Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Đứa trẻ mồ côi của móricz zsigmond dưới góc nhìn thi pháp học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 58 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện, dưới sự
hướng dẫn của cô giáo, Tiến sĩ Mai Thị Liên Giang. Các tài liệu, những nhận định ghi
trong khóa luận là hoàn toàn trung thực. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về nội
dung khoa học của công trình này.


Lời Cảm Ơn
Trước hết tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân
thành và sâu sắc đến quý thầy cô giáo trường Đại học
Quảng Bình đã tận tâm dạy dỗ, truyền đạt cho tôi
những kiến thức quý báu trong suốt bốn năm ngồi trên
ghế giảng đường.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô
giáo trong khoa Khoa học xã hội đã giúp đỡ, tạo điều
kiện thuận lợi để tôi hoàn thành khóa luận này.
Đặc biệt tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn
sâu sắc nhất đối với giảng viên, TS. Mai Thị Liên
Giang, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và dìu
dắt tôi trong suốt quá trình thực hiện khóa luận.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình,
bạn bè đã cổ vũ, động viên và giúp đỡ tôi hoàn thành
bản khóa luận này.
Trong quá trình thực hiện khóa luận, do điều kiện
thời gian và năng lực còn hạn hóa chế nên chắc chắn
không thể tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận
được sự quan tâm góp ý của thầy cô và các bạn để khóa
luận được hoàn thiện hơn.
Chân thành cảm ơn!
Quảng Bình, tháng 5 năm 2017


Tác giả
Nguyễn Thị Dung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .........................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề..............................................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...............................................................................2
3.1 Đối tượng nghiên cứu ................................................................................................2
3.2 Phạm vi nghiên cứu ...................................................................................................3
4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................3
5. Đóng góp của đề tài .....................................................................................................3
6 . Cấu trúc của khóa luận ...............................................................................................4
NỘI DUNG .....................................................................................................................5
Chương 1: QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG “ĐỨA TRẺ
MỒ CÔI” CỦA MÓRICZ ZSIGMOND .....................................................................7
1.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học và trong tác phẩm “Đứa trẻ mồ
côi” của Móricz Zsigmond. .............................................................................................7
1.1.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học...............................................7
1.1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người của Móricz Zsigmond trong tác phẩm “Đứa
trẻ mồ côi”. ......................................................................................................................9
1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người qua hệ thống nhân vật trong “Đứa trẻ mồ côi”
của Móricz Zsigmond ......................................................................................................9
1.2.1 Nhóm nhân vật trẻ em ..........................................................................................10
1.2.1.1 Trơre ..................................................................................................................10
1.2.1.2 Bọn trẻ nhà Đuđasơ ...........................................................................................13
1.2.1.3 Điti .....................................................................................................................14
1.2.2 Nhóm nhân vật người lớn .....................................................................................14
1.2.2.1 Nhân vật phụ nữ ................................................................................................ 14

1.2.2.2. Nhân vật đàn ông ..............................................................................................18
1.3. Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật .............................................................21
1.3.1 Tính cách nhân vật................................................................................................ 21
1.3.2. Hành động nhân vật .............................................................................................22
1.3.3. Ngôn ngữ .............................................................................................................23
Chương 2: KHÔNG GIAN THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TÁC PHẨM
“ĐỨA TRẺ MỒ CÔI” CỦA MÓRICZ ZSIGMOND ..............................................26
2.1 Không gian nghệ thuật trong: “Đứa trẻ mồ côi của”Móricz Zsigmond ................26
2.1.1 Không gian sinh hoạt ............................................................................................27
2.1.2 Không gian đời tư tâm lý ......................................................................................28
2.1.3 Không gian thiên nhiên ........................................................................................30


2.1.4 Không gian thánh đường ......................................................................................31
2.2 Thời gian nghệ thuật trong: “Đứa trẻ mồ côi của” Móricz Zsigmond ...................31
2.2.1 Thời gian sinh hoạt ...............................................................................................32
2.2.2 Thời gian tâm lý ...................................................................................................32
Chương 3: CỐT TRUYỆN, KẾT CẤU VÀ VIỆC SỬ DỤNG NGÔN
NGỮ,GIỌNG ĐIỆU TRONG “ĐỨA TRẺ MỒ CÔI ” CỦA MÓRICZ
ZSIGMOND .................................................................................................................35
3.1 Nghệ thuật xây dựng cốt truyện trong tác phẩm “Đứa trẻ mồ côi”. ......................35
3.1.1 Cốt truyện và cơ sở của cốt truyện .......................................................................35
3.1.2 Cách phát triển của cốt truyện trong tác phẩm “Đứa trẻ mồ côi”. .......................36
3.1.2.1 Phần trình bày. ...................................................................................................36
3.1.2.2 Phần thắt nút. .....................................................................................................37
3.1.2.3 Phần phát triển. ..................................................................................................37
3.1.2.4 Ðiểm đỉnh. ........................................................................................................38
3.1.2.5. Phần kết thúc(Mở nút). .....................................................................................39
3.2.Nghệ thuật xây dựng kết cấu trong “Đứa trẻ mồ côi” ............................................40
3.2.1 Kết cấu tuyến tính ................................................................................................ 40

3.2.2 Kết cấu đa tuyến. ..................................................................................................43
3.2.3 Kết cấu tương phản...............................................................................................44
3.3 Ngôn ngữ và giọng điệu ..........................................................................................44
3.3.1 Ngôn ngữ ..............................................................................................................44
3.3.1.1 Ngôn ngữ người kể chuyện ...............................................................................45
3.3.1.2 Ngôn ngữ nhân vật ............................................................................................46
3.3.2 Giọng điệu ............................................................................................................47
3.3.2.1 Giọng điệu cảm thương .....................................................................................47
3.3.2.2 Giọng điệu “giả tạo” ..........................................................................................48
3.3.2.3 Giọng điệu hài hước ..........................................................................................49
KẾT LUẬN ..................................................................................................................51
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................53


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Móricz Zsigmond (Môrix Gicmôn 1872-1942) là nhà văn nổi tiếng của nhân dân
Hungari. Ông sinh ngày 29 tháng 6 năm 1879 tại Budapet- Hungari. Ông học luật, từ
năm 1903-1909, ông làm việc tại Az Újság. Sau khi cải cách chính phủ, ông làm việc
tại Học viện Vörösmarty Academy. Từ năm 1929, ông làm biên tập cho tạp chí
Nyugat. Các tác phẩm của ông tập trung vào chủ đề xã hội, về giai cấp lao động và
cuộc sống nghèo khổ của người dân Hungari. Trong số các tác phẩm của ông ''Đứa trẻ
mồ côi'' là một trong những kiệt tác của văn xuôi Hungari. “Đứa trẻ mồ côi”, một cuốn
sách mang nhiều ý nghĩa sâu sắc và làm rung động lòng người mà “câu ngắn nhất của
nó cũng bay lên từ chính cuộc đời sống động”, như nhà văn từng nói.
Trong các cuốn tiểu thuyết ở giai đoạn trước đây Môrix Gicmôn đã mô tả cuộc
sống ngột ngạt, khốn khổ của người nông dân và trí thức làng quê ở các tỉnh lẻ
Hungari những năm đầu của thế kỷ XX. Nhân vật trong tác phẩm ở giai đoạn sáng tác
đầu tiên Môrix Gicmôn thường là những con người có tài năng, nhiều khát vọng
nhưng lại bất lực trước sự lạc hậu và trì trệ của xã hội, họ không thắng được lòng vị kỷ

và thói thỏa hiệp của chính mình. Trong tiểu thuyết “Đứa trẻ mồ côi” của Môrix
Gicmôn đã đối lập điều thiện và điều ác, sự trong sáng ngây thơ của đứa trẻ ngây thơ
và sự ti tiện của người lớn ở xã hội mà mọi giá trị thực của cuộc sống đã bị chà đạp
hoàn toàn. Thế giới mà đứa trẻ mồ côi đã bị hắt hủi là thế giới của những con người đã
trở nên man rợ nhỏ nhen và ích kỷ.
Móricz Zsigmond đã gọi tác phẩm “Đứa trẻ mồ côi” là “một cuốn tiểu thuyết
khủng khiếp”. Tiểu thuyết này được viết thành bảy thánh ca, mỗi thánh ca là một đoạn
đời của em bé mồ côi. Toàn bộ sự khủng hoảng của xã hội được thể hiện qua cuộc đời
của cô bé Trơre bảy tuổi, trong mối quan hệ của em với thế giới xung quanh. Tác giả
nhìn thế giới bằng con mắt của cô bé Trơre và nói về thế giới cũng bằng ngôn ngữ và
tâm lý của em. Các sự kiện trong cuốn tiểu thuyết đều xảy ra trong đời thực, nhà văn
sắp xếp bố cục một cách sinh động, hấp dẫn dựa trên những điều được nghe kể. Chính
vì lẽ đó mà “Đứa trẻ mồ côi” có những nét độc đáo, khác với tiểu thuyết “truyền
thống”.
Từ sau giải phóng (1945), tiểu thuyết Đứa trẻ mồ côi đã được dựng thành phim
và được xuất bản nhiều lần với tổng số trên nửa triệu bản. Giới nghiên cứu văn học

