PHẦN 1. MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Gia đình vốn được coi là hạt nhân cơ bản của xã hội.Trong quá trình đổi mới
của đất nước, Việt Nam đang chịu tác động mạnh mẽ của những chuyển biến về
kinh tế - xã hội ở trong nước và quá trình toàn cầu hóa, thì một trong những mục
tiêu quan trọng của Đảng và nhà nước là tăng cường sự tham gia vào các hoạt động
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của phụ nữ nhằm nâng cao vai trò và vị trí của
người phụ nữ trong gia đình nói riêng và ngoài xã hội nói chung. Sự phát triển của
xã hội sẽ làm vai trò và vị trí của người phụ nữ được nâng lên đáng kể. Phụ nữ có
quyền bình đẳng so với nam giới. Họ được tự do học hành, được tham gia vào các
hoạt động cuả xã hội theo khả năng của mình, có quyền được bỏ phiếu, ứng cử…
Tuy nhiên ở nước ta các yếu tố truyền thống, đặc biệt là tư tưởng nho giáo vẫn còn
là một nhân tố đáng kể tác động trực tiếp tới quan niệm và hành vi ứng xử của
người dân trong xã hội khi họ luôn cho rằng người phụ nữ phải gắn với các công
việc nhà như nội trợ, chăm con…
Theo ước tính của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) năm 2002, hàng năm
nền kinh tế toàn cầu đã bỏ qua khoảng 11 tỉ USD Mỹ từ thu nhập của phụ nữ do họ
làm những công việc nhà như nấu ăn, trông con… mà không được tính công. Thực
tế, vô hình chung, công việc nhà coi như là nhiệm vụ của riêng người phụ nữ, đó là
những “ lao động không bằng”, không được trả lương và cũng không được xã hội
ghi nhận. Vậy sự phân công lao động giữa vợ và chồng trong hoạt động tái sản xuất
đang diễn ra như thế nào? Sự phân công lao động như vậy đã hợp lý chưa? Làm thế
nào để có thể giải phóng người phụ nữ khỏi các chuẩn mực xã hội cũ để tiếp cận với
các nguồn lực phát triển của gia đình và nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội.
Trong phân công lao động theo giới có những hoạt động công việc khác nhau
như: công việc nội trợ, chăm sóc và giáo dục con cái, các công việc ngoài cộng
đồng, quyền quyết định chính trong các công việc gia đình… Ở đây nhóm nghiên
cứu đã thu hẹp lại phạm vi nghiên cứu của đề tài, chú trọng nghiên cứu, tìm hiểu
sâu về phân công lao động giữa vợ và chồng ở lĩnh vực tái sản xuất bao gồm công
việc nội trợ, chăm sóc và giáo dục con cái.
Thông qua việc nghiên cứu đề tài về “ Thực trạng phân công lao động giữa
vợ và chồng trong hoạt động tái sản xuất ở gia đình nông thôn hiện nay” qua
1
khảo sát tại tỉnh Hưng Yên, để thấy được quan niệm của người dân về sự phân công
lao động giữa vợ và chồng trong gia đình. Từ đó thấy rõ vai trò của người phụ nữ
trong gia đình, bất bình đẳng nam nữ diễn ra như thế nào nhằm góp phần để có cái
nhìn đúng hơn về người phụ nữ. Qua đó đề ra những biện pháp và khuyến nghị để
nâng cao vai trò của người phụ nữ, phát huy hết tiềm năng của người phụ nữ góp
phần xây dựng một xã hội ngày càng công bằng văn minh.
II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Nghiên cứu về sự phân công lao động giữa vợ và chồng có rất nhiều công
trình nghiên cứu, không chỉ ở trong nước và trên nền kiến thức quốc tế đã có rất
nhiều công trình nghiên cứu, phân tích về mối quan hệ giữa vợ và chồng trong việc
phân chia các công việc gia đình. Có thể điểm tên một số công trình, tác phẩm…
nghiên cứu sau đây:
1. Các công trình nghiên cứu, các tác phẩm…,trên thế giới.
Trước hết phải đề cấp đến tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư
hữu của Nhà nước” của Engels (1884). Có thể coi đây là một trong những công
trình nghiên cứu về sự phân công lao động sớm nhất. Đứng trên quan điểm duy vật
lịch sử, Engels đã mô tả sự phân công lao động theo giới gắn liền với sự tồn tại của
các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất khác nhau, các kiểu hôn nhân và gia đình khác
nhau. Theo đó, địa vị xã hội của phụ nữ và nam giới đã thay đổi khi có sự thay đổi
về mô hình phân công lao động mà nguồn gốc sâu sa của nó bắt nguồn từ sự thay
đổi về quan hệ đối với tư liệu sản xuất, về kĩ thuật cũng như hình thái hôn nhân và
gia đình.
Tác phẩm “Giới tính thứ hai” của Simone De Beaurvoir (1949). Trong tác
phẩm này tác giả đã giải thích các nguyên nhân dẫn đến “địa vị hang hai” của phụ
nữ. Bà khẳng định rằng phụ nữ phải đảm nhận phần lớn công việc nội trợ, phụ nữ
càng làm việc thì quyền lei của họ càng thấp kém. Từ đó bà lên tiếng bênh vực cho
quyền lợi của họ và đấu tranh nhằm xóa bỏ bất bình đẳng nam - nữ trên thế giới.
Tác phẩm “Sự huyền bí của nữ tính” của Betty Friedan (1963) được coi như
một công trình rất nổi tiếng về phân công lao động giữa vợ và chồng. Trên cơ sở
nghiên cứu 50 trường hợp phụ nữ trung lưu lớp trên chuyên đảm nhận các công việc
nội trợ trong khi các ông chồng của họ làm các công việc ngoài gia đình và có lương,
bà đã phát hiện ra rằng sự phân công lao động đã đem đến cho những người phụ nữ
này sự “khốn khổ” và thất vọng…một sự bất mãn không diễn đạt bằng khái niệm”.
2
Nghiên cứu của E.Boserup với tiêu đề “Vai trò của phụ nữ trong phát triển
kinh tế” (1970) đã làm thay đổi nhận thức về phân công lao động theo giới của con
người. “Lần đầu tiên Boserup đã xác định một cách có hệ thống và ở phạm vi thế
giới về sự phân công lao động theo giới trong các nền kinh tế nông nghiệp”. Những
khám phá của bà đã góp phần làm sáng tỏ hơn nữa bức tranh về phân công lao động
theo giới thông qua việc phân tích và khẳng định vai trò quan trọng của lao động nữ
trong các nước thuộc thế giới thứ ba, đặc biệt là trong sản xuất lương thực, thực
phẩm cho toàn thế giới.
Tác giả Ann Oakley - người đầu tiên đưa thuật ngữ “giới” vào xã hội học và
cũng là “một trong những nhà xã hội học đầu tiên phân tích các loại kĩ năng và
trách nhiệm xếp chồng đống dưới quyền người nội trợ”. Trong một số nghiên cứu
về phụ nữ và công việc nội trợ (1972) và công trình nghiên cứu “Xã hội học về
người nội trợ” (1974), thông qua việc phỏng vấn 40 phụ nữ nội trợ và các nghiên
cứu bổ trợ khác, bà đã đề cập đến sự bất bình đẳng trong phân công lao động giữa
vợ và chồng và chỉ ra rằng, ở nhiều nước công việc nội trợ không công và không
được trả lương phần lớn do phụ nữ đảm nhận, nam giới đã thoái thác việc này.
Với tiêu đề “Công việc của phụ nữ - Sự phát triển và phân công lao động theo
giới”, E.Leacock, Helen I. Safa và những người khác (1986) một lần nữa đã làm sáng
tỏ những kết luận của E. Boserup về phân công lao động theo giới và vai trò của phụ
nữ trong thế giới thứ ba. Không những thế nghiên cứu của họ đã mở rộng ra để xem
xét sự phân công lao động theo giới cả trong xã hội nông nghiệp và xã hội công
nghiệp. Các tác giả đã chứng minh rằng, dù trong xã hội nông nghiệp hay công
nghiệp phụ nữ cũng bị đặt những gánh nặng của công việc tái sản xuất bao gồm nấu
cơm, chăm con, giáo dục con cái…lên trên hoạt động sản xuất, điều đó khiến cho sự
bất bình đẳng trong việc phân công giữa nam và nữ ngày càng nghiêm trọng.
2. Các công trình nghiên cứu trong nước.
Khái niệm giới được đưa vào Việt Nam từ những năm 90 của thế kỉ 20, đến
nay đã có nhiều công trình, tác phẩm nghiên cứu đề cập đến vấn đề này, có thể kể
tên một số công trình sau đây:
Đầu tiên, nhóm nghiên cứu đề cập đến đề tài “Phụ nữ Mường và vai trò
lao động của họ” (1991) - tác giả Nguyễn Ngọc Thanh, đã khái quát sự phân
công lao động giữa người vợ và người chồng ở dân tộc Mường trong sản xuất và
tái sản xuất, phản ánh tình trạng coi nhẹ địa vị của người phụ nữ trong xã hội.
