Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Giáo trình lịch sử giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 71 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT
F7G

GIÁO TRÌNH

LỊCH SỬ GIÁO DỤC
VIỆT NAM

NGUYỄN GIA PHU - 1999


Lòch sử Giáo dục Việt Nam

-1-

MỤC LỤC
CHƯƠNG 1. CHẾ ĐỘ GIÁO DỤC VÀ THI CỬ CỦA VIỆT NAM THỜI PHONG
KIẾN ............................................................................................................................. 3
I. NHẬN THỨC VỀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIÁO DỤC CỦA GIAI CẤP PHONG KIẾN VIỆT
NAM: ............................................................................................................................. 3
II. TRƯỜNG HỌC : .......................................................................................................... 4
1. Các lớp học thời Bắc thuộc : ............................................................................. 4
2. Trường học thời Lý Trần :.................................................................................. 6
3. Trường học thời Lê Nguyễn : ............................................................................. 7
III. TÌNH HÌNH THI CỬ Ở VIỆT NAM THỜI PHONG KIẾN : .............................. 13
1. Tình hình thi cử từ năm 1075-1396 .................................................................. 13
2. Tình hình thi cử từ năm 1396-1463: ................................................................. 16
3. Chế độ khoa cử từ năm 1466-1919................................................................... 17
IV. CUỘC VẬN ĐỘNG CẢI CÁCH GIÁO DỤC CỦA CÁC SĨ PHU YÊU NƯỚC:
.................................................................................................................................... 26
1. Hoàn cảnh lòch sử : .......................................................................................... 26


2. Đông Kinh nghóa thục: ..................................................................................... 27
CHƯƠNG 2. NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM THỜI PHÁP THUỘC ...................... 30
I. CHÍNH SÁCH GIÁO DỤC CỦA PHÁP Ở VIỆT NAM : .................................................. 30
II. CHẾ ĐỘ GIÁO DỤC CỦA PHÁP Ở VIỆT NAM TỪ 1861-1945. ................................. 31
1. Các trường học ở nam Kỳ từ 1861-1886. ......................................................... 31
2. Chế Độ Giáo Dục Của Pháp Việt Nam Từ 1886 - 1917 .............................. 33
3. Chế Độ Giáo Dục Của Pháp Việt Nam Từ 1917-1945 ................................ 36
CHƯƠNG 3. TÌNH HÌNH GIÁO DỤC THỜI CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM,
TRONG VÙNG PHÁP TẠM CHIẾM VÀ Ở MIỀN NAM VIỆT NAM. .............. 45
I. TÌNH HÌNH GIÁO DỤC THỜI CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM :.................................. 45
II. TÌNH HÌNH GIÁO DỤC TRONG VÙNG PHÁP TẠM CHIẾM TỪ NĂM 1948 ĐẾN NĂM
1954: ........................................................................................................................... 46
1. Bậc Trung học :................................................................................................ 46
2. Bậc Đại học : ................................................................................................... 47
III. TÌNH HÌNH GIÁO DỤC Ở MIỀN NAM VIỆT NAM TỪ 1954-1975............................ 47
1. Tiểu học và Trung học : ................................................................................... 47
2. Đại học và Trung học chuyên nghiệp : ............................................................ 49
CHƯƠNG 4. NỀN GIÁO DỤC CỦA NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
VÀ CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM ............................................ 55
I. CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ CHÍNH PHỦ VỀ GIÁO DỤC : ....................................... 55
1. Xóa nạn mù chữ : ............................................................................................. 55
2. Đánh giá cao tầm quan trọng của giáo dục : .................................................. 58
II. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG :....................................................... 61
1. Giai đoạn từ năm 1945-1950: .......................................................................... 61
2. Giai đoạn từ 1950-1956.................................................................................... 62
Nguyễn Gia Phu