1


Hungari đánh giá rất cao chất lượng nghệ thuật của nó được xem là một trong những
tác phẩm tiêu biểu của văn xuôi Hungari thế kỷ XX. Ở Việt Nam văn học Hungari ít
được biết đến và con số các tác phẩm văn học dịch từ tiếng Hungari cũng chưa được
nhiều nhưng mỗi tác phẩm được dịch sang tiếng Việt đều để lại những ấn tượng rất
đặc biệt cho người đọc. Đặc biệt đọc tác phẩm “Đứa trẻ mồ côi” người đọc sẽ được
chia sẻ với số phận của những con người đặc biệt, gắn với đất nước Hungari một thời
kỳ.
Nói đến tác phẩm “Đứa trẻ mồ côi” ở nước ta có rất ít công trình nghiên cứu về
tác phẩm này, có chăng cũng chỉ tìm hiểu về chủ đề hoặc nhân vật nổi bật và chưa
quan tâm đến nghệ thuật của tác phẩm. Xuất phát từ lý do trên, chúng tôi chọn đề tài

“Đứa trẻ mồ côi của Móricz Zsigmond dưới góc nhìn thi pháp học”.
2. Lịch sử vấn đề
Ở Việt Nam văn học Hungari ít được biết đến và con số các tác phẩm văn học
dịch từ tiếng Hungari cũng chưa được nhiều. Hầu như chưa có công trình nào viết về
tác phẩm này ở Việt Nam một cách có hệ thống. Là người đầu tiên dịch tác phẩm này
sang tiếng Việt, nhà nghiên cứu Trương Đăng Dung có đánh giá: “Giới nghiên cứu
văn học Hungari đáng giá rất cao tác phẩm này và cho đây là một kiệt tác văn xuôi
của Hungari thế kỷ XX. Chúng tôi chọn dịch và giới thiệu với đọc giả Việt Nam cuốn
tiểu thuyết này của Môrix Gicmôn với hi vọng trong tương lai bạn đọc sẽ được đọc
nhiều tác phẩm lớn khác của nền văn học Hungari hiện đại[12,tr.8]. Tiếp theo bài viết
này TS. Mai Thị Liên Giang đã có bài đăng trên tạp chí văn số ra ngày 09/08/2012 đề
cập tới thánh ca và trạng thái yên ổn gỉa tạo trong tác phẩm “Đứa trẻ mồ côi”. “ Thánh
ca chỉ là một thủ pháp nghệ thuật giúp nhà văn chuyển tải những thông điệp liên quan
đến số phận, đức tin và sự cứu rỗi loài người. Bên cạnh những ý nghĩa xã hội khác,
Môrix Gicmôn muốn nói rằng hãy đừng cố tạo ra vẻ yên ổn giả tạo bên ngoài con
người, hãy biết quan tâm thật sự đến nhau, đừng vì xã giao cho có lệ. Như vậy, thông
điệp mồ côi của tác phẩm lúc này không phải chỉ vì không có mẹ tức là mồ côi. Tất cả
chúng ta đều là mồ côi nếu không có được một xã hội đúng nghĩa như xã hội loài
người để sống”[4]. Có thể khẳng định, ở Việt Nam đề tài của tôi là công trình đầu tiên
nghiên cứu một cách có hệ thống về “Đứa trẻ mồ côi” từ góc nhìn thi pháp học.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu

2


Trong khóa luận này chúng tôi tập trung khảo sát đặc trưng của thi pháp tiểu
thuyết “Đứa trẻ mồ côi” trên ba phương diện :
- Quan niệm nghệ thuật về con người và hệ thống nhân vật
- Không _thời gian nghệ thuật

- Cốt truyện, kết cấu, ngôn ngữ và giọng điệu
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Tiểu thuyết “Đứa trẻ mồ côi” Nxb Thanh Niên, người dịch Trương Đăng Dung.
4. Phương pháp nghiên cứu
Qua quá trình triển khai nghiên cứu, chúng tôi sử dụng một số phương pháp và
thủ pháp tiêu biểu sau:
4.1 Thống kê – phân loại: Thống kê các yếu tố thuộc nội dung và hình thức, từ
đó phân loại. Nhận xét theo mục đích nghiên cứu.
4.2. Phân tích – tổng hợp: Phân tích tác phẩm, các dẫn liệu minh họa, từ đó
tổng hợp theo các bình diện nghiên cứu.
4.3 Phương pháp so sánh đối chiếu: So sánh đối chiếu trên hai bình diện: đồng
đại và lịch đại.
4.4. Phương pháp liên ngành: Vận dụng lý thuyết của các khoa học liên ngành
để nghiên cứu đề tài như lý thuyết về ngôn ngữ học, tự sự học, tâm lý học...
4.5 Ngoài ra luận văn còn sử dụng những thao tác để nghiên cứu đề tài
như:Đánh giá, diễn dịch, quy nạp…nhằm tạo nên một hệ thống chặt chẽ và khoa học.
5. Đóng góp của đề tài
5.1 Về mặt lý luận
Đề tài nghiên cứu tác phẩm “Đứa trẻ mồ côi” từ góc nhìn thi pháp, sẽ hệ thống
hóa những nhận định, đánh giá của các công trình nghiên cứu liên quan đến tác phẩm.
Trên cơ sở đó, vận dụng thi pháp học vào nghiên cứu tác phẩm văn học dịch ở Việt
Nam.
5.2 Về mặt thực tiễn
Đứa trẻ mồ côi là một kiệt tác của văn xuôi Hungari thế kỷ XX tuy nhiên ở Việt
Nam những người biết đến tác phẩm còn hạn chế và ít công trình nghiên cứu. Chúng
tôi hi vọng rằng quá trình nghiên cứu sẽ góp phần vào việc đưa tác phẩm“Đứa trẻ mồ
côi” đến với nhiều bạn đọc Việt Nam bằng những thông điệp tốt đẹp của nó về cuộc
sống con người.

3



6 . Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phần phụ lục, phần nội dung
của khóa luận được tiến hành triển khai thành 3 chương sau:
Chương 1: Quan điểm nghệ thuật về con người trong “Đứa trẻ mồ côi” của
Móricz Zsigmond.
Chương 2: Không gian thời gian nghệ thuật trong “Đứa trẻ mồ côi” của Móricz
Zsigmond.
Chương 3: Cốt truyện, kết cấu, ngôn ngữ và giọng điệu trong “Đứa trẻ mồ côi”
của Móricz Zsigmond.

4


NỘI DUNG
Thi pháp học là một lĩnh vực nghiên cứu về đặc trưng, tổ chức, các phương thức,
phương tiện, nguyên tắc làm nên giá trị thẩm mĩ của văn học trong tính chỉnh thể của
văn học. Đó là quy luật nghiên cứu nội tại của tác phẩm, cấu tạo và phong cách, nó
phân biệt với các lĩnh vực nghiên cứu khác. Hiểu thi pháp học như lĩnh vực nghiên
cứu đặc trưng văn học hay tính văn học và ngôn ngữ biểu hiện của nó chứ không đóng
khung trong nghệ thuật thi ca hay phép làm thơ. Lấy việc nghiên cứu tính chỉnh thể
thay cho việc nghiên cứu các yếu tố khác biệt để khái quát theo quan niệm nguyên tử
luận: “lấy việc nghiên cứu các biến cố lịch sử thay chao nghiên cứu các nguyên lí bất
biến vĩnh hằng, nghiên cứu hướng tới người đọc hơn là dạy dỗ nhà văn về cách sáng
tác, lấy việc khái quát các phương thức phương tiện từ trong bản thân sáng tác hơn là
đưa ra những công thức quy phạm”(Trần Đình Sử).Việc tiếp cận và ứng dụng Thi
pháp học trong nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học ở Việt Nam đã có bề dày hơn 20
năm, trùng khớp với thời kỳ đầu của phong trào “Đổi mới” trên bình diện toàn xã hội
nói chung và trong văn học nói riêng. Đọc các bài viết về Thi pháp học, ta dễ nhận

thấy các nhà nghiên cứu đều khẳng định: nghiên cứu, phê bình theo hướng thi pháp
học nghĩa là nghiêng về phân tích hình thức nghệ thuật bởi nội dung trong tác phẩm
phải được suy ra từ hình thức, đó là hình thức mang tính nội dung. Thi pháp học được
hiểu là cách thức phân tích tác phẩm bám vào văn bản là chính, không chú trọng đến
những vấn đề nằm ngoài văn bản như: tiểu sử nhà văn, hoàn cảnh sáng tác, nguyên
mẫu nhân vật, giá trị hiện thực, tác dụng xã hội... Thi pháp học chỉ chú trọng đến
những yếu tố hình thức tác phẩm như: hình tượng nhân vật, không thời gian, kết cấu,
cốt truyện, ngôn ngữ, thể loại... Khuynh hướng nghiên cứu, phê bình văn học theo thi
pháp học thu hút đông đảo giới nghiên cứu, phê bình tham gia. Thi pháp học đã đem
lại những phạm trù mới, những đề tài mới và trên hết là cách nhìn mới cho nghiên
cứu– phê bình văn học, mở rộng các cánh cửa tiếp cận văn bản – tác phẩm văn học,
bởi Thi pháp học là lĩnh vực nghiên cứu tạo ra được nhiều cách tiếp cận kể cả trên
cùng một đối tượng nghiên cứu, vì những lẽ đó giá trị mới không ngừng được khám
phá soi chiếu sáng tạo. Đến nay có một thực tế không thể bàn cãi là Thi pháp học có
ảnh hưởng rất lớn trong ngành nghiên cứu văn học, nó ngày càng mang nội dung mới
hơn, đa dạng về quan niệm, phương pháp tiếp cận, đồng thời tự nó cũng biến đổi
nhanh chóng để thích nghi trong tiến trình nghiên cứu văn học hiện đại.Từ giới thuyết