3
Tác giả Đào Thế Tuấn với nhan đề “Phụ nữ trong kinh tế hộ nông dân”
(1992) cũng đã khẳng định sự bất bình đẳng trong việc phân công công việc sản
xuất và tái sản xuất giữa vợ và chồng. Tác giả cho rằng cần phải thay đổi kiểu phân
công lao động theo giới hiện tại để giảm gánh nặng công việc và nâng cap địa vị xã
hội cho phụ nữ.
Đề tài “Phân công lao động theo giới trong gia đình nông dân” (1997) của Lê
Ngọc Vân chỉ ra mô hình phân công lao động theo giới ở khu vực nông thôn trong
thời kì kinh tế thị trường. Với xu thế nam giới được khuyến khích chuyển sang các
hoạt động tạo thu nhập tiền mặt, phụ nữ gắn với công việc tái sản xuất và sản xuất,
các sản phẩm tiêu dùng của gia đình. Sự phân công lao động ấy đã tạo ra sự bất lei
cho phụ nữ trong việc nâng cao học vấn, sức khỏe và xã hội của họ.
Nghiên cứu về “Sự phân công lao động ở các gia đình phụ nữ nghèo miền
Trung” của Bùi Thị Thanh Hà (1997) đã chỉ ra rằng trong gia đình phụ nữ nghèo,
phụ nữ đóng vai trò chủ yếu không chỉ trong công việc gia đình mà còn cả trong
công việc sản xuất ngoài đồng ruộng mặc dầu nam giới có sự chia sẻ nhất định.
Tác giả Vũ Tuấn Huy và Deborah S.Carr với nghiên cứu: “Phân công lao
động nội trợ trong gia đình” (2000) đã khẳng định sự bất bình đẳng trong phân công
lao động nội trợ - nơi phụ nữ đảm nhận là chủ yếu. Các tác giả cũng chỉ ra sự tác
động của yếu tố nghề nghiệp, việc làm, số con…ảnh hưởng đến sự phân công này.
“Đưa vấn đề giới vào phát triển thông qua sự bình đẳng giới về quyền, nguồn
lực và tiếng nói” (Báo cáo nghiên cứu chính sách của Ngân hàng thế giới, NXB Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội 2001). Báo cáo nhằm mục đích nâng cao sự hiểu biết về
mối quan hệ giữa vấn đề giới, chính sách công và sự phát triển góp phần thúc đẩy
sự bình đẳng. Báo cáo đề cập đến việc phá vỡ sự phân công lao động cứng nhắc
theo giới thông qua việc tiếp cận các nguồn lực về kinh tế và chính sách xã hội.
“Phụ nữ và nam giới và cải cách kinh tế ở nông thôn” được nghiên cứu bởi
Trung tâm nghiên cứu phụ nữ và gia đình vào 1995. Đề tài đã đề cập đến sự phân
công lao động theo giới trong gia đình nông dân trong quá trình chuyển đổi nền
kinh tế cũng như các vấn đề xã hội đặt ra xung quanh mối quan hệ giữa hiệu quả
kinh tế với tính công bằng và sự bình đẳng giới từ sự phân công lao động đó.
Tác giả PGS.TS Trần Thị Kim Xuyến trong tác phẩm “Gia đình và những vấn
đề của gia đình hiện đại”, NXB Thống kê, 2001. Tác giả đã cho thấy sự biến đổi xã
hội đến vai trò giới trong gia đình, vai trò giữa nam và nữ trong các gia đình khu vực
4
nông thôn. Từ đó cho thấy vai trò sản xuất của lao động nam nữ, vai trò đóng góp
kinh tế, vai trò nam và nữ trong công việc gia đình, vai trò quyền lực nam và nữ trong
gia đình và sự ảnh hưởng của kinh tế thị trường đến vai trò kép của phụ nữ.
Tác giả Thạc sĩ. Nguyễn Thị Nguyệt, nghiên cứu viên Tạp chí quản lí Kinh tế
với đề tài “Bất bình đẳng giới về thu nhập của người lao động Việt Nam và một số
gợi ý giải pháp chính sách” tập trung nghiên cứu các vấn đề sau: Xu hướng của bất
bình đẳng trong thu nhập hiện nay; các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ bất bình đẳng
trong thu nhập; Và đồng thời phân tách các chỉ tiêu theo trình độ văn hóa, trình độ
chuyên môn, vùng, ngành kinh tế để đưa ra gợi ý giải pháp phù hợp.
Tác giả Phạm Thị Huệ - Viện gia đình và giới với bài “Quyền lực cuả vợ
chồng trong gia đình nông thôn Việt Nam” qua điều tra ở Yên Bái, Tiền Giang và
TT Huế, nằm trong dự án nghiên cứu liên ngành “Gia đình Việt Nam trong
chuyển đổi” 30/08/2007. Tác giả đã cho thấy kết qả nghiên cứu về quyền lực của
vợ chồng trong gia đình Việt Nam, tác giả nghiên cứu các quyền như: Quyền
quyết định của vợ chồng trong sản xuất; quyền quyết định của vợ chồng trong
mua sắm đồ đạc đắt tiền; quyền quyết định của vợ chồng trong quan hệ gia đình
và họ hàng; quyền quyết định của vợ chồng trong hoạt động xã hội chung. Qua
phân tích chúng ta thấy được yếu tố kinh tế, tuổi tác, trình độ học vấn, tộc người
đã ảnh hưởng đến quyền quyết định trong gia đình.
Tác giả Vũ Tuấn Huy và DEBORAH S.CARR với bài “Phân công lao động
nội trợ trong gia đình” - Xã hội học số 4 (72), 2000. Bài này cho thấy người phụ nữ
gắn liền với vai trò người vợ, người me, người nội trợ trong gia đình. Người phụ nữ
phải chịu gánh nặng kép. Đây là lĩnh vực của đời sống gia đình thể hiện sự bất bình
đẳng giới, nhưng bài này không phân tích ý nghĩa của tình trạng đsó, mà đi sâu vào
tìm hiểu yếu tố nào tác động chủ yếu đến vai trò nội trợ của người phụ nữ trong gia
đình và những hậu quả của sự tác động đó.
Tác giả Vũ Tuấn Huy với bài “Vai trò người cha trong gia đình” - Xã hội học
số 4 (80), 2002. Bài này đề cập đến vai trò của người cha trong gia đình như là
người cung cấp nguồn sống. Vai trò người cha trong gia đình trong việc nuôi dưỡng
con cái và tác động của vai trò người cha đối với con cái trong gia đình.
Tác giả Lê Thị Qúy với bài “Vấn đề giới trong các dân tộc ít người ở Sơn La
- Lai Châu hiện nay”, xã hội học số 1 (85), 2004. Bài này đề cập đến sự bất bình
đẳng, người phụ nữ là người phải lo toan quán xuyến gia đình, phải vâng lời đàn
5
ông và không được tham gia vào các công việc xã hội. Nho giáo buộc phụ nữ phải
tuân theo các quy tắc về tam tòng tứ ssuwcs. Người PN phải tham gia vào lĩnh vực
sản xuất và tái sản xuất là những công việc không được trả công hoặc trả công thấp.
Giáo sư Lê Thi, “Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam”, Trung
tâm nghiên cứu về gia đình và phụ nữ lại khẳng định mục tiêu của việc nghiên cứu
giới nhằm tạo nên sự phát triển tốt đẹp và sự phân công hợp lí giữa hai giới nam và
nữ không chỉ trong lao động sản xuất ở các ngành nghề mà còn trong các hoạt động
tổ chức, xây dựng cuộc sống gia đình và nuôi dạy con cái. Ở cả hai lĩnh vực hoạt
động gia đình và xã hội đều cần có sự tham gia và phát triển tài năng trí tuệ của cả
hai giới, phù hớp với đặc điểm về giới của họ, góp phần tạo nên sự hài hòa trong
từng gia đình.
Đề tài nghiên cứu “Sự phát triển kinh tế hô gia đình ở nông thôn và vai trò
của người phụ nữ” được thực hiện bởi trung tâm nghiên cứu phụ nữ vào năm 1989.
Nội dung chủ yếu cho thấy tầm quan trọng và khả năng phát triển kinh tế hộ gia
đình ở nông thôn. Trong đó phụ nữ nông thôn đóng vai trò quan trọng trong việc
đóng góp thu nhập, đóng góp thời gian lao động sản xuất cho gia đình và xã hội.