Khoa Lòch Sử



Lòch sử Giáo dục Việt Nam

-2-

3. Giai đoạn từ năm 1956- 1981: ......................................................................... 63
4. Giai đoạn từ 1981 đến nay : ............................................................................. 63
5. Những thay đổi ở bậc giáo dục phổ thông theo luật giáo dục :....................... 63
III. ĐẠI HỌC VÀ TRUNG HỌC CHUYÊN NGHIỆP. ........................................................ 64
1. Giai đoạn từ 1945 – 1954................................................................................. 64
2. Giai đoạn 1955-1965........................................................................................ 65
3. Giai đoạn từ 1965-1975.................................................................................... 66
4. Giai đoạn 1975 đến nay : ................................................................................. 67

Nguyễn Gia Phu

Khoa Lòch Sử


Lòch sử Giáo dục Việt Nam

-3-

Chương 1. CHẾ ĐỘ GIÁO DỤC VÀ THI CỬ CỦA VIỆT NAM

THỜI PHONG KIẾN

I. Nhận thức về tầm quan trọng của giáo dục của giai cấp phong kiến Việt Nam:
Dân tộc Việt nam rất hiếu học và học rất giỏi. Nền giáo dục Việt nam có lòch
sử từ lâu đời.
Nước ta từ thời Văn Lang Âu – Lạ c đã có nhà nước, nhưng tình hình giáo dục

thời kỳ này như thế nào không thể khảo cứu được. Năm 111 TCN, nước ta bò nội
thuộc đế quốc Tây Hán. Trước đó, năm 136 TCN, vua Tâ y Hán là Vũ Đế tuyên bố
”bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật” Nho gia vốn là trường phái tư tưởng rất coi
trọng việc giáo dục, do đó đến thời kỳ này việc học tập ở Trung quốc càng được đề
cao. Sau khi thống trò nước ta, quan cai trò của triều Hán đã truyền bá chế độ giáo dục
của Trung quốc sang nước ta, chữ Hán trở thành văn tự dùng trong giáo dục, các sách
do các nhà Nho ở Trung quốc soạn thành tài liệu học tập.
Sau khi giành được độc lập, các triều đại phong kiến Việt Nam quán triệt tư
tưởng Nho giáo, rất coi trọng việc giáo dục, vì họ nhận thức được rằng đó là biện
pháp chủ yếu để đào tạo nhân tài cho đất nước.
Chính vì thế, từ năm 1070, vua Lý Thánh Tông cho dựng văn miếu. Năm 1076,
vua Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc tử giám bên cạnh văn miếu.
Đến đời Lê, từ vua đến quan cũng đều cho rằng :” Sự nghiệp trò nước lớn lao
của đế vương không gì cần kíp hơn nhân tài, điển chương chế độ đầy đủ của nhà nước
tất phải chờ ở các bậc hậu thánh. Là bởi trò nước mà không lấy nhân tài làm gốc, chế
tác mà không dựa vào thánh nhân đời sau thì đều chỉ là cẩu thả tạm bợ mà thôi, sao
có thể đạt tới chính trò phong hóa phồn vinh, văn vật điển chương đầy đủ” (1)
(Văn bia do Đỗ Nhuận soạn năm 1484).
Nói về sự coi trọng việc giáo dục của triều Lê ngay từ buổi đầu dựng nước,
trong Kiến văn tiểu học, Lê Quý Đôn viết :
“Năm Mậu Thân , niên hiệu Thuận Thiên thứ nhất (1428), hạ chiếu trong nước
dựng nhà học, dạy dỗ nhân tài, trong kinh có Quốc tử giám, bên ngoài có nhà học các
phủ. Nhà vua thân hành chọn con cháu các quan và thường dân tuấn tú sung bổ vào
học các cục chầu cận, chầu ở ngự tiền và sung vào giám sinh Quốc tử giám, lại hạ
lệnh cho viên quan chòu trách nhiệm tuyển rộng cả con em nhà lương gia ở dân gian
sung vào sinh đồ ớ các phủ để dạy bảo.”
Trên cơ sở khuyến khích việc học tập. Nhà Lê còn rất chú ý đến việc thi cử để
tuyển chọn nhân tài.
Năm 1434, Lê Thái Tông hạ chiếu nói :


(1 ) :

Đại Việt sử ký toàn thư. Tập II. NXB KHXH. 1985. Tr. 494.