5


ngắn gọn trên, soi chiếu vào tập tiểu thuyết “Đứa trẻ mồ côi” của Móricz Zsigmond
chúng tôi triển khai nghiên cứu trên ba bình diện ứng với nội dung của ba chương sau
đây:
Chương 1: Quan điểm nghệ thuật về con người trong “Đứa trẻ mồ côi” của
Móricz Zsigmond.
Chương 2: Không gian thời gian nghệ thuật trong “Đứa trẻ mồ côi” của Móricz
Zsigmond.
Chương 3: Cốt truyện, kết cấu, ngôn ngữ và giọng điệu trong “Đứa trẻ mồ côi”
của Móricz Zsigmond.


6


Chương 1: QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG “ĐỨA
TRẺ MỒ CÔI” CỦA MÓRICZ ZSIGMOND
Nhân vật là “Hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về
sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ” [1,tr.249]. Nhân vật là
một đơn vị nghệ thuật mang tính ước lệ, không thể đồng nhất nó với con người có thật
trong đời sống. Nó là người dẫn dắt độc giả đi sâu vào các thế giới khác nhau của cuộc
sống, đồng thời thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tưởng thẫm mỹ của nhà văn về
con người. Nói các khác, nó là phương tiện để khái quát hiện thực, thể hiện quan niệm
về tư tưởng, tình cảm, thái độ của nhà văn với đời sống xã hội.
Tìm hiểu nghiên cứu về hệ thống nhân vật, trước tiên phải hiểu được quan niệm
nghệ thuật về con người của nhà văn và lý giải phương thức xây dựng nhân vật trong
tác phẩm. Đây cũng chính là một trong những nhiệm vụ của thi pháp học. Vì vậy
nghiên cứu tác phẩm “Đứa trẻ mồ côi” của Móricz Zsigmond từ góc nhìn thi pháp,
chúng tôi luôn quan tâm đến việc khảo sát quan niệm nghệ thuật về con người và nghệ
thuật xây dựng nhân vật. Đây chính là vấn đề quan trọng mà chúng tôi muốn trình bày
trong chương này.
1.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học và trong tác phẩm
“Đứa trẻ mồ côi” của Móricz Zsigmond.
1.1.1. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học
Quan niệm nghệ thuật về con người là quá trình chuyển hóa cách nhìn, nguyên
tắc thế giới quan vào nguyên tắc nghệ thuật. Có thể nói quan niệm nghệ thuật về con
người đã mở ra nhiều phương diện để khám phá con người trong văn học. Theo giáo
sư Trần Đình Sử: Quan niệm nghệ thuật vì con người “Là sự lý giải,cắt nghĩa sự cảm
thấy con người đã được hóa thân thành các nguyên tắc,phương tiện,biện pháp,hình
thức thể hiện con người trong văn học tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các
hình tượng nhân vật đó”[15.tr.59]. Quan niệm nghệ thuật về con người là một phạm

trù rất quan trọng được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong thi pháp học. Mặc dù hiện nay,
khái niệm này chưa được các nhà nghiên cứu một cách thống nhất và chặt chẽ nhưng
nó phần nào gợi mở cho chúng ta hướng đến đối tượng chủ yếu của văn học. Trần
Đình Sử trong “Giáo trình thi pháp học” đã viết “ Văn học nghệ thuật là một sự tự ý
thức về đời sống, nên nó mang tính chất quan niệm rất cụ thể” và “Hình tượng nghệ
thuật một khi đã hình thành là mang tính chất quan niệm,ngay cả vô thức là quan niệm

7


về cái vô thức. Nhà văn không thể miêu tả đối tượng mà không có quan niệm về đối
tượng”[16,tr.23]. Có thể khẳng định quan niệm chính là một phương tiện thiết yếu của
sáng tạo nghệ thuật. Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học chính là bước
đi thiết thực để đến với chiều sâu tác phẩm, của các giai đoạn văn học. Macxim Gorki
đã từng khẳng định : “Văn học là nhân học”[10]. Đó là nghệ thuật miêu tả, biểu hiện
con người. Do vậy con người chính là đối tượng chủ yếu của văn học. Dù miêu tả thần
linh, ma quỷ, đồ vật hay đơn giản là miêu tả các nhân vật văn học đều nhằm mục đích
miêu tả và thể hiện vào con người. Thực tế đã chứng minh rằng, không có một tác
phẩm, một tác giả hay một nền văn học nào chỉ đơn thuần lại nói về thiên nhiên mà
không liên quan đến con người. Nói cách khác, mục đích miêu tả của nhà văn là hướng
đến thể hiện con người.
Quan niệm nghệ thuật về con người là khái niệm nghệ thuật cơ bản nhằm thể
hiện khả năng khám phá trong lĩnh vực miêu tả, thể hiện con người của nhà văn. Có
thể nói nó giống như một chiếc chìa khóa vàng góp phần gợi mở cho chúng ta tất cả
những gì bí ẩn trong sáng tạo nghệ thuật của mỗi người nghệ sỹ nói chung và từng thời
đại nói riêng. Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng : “Quan niệm nghệ thuật về con người là
một cách cắt nghĩa, lý giải tầm hiểu biết, tầm đánh giá, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm
của nhà văn về con người được thể hiện trong tác phẩm của mình”[17.tr15]. Tức là
quan niệm nghệ thuật về con người sẽ đi vào phân tích, mổ xẻ đối tượng con người đã
được hóa thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con người trong

văn học của tác giả. Từ đó, tạo nên hình tượng nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình
tượng nhân vật trong tác phẩm. Chính vì vậy mà chúng ta thấy được hình tượng nghệ
thuật trong tác phẩm. Giáo sư Huỳnh Như Phương cũng đóng góp tiếng nói của mình
bằng một cách nhìn khá khái quát :“Quan niệm nghệ thuật về con người thể hiện tầm
nhìn của nhà văn và chiều sâu triết lý của tác phẩm”[11,tr 7]. Cũng bàn về quan niệm
nghệ thuật về con người, Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa : “Quan niệm nghệ
thuật về con người là hình thức bên trong, là hệ quy chiếu ẩn chìm trong hình thức tác
phẩm. Nó gắn với các phạm trù khác như phương pháp sáng tác, phong cách của nhà
văn, làm thành thước đo của hình thức văn học và cơ sở của tư duy nghệ thuật”
[5.tr.6]. Từ những khái niệm về quan niệm nghệ thuật về con người chúng ta có thể
khái quát cách hiểu đơn giản như sau:

8


Quan niệm nghệ thuật về con người được hiểu là cách nhìn, cách cảm ,cách nghĩ,
cách cắt nghĩa lý giải về con người của nhà văn. Đó là quan niệm mà nhà văn thể hiện
trong từng tác phẩm. Quan niệm ấy bao giờ gắn liền với cách cảm thụ và biểu hiện
chủ quan sáng tạo của chủ thể, ngay cả khi miêu tả con người giống hay không giống
so với đối tượng.
1.1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người của Móricz Zsigmond trong tác
phẩm “Đứa trẻ mồ côi”.
Con người là trung tâm của văn chương vừa là đối tượng mà văn chương hướng
đến, phản ánh, thể hiện vừa là thực tế cảm nhận của chính văn chương. Nhân vật giống
như một chìa khóa góp phần gợi mở góp phần gợi mở cho chúng ta những gì bí ẩn
trong sáng tạo nghệ thuật của người nghệ sỹ.
Khác với quan niệm nghệ thuật về con người trong các sáng tác ở giai đoạn trước
đây. Đó là con người tài năng, nhiều khát vọng nhưng lại bất lực trước sự trì trệ và lạc
hậu của xã hội, họ không thắng được lòng vị vị kỷ và thói thõa hiệp của chính mình.
Trong tiểu thuyết “Đứa trẻ mồ côi” Móricz Zsigmond đã xây dựng hệ thống nhân vật