Song chưa nhấn mạnh đến sự phân công lao động giữa vợ và chồng trong các gia
đình nông thôn.
Tác giả Trần Thị Hồng với tác phẩm “Nghiên cứu gia đình và giới”, quyển
17, số 4, tr.17 - 30. Bài này tác giả đề cập đến quan niệm về vai trò và trách nhiệm
của người vơ và người chồng trong gia đình. Những mong muốn của cha mẹ về
phẩm chất của con trai và con gái trong gia đình.
Báo cáo “Khác biệt giới trong sự chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam”. Các phát
hiện quan trọng về giới: Điều tra mức sống ở Việt Nam lần 2, 1997 - 1998. Báo cáo
do tổ chức Nông nghiệp - Lương thực và chương trình phát triển Liên Hợp quốc tại
Hà Nội - Việt Nam xuất bản. Bài này cho thấy sự khác biệt về giới khá rõ nét về sự
khác biệt trong cách thức tạo thu nhập và phân bố thời gian làm việc, trong các khu
vực xã hội như giáo dục, dinh dưỡng, sức khỏe và sử dụng các dịch vụ về chăm sóc
sức khỏe. Khảo sát mối quan hệ tương tác giữa lĩnh vực kinh tế và xã hội khi xác
định tình trạng bất bình đẳng về mức sống.
Đề tài “Bất bình đẳng giới giữa vợ và chồng trong gia đình nông thôn Việt
Nam hiện (Qua khảo sát tại xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn, Hà Nội). Đề tài nghiên
cứu sự phân công alo động giữa vợ và chồng và quyền ra quyết định trong gia đình.
6
Có khoảng cách khá lớn về mức độ thực hiện các công việc trong gia đình giữa vơ
và cồng như tình trạng bất bình đẳng giữa vợ và chồng trong việc đưa ra những
quyết định quan trọng trong gia đình, trong việc chăm sóc và giáo dục con cái. Bài
viết khẳng định ảnh hưởng của ô hình sống, số con trong gia đình và nghệ nghiệp
của vợ chồng tới tình trạng bất bình đẳng giới ở địa bàn khảo sát nói riêng và nông
thôn Việt Nam nói chung (Nghiên cứu Gia đình và giới - 2009, Vũ Thị Thanh).
Tổng quan chung về tình hình có thể thấy, nhìn chung các tác phẩm đều
nghiên cứu về mối quan hệ giữa vợ và chồng trong việc phân công lao động trong
gia đình nhưng chưa có nghiên cứu nào đi sâu nghiên cứu về việc phân công lao
động giữa vợ và chồng trong hoạt động tái sản xuất ở khu vực nông thôn. Vì vậy, đề
tài nghiên cứu này hy vọng sẽ làm sáng tỏ hơn nữa sự phân công lao động giữa vợ
và chồng trong xã hội hiện nay, góp phần tạo sự bình đẳng giới trong xã hội.
III. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Tìm hiểu thưc trạng về phân công lao động giữa vợ và chồng trong hoạt động
tái sản xuất ở gia đình nông thôn hiện nay.
Tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng dẫn đến thực trạng đó.
Đưa ra những giải pháp, kiến nghị để nâng cao sự bình đẳng giới trong việc
phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình.
IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Chỉ ra được thực trạng phân công lao động giữa vợ và chồng ở gia đình nông
thôn hiện nay.
Chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng dẫn đến thực trạng phân công lao động giữa vợ
và chồng trong hoạt động tái sản xuấ ở gia đình nông thôn.
Từ thực trạng trên đề ra một số kiến nghị, giải pháp để nâng cao sự bình
đẳng giới trong việc phân công lao động giữa vợ và chồng ở gia đình nông
thôn.
V. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ
1. Đối tượng.
Thực trạng phân công lao động giữa vợ và chồng trong hoạt động tái sản
xuất ở gia đình nông thôn hiện nay.
2. Khách thể.
7
Người dân xã Chính Nghĩa, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
VI. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1. Không gian: nghiên cứu tại xã Chính Nghĩa, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
2. Thời gian: từ tháng 03/2015 - 06/2015.
VII. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU.
-
Phần lớn phân công lao động liên quan đến hoạt động sinh đẻ như cho
con ăn, giặt tã lót… do phụ nữ đảm nhiệm.
-
Các công việc nội trợ trong gia đình như nấu ăn, giặt giũ…đa phần do
phụ nữ đảm nhận.
-
Việc chăm sóc, nuôi dạy giáo dục con cái phần lớn vẫn do phụ nữ đảm
nhiệm chính.
-
Vợ chồng có học vấn cao thì sự phân công lao động trong gia đình được
chia sẻ đều cho nhau.
-
Phụ nữ ở gia đình thuần nông tham gia vào công việc nội trợ nhiều hơn
phụ nữ ở gia đình công nhân, trí thức.
-
Độ dài hôn nhân càng lớn thì vợ chồng chia sẻ công việc gia đình cho
nhau nhiều hơn gia đình mới kết hôn.
-
Độ tuổi càng lớn thì mức độ chia sẻ công việc gia đình giữa vợ và chồng
càng cao.
VIII. KHUNG LÍ THUYẾT
1. Hệ thống các biến số, chỉ báo và thang đo.
a. Biến số độc lập.
-
Biến số giới tính: biến số này được đo lường bởi thang đo định danh với
hai giá trị Nam và Nữ.
-
Biến số tuổi: được đo bằng thang đo bằng thang đo định danh, người trả
lời sẽ tự mã năm sinh.
-
Biến số trình độ học vấn: biến số này được đo bằng thang đo định danh
với 5 giá trị: Chưa đi học bao giờ, tiểu học cơ sở, trung học cơ sở, THPT,
trung cấp CĐ trở lên.
-
Biến số nghề nghiệp: là biến số được đo bằng thang đo định danh với 6
giá trị: sản xuất nông nghiệp; công nhân tiểu thủ công; buôn bán dịch vụ;
công nhân viên chức; làm thuê, không nghề, về hưu.
8
-
Biến số độ dài hôn nhân: được đo bằng thang đo định danh với số năm
kết hôn người trả lời tự mã.
-
Biến số số lượng con trong gia đình: được đo bằng thang đo định danh
với số con người trả lời tự mã.
-
Biến số phân loại hộ gia đình: được đo bằng thanh định danh với 3 giá trị:
Ở gia đình nhà chồng, ở gia đình nhà vợ, ở riêng.
b. Biến phụ thuộc.
Phân công lao động trong hoạt động sản xuất được xem xét trên 2 khía cạnh:
Sinh đẻ và chăm sóc giáo dục con cái và công việc nội trợ. Do đó các quan
điểm về PCLĐ được thể hiện trên các chỉ báo cụ thể sau:
-
Công việc nội trợ: biến số này được đo bởi thang định danh với 10 chỉ
báo dưới đây: đi chợ, chuẩn bị bữa ăn, nấu ăn, lấy nước và bơm nước,
giặt giũ, lau chùi, rửa bát, dọn dẹp nhà cửa, may sửa quần áo và công việc
nội trợ khác và thời gian làm công việc nội trợ.
-
Công việc trong quá trình sinh đẻ: được đo bằng 12 chỉ báo sau: quyết
định số lượng con trong gia đình, quyết định sử dụng các biện pháp tránh
thai và các công việc liên quan đến vấn đề chăm sóc sức khỏe sinh sản.
và thời gian làm công việc sinh để.
-
Công việc giáo dục: được đo bằng thang định danh với 10 chỉ báo sau:
dạy con tập đi/tập nói, chăm sóc người già/trẻ em/người ốm, cho con ăn,
tắm cho con, dạy con học bài, đưa đón con đi học, mua sắm đồ dùng học
tập và thời gian làm công việc giáo dục.
2. Khung lí thuyết.
Đặc điểm nhân khẩu
học:
Giới tính
Tuổi
Trình độ học vấn
Nghề nghiệp
Độ dài hôn nhân.
Số lượng con
Phân loại hộ gia đình
Sinh đẻ và
chăm sóc giáo
dục con cái
Phân công lao động
giữa vợ và chồng
Công việc nội
trợ: đi chợ,
nấu nướng…
IX. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp luận
9
2. Vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đối
tượng nghiên cứu với tư cách là một hệ thống có tính chỉnh thể và phức thể, có mối
quan hệ biện cứng với môi trường xung quanh và các yếu tố khác, do đó, quá trình
nhận thức không chỉ dừng lại ở những nhận thức bên ngoài mà còn phải nhận thức
được bản chất bên trong mối quan hệ biện chứng với các hiện tượng khác, trong
mối quan hệ đa chiều.