Nguyễn Gia Phu

Khoa Lòch Sử


Lòch sử Giáo dục Việt Nam

-4-

“Muốn có được nhân tài trước hết phải chọn lựa kẻ só, mà phép chọn lựa kẻ só
phải lấy thi cử làm đầu. Nhà nước ta từ thửơ xưa loạn lạc, người anh tài như lá mùa
thu, bậc tuấn kiệt như sao buổi sớm. Thái tổ ta trước, ban đầu dựng nước, mở mang
nhà học hiệu, dùng cỗ thái lao đề tế Khổng Tử, rất mực sùng Nho, trọng đạo. Nhưng
vì nước mới dựng nên chưa kòp đặt khoa thi. Trẫm nối theo chí hướng người xưa, lo
được nhân tài để thỏa lòng mong đợi.” (1)
Đến thời Nguyễn, năm 1814, Gia Long cũng nói :
“Học hiệu là nơi chứa nhân tài , phải giáo dục có căn bản thì mới có thể thành
tài, trẫm muốn bắt chước người xưa, đặt nhà học để nuôi học trò ngõ hầu văn phong
dấy lên, hiền tài đều nổi để cho nhà nước dùng (2)
Năm 1827, Minh Mạng nói với đình thần rằng :
“Trẫm từ khi thân chinh đến nay, chưa từng lúc nào không lấy việc đào tạo
nhân tài làm việc ưu tiên… Đế vương ngày xưa dùng người có phải vay mượn nhâ n
tài ở đời khác đâu.”
Do nhận thức như vậy, các triều đại thường thi hành những chính sách khuyến
khích việc học tập và đỗ đạt.
Năm 1486, nhà Lê quy đònh những người làm thuê làm mướn có biết chữ và có

Ty Thừa tuyên bản xứ chuẩn cho thì được miễn sung quân.
Năm 1488, vua Lê Thánh tông lại hạ chiếu cho “các só nhân đã từng đi học,
biết làm văn, có hạnh kiểm đã thi đỗ và được miễn tuyển thì miễn cho nửa phần thuế
và sai dòch.”
Đối với những người đỗ đạt, nhà nước phong kiến có ý thức dùng nhiều biện
pháp để làm thêm sự vinh quang của họ như tổ chức lễ vinh quy rất long trọng, dựng
bia Tiến só ở văn miếu.
Mặc dầu thời phong kiến, do đời sống của đại đa số nông dân rất khổ cực,
những người có điều kiện đi học không nhiều, những người có thể đỗ đạt lại càng ít,
nhưng so với các nước trên thế giới lúc bấy giờ, nước ta là một trong số rất ít nước có
nền giáo dục có quy củ và tương đối phát triển.
II. Trường học :
1. Các lớp học thời Bắc thuộc :

Những tài liệu lòch sử sớm nhất nói về tình hình giáo dục ở nước ta gắn liền
với tên tuổi các Thái thú của Trung quốc như Tích Quang, Nhâm Diên, Só Nhiếp.
dân”.