trên quan niệm điều thiện đối lập với cái ác. Sự trong sáng ngây thơ của đứa trẻ với sự
bẩn thỉu, ti tiện, độc ác của người lớn ở xã hội mà mọi giá trị thực của cuộc sống đã bị
chà đạp hoàn toàn. Thế giới mà những đứa trẻ mồ côi luôn bị hắt hủi và chà đạp luôn
phải chịu đói, chịu rét và còn chịu cả sự ghẻ lạnh và thờ ơ bởi những con người được
gọi là người lớn. Móricz Zsigmond đã xây dựng nhân vật của mình trên quan niệm cái
ác và cái thiện. Rồi những người hiền lành vẫn sẽ được giải thoát còn những kẻ độc ác,
man sợ cuối cùng lần lượt cũng sẽ nhận được quả báo cho chính mình.
Quan niệm nghệ thuật về con người được hiểu là cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ,
cách cắt nghĩa lý giải về co người của nhà văn. Đó là quan niệm mà nhà văn thể hiện
trong từng tác phẩm. Ở đây tác giả đã nhìn nhân vật bằng sự cảm thông và thương xót
cho những con người bất hạnh và nói lên khát vọng ước mơ được yêu thương, được có
gia đình và được đến trường như những đứa trẻ khác của em bé mồ côi nhà nước.
1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người qua hệ thống nhân vật trong “Đứa
trẻ mồ côi” của Móricz Zsigmond
Thế giới nhân vật trong “Đứa trẻ mồ côi” được chia làm hai nhóm nhân vật
chính: nhân vật người lớn và nhân vật trẻ em. Ở mỗi nhóm nhân vật có những nét tính

9


cách, số phận và cách suy nghĩ khác nhau. Tác giả không miêu tả ngoại hình của nhân
vật mà chúng ta tìm thấy nhân vật thông qua hành động và ngôn ngữ.
1.2.1 Nhóm nhân vật trẻ em
1.2.1.1 Trơre
Nhân vật Trơre là nhân vật chính của tiểu thuyết “Đứa trẻ mồ côi”. Chủ đề của
câu chuyện là nói về số phận của nhân vật Trơre một em bé bảy tuổi là đứa trẻ mồ côi
của nhà nước.Tất cả điểm nhìn trong tác phẩm đều xoay quoanh một đứa bé mà bị
chính bố mẹ đẻ của mình tước đi cái quyền được yêu thương, được chăm lo và quyền
được đến trường. Cô bé mồ côi tội nghiệp đã trải qua ba gia đình nhận nuôi và phải
chịu cảnh đói rét và những lời cay nghiệt.

Đầu tiên là gia đình Đuđasơ: Hình ảnh một em bé mồ côi xuất hiện trên thảo
nguyên :“Em đứng đó như thượng đế đã sáng tạo nên, em đứng đó không một mãnh
áo che thân dưới mặt trời lên cao, ngơ ngác”[12,tr.10]. Cô bé không biết mình đến từ
đâu “Em không nghĩ gì cả, em cũng chẳng biết mình đến đây ra sao. Em buồn ngủ em
như chú mèo con, nhưng mèo con còn biết kêu rên và tắm rửa, còn em bé bỏng chỉ
đứng một cách tuyệt vọng” [12,tr.10]. Tác giả đã cho nhân vật của mình xuất hiện một
cách lẻ loi và tuyệt vọng, trong một khung cảnh thảo nguyên mênh mông, dưới ánh
mặt ngời gay gắt.Vì sao em ở đâu ư ? Có một người đàn bà gầy gò khô quắt, đó là
người mẹ người mẹ quý hóa đã nuôi thêm đứa trẻ mồ côi của Nhà nước. Bên cạnh
nuôi gà nuôi lợn để kiếm thêm thu nhập cho mình.Việc nuôi Trơre hàng tháng Nhà
nước phải trả cho bà tám Pengguê, ngoài ra vào mùa xuân, mùa thu Nhà nước cấp cho
một chiếc áo, một đôi tất nữ dài một áo khoác ngắn. Mùa đông Nhà nước cấp một cái
khăn to, bền làm bằng len và một đôi giày trẻ con. Những thứ này quả thật là rất cần
thiết, nhưng không phải cho Trơre mà cần thiết cho những đứa con của bà. Được nhà
nước cấp nhiều thứ như thế nhưng cô bé vẫn trần truồng và lạnh giá với đôi chân đất.
Bởi vì những thứ đáng nhẽ là của em thì người mẹ đã mang chúng cho những đứa con
của bà. Chẳng bao giờ em được mặc quần áo dù mùa hè hay là mùa đông giá rét.Và
đứa trẻ tội nghiệp ấy cũng có ước mơ được đên trường : “Mọi ý nghĩ của đứa trẻ cô
đơn đều theo bọn trẻ đến trường,bởi vì em muốn lớn nhanh để có thể đi trên con
đường dài qua cánh đồng với những người anh em về phía ngôi trường xa, trong chiếc
áo sơ mi áo khoác và cái cái khăn mới có cái bánh mỳ của nhà trường. Em cũng đã
lớn như Rôđi,vậy mà em vẫn ở đây. Gía mà chúng nó trả lại áo. Nhưng en vẫn vui

10


sướng hơn nếu em được đến trường. Dù em chưa biết khái niệm áo sơ mi là
gì”[1,tr.15]. Hằng ngày, công việc của em đó là nhận một chiếc bánh mì từ “mẹ”,
chiếc bánh mỳ không to quá và cũng không nhỏ quá và nó dính đầy nước cám lợn.
Chiếc bánh mỳ đó em cũng không được ăn ngay bởi vì ngay sau đó em sẽ phải nhịn

đói cả ngày. Sau đó dắt chú bò Bôrisơ ra đồng gặm cỏ cho đến tối. Suốt ngày em bị
chửi bới và đánh đập. Em phải sống trong một gia đình mà người mẹ lúc nào cũng chỉ
dành cho em những lời cay nghiệt. Còn người bố luôn ôm ấp, sờ soạng và bảo với em
rằng không được nói cho bà mẹ biết. Người bố ấy đã bỏ cục than đang đỏ lửa vào đôi
bàn tay bé bỏng của em khi em đói nên đã lỡ ăn một trái dưa trong vườn. Cô bé cũng
thèm khát được yêu thương và được chăm sóc như những đứa trẻ khác. “Trơre cố
gắng để mọi người vui vẻ với em, em cũng muốn được giống như mọi người và tất
nhiên điều đó là không thể vì ai cũng có quần áo và dày dép, còn em chỉ đứng như chú
lợn con, hoặc con chó trong bộ dạng của mình”[12,tr.48]. Em luôn bị nhìn bằng con
mắt hằn học của những đứa trẻ trong nhà. Ai trong gia đình này cũng được đói, được
rét, được sợ riêng em thì không, cái gì không tốt em đều phải chịu đựng.Thậm chí em
không được ăm cơm nếu em không làm việc.
Sau đó em được gia đình Xennhesơ nhận nuôi nhưng họ cũng nhận nuôi em chỉ
vì tiền mà mà nước sẽ đưa cho họ hàng tháng. Ở đây cô bé đã nghĩ mình sẽ được đi
học nhưng không, em phải dậy lúc 3h để lùa lợn ra đồng. Ở đây vẫn thích hơn vì ít ra
em cũng được mặc quần áo em không còn phải ở truồng nữa, em luôn mặc quần áo,
chiếc áo khoác ngắn bên trong áo khoác ấy là chiếc áo sơ mi và không còn là cái nhìn
của những kẻ đàn ông xa lạ như muốn ăn tươi nuốt sống em. Ở đây em cũng thường
xuyên bị đánh “Nhưng Trơre giận chị ta vì Dobo Mari đã đánh vào đầu em, rồi đánh
vào đầu em những thanh gỗ khều quần áo

mạnh đến nỗi thanh gỗ bị toác

ra”[12,tr.109]. Sáng nào cô bé Trơre tội nghiệp cũng phải chăn bò trên lề đường ở cuối
làng với đôi chân trần trong sương giá. Em không được đi dép một lần nào nữa, em
không muốn thêm một lần chửi mắng vì đôi dép .Nhưng như vậy thì em lại rét, gót
chân em lại cóng lên.Và ở đây em được bác thợ già dẫn đi nhà thờ, lần đầu tiên cô bé
biết thế nào là nhà thờ, thấy được người ta đang làm gì ở đó, em được nhìn thấy cha
cố, thánh lễ cùng nhiều người. Cô bé còn thấy được các thánh và thân thể đầy những
vết thương của Chú Giêsu. Em đã tìm được người cùng cảnh ngộ của mình đó là bác

thợ dệt già, bác ta rất thương hại cho thân phận của em bé mồ côi Nhà nước. Ngoài ra