Việc vận dụng CNDVBC và CNDVLS cũng đòi hỏi tập trung vào phân tích
mối quan hệ giữa con người và xã hội: con người bị quy định bởi các điều kiện sống
vật chất như thế nào và sự tác động trở lại của con người với các điều kiện vật chất
đó ra sao? CNDVLS cũng xem biến đổi xã hội là thuộc tính vốn có của một xã hội,
từ đó có thể thấy được sự biến đổi mối quan hệ giới trong phân công lao động gia
đình và sự biến đổi nói chung của các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hôi. Đồng thời
tìm ra được bản chất của mối quan hệ giữa nhận thức và hành động thực tế thông
qua sự phân công lao động theo giới trong gia đình. Bên cạnh đó đề tài nghiên cứu
còn dựa trên nguyên tắc luận của xã hội học Mác Leenin trong việc nhìn nhận, xây
dựng giả thuyết, đưa ra các bằng cứ thực nghiệm kiểm chứng cho giả thuyết, từ đó
dự báo xu hướng vận động của đối tượng trên cơ sở những kết luận có được.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Để thu thập thông tin xã hội học làm cơ sở cho việc phân tích các vấn đề đặt
ra, nghiên cứu này đã sử dụng một số phương pháp sau
a. Phương pháp phân tích tài liệu.
Nghiên cứu đã sử dụng các tư liệu, các thông tin kinh tế xã hội và các thông
tin chuyên ngành từ các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài nghiên cứu
như: các báo cáo chi tiết của cán bộ ở các huyện/thị tỉnh Hưng Yên về tình hình
kinh tế, văn hóa, xã hội; tạp chí khoa hoc về phụ nữ; tạp chí xã hội học; các chuyên
đề nghiên cứu của trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ nữ… nhằm
củng cố những luận cứ về mặt lí thuyết và thực tiễn.
b. Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi.
Tiến hành phỏng vấn 200 hộ gia đình để thu thập thông tin chi tiết của mỗi
khía cạnh trong mỗi gia đình khác nhau. Đây là phương pháp phỏng vấn ngẫu
nhiên, cách lựa chọn mẫu mang tính chất ngẫu nhiên. Đơn vi thu thập thông tin là
10
người dân. Tổng dung lượng mẫu là 200 người thuộc xã Chính Nghĩa, huyện Kim
Động, tỉnh Hưng Yên.
c. Phương pháp phỏng vấn sâu.
Chúng tôi tiến hành thu thập thông tin bằng phương pháp phỏng vấn 10 hộ
gia đình với những nội dung liên quan đến sự phân công lao động trong gia đình,
vai trò và vị trí của người phụ nữ trong gia đình. Nội dung chính:
- Tìm hiểu thực trạng phân công lao động giữa vợ và chồng trong gia đình.
- Tìm hiểu quan niệm của người dân về phân công lao động và việc phân
công lao động trong gia đình như thế nào là hợp lí.
- Tìm hiểu tác động của yếu tố kinh tế, xã hội… đến phân công lao động giữa
vợ và chồng trong gia đình và sự tham gia của nam giới trong công việc nội trợ.
- Tìm hiểu tác động của yếu tố học vấn ảnh hưởng như thế nào đến nhận
thức của người dân về sự phân công lao động trong gia đình.
d. Phương pháp quan sát.
Qua thực tế sinh hoạt và làm việc tại địa phương kết hợp với phỏng vấn sâu
và phỏng vấn bằng bảng hỏi, nhóm nghiên cứu có sử dụng phương pháp quan sát
như nghe, nhìn trong khi đi phỏng vấn để qua đó thu thập thông tin về các hiện
tượng liên quan tới mục tiêu nghiên cứu của đề tài. Đồng thời quan sát thái độ của
người trả lời nhằm đánh giá độ chính xác của thông tin thu được.
e. Phương pháp chọn mẫu.
Đề tài sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống, dựa trên danh
sách hộ gia đình của địa phương chia cho số mẫu cần điều tra và nhân với 70% (đây
là giá trị phần trăm ước tính số người đã kết hôn so với tổng dân số khu vực nghiên
cứu), ta sẽ có được giá trị khoảng cách “k”. Lấy giá trị “k” làm khoảng cách để
chọn mẫu trong quá trình điều tra. Điều kiện để tham gia chọn mẫu là những người
đã kết hôn, có khả năng nhận thức trả lời được câu hỏi.
Thiết kế mẫu: căn cứ vào mục tiêu của đề tài, nhóm nghiên cứu đã sử dụng
công thức tính cỡ mẫu cho việc thu thập thông tin từ cộng đồng.
Công thức tính cỡ mẫu: k =n/N * 70%.
Trong đó:
k: khoảng cách mẫu cần tính.
n: cơ cấu mẫu cần thu thập thông tin.
N: tổng số dân địa bàn nghiên cứu.
11
Phương pháp chọn mẫu: mẫu được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên
nhiều giai đoạn.
Bước 1: Xác định địa bàn nghiên cứu: xã Chính Nghĩa.
Bước 2: Xác định số dân của 4 thôn trong xã.
Bước 3: Chọn mẫu nghiên cứu dựa vào khoảng cách mẫu, với điều kiện: mẫu
phải là người đã kết hôn, tuổi từ 16 trở lên, có nhất 1 con trở lên và hiện tại sinh sống
ở địa phương không di chuyển đi đâu xa trong quá trình khảo sát nghiên cứu.
Hạn chế của nghiên cứu: Hạn chế cơ bản của nghiên cứu chính là quy mô
khá nhỏ. Như đã trình bày ở trên, chỉ có một xã với 4 thôn được nghiên cứu. Do
vậy, tính đại diện cho dân cư lấy mẫu và khả năng suy rộng ra toàn thể dân số là hạn
chế. Tuy vậy, nghiên cứu đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để có thể phác
họa rõ nét hơn chân dung của cộng đồng nghiên cứu và kết quả nghiên cứu cho thấy
tuy quy mô nhỏ nhưng mẫu nghiên cứu đều chia sẻ khá nhiều quan niệm, ý kiến đa
dạng về PCLĐ theo giới.
X. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI.
a. Về mặt lí luận.
Đề tài nghiên cứu sự phân công lao động giữa vợ và chồng trong hoạt động
tái sản xuất ở khu vực nông thôn hiện nay. Đề tài trình bày một số phương pháp tiếp
cận dựa trên cơ sở triển khai, vận dụng các khái niệm về phân công lao động, giới,
gia đình. Đồng thời làm sáng tỏ một số lí thuyết xã hội học trong việc vận dụng vào
nghiên cứu các vấn đề của gia đình nảy sinh trong thực tiễn. Từ đó hy vọng báo cáo
sẽ đóng góp vào cơ sở lí luận của các chuyên ngành xã hội học gia đình, xã hội học
giới trong việc khẳng định tầm quan trọng của các nghiên cứu trong điều kiện hiện
nay, đặc biệt trong việc nhấn mạnh mối tương quan giữa vị trí, vai trò của nam và
nữ trên cơ sở phân thích, nhìn nhận, lí giải các vấn đề của phân công lao động trong
gia đình.
b. Về thực tiễn.
Đất nước đang trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa, khu vực nông
thôn ngày càng được đầu tư và phát triển, đời sống của các hộ gia đình ngày càng
đươc nâng cao. Việc nghiên cứu sự phân công lao động giữa vợ và chồng trong hoạt
động tái sản xuất ở khu vực nông thôn là rất cần thiết, nhằm góp phần làm rõ hơn
một số khía cạnh mà các nghiên cứu trước đó đã đặt ra. Đồng thời hi vọng cung cấp
thêm một số thông tin xã hội học cho các nhà hoạch định chính sách, những người
12
quan tâm về tình hình phân công lao động trong gia đình ở xã Chính Nghĩa, huyện
Kim Động, tỉnh Hưng Yên trên khía cạnh giới và nguyên nhân của những biến đổi
đó.
XI. Kết cấu của khóa luận.
- Phần 1: Mở Đầu.
- Phần 2: Nội dung và kết quả nghiên cứu.
- Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn nghiên cứu.
- Chương 2: Thực trạng PCLĐ giữa vợ và chồng trong hoạt động tái sản xuất.
- Chương 3: Các yếu tố ảnh hưởng đến PCLĐ giữa vợ chồng trong gia đinh
nông thôn hiện nay.
- Phần 3:Kết luận và khuyến nghị.
13
PHẦN 2: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU
1.1. Một số khái niệm có liên quan
1.1.1. Khái niệm giới và giới tính
1.1.1.1. Giới tính là gì?
Là một khái niệm sinh học để chỉ sự khác biệt giữa nam và nữ, hai cá thể
người. Sự khác biệt này chủ yếu liên quan đến quá trình tái sản xuất con người và di
truyền nòi giống. Con người sinh ra đã đươc xác định những điểm khác nhau về
giới tính
1.1.1.2. Giới là gì?
Giới là một thuật ngữ khoa học bắt nguồn từ môn nhân loại học. Sự khác biệt
giới giữa nam và nữ là nói đến vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định
cho nam và nữ trong quá trình phân công lao động, các kiểu phân chia các nguồn và
lợi ích.