Tích Quang là Thái thú Giao chỉ đầu thời Đông hán “đã lấy lễ nghóa dạy

1

( ) Đại Việt sử ký toà n thư. Tập II, NXB KHXH . 1985. Trang 320
2
( ) Đại Nam thự c lục chính biê n. Gia Long năm thứ 13

Nguyễn Gia Phu

Khoa Lòch Sử



Lòch sử Giáo dục Việt Nam

-5-

Nhân Diên là Thái thú Cửu Chân “dạy dân khai khẩn ruộng đất “để cày
cấy” “dân nghèo không có sính lễ cưới vợ, Diên bảo các Trưởng lại trở xuống bớt
bổng lộc ra để giúp đỡ, cùng một lúc lấy vợ có đến 2.000 người.” (1)
Song song với việc truyền bá lễ nghóa là việc mở trường học khuyến khích
việc học tập.Trong bài sớ của Thái thú Hợp Phố là Tiết Tổng dâng lên vua Ngô là
Tôn Quyền năm 231 có nói :
“… Triệu Đà nổi dậy ở Phiên Ngung, vỗ về thần phục được vua Bách Việt, đó
là miền đất về phía Nam quận Châu Nhai, Hiếu Vũ (nhà Hán), giết Lữ Gia, mở 9
quận đặt chức Thứ sử ở Giao Chỉ, dời những người phạm tội ở Trung quốc sang ở
lẫn vào các nơi ấy, cho học sách ít nhiều, hơi thông hiểu lễ hóa. Đến khi Tích
Quang làm Thái thú Giao Chỉ, Nhâm Diên làm Thái thú Cửu Chân, dựng nhà học,
dẫn dắt bằng lễ nghóa. Từ đấy trở đi (tức từ thời Triệu Đà về sau), hơn 400 năm,
dân tựa hồ đã có quy củ”.(2)
Trong quá trình ấy, tại Luy Lâu, Long Biên đã mở các trường học để đà o tạo
con em quan lại đô hộ và tầng lớp trên người Việt. Kết quả, trong thời kỳ này đã
đào tạo được một số người Việt Nam có học vấn để bổ sung vào hàng ngũ quan
lại, trong đó tiêu biểu là Trương Trọng, Lý Cầm, Lý Tiến.
Đời Hán Minh Đế (58-75), Trương Trọng được cử làm kế lại (kế toán) ở
quận Nhật Nam, được thay mặt Thái thú đến kinh đô tâu bày công việc với vua,
sau được cử làm Thái thú Kim Thành.
Thế kỷ II, Lý Tiến được làm chức Công tào (phụ trách cơ quan thủ công
nghiệp) ở quận, sau được thăng làm Thái thú Linh Lăng, đến năm 184 được làm
Thứ sử Giao Châu. Lý Tiến còn xin cho một số người Việt khác được công nhận là
Hiếu liêm. Mậu tài và được làm Trưởng lại ở Giao Châu, nhưng không được làm
quan ở Trung Nguyên vì sợ “hay chê bai bắt bẻ triều đình”.

Lý cầm thì được làm túc vệ ở kinh thành Lạc Dương, về sau làm đến chức
Tư lệ hiệu úy.
Trong số các quan cai trò Hán tộc, Só nhiếp (Thái thú Giao Châu cuối thời
Đông Hán đầu thời Tam Quốc) là người có vai trò quan trọng nhất trong việc phát
triển giáo dục ở nước ta. Vốn là một người độ lượng, trọng kẻ só, nên danh só Hán
tránh nạn sang nương tựa có đến hàng trăm người. Nhiều người trong số đó như
Lưu Hi, Hứa Tónh đã mở trường dạy học ở Luy Lâu, Long Biên. Vì những hoạt
động ấy, đời sau đã đề cao Só Nhiếp một cách quá đáng, tôn ông làm “Nam giao
học tổ” (ông tổ của việc ở nước Nam). Ngô Só Liên, tác giả Đại Việt sử ký toàn
thư cũng đánh giá rằng :
“Nước ta thông Thi, Thư, học Lễ Nhạc làm một nước văn hiến là bắt đầu từ Só
vương, công đức ấy không những chỉ ở đương thời mà còn truyền mãi đến đời sau,
há chẳng lớn sao?
(1) Đại Việt sử ký toà n thư. Tập I. NXB KHXH. 1983. Trang 144.
(2) Đại Việt sử ký toà n thư. Tập I. NXB KHXH. 1983. Trang 157

