừng phạt, sa đoạ, nghèo hèn, dựa trên mấy tiêu điểm ở hiền
gặp lành, ở ác gặp dữ, lấy trung hiếu tiết nghĩa làm cơ sở.
Các tích trò chủ yếu lấy từ truyện cổ tích, truyện Nôm, ca vũ nhạc từ dân
ca dân vũ, lời thơ chủ yếu là thơ dân gian. Lối chèo thường diễn những việc vui
12


cười, những thói xấu của người đời như các vai: Bói mù, Hương câm, Đồ điếc,
trong vở Quan Âm Thị Kính.
Đặc biệt, chèo mang trong mình nội dung nhân đạo sâu sắc. Các tích trò
đều nhằm tới đích ca ngợi, bênh vực, đồng cảm và an ủi những con người lầm
than khổ cực trong xã hội bất công. Tạo niềm tin cho nhân dân lao động lạc
quan hướng tới cuộc sống mới nơi có sự công bằng, dân chủ.
Nhìn tổng thể ta có thể nhận thấy rằng, chèo là một loại hình nghệ thuật

sân khấu mang giá trị hiện thực và tư tưởng sâu sắc.
1.1.4.Đặc trưng của nghệ thuật chèo
Chèo là nghệ thuật tổng hợp, muốn thấy được cái hay, cái đẹp, cái đặc sắc
của chèo phải trực tiếp đến với các chiếu chèo và các vở diễn. Đặc biệt, nếu
thuộc được một số làn điệu thì mới thấy được sức cuốn hút lạ kỳ của chèo đối
với người nghe. Hát chèo là lối hát sân khấu, có thể một người, có thể nhiều
người hát đồng ca. Giai điệu của các làn điệu hát chèo rất phù hợp với giọng tự
nhiên và ngôn ngữ của người Việt. Hát chèo được hình thành bắt nguồn từ các
làn điệu dân ca, lời hát chèo lấy trong các sáng tác văn học dân gian ở vùng
đồng bằng Bắc Bộ là chủ yếu. Ngoài ra các làn điệu chèo còn chịu những ảnh
hưởng từ hát Văn, hát Xẩm, hát Ca trù, hát Xoan, hát Quan họ... Hát chèo là loại
hình nghệ thuật dân tộc có sức sống lâu bền, độc đáo và phổ biến. Nó đáp ứng
được nhu cầu thẩm mỹ, giáo dục và phục vụ đắc lực cho đời sống tinh thần của
nhân dân nên chèo luôn được nhân dân yêu mến, gìn giữ [6].
Để thấy được đặc trưng của nghệ thuật sân khấu chèo, ta có thể xem xét
thông qua một số yếu tố nổi bật như sau:
* Nhân vật trong chèo
Nhân vật trong chèo thường mang tính ước lệ, chuẩn hóa và rập khuôn.
Tính cách của các nhân vật trong chèo thường không thay đổi với chính vai diễn
đó. Những nhân vật phụ của chèo có thể đổi đi và lắp lại ở bất cứ vở nào, nên
hầu như không có tên riêng. Có thể gọi họ là thầy đồ, phú ông, thừa tướng, thư
sinh, hề v.v...Tuy nhiên, qua thời gian, một số nhân vật như Thiệt Thê, Thị Kính,
Thị Mầu, Súy Vân đã thoát khỏi tính ước lệ đó và trở thành một nhân vật có cá
13


tính riêng.
Chèo còn hấp dẫn người xem, bởi lẽ xây dựng được nhiều những nhân vật
“lạ”: một bà lão nông đặc sệt nhưng hài hước, hóm hỉnh đi bên cạnh người con
dâu khuê các; một ông tiên với bầu rượu túi thơ đi hái thuốc, hái mây, hái gió;