Giới đề cập tới các quy tắc tiêu chuẩn theo nhóm tập thể không theo lợi ích
cá nhân. Vai trò giới được xác định theo văn hoá, không theo khía cạnh sinh vật học,
có thể thay đổi theo thời gian và do những tác động bên ngoài, biến đổi theo các xã
hội và từng vùng khác nhau. Khi sinh ra con người không mang đặc tính giới, con
người học những đặc tính giới từ gia đình, xã hội và nền văn hoá của họ
Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong tất cả các mối quan hệ
xã hội (Luật Bình đẳng giới, 2006)
1.1.1.3. Định kiến giới
Định kiến giới là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc
điểm, vị trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ (Luật Bình đẳng giới, 2006)
1.1.1.4. Quan hệ giới
Quan hệ giới không chỉ là những tương quan đơn thuần, những mối liên hệ
giản đơn thiết lập từ những thành tố hân tán, biệt lập vào trong một cơ cấu mà là sự
liên kết hữu cơ một cách tất yếu giữa các thành tố tham gia vào cơ cấu vai trò giới.
Quan hệ giới là sự phối hợp của các vai trò giới, liên quan đến việc xã hội chấp
nhận những đặc điểm hành vi đặc thù được tạo thành, phù hợp với bản sắc giơi của
mỗi người, do vậy vai trò giới có thể khác nhau do sự khác nhau về văn hóa và thời
kì lịch sử.
14
1.1.1.5. Giá trị giới
Giá trị được hiểu là cái được cho là đáng có, đóng vai trò quan trọng trong
việc định hướng hành động của cá nhân, nhóm xã hội. Gía trị có thể thay đổi, mỗi
xã hội khác nhau với những nền văn hóa khác nhau sẽ có các hệ giá trị khác nhau.
Bởi vì, giá trị bị chi phối bởi những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của từng xã hội
khác nhau. Tuy nhiên hệ giá trị của một xã hội là phương hướng phấn đấu cho toàn
xã hội.
Giá trị giới được phân tích trong mối tương quan giữa nam và nữ. Như vậy,
giá trị giới là những suy nghĩ thường có về việc nam giới và phụ nữ nên như thế nào
và những hoạt động nào mà họ nên làm. Những hệ giá trị này định hướng hành
động cho các cá nhân khi họ là nam hay nữ.
1.1.2. Bình đẳng giới là gì?
Trong môt thời gian dài “bình đẳng giới” được coi là sự ngang nhau về mọi
lĩnh vực trong đời sống xã hội với phương châm: phụ nữ có thể làm tất cả những gì
mà đàn ông có thể làm, phụ nữ có quyền tương đương với nam giới. Giải quyết bình
đẳng theo cách này gặp phải một hạn chế là giữa nam giới và nữ giới có những khác
biệt về mặt sinh học.
Gần đây các nhà nghiên cứu đã đưa ra những quan niệm mới về sự bình đẳng
giới, những quan niệm này tỏ ra rất tích cực trong việc khắc phục những hạn chế cũ.
Binh đẳng giới biểu hiện một sự công bằng mà trong đó phụ nữ và nam giới được
tạo điều kiện tốt nhất, tương đương nhau về hưởng thụ chính đáng những thành quả
lao động của mình một cách đầy đủ kể cả trong gia đình và ngoài xã hội, bởi vì cơ
sở của sự bình đẳng là hướng về sự nâng cao khả năng của con người mà nó cần
phải được phân phối đều cho cả hai giới. Bình đẳng giới là mọi vấn đề của cả hai
giới, phải được xem xét trong quan hệ với nhau và dựa trên tinh thần tôn trọng sự
khác biệt tự nhiên của cả hai giới.
1. Khái niệm gia đình.
Gia đình là một tập thể xã hội có từ hai người trở nên trên cơ sở huyết thống,
hôn nhân hay nghĩa dưỡng cùng sống với nhau. Gia đình là một cơ chế trung tâm
của tất cả con người, là thiết chế xã hội đặc biệt tập hợp nhau về thân phận, vai trò,
chuẩn mực và lương tri để đạt tới các mục tiêu xã hội về sinh đẻ, xã hội hóa của xã
hội mới và vị trí của trẻ em trong xã hội rộng lớn. Gia đình mang dấu ấn của xã hội
và đến lượt mình gia đình cũng đóng góp chủ yếu cho việc gìn giữ xã hội. Các mối
15
quan hệ trong gia đình được sử dụng là sự nối kết, hợp đồng, sự gắn bó và bổn phận
giữa con người với nhau và nó tạo ra một mô hình mẫu riêng biệt. (Tập bài giảng xã
hội học gia đình - TS. Lê Thị Qúy).
Gia đình đóng vai trò cơ bản trong việc định hình mối quan hệ giới ngay từ
những buổi đầu cuộc sống con người và chuyển tải chúng từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Con người đưa ra hầu hết các quyết định cơ bản của cuộc sống trong phạm vi
hộ gia đình - như việc có con và nuôi dạy chúng đi làm hay nghỉ ngơi và đầu tư cho
tương lai. Những nhiệm vụ và nguồn lực sản xuất đó được phân bổ như thế nào
giữa con trai và con gái, chúng được trao quyền tự chủ đến đâu và kỳ vọng của cha
mẹ ở những đứa trẻ này có khác nhau hay không? Tất cả những điều này sẽ tạo ra
và khoét sâu hay sẽ giảm bớt sự phân biệt giới.
1.1.3. Khái niệm phân công lao động theo giới
1.1.3.1. Lao động là gì?
Lao động được coi là một thiết chế xã hội trong đó hoạt động con người
được định hướng, được tổ chức, sắp xếp nhằm tạo ra những sản phẩm đáp ứng
như cầu cá nhân, của nhóm và của xã hội (Lê Ngọc Hùng - tập bài giảng XHH
Lao động).
Xã hội học xem xét “lao động” với tư cách là hiện tượng xã hội nảy sinh,
biến đổi và phát triển trong bối cảnh xã hội. Trong đề tài này “lao động” được nhìn
nhận trong sự liên quan với quan hệ giới trong gia đình dưới tác động của quá trình
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nó là hoạt động tạo nên sự phụ thuộc và
ràng buộc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình.
1.1.3.2. Phân công lao động là gì?
Xã hội học xem xét “lao động” với tư cách là hiện tượng xã hội nảy sinh,
biến đổi và phát triển trong bối cảnh xã hội. Trong đề tài này lao động được nhìn
nhận trong sự liên quan với quan hệ giới trong gia đình dưới tác đông của quá trình
phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Nó là hoạt động tạo nên sự phụ thuộc và ràng
buộc lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình.
Khái niệm “phân công alo động” được hiểu từ hai góc độ khoa học liên
quan đến khái niệm chức năng. Theo quan niệm kinh tế học bắt nguồn từ A.
Smith “phân công lao động” là sự chuyên môn hóa lao động, là sự phân chia quá
trình lao động thành các đoạn, các khâu, các thao tác kĩ thuật để tăng năng suất
và hiệu quả lao động.
16
Theo quan niệm xã hội học của A. Comte khởi xướng “phân công lao động
là sự chuyên môn hóa nhiệm vụ lao động nhằm thực hiện chức năng ổn định và phát
triển xã hội, củng cố mối quan hệ gắn bó giữa các cá nhân và trật tự xã hội.
Trong tác phẩm “Sự phân công lao động trong xã hội” (1893) E. Durkheim
đã chỉ ra rằng, phân công lao động không chỉ có ý nghĩa thuần túy kinh tế, làm giàu
và nâng cao năng suất, hiệu quả lao động mà phân công lao động còn thực hiện
chức năng to lớn hơn, quan trọng hơn đối với cuộc sống con người. Đó là việc tạo
ra sự đoàn kết xã hội, sự hội nhập xã hội kiểu mới trong xã hội hiện đại. Với trình
độ phân công lao động ngày một cao, vai trò và nhiệm vụ càng bị phân hóa và
chuyên môn hóa sâu sắc thì các cá nhân ngày càng phải tương tác với nhau. Họ
không còn đoàn kết với nhau một cách máy móc vì sự dập khuôn, vì sự “hao hao”
giống nhau trong lao động sản xuất, sinh hoạt mà các cá nhân trở nên phụ thuộc vào
nhau, quan hệ với nhau và cần đến nhau nhiều hơn, đó là sự đoàn kết hữu cơ.