Nguyễn Gia Phu

Khoa Lòch Sử


Lòch sử Giáo dục Việt Nam

-6-

Thời Tam quốc (220 –280) và thời Tấn (265 – 420), nhiều người Trung quốc
tiếp tục sang ta mở trường học. Thời Tôn Quyền (222-252), Ngu Phiên bò đày sang
Giao Châu, “tuy là thân tù tội nhưng giảng học không biết mỏi”. Đỗ Tuệ thời Tấn ,
Tống (420-479) cũng chăm mở mang trường học để truyền bá Nho giáo. Tình hình
đó đến đời Đường lại càng phát triển. Ngoài việc học tập ở nước ta, một số người

còn được sang học ở Kinh đô Trường An của Nhà Đường.
Như vậy, thời Bắc thuộc, việc học ở nước ta đã ngày một phát triển.
2. Trường học thời Lý Trần :

Tình hình giáo dục thời Ngô, Đinh, Tiền Lê vì thiếu tư liệu lòch sử nên không
biết được rõ ràng. Qua một số tài liệu ít ỏi có thể biết rằng lúc bấy giờ các lớp học
được mở trong các chùa. Ví dụ : Lý Công Uẩn lúc còn nhỏ, theo học ở các chùa
Lục Tổ, tức là Chùa Cổ Pháp ở Bắc Ninh. Ngoài các lớp học do nhà chùa mở,
trong dân gian có mở trường học / hiện nay không thể xác đònh được. Chỉ biết
rằng, lúc bấy giờ có một số nhà sư có học vấn cao như Ngô Chân Lưu, Đỗ Thuận,
Vạn Hạnh… Do vậy, Ngô Chân Lưu được Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng và Lê
Đại Hoàng phong làm tăng thống và được mời tham dự triều chính như một vò cố
vấn của vua. Sư Đỗ Thuận cũng được Lê Đại Hành sử dụng làm cố vấn và có khi
còn được cử ra đón tiếp sứ giả. Nhưng ngoài các nhà sư còn có rất nhiều trí thức
khác được đảm nhiệm các trọng trách trong triều đình và ở các đòa phương. Ngay
từ thời Ngô, sau khi lên ngôi, Ngô Quyền đã “đặt trăm quan, chế đònh triều nghi
thẩm phục”. Các triều Ngô Đinh Lê nhiều lần sai sứ giả sang Trung quốc.
Như vậy, mặc dầu tình hình giáo dục thời kỳ này như thế nào không biết
được cụ thể nhưng kết quả là đã đào tạo được một đội ngũ đủ khả năng cáng đáng
các công việc đối nội và đối ngoại của nhà nước.
Từ thời Lý về sau, cùng với sự phát triển của Nho giáo ở Việt Nam, chế độ
giáo dục cũng càng ngày càng có nề nếp.
Từ năm 1070, vua Lý Thánh Tông (1054-1072) bắt đầu “làm văn miếu, đắp
tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ Phối, vẽ tượng Thất thập nhò hiền, bốn mùa
cúng tế. Hoàng tử đến học ở đây.” (1)
Năm 1076, Lý Nhân Tông (1072 –1128) cho thành lập Quốc tử giám bên
cạnh văn miếu, “chọn quan viên văn chức, người nào biết chữ cho vào Quốc tử
giám” (2)
Đến thời Trần, năm 1236, Quốc tử giám đổi tên thành Quốc tử viện, cho con
em các quan văn vào học.

Năm 1253, Trần Thái Tông (1225-1293) “lập Quốc học viện, đắp tượng
Khổng Tử, Chu Công, Á Thánh (Mạnh Tử), vẽ tranh 72 người hiền để thờ.” (3)

(1 ) Đại việt sử ký toà n thư.
(2 ) Đại việt sử ký toà n thư.
(3 ) Đại việt sử ký toà n thư.