11


chưa ai quam tâm đến em, cô bé luôn sống trong nanh vuốt của nhũng kẻ giã man. Em
luôn phát âm sai nhưng từ như “dách”, “chường”, “xao” “nuôn nuôn” “xẽ”...bởi vì
trước đây em không được nói chuyện, em chưa biết nói em chưa được nói với ai cả
nên mới phát âm sai như vậy.
Cuối cùng em được gia đình bà Veruê nhận nuôi. Người ta nói với em rằng em sẽ
được đi học, em không còn sống giữa bọn nông dân nữa, em sẽ sống giữa những người
có học. Nhưng cô bé lại có dự cảm rất xấu về việc người ta sẽ em cho ông bố mới và
bà mẹ mới, những người mà đối với em không phải là bố mẹ. Em không thấy sự có
học ở đâu cả, cô bé hiểu rằng em sẽ không được đi học và sẽ lại chẳng có gì hết. Đây
là lần đầu tiên cô bé nhận ra rằng mình cần phải làm gì đó nếu muồn được sống. Và sự
có học mà bà lớn đã hứa đó là dậy trong gió rét và đi chăn lợn. Em không được rửa
mặt, không chải tóc, chịu rét đi về phía truồng lợn như người già lâu nay đã quên đi
công việc của mình. Ở đây chẳng có ai nhìn ngó tới em ngoài việc họ chỉ bảo về việc
chăn lợn như thế nào và họ cũng chửi rủa đánh đập em nếu em làm gì trái ý của họ.
“Họ đánh bằng cái đập bụi bà ta đánh em nhừ tử đến nổi những bàn tay bé bỏng của
em tím xanh, rồi bắp chân em cũng trở nên xanh lơ, xanh lục, mọi cú đấm đều hằn rõ
trên người em. Bây giờ không phải roi quất vào không khí mà là nhưng cú đấm hằn to,
đen thẫm”[12,155]. Ngoài ra em còn phải quỳ lên hạt ngô, ở đó một giờ liền, em
không được ăn bữa tối ngày hôm ấy vì bị phạt. Em cũng khát khao được đến trường
nhưng điều đó là không thể, sẽ chẳng ai cho đứa trẻ mồ côi nhà nước đi học cả. Họ chỉ
nhận nuôi em bé vì ít nhất cô bé cũng làm việc cho họ và nhận được ít lợi lộc khi nuôi
đứa trẻ người nhà nước.“Ở ngoài kia mặt trời đã chiếu sáng, nhưng có gió thổi.
Không rửa mặt, không chải tóc, em chịu rét đi về phía truồng lợn như một người đầy
tớ già lâu nay đã sao nhãng bổn phận của mình. Muter nhìn em: Con bé này không
cần nhiều lời , nó biết bổn phận của nó. Em mở cửa của khu chuồng lợn, em dùng đá

đập cái then cài sang một bên vì cái then chốt vào chặt quá, rồi em đi vào chuồng lợn
mở lợn đen to ra”[12,tr.153]. Em như đồ thừa ở đây, một mình lạnh lẽo trong những
cái chăn rách và không ai tin tưởng ở em cả. Với cô bé hạnh phúc đơn giản là được ăn
no. Em cũng khát khao được có mẹ, em cần tình thương và hơi ấm, sự dịu dàng của
người mẹ. Nếu em có mẹ thì em sẽ không bị đánh đập và chửi bới, em sẽ được đến
trường và sẽ được ăn kẹo như Điti. Em ước rằng mẹ sẽ tới và mang em đi, mang em đi
khỏi những con người độc ác và ti tiện này. Rồi tất cả những người lớn đó đều hết đời

12


dưới tuyết, hết rồi sự chuyển động của họ, hết rồi sự độc ác, hết rồi sự dã man, chỉ còn
lại em bé mồ côi. Đây là nhân vật đại diện cho sự bất hạnh, cô bé bất hạnh ngay từ khi
mới sinh ra và cuộc đời đã không cho một đời đã cho em một chuỗi ngày đầy rẫy sự
bất hạnh. Sau những trận đòn roi cô bé chỉ biết im lặng và khóc, khóc cho số phận và
em ước rằng giá như mình có mẹ thì mẹ sẽ mang em đi. Tác giả đã dành cho cô bé mồ
côi bằng lòng cảm thượng sâu sắc. Thương cho những số phận mồ côi luôn phải chịu
những nỗi bất này sang nỗi bất hạnh khác. Qua đó tác giả đã vẽ ra ước mơ của những
đứa trẻ mồ côi nhà nước đó là chỉ cần có mẹ và chỉ cần được ăn no.
1.2.1.2 Bọn trẻ nhà Đuđasơ
Bọn trẻ nhà Đuđasơ gồm có năm đứa và xuất hiện đồng thời. Tác giả không miêu
tả trực tiếp nhóm nhân vật này mà cho chúng xuất hiện gián tiếp qua nhân vật trung
tâm đó là em bé mồ côi Trơre. Nhà Đuđasơ có 5 đứa con không kể em bé mồ côi
người nhà nước. Đứa lớn nhất là Giôsơco con trai lớn, đứa bé nhất là Rôđi cùng tuổi
với Trơre, còn lại là Guli, Mari, Misơco. Tất cả chúng đều đã đi học và được bố mẹ
thương yêu được ngủ trong những cái chăn ấm và chẳng phải làm việc gì cả vì tất cả
mọi việc em bé mồ côi đã làm cho rồi. Chúng chỉ việc đến trường học và về nhà vui
chơi và phá phách. Chúng luôn miệt thị em bé mồ côi, chúng nó cười em bảo em là
ngu ngốc vì không thích uống sữa, chúng đồng lõa với nhau trong việc ăn cắp chiếc áo
của em bé mồ côi vì chúng là anh em ruột thịt. “Bọn trẻ cười sao em ngốc thế,em

không cần đến sữa tươi. Dù chúng nó có nài ép,em cũng không cần”. “Đứa con gái
lớn nhất nháy mắt bằng giọng nói bí mật như thể nó đã đồng lõa trong việc ăn cắp
chiếc áo sơ mi của đứa trẻ mồ côi cũng không phải anh em ruột thịt như chúng,em chỉ
là người Nhà nước”[12,tr.14].Chúng luôn bày ra những trò chơi phá phách và kết thúc
bằng sự chửi mắng, chúng vắt luôn sữa bò để uống khi bà mẹ không có ở đó. Cô bé
Điti là người khôn nhất vì cô bé luôn kể lại mọi chuyện với mẹ. Chúng luôn phân biệt
đối xử với đứa trẻ người nhà nước, chúng nhìn em bằng con mắt khinh bỉ và chê cười
“ Những đứa trẻ chuẩn bị đến trường cười to, nhìn vào em bé mồ côi đang đứng trần
truồng trước hiên nhà. Khuôn mặt em méo xệch đi, em nhìn đăm đăm vào cái áo của
mình, cái áo bây giờ em không thể thấy bởi trên người Rô đi còn có thên cái áo khoác
nữa”[12,tr.13]. Chúng luôn được ăn no, được mặc ấm được sợ hãi được đói được rét
con cô bé người nhà nước kia thì không.Tác giả đã cho những nhân vật này xuất hiện

13


bên cạnh nhân vật Trơre để người đọc thấy được sự đối lập và mâu thuẫn giữa cuộc
đời, giữa cái ác và cái thiện, giữa sự cao sang và thấp hèn, giữa bóng tối và ánh sáng.
1.2.1.3 Điti
Điti là con gái riêng của bà Veruê, gia đình thứ ba nhận nuôi Trơre. Điti lớn tuổi
hơn cô bé mồ côi, Điti mười hai tuổi. Nhân vật này xuất hiện ở thánh ca thứ bảy nhưng
tính cách nhân vật này được tác giả thể hiện rất rõ và mục đích của tác giả cũng muốn
làm nổi bật thêm cho nhân vật Trơre. Theo như lời của cô bé mồ côi thì Điti đến từ
Pets và không ai khác đó chính là con gái riêng của Muter, Fater không có liên quan gì
đến cô con gái, ông ta cũng chưa từng nói chuyện với nó. Nhân vật này được tác giả
miêu tả ngoại hình đó là có mái tóc màu vàng và tương đối xinh nhưng mỗi tội là quá
lòng khòng. Cô bé khác biệt hoàn toàn với Trơre em bé mồ côi nhà nước đó là muốn
gì được nấy, được thương yêu chiều chuộng. Điti luôn kiếm chuyện với cô bé mồ côi,
luôn nhìn em bằng sự hằn học. Nó luôn chê Trơre bẩn thỉu và hôi hám, nó luôn nói
những điều xấu về cô bé nhà nước. Cái gì nó cũng luôn được Muter bênh vực và cái gì