một quỷ cái dắt bày con quanh thắt lưng nom bề ngoài đáng sợ nhưng lại có tấm
lòng tốt, hát bài hát của tiên,…
Những nhân vật trên chiếu chèo thực sự là tấm gương để phản ánh những
sinh hoạt cộng đồng của nền văn hóa làng xã Việt Nam. Xem vở Quan Âm Thị
Kính thì thấy rõ cả một xã hội nông thôn Việt Nam: một mẹ chồng hồ đồ ác
nghiệt, một bố chồng bạc nhược, một cô gái lẳng lơ ghẹo trai ngay trước cổng
chùa, một cuộc họp làng quan trọng với những kẻ đứng đầu chính quyền nhưng
thực chất toàn câm, điếc, mù và mục đích chính là: “đập mõ không tày gõ thớt,
việc đình trung chính cốt việc ăn”. Cũng như thế, dừng lại ở tấm bi kịch của Súy
Vân, ta cũng thấy rõ điều này.
Qua các nhân vật ta dễ dàng nhận thấy họ là hiện thân của một nền văn
hóa làng xã thuần Việt, cho dù một số nhân vật như Súy Vân, Trần Phương, Mụ
Quán… đã ít nhiều vượt ra khỏi khuôn khổ văn hóa làng để tạo nên một lớp
nhân vật mới có tính cách riêng.
Tiếp đến là những nhân vật mang tính hài, đó là những tính cách vốn
mang trong bản thân nó những yếu tố gây cười, mà ta gặp rất nhiều: thầy bói,
thầy lang, bà mối, ông đồ, lão say, xã trưởng, mõ. Những nhân vật này tham gia
vào câu chuyện, các tình tiết của câu chuyện có số phận và vận mệnh của mình
như những nhân vật khác. Đồng thời những nhân vật này vào sân khấu chèo
mang lại không khí trào lộng đặc sắc cho chèo.
* Hề chèo
Là một vai diễn thường có trong các vở diễn chèo. Quần chúng lao động
mượn vai hề để bộc bạch tâm trạng của mình. Khi đả kích chế giễu thói hư tật
xấu của tầng lớp quan lại, khi lại thể hiện ước mơ về cuộc sống công bằng hạnh
phúc về sự mẫn tiệp của nhân dân. Có hai loại hề chính bao gồm: hề áo dài và hề
áo ngắn.
14


Hề áo ngắn gồm có hề Gậy và hề Mồi. Hề Gậy thường là các anh chàng

hề đồng lóc cóc chạy theo hầu thầy trên đường thiên lý, khi ra sân khấu do
thường mang theo gậy đường trường hoặc cây đòn gánh, nên gọi nôm na là hề
Gậy. Hề Mồi là những nhân vật hầu hạ sai vặt, điếu đóm trong nhà hoặc lính
canh, lính hầu nơi quan phủ, tư dinh… Nhân vật này ra sân khấu thường mang
theo chiếc mồi quấn bằng giẻ tẩm mỡ, tẩm dầu đốt sáng như đuốc. Do thân phận
hầu hạ, hề Mồi hay ra trước dọn dẹp cung đình, đón quan đủng đỉnh ra sau, nên
có thể gọi là những anh hề dọn lớp hoặc dọn dẹp đám.
Loại thứ hai của hề chèo là hề áo dài (còn gọi là hề tính cách). Những
nhân vật này thường hả hê vui sướng tự giễu cợt mình, tự lột mặt nạ bản thân và
tự đẩy mình vào tình huống lố bịch. Loại hề này cười cợt trên sân khấu chèo sân
đình với đủ mọi giọng điệu phong phú: giễu vui, đả kích, đùa bỡn, trêu chọc,
nghịch ngợm… với mục đích tự bôi bác mình.
Trong chèo không thể thiếu hề, điều đó đã được khẳng định qua nhiều vở
chèo truyền thống. Nhiều nhà nghiên cứu còn cho rằng hề là một di sản phi vật
thể trong chèo truyền thống - “phi hề bất thành chèo”. Nghệ thuật tung hứng của
các anh hề trong tích chèo đã không chỉ mang lại tiếng cười cho người xem mà
nó còn chứa đựng, chuyển tải cả những tinh thần, tư tưởng khác của vở diễn.
*Kỹ thuật kịch
Đây là loại hình nghệ thuật tổng hợp các yếu tố dân ca, dân vũ và các loại
hình nghệ thuật dân gian khác ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nó là hình thức kể
chuyện bằng sân khấu, lấy sân khấu và diễn viên làm phương tiện giao lưu với
công chúng, và có thể được biểu diễn ngẫu hứng. Sân khấu chèo dân gian đơn
giản, những danh từ chèo sân đình, chiếu chèo cũng phát khởi từ đó. Sân khấu
chèo xưa ra đời từ các làng chèo với các múa hội hát. Cũng chính vì thế mà chèo
mang tính quần chúng và được gọi là loại hình sân khấu của hội hè. Công chúng
đam mê chèo bởi khi đến với sân khấu chèo có thể tận hưởng niềm vui từ những
tiếng cười châm biếm đả kích sâu sắc và tinh tế.
Người xưa thường nói “có tích mới dịch nên trò” điều đó khẳng định tích
chuyện là linh hồn của vở diễn. Cũng chính vì vậy mà chèo được đánh giá là
15