Sự phụ thuôc lẫn nhau cùng với các trách nhiệm nghĩa vụ được chia sẻ do sự
phân công lao động đã tạo ra đã gắn kết các cá nhân và các nhóm xã hội lại với
nhau. Trong xã hội hiện đại, sự đoàn kết xã hội chủ yếu nảy sinh từ sự đa dạng,
phong phú của cách suy nghĩ và kiểu hành vi xã hội mà những khuôn mẫu hành
động đó được các cá nhân tác đồng chia sẻ.
Theo E. Durkheim thì yếu tố đặc trưng trong xã hội của sự đoàn kết có tổ
chức là sự phân công lao động. Xã hội tổ chức phân công lao động càng cao thì
mạng lưới các mối qun hệ phụ thuộc càng dày đặc và đồng thời năng lực chuyên
môn hóa càng có khả năng trở thành điểm xuất phát cho sự phát triển nhân cách của
các cá nhân.
Sự phân công lao động trong xã hội có thể xảy ra trên cơ sở khác nhau về
đặc điểm tự nhiên của chủ thể lao động, cũng như dựa vào các đặc điểm, yêu cầu
phát triển của nền kinh tế xã hội. Sự khác biệt giữa nam và nữ dẫn đến sự phân công
lao động nam nữ trong xã hội và gia đình. “Phân công lao động theo giới” như Mác
và Ănghen đã nhận xét trong tác phẩm “Nguồn gốc gia đình của chế độ tư hữu và
Nhà nước”: Sự phân công lao động là hoàn toàn có tính chất tự nhiên, chỉ tồn tài
giữa nam và nữ, lúc đầu đó chỉ là sự phân công lao động trong hành vi tình dục, về
sau sự phân công lao động chuyển thành sự phân chia phạm vi hoạt động theo giới
một cách tự nhiên và đã dẫn đến sự sở hữu có tính đặc trưng theo giới, mỗi giới làm
chủ trong lĩnh vực hoạt động của riêng mình. Trong các xã hội, sự phân công lao
17
động theo giới biểu hiện qua sự phân chia khi vực lao động nghề nghiệp. Ngoài ra,
sự phân công lao động theo giới còn thể hiện trong cách tổ chức cuộc sống gia đình.
“Phân công lao động trong gia đình” là sự đảm nhiệm các công việc gia đình
của vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình nhằm thực hiện những chức
năng của gia đình trong chăm sóc, giáo dục…đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển
ổn định của gia đình.
Trong đề tài này, nhóm nghiên cứu chủ yếu đi sâu vào phân tích làm rõ sự
phân công lao động trong các hoạt động tái sản xuất như công việc nội trợ, chăm
sóc và giáo dục con cái…Phân công lao động theo giới là yếu tố hình thành vai trò
giới trong gia đình và xã hội. Theo thuyết chức năng, lao động của phụ nữ có chức
năng tình cảm và lao động của nam giới có chức năng tư duy và hành động giải
quyết nhiệm vụ. Điều đáng chú ý là sự phân công lao động theo giới không đơn
thuần dựa vào sự khác biệt về các đặc điểm sinh học giữa nam và nữ mà luôn gắn
liền với thói quen, suy nghĩ và quan điểm về vị trí, vai trò của người phụ nữ trong
xã hội nhằm biện hộ cho sự bất bình đẳng nam nữ và bào chữa cho tư tưởng “trọng
nam khinh nữ”. Một số người đã gán cho phụ nữ những thiên chức mà nam giới
hoàn toàn có thể làm tốt không kém gì ho, chẳng hạn như: công việc nội trợ, chăm
sóc nuôi dưỡng con cái trong gia đình.
1.1.4. Khái niệm vai trò giới
Vai (trò) giới là những công việc cụ thể mỗi người thực hiện với tư cách là
đàn ông hoặc đàn bà. Có 3 loại vai trò giới khác nhau: sản xuất, nuôi dưỡng và công
việc cộng đồng
Là một khái niệm được sử dụng như là cách thức tổ chức hành vi của con
người trong một ý nghĩa tổng thể. Nó ứng xử như một cơ chế để hiểu được những
cách thức mà ở đó những trông đợi của xã hội, những hành động được phản ánh,
những khuôn mẫu chung về những hành vi được trông đợi. Dựa trên sự hiểu biết
các quan hệ giới sẽ dẫn đến sự xác định các vai trò của nữ giới và nam giới. Những
vai trò này hướng dẫn các hành vi của hai giới được xem như là phù hợp với những
mong đợi của xã hội.
Khi nói đến giới là nói đến các điều kiện và các yếu tố xã hội quy định vị trí
và hành ci xã hội của mỗi giới trong hoàn cảnh cụ thể. Chính vì bị quy định bởi các
yếu tố xã hội cho nên vị trí vai trò và hành vi của giới không phải là bất biến mà
luôn thay đổi khi các điều kiện quy định thay đổi.
18
Có 3 loại vai trò giới khác nhau: vai trò sản xuất, vai trò tái sản xuất và vai
trò công việc cộng đồng
1.1.4.1. Hoạt động sản xuất
Lao động sản xuất được hiểu là những công việc tạo ra của cải vật chất và
tinh thần, biệu hiện dưới hình thức hàng hoá và dịch vụ. Đây là công việc được trả
lương Hoạt động tái sản xuất. Trong khóa luận này, tác giả không đi sâu phân tích
phân công lao động trong lĩnh vực sản xuất.
1.1.4.2. Hoạt động tái sản xuất
a. Tái sản xuất sinh học
Tái sản xuất sinh học được hiểu là lĩnh vực tái sản xuất ra con người, duy trì
nòi giống. Tham gia vào công việc này cả nam và nữ được tính đến theo cả vai trò
tự nhiên và vai trò xã hội của họ. Trong đó vai trò của nam giới được tính đến trong
quá trinh thực hiện thiên chức làm cha của mình thông qua việc làm cho phụ nữ có
thể mang thai, đồng thời thiên chức của người phụ nữ được nhìn nhận trong quá
trình mang thai, sinh con và nuôi con bằng sữa mẹ.
Quá trình sinh học này diễn ra chủ yếu với phụ nữ “đàn ông vượt bể có bầu
có bạn, phụ nữ vượt cạn chỉ có một mình”. Việc mang thai, sinh con và nuôi con
bằng sữa mẹ thể hiện thiên chức của người phụ nữ. Đây chính là một lĩnh vực lao
động đặc biệt nó đòi hỏi người phụ nữ không chỉ sức khỏe về thể chất và tinh thần
mà còn trình độ và kiến thức luôn được nâng cao.
Trong quá trình sinh sản, nhiều cặp vợ chồng sinh đẻ có kế hoạch bằng cách
sử dụng các biện pháp tránh thai để dãn khoảng cách năm sinh của những đứa con.
Thông thường trong mỗi gia đình nông thôn, người chồng luôn là người quyết định
số lượng con trong gia đình. Nhiều hộ gia đình đã sử dụng các biện pháp tránh thai
để lựa chọn giới tính khi sinh, đó là một đặc điểm hạn chế của chiến lượckế hoạch
hóa gia đình hiện nay.
Khoa học chứng minh rằng phụ nữ không chỉ sinh hạ ra những đứa trẻ nhỏ
mà họ còn là một trong những người quan trọng tạo dựng nhân cách cho trẻ trong
tương lai. Bởi vì sự hình thành tâm hồn và nhân cách trẻ thơ đã xảy ra ngay từ khi
còn trong bào thai, đi liền với người mẹ. Qúa trình thực hiện thiên chức này ảnh
hưởng rất lớn đến suốt đời của một người phụ nữ không chỉ về sức khỏe mà còn ảnh
hưởng đến cơ hội học tập, nghề nghiệp, việc làm…thậm chí cả tính mạng của người
mẹ. Người phụ nữ không chỉ sinh con mà còn đảm nhận các công việc chăm con,
19
cho con ăn, tắm cho con, trông con…trong gia đình, đó là những công việc không
công và tốn nhiều thời gian, sức lực. Tuy nhiên thực tế cho thấy gia đình và xã hội
chưa nhìn nhận và đánh giá đúng vai trò của người phụ nữ khi thực hiện chức năng
này, vì vậy họ chưa được quan tâm đúng mức, thậm chí còn là nạn nhân của quá
trình này.
Ngày nay khi xã hội ngày càng phát triển, học vấn cũng như nhận thức của
con người ngày càng nâng cao, người chồng đã dần dần chia sẻ các công việc trong
gia đình với vợ nhiều hơn. Đã có nhiều mẫu hình đàn ông lí tưởng, những ông bố
của năm…xuất hiện trong công việc nội trợ, chăm con, đưa đón con đi học,..trong
xã hội, nhưng dư luận vẫn chưa có cái nhìn đánh giá đúng đắn về vấn đề này do
chịu ảnh hưởng lớn của tư tưởng phong kiến lạc hậu, cổ hủ.
b. Tái sản xuất xã hội
Tái sản xuất xã hội được hiểu là bao gồm tất cả các công việc gia đình, từ
chăm lo bữa ăn, chỗ ở đến giáo dục, sức khỏe của các thành viên trong gia đình.