đó cũng được phần hơn. Lúc nào ăn cơm nó cũng nói rằng “Mẹ cho con mồ côi này
hốc làm gì lắm thế. Nó có trả tiền đâu”[12,tr.161]. Tuy mới 12 tuổi nhưng Điti đã học
được cái tính độc ác và ti tiện của bà Veruê. Nó chẳng bao giờ chia sẽ cho ai cái gì, nó
luôn ăn một mình những thứ ngon lành mà chẳng bao giờ cho người khác “Lần nào
đến cửa hàng, túi Điti cũng đầy kẹo, em phải đi bên nó. Trên đường, Điti nhá kẹo
mềm,còn em thì rõ nước dãi mà không được ăn”[12,tr.170]. Điti chẳng phải làm việc
gì ở nhà cả, nó chỉ việc ăn kẹo và gây sự chửi bới tới em bé mồ côi. Bà Veruê rất bênh
vực nó và đó là điều dĩ nhiên vì nó là con gái riêng của bà ta mà. Mỗi lần nó nói
chuyện gì hay là gây sự điều gì với Trơre thì cô bé tội nghiệp mồ côi luôn phải chịu
một trận đòn bằng cây đập bụi đến chảy máu. Nhân vật này chỉ xuất hiện vẻn vẹn ở
thánh ca thứ bảy nhưng cũng làm nó đọc giả căm ghét, nó luôn có tất cả còn em bé mồ
côi thì không. Nhân vật này được tác giả xây dựng đối lập với cô bé mồ côi để nhấn
mạnh thêm sự tương phản giữa hai tuyến nhân vật.
1.2.2 Nhóm nhân vật người lớn
1.2.2.1 Nhân vật phụ nữ
Bà Đuđasơ là bà mẹ thứ nhất đã nhận nuôi đứa trẻ người nhà nước. Một người
đàn bà gầy gò, khô quắt, luôn mang chiếc tạp dề to và nhô ra một cách kỳ quặc. Bà mẹ
một lúc săn sóc sáu đứa con và sự quan tâm đó đầu tiên là rít lên bằng thứ giọng than

14


thở, mệt mỏi và lên lớp về đạo đức: “Gía mà quỷ tha ma bắt chúng may đi”[12,tr.11].
Công việc của bà là dậy sớm và cho bọn trẻ đến trường và cho gà lợn ăn. Bà mẹ quý
hóa đó đã nuôi thêm một đứa trẻ người nhà nước ngoài việc nuôi lợn nuôi gà để kiếm
thêm nguồn lợi cho mình.Việc nuôi đứa trẻ người nhà nước thì hàng tháng nhà nước
phải trả cho bà ta thêm tám Pengguê, ngoài ra vào màu xuân và mùa thu, Nhà nước
còn cấp cho một chiếc áo và một đôi tất nữ dài, một áo khoác ngắn. Mùa đông nhà
nước cấp một cái khăn to, bền làm bằng len và một đôi giày trẻ con. Những thứ này bà
sẽ lấy cho những đứa con của bà và quả thật chúng rất cần thiết. Và để mặc cho em bé

mồ côi trần truồng trong sương lạnh bà ta còn không cho embé mồ côi đi học. Bà mẹ
hiểu rẳng: “ Giữa thời buổi khó khăn, thóc cao gạo kém thì mọi thứ đều cần phải biết
quý trọng” [12,tr.12]. Bà luôn dành những lời lẻ cay nghiệt và đay nghiến đứa trẻ
người nhà nước và luôn tiết kiệm mọi thứ, bà luôn mặc những bộ đồ đã nhàu nát cũ
kỷ. Việc nuôi gà nuôi lợn là để kiếm thêm nguồn thu nhập nhưng bà ta cũng rất tiết
kiệm với chúng và tiết kiệm đến từng hạt cám. Bà ta phát cho đứa trẻ nhà nước một
chiếc bánh mỳ dính đầy cám lợn và bắt Trơre phải ăn nó thật tiết kiệm sau đó dắt con
bò Bôrisơ ra đồng đến tối mới được về.Và phải chăn con bò tuyệt đối không để nó đạp
lên góc nho hay ăn lúa mỳ. Bà ta luôn bỏ đói em bé mồ côi và đánh đập, chửi bới đứa
trẻ mồ côi nếu nó phạm lỗi hày làm gì trái ý bà, sau đó bắt đứa trẻ hôn lên bàn tay thô
kệch và nổi những mạch máu gớm giếc đó. Bà Đuđasơ ghê gớm là thế nhưng rất sợ
chồng. Rất nhiều lần bà bị chồng đánh, ông đánh bà bằng gậy bằng gôn và đạp mạnh
lên thân thể bà những lúc như thế bà ta chỉ biết bỏ chạy “ Cô bé không tin là bà mách
với bố tôi. Bởi lẻ không riêng gì bọn trẻ con, mà chính bà cũng sợ ông ta. Ông ta chưa
đánh ai nhiều như đánh vợ. Ông ta đánh vợ bằng gậy bằng côn. Kể cả những lúc bà ta
bỏ chạy, ông cũng ném theo cái côn như người mục đồng ném theo con bò, và cái côn
rơi trúng vào người bà. Mẹ tôi lúc đó ngã xuống đất, và ông chồng dẫm lên người bà,
ông dùng mũi chân đá và đạp mạnh lên thân thể bà [12,tr.26]. Bà ta chỉ làm những
việc mà cảm thấy có lợi cho bà ta. Khi cô bé mồ côi bị thương bà rửa nước mối, băng
vết thương cho em, dặn các con để yên cho em ngủ, đắp chăn cho em. Nhưng tất cả
cách ứng xử đó của bà mẹ cũng chỉ là giả tạo bà ta chỉ làm những cái gì có lợi cho bà
ta mà thôi. Khi nghe bà lớn hỏi: “tại sao con bé ở trần như vậy?”. Bà mẹ trả lời:
“Không sao, bản tính nó vẫn thế đấy ạ. Cứ mặc quần áo cho nó là nó bứt ngay ra khỏi

15


người. Ở đây không ai nhìn thấy, vả lại, có có lạnh đâu... Nó không chịu được các loại
quần áo...”
. Khi gặp bà lớn, mẹ không nói những câu đại loại như: “quỷ tha ma bắt mày đi,

hoặc thối thịt mày ra” mà mẹ nói những câu như "bé ngoan', "bồ câu", "thiên thần của
mẹ"... Đó chính là một sự giả dối trong tính cách của bà mẹ, bà ta chỉ nuôi em bá mồ
côi để kiếm tiền. Người ta đã trả tiền cho bà ta để bà ta nuôi đứa trẻ mồ côi.
Bên cạnh người mẹ đầu tiên độc ác và luôn tín toán đó là nhân vật Dobo Mari.
Nhân vật này là người mẹ ở gia đình thứ hai nhận nuôi em bé mồ côi nhà nước. Bà ta
vẫn còn rất trẻ và rất xinh đẹp qua lời kể của em bé mồ côi: “Em thấy một người còn
trẻ, mặt như quả táo thế này mà lại muốn có một đứa trẻ người nhà nước. Từ trước
đến nay em vẫn luôn tin là người ta chỉ trao trẻ mồ côi cho những người già nhăn
nheo,nhưng người này hãy còn có hai cái má tròn mà quả táo mùa đông cũng không
rắn và đỏ hơn được” [12,tr.89]. Cô ta có mái tóc màu vàng, đôi mắt xanh, có cái mông
to và có giọng nói sắc sảo và nói oang oang. Cô ta hoàn toàn là người phụ nữ thượng
lưu và mặc những bộ đồ trang trọng. Dobo Mari đi giày và dùng cả bít tất dài, luôn
mặc những chiếc áo choàng mới và sạch sẽ. Chị ta cũng là một con người giả tạo. Lúc
đầu khi nhận nuôi đứa trẻ bà ta dùng những lời âu yếm ngọt ngào với em như là “Con
gái của mẹ”. Nhưng chỉ ngày sau đó bà ta đã bộc lộ bản chất thật của mình thật là ghê
gớm thật của mình: “Ôi trời ơi, mày là đồ chó chết, mày sẽ không được ngủ với tao
nữa, đồ chó chết, mày làm bẩn hết giường của tao rồi” [12,tr.92]. Bà ta bắt đứa trẻ mồ
côi dậy vào lúc ba giờ để lừa lợn ra đồng. Cô ta cho em mặc áo quần bởi vì những thứ
đó cô ta không cần, thế nhưng cô ta không mua nổi cho em một đôi dép, cô bé mồ côi
vẫn đi chân trần trong màn sương lạnh giá. Cô ta luôn chửi bới cô bé mồ côi khi em
phát âm sai hoặc làm điều gì trái ý cô ta.Nhân vật này cũng là người ti tiện. Cô ta chỉ
làm những gì có lợi cho cô ta mà thôi. Nhũng cái gì mà sinh lợi thì cô ta sẽ cho nó ăn.
Cô ta quẳng cho gà vịt ăn một lượng thức ăn thoải mái để chúng béo tròn và cũng đã
tính toán từ nguồn lượi mà nó mang tới. Những cây mận cây táo cô cũng đem đi bán
sạch và không cho những người làm lẫn em bé mồ côi cũng không được ăn. Những
người làm việc cho cô ta là những thứ không thể mang đi bán được nên cũng không
được ăn. Cô ta chỉ làm những việc cảm thấy có lợi cho bản thân mình mà thôi.
Đối với cô bé mồ côi thì chị ta luôn đánh đập em bằng những thanh gỗ và đánh
mạnh đến nỗi những thanh gỗ bị toác ra. Trước mặt người khác bà ta tỏ ra là người