loại hình sân khấu kịch hát kể chuyện dân tộc. Ðiều này đã làm nên đặc điểm cơ
bản của nghệ thuật chèo cổ.
Đặc điểm nghệ thuật của chèo bao gồm yếu tố kịch tính, kỹ thuật tự sự,
phương pháp biểu hiện tính cách nhân vật, tính chất ước lệ và cách điệu. Ngôn
ngữ chèo có những đoạn sử dụng những câu thơ chữ Hán, điển cố, hoặc những
câu ca dao với khuôn mẫu lục bát rất tự do, phóng khoáng về câu chữ.
Chèo không có cấu trúc cố định như trong sân khấu châu Âu mà các nghệ
sĩ tham gia diễn chèo thường ứng diễn. Do vậy, vở kịch kéo dài hay cắt ngắn tuỳ
thuộc vào cảm hứng của người nghệ sĩ hay đòi hỏi của khán giả. Nghệ sĩ chèo
được phép tự do bẻ làn, nắn điệu để thể hiện cảm xúc của nhân vật.
*Âm nhạc trong chèo
Có thể nói, âm nhạc là yếu tố rất quan trọng trong việc biểu hiện nội dung
của nghệ thuật chèo truyền thống. Âm nhạc trong nghệ thuật chèo thể hiện một
cách sinh động, sáng tạo giá trị của âm nhạc truyền thống Việt Nam thông qua
hệ thống làn điệu trong Hát chèo (nhạc hát) và Dàn nhạc chèo (nhạc đàn).
Lời ca trong các làn điệu chèo hầu hết là các thể loại thơ, phổ biến như:
lục bát, song thất lục bát, tứ tuyệt, thất ngôn... Tuy nhiên thể lục bát và song thất
lục bát là phổ biến hơn cả. Điều này ta thấy rõ ở một số làn điệu chèo tiêu biểu
có thể kể đến như: “Đường trường duyên phận”.
Trổ mở:

Đôi ta duyên phận phải chiều

Trổ 1:

Tơ hồng vấn vít chỉ điều xe săn
Cầm tay giao mặt dặn rằng


Trổ 2:

Chỉ thề nước biếc đạo hằng chớ quên
Rủ nhau lên miếu xuống đền [5]

Do yêu cầu về nội dung và phong cách, những luật thơ thường bị phá thể,
thêm vào đó là những từ như: dẫu mà, thời này, này a, ấy mấy...được bắt nối với
lời hát làm thuận miệng để giai điệu trở nên chuẩn mực. Trong điệu “Đường
trường phải chiều” ta cũng thấy rõ điều này.
Duyên phận i / ta phải í chiều ì / này ai ơi í đôi thời/
Đôi / lứa i i ta thời / này duyên i / ới / i phận đôi ta
16


Thời duyên / í phận / ta phải / i ì chiều i / i i i i i/ í i ì.
Dây / tơ ì hồng thời / khéo í xe / mà vấn vít ì/ ì i i í / ì í i
Ấy / mấy i sợi ì / i í i i chỉ ỉ điều khéo i / khéo xe săn ơi/
Chứ ai ơi í cầm thời / cầm / lấy i í tay .
Thời / này ì thời giao i/ ới / í mặt cầm tay thời giao / í mặt/
Ta dặn í / i ì rằng i / i i i i ỉ / í ỉ ì.
Ơi / chỉ thề thời / có í bên / mà nước biếc ì / ì i i i / ì í i
Ấy mấy i đạo ì / i í i i ỉ hằng xin i / ai chớ quên ơi/
Chứ ai ơi í ta thời / ta / rủ i nhau.
Thời / cùng i lên i / ơi / i miếu rủ nhau cùng lên / i miếu/
Ta xuống / i ì đền i / i i i ỉ / ỉ í ì.
Đặc biệt, ngoài lời hát có nội dung nhất định ta còn thấy có nhiều nguyên
âm như: a, i, ư, ơ, ô được xuất hiện sau câu hát tạo nên nét độc đáo riêng, mang
đậm tính trữ tình, trong sáng của nghệ thuật chèo.
Dàn nhạc chèo mang nét đặc trưng trong dàn nhạc truyền thống dân tộc
Việt Nam. Mỗi loại nhạc cụ thể hiện một âm sắc riêng, có lối diễn tấu và sức