Đây là lĩnh vực lao động quan trọng cho sự tồn tại của con người nhưng hiếm khi
được coi là công việc thực sự. Công việc này có cường độ mạnh, tốn thời gian và
chủ yếu luôn thuộc về trách nhiệm của người phụ nữ. Trên thực tế những công việc
tái sản xuất này chưa được gia đình và xã hội nhìn nhận và đánh giá đúng. Do đó
phụ nữ bị bóc lột sức lao động rất nhiều, nguy hiểm hơn là xã hội quy tất cả những
công việc này là “thiên chức của phụ nữ”. Ở hoạt động tái sản xuất xã hội chia
thành hai công việc khác nhau như công việc nội trợ và công việc chăm sóc và giáo
dục con cái.
Công việc nội trợ: Theo định nghĩa, người nội trợ là người “lo liệu mọi việc
hằng ngày trong sinh hoạt gia đình” và đúng ra cả nam và nữ đều có thể làm được
những việc này, tuy nhiên tập quán dường như đã có quy ước công việc nội trợ là
chỉ dành cho phái nữ. Tuy nhiên, đời sống hiện nay không còn như ngày xưa nữa và
đã có nhiều thay đổi trong mối quan hệ giữa các thế hệ trong một gia đình, trong xã
hội, giữa nam giới và nữ giới, giữa các ngành nghề với nhau. Trên quan điểm đó thì
thực sự vai trò, vị trí của người nội trợ trong gia đình cần được xác định lại cho sát
với thực tế hơn.
Chăm sóc con cái: Chăm sóc con cái là hoạt động nuôi dưỡng chăm sóc, giáo
dục, theo dõi quá trình phát triển của trẻ nhỏ.
20
Trẻ nhỏ từ khi mới lọt lòng mẹ cần sự chăm sóc về dinh dưỡng cũng như
giáo dục về tinh thần. Trong nhiều xã hội hiện đại, công việc này được chia sẻ cho
cả cha và mẹ đứa bé. Ở nhiều xã hội, các thành viên khác của gia đình như ông bà
cũng tham gia việc chăm sóc trẻ em.
Giáo dục: Giáo dục theo định nghĩa chung là hình thức học tâp theo đó kiến
thức, kĩ năng, thói quen của một nhóm người được trao truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo hay nghiên cứu. Giáo dục thường diễn ra
dưới sự hướng dẫn của người khác, nhưng cũng có thể thông qua tự học.
Đối với trẻ nhỏ, giáo dục được hiểu là dạy con từ những bước đi đầu tiên,
hay chập chững từ tiếng nói. Cha mẹ là người giáo dục đầu tiên cho con cái từ khi
sinh ra, hình thành cho con cái nôi, nền tảng để con phát triển sau này. Trong quá
trình con cái bước vào giai đoạn đi học, cha mẹ sẽ kết hợp với thầy cô giáo dục cho
con cái ở nhà cũng như ở trường thông qua hình thức họp phụ huynh, đưa đón con
đi học, sắm sửa đồ dùng học tập.
Trong gia đình, việc sử dụng thời gian của nam giới và nữ giới là khác nhau
và hiệu quả cũng khác nhau. Thời gian của nam giới được sử dụng thường có chất
lượng cao hơn so với nữ giới. Ngược lại có những công việc lại làm cho người sử
dụng nó cảm thấy như cằn cỗi, tủn mủn hơn…phần lớn thuộc về phụ nữ. Khi nói về
những công việc này, Lê - nin đã thừa nhận và khẳng định rằng: “Mặc dù có mọi
luật lệ giải phóng phụ nữ nhưng phụ nữ vẫn là nô lệ trong gia đình vì công việc nội
trợ linh tinh cứ đè nặng lên trên vai họ, làm cho họ ngẹt thở, mụ mẫm, nhọc nhằn
ràng buộc vào buồng con cái, lãng phí sức lực của họ vào một công việc không cần
thiết, tủn mủn làm cho họ nhọc nhằn, đần độn”. (trích theo “Lê - nin với vấn đề giải
phóng phụ nữ, tr29 - 31).
1.1.4.3. Hoạt động cộng đồng
Hoạt động cộng đồng được hiểu là các hoạt động thực hiện cho lợi ích tập thể
của cộng đồng. Những công việc như họp thôn, xã, khu phố, tham gia lễ hội, công việc
công ích... Trong khóa luận này, tác giả không đề cập đến hoạt động cộng đồng.
1.2. Lý thuyết xã hội học áp dụng trong khóa luận
1.2.1. Lí thuyết vị thế - vai trò
Lý thuyết xã hội học về vị thế vai trò cho ép nghiên cứu hành vi của con người
trong hệ thống của những cấp độ “cá nhân - nhóm xã hội - xã hội”. Nó cho phép mở
ra cơ chế cụ thể những liên hệ qua lại và tương tác của nó với những yếu tố cơ cấu xã
21
hội khác và với xã hội nói chung. Lí thuyết này không chỉ mở ra sự phụ thuộc của các
cá nhân và hành vi của họ với xã hội và cơ cấu xã hội với môi trường xung quanh mà
còn chú ý đến thế giới nội tâm của cá nhân khi xác định hành động và hành vi.
Nhưng lí thuyết vị thế - vai trò chủ yếu phân tích hành vi của các cá nhân chứ ít
hướng vào phân tích hành vi của nhóm xã hội với tư cách là một chỉnh thể.
Cần thấy rằng sự phân công lao động giữa vợ và chồng trong hoạt động tái
sản xuất ở gia đình khu vực nông thôn hiện nay trong bối cảnh nền kinh tế đang
chuyển sang cơ cấu thị trường, công nghiệp hóa - hiện đại hóa, do đó nó không đơn
thuần bị quy định bởi vị thế - vai trò cá nhân của mỗi cá nhân mà còn bị quy định
bởi các yếu tố ở cấp độ vĩ mô như những biến đổi về chính sách phát triển kinh tế,
cơ chế thi trường và những thay đổi trong hệ giá trị văn hóa, trong thiết chế xã hội,
cơ cấu xã hội.
1.2.2. Lí thuyết cơ cấu - chức năng
Sử dụng cách tiếp cận cơ cấu - chức năng trong việc làm rõ vị trí, vai trò của
các thành viên trong gia đình để thấy được mối quan hệ tương tác giữa các thành tố
của cơ cấu đó, đặc biệt là cơ cấu vai trò giới. Thông qua sự tương tác này chúng ta sẽ
đánh giá được việc thực hiện các chức năng của gia đình trong điều kiện hiện nay.
1.2.3. Quan điểm của lí thuyết giới và phát triển
Giới là các quan niệm, hành vi, các mối quan hệ và tương quan về địa vị xã
hội của phụ nữ và nam giới trong một bối cảnh cụ thể. Nói cách khác, giới đề cập
đến khác biệt giữa nam và nữ do xã hội quy định. Do đó giới không phải là do tự
nhiên sinh ra, mà là sản phẩm của xã hội. Các nhà khoa học cho rằng giới là cấu
trúc xã hội hay nói cách khác giới là do xã hội tạo nên.
Cách tiếp cận giới và phát triển cho rằng nếu chỉ chú trọng đến phụ nữ một
cách tách biệt sẽ bỏ qua một thực tế là nam giới có vị thế áp đảo đối với phụ nữ. Vì
vậy, các lí thuyết giới và phát triển thường nhấn mạnh nội dung bản sắc xã hội của
mối tương quan giới, về tính hợp pháp của các vai trò giới đã được gán cho cả phụ
nữ và nam giới.
1.2.3.1. Lí thuyết vai trò giới
Vai trò giới được định nghĩa là những hành vi, những quan điểm được trông
đợi trong một xã hội đối với mỗi giới. Những vai trò này bao gồm các quyền và
trách nhiệm được chuyển hóa đối với từng giới trong một xã hội cụ thể.
22
Lí thuyết vai trò giới xuất phát từ những nguồn gốc sinh học mà nó xác định
sự khác biệt giữa đàn ông và đàn bà. Những nguồn gốc sinh học này tạo nên nguyên
liệu thô, từ đó tổ chức nên những hành vị cụ thể, được gọi là những vai trò giới. Các
vai trò này hình thành thông qua quá trình xã hội hóa. Những vai trò này hướng dẫn
các hành vi của hai giới được xem là phù hợp với những mong đợi của xã hội. Đó
chính là thể hiện sự phân công lao động theo giới.