16


phụ nữ nhân hậu với những cử chỉ hành động nhẹ nhàng và những lời nói âu yếm với
cô con gái nuôi. Chị ta chửi cô bé như chưởi những bụi cây hay là chửi những con chó
và chị ta luôn miệng chửi, chị ta đánh em toác đầu đến chảy máu, chị trở nên càng dữ
tợn khi chi ta có con. Chị ta quan tâm em bằng cách rửa cho em bằng thuốc tẩy khi em
bị thương và luôn miệng nói những lời giả dối “Ôi ,chúa đã hại con tôi bằng bệnh còi
bẩn thỉu này đây”. Chị ta đấm đứa trẻ nhà nước gãy răng và dặn cô bé là nói với bác sĩ
là bị bò húc, một con người thật là độc ác đến ghê tởm. Đối với bác thợ dệt thì cô ta
còn độc ác hơn nhiều lần. Cô ta cướp hết đất đai và tiền bạc, đốt nhà rồi giết vợ của
bác thợ dệt và bắt bác về để làm nô lệ. Cô ta cho bác thợ già ở chuồng bò, suốt ngày
phải làm việc quần quật và không cho ăn thứ gì cả. Cô ta đã làm giàu bằng cách cướp
hết đất đai và ruộng vườn của bác thợ dệt đáng thương và cũng giết luôn cả vợ lão. Cô
ta độc ác hơn khi bịt miệng bác thợ già bằng cách cho bác ta uống bát thuốc độc để
không còn than thở điều gì được nữa. Để làm giàu người ta không từ một thủ đoạn nào
cả kể cả việc giết người.
Bổ sung cho kiểu nhân vật này là nhân vật phụ nữ còn có người mẹ ở gia đình
thứ ba nhận nuôi đứa trẻ mồ côi người nhà nước. Nhân vật Muter còn có tên gọi
làVeruê, là vợ của ông thợ máy. Bà Veruê có một cô con gái riêng 12 tuổi và không có
con chung với chồng nên đã tới xin bà lớn một đứa trẻ mồ côi của nhà nước. Bà ta rất
là sợ chồng, hằng ngày bà phải lo cơm nước cho chồng đúng giờ. Bà ta cũng là một
người rất biết tính toán trong việc nhận nuôi một đứa trẻ mồ côi người nhà nước để dễ
dàng sai bảo. Bà ta chẳng quan tâm gì nhiều đến đứa trẻ mồ côi. Bà ta cũng như những
bà mẹ khác đều có tính toán khi nhận nuôi một đứa trẻ người nhà nước. Bà ta nhận em
về để em đi chăn lợn và để sai vặt cho nhanh. Và rồi cũng như những bà mẹ nuôi khác
và ta luôn chửi bới khi đưá trẻ mồ côi làm gì trái ý bà ta bà ta dùng cái đập bụi để đánh
đứa trẻ mồ côi. Đánh tới mức đôi bàn tay của cô bé trở nên xanh tím, những bắp chân
còn trở nên xanh lơ, xanh lục. Bà ta còn trừng phạt đứa trẻ bằng cách cho nó quỳ lên
những hạt ngô và còn không cho cô bé ăn cả bữa tối.Tuy vậy và ta lại rất yêu thương

và chiều chuộng cô con gái riêng của mình. Bà ta chiều chuộng muốn gì được nấy, bà
ta sẵn sàng dùng cái đập bụi để đánh cô bé mồ côi nếu cô con gái quý hóa của bà ta
muốn thế.
Bên cạnh những bà mẹ nuôi quý hóa Móricz Zsigmond đã khéo léo bổ sung thêm
một nhân vật, đại diện cho tầng lớp phụ nữ thượng lưu thời bấy giờ đó là nhân vật bà

17


lớn. Nhân vật này không có cái tên cụ thể, người ta chỉ gọi bà lớn, bà ta làm việc ở Hội
trẻ em mồ côi. Nhân vật này xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm nhưng chỉ là một
nhân vật phụ. Công việc của bà ta đó là phân phát những đứa trẻ mồ côi cho những gia
đình cần nó và lâu lâu đến kiểm tra xem chúng thế nào. Đây cũng là một kiểu nhân vật
giả tạo, bà ta luôn mồm bảo những bậc phụ huynh khi nuôi những đứa trẻ mồ côi rằng
phải cho chúng đến trường, rằng không được cho nó để truồng...nhưng bà ta cũng đã
ăn bớt những đồ dùng của những đứa trẻ mồ côi tội nghiệp. Khi giao cô bé Trơre cho
gia đình đứa Đuđasơ lẻ ra bà lớn phải đưa hai chiếc áo sơ mi, hai đôi tất, hai cái áo
khoác nhưng bà ta đã đưa mỗi thứ một chiếc và bà lớn con dọa bà mẹ rằng nếu nói
nhiều sẽ đưa đứa trẻ ra khỏi nhà. Chẳng ai biết bà ta cất số con lại vào việc gì. Bà ta
cũng tỏ ra là một người có nhân cách cao thượng thế nhưng bản chất thật của nhân vật
này cũng nhiều lần bị lộ rõ trong mắt người đọc. Đó là khi Dôphi người ở Dobo mari
đem cô bé mồ côi tới trả kèm theo khúc dăm bông thì bà ta nhìn khúc dăm bông rồi
mĩm cười. Móricz Zsigmond đã rất khéo léo trong việc miêu tả ngoại hình của nhân
vật bà lớn nhằm mục đích che giấu đi tính cách bên trong của bà ta.
Móricz Zsigmond đã xây dựng hệ thống nhân vật người lớn, những nười phụ nữ
với những tính cách vô cùng độc ác nhỏ nhen và ích kỉ. Họ có những nét tính cách
giống nhau trong bản chất ai cũng muốn nhận lợi ích cho bản thân mình. Qua đó tác
giả đã vẽ nên một bức tranh xã hội thời bấy giờ với những con người trở nên man rợ,
nhỏ nhen và lạc hậu. Họ sống và chỉ biết đến lợi ích của bản thân mình.
1.2.2.2. Nhân vật đàn ông

Bên cạnh bà Đuđasơ là nhân vật ông bố Đuđasơ là người bố trong gia đình nhận
nuôi đứa trẻ mồ côi. Ông ta là một người đàn ông vũ phu, luôn đánh vợ mỗi khi tức
giận. Là một ông bố nhưng những biểu hiện của nhân vật này toàn giả tạo. Ông bố
Đuđasơ cũng có thân hình gầy gò, ông bị sứt mất một cái chân to và đen và cũng
chẳng bao giờ đi dép. Ông luôn ôm ấp, sờ soạng đứa trẻ mồ côi nhà nước và dặn cô bé
rằng không được nói cho ai biết cả nhưng lại bỏ cục than đang đỏ lửa vào tay em khi
cô bé lỡ ăn cắp một trái dưa hấu chỉ vì đói bụng. Ông ta hành động một cách thô bạo
“Bây giờ tôi sẽ dạy cho con lợn này một bài học, để nó không bao giờ ăn cắp nữa”
[12,tr.28]. Ngoài bộ mặt của một ông bố tỏ vẻ rất thương con thì ông ta con thể hiện là
người rất tồi tệ và xấu xa, bỉ ổi và vô liêm sỉ. Loại nhân vật này đại diện cho tầng lớp
nông dân Hungari trong xã hội thời bấy giờ bị ăn mòn về đạo đức và nhân cách.

18


Bổ sung cho kiểu nhân vật này là nhân vật Xennhesơ. Nhân vật này là ông bố ở
gia đình thứ hai nhận nuôi đứa trẻ mồ côi, là chồng của Dodo Mari, tên đây đủ là
Xennhesơ Pherenxơ. Ông ta khi nào cũng mang giày thể thao, không đi ủng và mặc
quần áo như những ông lớn thật sự. Trên đầu thì lúc nào cũng có cái mũ đội lệch sang
một bên. Tính cách của nhân vật này đó là một gã ti tiện. Để làm giàu thì anh ta bất
chấp mọi thủ đoạn, tham gia vào nhũng cuộc dành giật lớn. Anh ta không cần đếm xỉa
tới những lời bàn tán hay những lời khen chê của người khác “ Để làm giàu cần một
người mặt trơ trán bóng không cần đếm xỉa đến những lời khen chê của kẻ khác: Anh
ta được miễn tất cả ,anh ta tích lũy ... anh ta tằn tiện, người ta nói anh ta như vậy và
họ không chờ đợi gì anh ta cả . Không đợi tặng phẩm, của bố thí, và lẽ phải. Ông chủ
tằn tiện hứa với thợ gặt 3kg mỡ súc (trong khi bố ông ta là người không tằn tiện đã
cho họ những 5kg ) nhưng chỉ cho 2kg và ông ta biện bạch rằng cả rổ nữa là 3kg
[12,tr.132]. Ông ta tằn tiện tới mức không trả tiền công cho công nhân và biện lý do là
do công việc không xong . Ông ta bắt người làm của mình làm việc cả đêm và còn
tặng thêm cho họ những lời chửi rủa, mắng nhiếc. So với bà vợ của mình thì nhân vật