truyền cảm riêng, các nhạc cụ được cấu trúc theo xu hướng gần gũi với giọng
người tuy nhiên khi kết hợp với nhau lại tạo thành một thể thống nhất chuyển
động nhịp nhàng theo nội dung vở diễn mang màu sắc riêng, mang đặc trưng
riêng của nghệ thuật chèo.
Cấu trúc của dàn nhạc chèo trước đây gồm [9]:
- Bộ dây
+ Chi kéo: Nhị 1, Nhị 2, Hồ.
+ Chi gẩy: Nguyệt, Tam, Thập lục, Bầu.
+ Chi gõ: Tam thập lục.
- Bộ hơi gồm: Tiêu, Sáo.
- Bộ gõ gồm: trống Đế, trống Ban, trống Chầu, trống Cơm, Thanh la, Mõ,
Não bạt, Sinh tiền, Tiu cảnh, Chiêng...
Âm nhạc chèo do phần dàn nhạc thể hiện gắn bó chặt chẽ với nội dung vở
diễn. Thậm chí, âm thanh được vang lên từ khi màn sân khấu chưa mở để thu
17


hút khán giả, tạo không gian hấp dẫn với người xem. Khi vở diễn bắt đầu, âm
thanh của dàn nhạc đã gắn kết từng màn, từng cảnh với nhau; khái quát không
gian, thời gian của cốt truyện; diễn tả tâm trạng nhân vật; tạo nên không khí, tiết
tấu, tốc độ cho vở diễn; làm nền cho diễn viên múa, làm phần nhạc đệm cho
diễn viên hát hoặc thể hiện các động tác sân khấu khi biểu diễn.
1.2. Khái quát về làng Khuốc và chèo làng Khuốc
1.2.1. Làng Khuốc
Làng Khuốc có tên chữ là Cổ Khúc thuộc xã Phong Châu, huyện Đông
Hưng tỉnh Thái Bình. Những tư liệu khảo cổ học của địa phương cho biết đây là
vùng đất cổ của nền văn minh châu thổ sông Hồng, có nguồn gốc xuất hiện từ
thời sơ sử của dân tộc. Những dòng họ từ bốn phương tám hướng dần dà đến
định cư lập nghiệp tạo nên xóm, nên làng, đó là các dòng họ Quách, Cao, Phạm,
Hà, Bùi, Trần, Ngô, Lưu, Vũ… Và từ xa xưa, làng Khuốc đã có nhiều phong tục

thuần hậu, tốt đẹp. Người dân nơi đây có tiếng hiếu học và giao lưu rộng rãi vì
thế từng được các vương triều đầu thời Nguyễn sắc phong “Mỹ tục khả phong”.
Có lẽ nghề hát chèo, diễn chèo phổ cập trong làng là một trong những duyên cớ
đưa làng Khuốc tới danh hiệu cao quý đó.
1.2.1.1.Vị trí địa lý, dân cư
Khuốc là một làng thuộc xã Phong Châu, huyện Đông Hưng tỉnh Thái
Bình có diện tích đất canh tác 290ha.
- Phía đông giáp xã Nguyên Xá;
- Phía nam giáp làng Bùi xã Phong Châu;
- Phía tây giáp xã Hợp Tiến;
- Phía bắc có dòng sông Tiên Hưng hình cánh cung bao bọc tạo nên vị trí
địa lý thuận tiện và khung cảnh thiên nhiên trù phú khang trang.
Ngược thời gian lần theo dấu tích lịch sử làng Khuốc thuộc vùng đất cổ,
được hình thành trên 2000 năm thuở sơ khai. Nhờ con sông Nùng (sông Tiên
Hưng) và sông Trà Lý tháng năm cần mẫn chuyên chở phù sa từ thượng nguồn
về bồi đắp, lấp đầy đầm vực, kiến tạo nên đồng bãi, trở thành tụ điểm hấp dẫn
cư dân. Từ thế kỷ VII (sau công nguyên) làng Khuốc đã thực sự trở thành một
18


×