1.2.3.2. Lí thuyết chức năng giới
Lí thuyết này cho rằng nam giới được gán cho chức năng chuyên môn (công
cụ, nghề nghiệp) để tạo ra của cải vật chất, còn phụ nữ có chức năng biểu đạt (văn
hóa, tình cảm) để tạo ra của cải tinh thần.
Emile Durkheim - nhà xã hội học người Pháp là một trong những đại diện
tiêu biểu của lí thuyết này. Theo ông, chức năng giới được quy định một cách tự
nhiên sinh học “bẩm sinh”, “vốn có”. Do vậy, sự phân công lao động trong xã hội
phải tôn trọng và tuân theo sự hợp lí của tự nhiên, nếu khác đi là có “vấn đề”, là
“không bình thường”. Ngay cả sự khác biệt đến mức bất bình đẳng giữa nam và nữ
về lao động, việc làm và thu nhập cũng được một số tác giả thuộc trường pháo chức
năng cho là cần thiết và hợp lí để đảm bảo trật tự của hệ thống gia đình và xã hội.
Sự phân công lao động theo giới là hình thức tổ chức lao động trong xã hội
có từ rất lâu đời nhưng điều đó không có nghĩa là nó không bị biến đổi. Như Mác và
Ănghen đã nhận xét “Sự phân công lao động cũng phát triển, lúc đầu chỉ là phân
công lao động trong hành vi tình dục và về sau sự phân công lao động tự hình thành
hoặc hình thành một cách tự nhiên do những thiên tính bẩm sinh, do những nhu cầu,
do những sự ngẫu nhiên…
Quan điểm giới và sự phát triển hiện nay không chi nhấn mạnh đến tương tác
vai trò của mỗi giới mà con nhấn mạnh đến vai trò chủ thể của người phụ nữ trong
việc hoạch định thực hiện và đánh giá các mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội và sự tiến bộ của mỗi giới trong sự ổn định và phát triển xã hội. Do đó, nó đòi
hỏi sự xác định mục tiêu và biện pháp thích hợp đáp ứng nhu cầu của mỗi giới,
trong đó tạo cơ hội cho phụ nữ phát huy năng lực của mình, phát triển toàn diện,
bình đẳng với nam giới, cùng sự phát triển xã hội bền vững.
1.2.3.3. Lí thuyết học tập xã hội
Tác giả tiêu biểu của thuyết này là Walter Mischel cho rằng vai nam - vai nữ
hình thành và phát triển ở mỗi cá nhân là do cá nhân đó học tập. tức là lĩnh hội và
23
làm theo những hành vi của cha mẹ, anh chị em hay những người trong/ngoài gia
đình. Qúa trình học tập có thể diễn ra một cách vô thức, tự phát khi đứa trẻ tự động
bắt chước hành vi của người cùng giới. Qúa trình học tập cũng có thể được định
hướng, tổ chức và thực hiện trong bối cảnh, tình huống xã hội nhất định, tức là
trong nhà trường. Vai giới có thể hình thành nhờ sự giáo dục - đào tạo trong nhà
trường hoặc tác động xã hội thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng.
Quan niệm giáo dục vai giới trong xã hội phong kiến đã góp phần hình thành tập
quán “trọng nam khinh nữ” khá phổ biến của không ít gia đình và các cá nhân nam
và nữ. Trong gia đình hiện nay, sự phân công lao động vẫn còn chịu ảnh hưởng của
quan niệm truyền thống đó, tạo nên sự bất bình đẳng cho người phụ nữ.
1.2.3.4. Lý thuyết tương tác biểu trưng giới
Theo lí thuyết này, mối tương quan giới là sản phẩm của quá trình tương tác
giữa các cá nhân nam và nữ. Mối tương tác này được quy định bởi các quy tắc, biểu
tượng, các kí hiệu bộc lộ qua các hành vi, thái độ, suy nghĩ của nhau trong quá trình
giao tiếp. Vai giới được xác định thông qua hàng loạt các hệ thống biểu tượng do
chính người phụ nữ và nam giới tao ra và sử dụng trong cuộc sống hằng ngày và
mỗi cá nhân lí giải những ý nghĩa của những hành vi đó khác nhau. Sự khác biệt
giới về phân công trong lao động nhiều khi xuất phát từ những cái nhìn và sự lí giải
về những công việc trong gia đình thông qua tương tác khác nhau.
Sơ đồ tương tác biểu trưng theo giới:
Nam
Suy nghĩ,
hành
động, thái
độ
Biểu
tượng
Suy nghĩ,
hành
động, thái
độ
Nữ
1.2.3.5. Lí thuyết nữ quyền
Phần lớn các nhà nữ quyền đồng ý với chủ nghĩa Mác rằng từ xã hội cổ xưa đã
tồn tại sự PCLĐ giữa đàn ông và đàn bà”. Trong đó phụ nữ là người đảm nhận toàn
các công việc tái sản xuất trong gia đình nhưng họ không được đánh giá đúng với
những đóng góp của mình. Điều này tồn tại trong chế độ chiếm hữu tư nhân tiền tư
bản trong xã hội tư bản, thậm chí là đến tận ngày nay. Ở thế giới thứ ba người phụ nữ
có vai trò 3 mặt: công việc sản xuất, công việc tái sản xuất và công việc cộng đồng.
24
Người đàn ông được coi là cần câu cơm hay người trụ cột cho rằng PCLDTG chỉ ảnh
hưởng từ giá trị chuẩn mực, thói quen đến mô hình hành vi và cung cách ứng xử của
con người nói chung với giới tự nhiên và xã hội. Họ cho rằng địa vị hạng hai của tư
tưởng nam trị và sự đối xử không bình đẳng trong công việc nội trợ. Vì vậy cần xáo
bỏ thể chế tư bản chủ nghĩa và chế độ gia trưởng; thay đổi thực trạng PCLDTG
(chuyển từ đảm trách công việc nhà sang tham gia sản xuất công khai ngoài xã hội,
xã hội hóa công việc nội trợ và chăm sóc con cái, chia sẻ công việc gia đình); tạo ra
các cơ hội phụ nữ tiếp cận với các tiến bộ kí thuật, đặc biệt là cơ hội có việc làm, có
thu nhập là con đường đưa phụ nữ đến với sự bình đẳng.
1.2.3.6. Quan niệm nguồn gốc Nho giáo
Trong quan niệm của Nho giáo, vị trí, vai trò của phụ nữ bị đánh giá thấp
hơn nam giới. Trong khi người đàn ông được gắn với yếu tố dương để chỉ sự sáng
chói, mạnh mẽ và hoạt động thì người đàn bà được coi là “nguyên lí âm để chỉ sự
yếu đuối, tối tăm và bị động”. Mặc dù ở Việt Nam, những quan điểm, tư tưởng trên
của Nho giáo đã phần nào được “khúc xạ”, nhưng trên thực tế, hệ tư tưởng Nho
giáo về phụ nữ vẫn còn ảnh hưởng sâu rộng trong nhiều khía cạnh cuộc sống.
Trước hết, ảnh hưởng của Nho giáo rất rõ nét trong tư tưởng đánh giá thấp,
thậm chí là coi thường người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã hội. Đó là những
quan niệm “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, “phụ nhân nan giải” (đàn bà là loại
khó dạy bảo), “phụ nữ là người dễ làm đồi bại và cũng dễ bị đồi bại” hoặc trong đời
sống làng xã phụ nữ không được ngồi vào mảnh chiếu giưa đình mà chỉ nam giới
mới được ngồi để bàn việc làng việc nước.
Thứ hai, hệ tư tưởng Nho giáo cũng ngầm chứa quan điểm coi trách nhiệm
gia đình, công việc nội trợ bếp núc là việc của người phụ nư. Những lời răn dạy
người phụ nữ thể hiện phổ biến trong quan niệm tục ngữ ca dao Việt Nam: “gái
ngoan lo toan mọi việc”, “xem trong bếp biết nết đàn bà”.
Thứ ba, theo quan niệm của Nho giáo, đàn bà là kẻ phụ thuộc hoàn toàn vào
đàn ông, là kẻ phục vụ cho đàn ông: “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử
tòng tử”, “con vua lấy thằng bán than, nó đưa lên ngàn cũng phải đi theo”, “thuyền
mạnh về lái, gái mạnh về chồng”…
Những quan niệm trên là nguồn gốc sâu xa góp phần củng cố và duy trì định
kiến giới, đặc biệt là định kiến giới đối với phụ nữ. Hậu quả là trong xã hội Việt
Nam hiện nay, người phụ nữ vẫn chịu thiệt thòi hơn nam giới ở nhiều lĩnh vực, đó là
25