này còn tằn tiện và ích kỷ hơn nhiều lần. Ông ta rất biết cách lợi dụng trẻ con Nhà
nước, dù chửi Trơre nhưng hắn ta vẫn xin bà lớn thêm một đứa trẻ mồ côi nữa. Ông ta
rất khôn trong việc tính toán bởi vì nuôi những đứa trẻ mồ côi của nhà nước để chăn
lợn quả thật là rất tốt. Gia đình anh ta từ bố mẹ cho đến ông bà ai cũng cưới về một cô
vợ vui vẻ và tốt nhất là cũng biết tằn tiện. Anh ta cứ để mặc cho vợ làm những việc ti
tiện. Ông chồng này luôn làm mọi việc thay cho vợ, ông ta làm việc không ngừng
nghỉ. Làm cả những việc của đàn bà và thậm chí còn nấu nướng “Mọi việc đã có
chồng chị ta làm, cái ông chồng ấy là người- có quỷ mới thấy loại người như vậy- làm
việc không nghỉ, thích cả những côn việc đàn bà, gã cũng nấu nướng. Đến việc nấu
nướng của Dôphi cũng làm tất, nếu gã thấy[12,tr.125]. Hắn ta là kiểu nhân vật đàn
ông đại diện cho tầng lớp thượng lưu thời bấy giờ. Tính ti tiện và tính toán quả thật
không ai bằng.
Bổ sung cho kiểu nhân vật này còn có ông Fater là người cha trong gia đình thứ
ba nhận nuôi em bé mồ côi,tên của ông ta là :Milucasơ. Ông là một người thợ máy, là
chồng của bà Veruê. Fater có ngoại hình to béo bẩn thỉu và có cái bụng rất bự, bộ râu
thì được tỉa rất gọn gẽ. Người đàn ông này không có con và lúc nào cũng nhìn vợ một
cách rất cau có và rất khắt khe trong chuyện cơm nước. Bữa ăn của ông ta phải có thịt,

19


ông ta sẽ không ăn cơm nếu không có thịt, lúc ăn cơm phải có rượu vang. Cơm trưa
nữa lít, cơm tối nữa lít, điều đặc biệt là ông ta phải ăn đúng giờ, nếu quá giờ cơm thì
hắn ta sẽ không ăn nữa. “Không thể nói được Fater, vì hễ không thích cái gì là ông ta
hất khỏi bàn xuống đất; ví như ông ta đổ nồi khoai tây tẩm bột ớt khi không thấy có
lạp xưởng trong đó. Hoặc cơm trưa không chuẩn bị đúng giờ ngọ thì ông ta sẽ không
thèm ăn nữa”[12,tr.163]. Ông ta luôn sai cô bé mồ côi đi mua rượu và bắt cô bé phải
xách những can rượu nặng đến cả mười lít về nhà trong đêm tối. Ông ta làm việc ở nhà
máy xay xát, ông ta là thợ máy và ông ta đã ăn xén đồ ở chỗ làm việc để làm giàu
thêm cho mình. Lão lấy cả ngô, cám bột và con chở cả than. Lão chẳng bao giờ để tâm

đến ai cả kể cả vợ và những người xum quanh.
Góp phần làm sinh động hơn cho tác phẩm là nhân vật bác thợ dệt Trômôrơ.
Nhân vật này chỉ xuất hiện trong hai thanh thứ sáu và thứ bảy nhưng đã đẩy nội dung
câu chuyện lên phần sâu sắc hơn. Chính nhân vật này đã cho chúng ta thấy được bức
tranh về xã hội Hungari thời bấy giờ. Trước đây bác ta làm nghề thợ dệt và bị phá sản.
Bác ta bị vợ chồng Dobo Mari lấy hết đất đai và nói rằng sẽ nuôi bác ta lúc về già, thế
nhưng họ không cho bác ấy ăn, bác ta phải tự nấu ăn bằng khoai sống tự đào lên và
nằm cạnh phân chồng, suốt ngày chỉ biết làm việc và làm việc. Bác ấy cũng là một đứa
trẻ mồ côi của nhà nước, không có cha mẹ và những kẻ bảo mẫu tốt bụng đã lấy hết
những gì bác ta có. Cuộc đời bác thợ dệt này cũng có nhiêu nỗi phiền muộn và bực
nhọc mà lâu nay bác không thể than thở cùng ai cho đến khi gặp đứa trẻ mồ côi nhà
nước. Chính nhà nước đã lấy đi của bác ta tất cả và đẩy bác ta đến bờ vực của sự
nghèo khổ. Con người khắc khổ này đã kể về cuộc đời đầy khắc khổ của mình và ông
đã nhận ra rằng: “Ai có người bảo mẫu là nhà nước thì họ phải nghĩ hai lần trước khi
muốn ra đời”. Nhà nước đã cứu vớt những con người khốn khổ như bác và khi bác bắt
đầu giàu có thì nhà nước đã cướp hết tất cả. Bác thợ dệt cũng mồ côi, không cha không
mẹ và không có ai thân thích nên bác ấy rất yêu thương cô bé bé mồ côi. Bác ấy nhận
ra rằng những đứa trẻ mồ côi như bác ấy và như cô bé mồ côi, đáng nhẽ ra đừng nên
sinh ra trên cõi đời này thì có lẽ sẽ tốt hơn. Đây có lẽ nhà nhân vật người lớn tốt bụng
mà có nhiều bi kịch nhất trong tác phẩm.
Đây là một tiểu thuyết có khá nhiều nhân vật. Ngoài những nhân vật mà chúng
tôi đã hệ thống ở trên thì còn có một số nhân vật người lớn khác xuất hiện trong tác
phẩm. Kođorơtrơ Isơtvan: là hàng xóm nhà Đuđasơ. Lão già này luôn nhìn cô bé mồ

20


côi nhà hàng xóm với con mắt thèm thuồng, lão luôn cười và nháy mắt với cô bé hàng
xóm. Lão già này còn đến dọa ma đám trẻ con nhà hàng xóm và bị ông bố Đuđasơ bắn
chết. Đây là kiểu người đê tiện đại diện cho sự mục nát của xã hội. Ngài ra còn có lão

Kođorơtrơ Pisơto: là hàng xóm phía tay phải nhà Đuđasơ, là lính ở mặt trận về và có
tính cánh thô bạo. Lão ta đã ăn nho và còn đánh cô bé nhà hàng xóm đến chảy máu.
Đây là kiểu nhân vật độc ác và bạo lực. Nhân vật Dôphi: là người làm cho nhà Dobo
Mari, chị ta làm việc và cũng không được trả một đồng lương nào cả đay là kiểu nhân
vật nhu nhược và sống phụ thuộc. Những nhân vật trong tác phẩm “Đứa trẻ mồ côi”
đều mang những nét tính cách riêng mà không thể xen lẫn ở đâu cả. Mỗi loại nhân vật
đều có những suy nghĩ hành động và ngôn ngữ nhất định. Đây là những nhân vật phụ
góp phần tô đậm thêm bản chất của đất nước Hungari đương thời, một xã hội mà bản
chất của con người đã bị biến chất hoàn toàn.
1.3. Nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật
Nhân vật văn học có chức năng khái quát những tính cách, hiện thực cuộc sống
và thể hiện quan niệm của nhà văn về cuộc đời. Khi xây dựng nhân vật, nhà văn có
mục đích gắn liền nó với những vấn đề mà nhà văn muốn đề cập đến trong tác phẩm.
Vì vậy, tìm hiểu nhân vật trong tác phẩm, bên cạnh việc xác định những nét tính cách
của nó, cần nhận ra những vấn đề của hiện thực và quan niệm của nhà văn mà nhân vật
muốn thể hiện. Chẳng hạn, khi nhắc đến một nhân vật, nhất là các nhân vật chính,
người ta thường nghĩ đến các vấn đề gắn liền với nhân vật đó. Nhân vật văn học là một
hiện tượng nghệ thuật có tính ước lệ, có những dấu hiệu để nhận biết: tên gọi, những
dấu hiệu về tiểu sử, nghề nghiệp, những đặc điểm riêng...và đặc biệt muốn xây dựng
hình tượng nhân vật cần phải dựa trên: tính cách, ngôn ngữ và hành động.
1.3.1 Tính cách nhân vật
Móricz Zsigmond đã rất khéo léo khi xây dựng tính cách nhân vật trong mối
quan hệ giữa ngoại hình và hành động. Mỗi nhân vật trong tác phẩm đều thể hiện tính
cách rất riêng biệt và không ai giống ai cả. Tác giả đã đưa những con người hiện thực
vào tác phẩm để người đọc có thể nhận ra rằng có những con người rất gần với cuộc
sống hằng ngày. Trong tác phẩm “Đứa trẻ mồ côi” tác giả xây dựng nhân vật đứa trẻ
mồ côi với số phận bất hạnh và đáng thương. Một cô bé luôn bị đánh đập bởi những
ông bố hay bà mẹ nuôi vô tâm. Cô bé đáng thương phải gồng mình lên chịu đựng
những sống gió và cuộc đời mang tới. Một cô bé đáng thương luôn phải trần truồng


21


×