Nguyễn Gia Phu

Khoa Lòch Sử


Lòch sử Giáo dục Việt Nam

-7-

Ngay sau đó, vua Trần “xuống chiếu vời nho só trong nước đến Quốc tử viện
giảng tứ thư lục học”(1)
Năm 1281, thời Trần Nhân Tông (1279-1292), nhà Trần lại mở thêm nhà học
ở phủ Thiên trường.
Cuối thời trần, năm 1397, nhà Trần đặt chức giáo thụ ở các châu trấn. Lời
chiếu của vua Trần Thuận Tông viết :
“Đời xưa, nước có nhà học, đảng có nhà tự, Toại có nhà tường là để tỏ rõ
giáo hóa, giữ gìn phong tực, ý trẫm rất chuộng như vậy.
Nay quy chế ở kinh đô đã đầy đủ, mà ở Châu huyện thì có thiếu, làm thế nào
rộng đường giáo hóa cho dân? Nên lệnh cho các phủ lộ Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải
Đông, đều đặt một học quan, ban cho quan điền theo thứ bậc khác nhau : phủ
châu lớn thì 15 mẫu, phủ châu vừa 12 mẫu, phủ châu nhỏ 10 mẫu để chi dùng cho
việc học trong phủ châu mình (một phần để cúng ngày mùng một, một phần cho
nhà học, một phần cho đèn sách). Lộ quan và quan đốc học hãy dạy bảo học trò

cho thành tài nghệ, cứ đến cuối năm thì chọn người ưu tú tiến cử lên triều đình,
trẫm sẽ thân hành thi chọn và cất nhắc”.
Ngô Só Liên nhận xét về việc ấy như sau :
“Bấy giờ có chiếu lệnh này, còn gì tốt đẹp bằng thế nữa? Nhưng lệnh này
không thấy thi hành, vì không phải là bản ý của nhà vua, mà vì Quý Ly muốn làm
việc cướp ngôi, mượn việc ấy để thu phục lòng người mà thôi”.
3. Trường học thời Lê Nguyễn :

Trường học quốc lập chủ yếu ở kinh đô vẫn là Quốc tử giám. Ngoài ra còn
có một số trường khác dành riêng cho những đối tượng đặc biệt.
a. Quốc tử giám :
Việc điều hành trường Quốc tử giám đời Lý như thế nào không có tư liệu
nói rõ. Thời Trần được biết qua là người đứng đầu Quốc tử giám gọi là Tư
Nghiệp. Chu Văn An được cử làm Quốc tử tu nghiệp. Đến thời Lê các quan
chức quản lý và giảng dạy, học sinh, chế độ dạy và học ở trường Quốc tử giám
mới được biết tương đối rõ ràng.
Đầu thời Lê, người đứng đầu Quốc tử giám gọi là Tế Tửu (hiệu trưởng);
giáo viên có các chức Trực giảng, Bác só, Giáo thụ. Đến thời Lê Thánh Tông,
còn đặt thêm chức Ngũ kinh bác só. Từ thời trung hưng về sau (thời Lê Trang
Tông 1533-1548), bỏ chức Ngũ kinh Bác só, các chức khác đều như cũ.
Học sinh Quốc tử giám gọi là giám sinh. Khi mới lập, giám sinh là con
vua và các đại thần. Thời Trần, mở rộng cho con em các quan lại khác và dân
thường. Trước khi có các cấp thi hương thi hội, giám sinh không có hạn đònh về
học lực, về sau, những người thi trượt Thái học sinh được vào học ở đây.

(1 ) Đại việt sử ký toà n thư.

Nguyễn Gia Phu

Khoa Lòch Sử



Lòch sử Giáo dục Việt Nam

-8-

Ví dụ: Kỳ thi Thái học sinh năm 1305, có 44 người đỗ, còn 330 người
trượt được vào học trường Quốc tử giám.
Thời Lê Thánh Tông, giám sinh trường Quốc tử giám gọi là sinh viên ba
xá. Đó là những người đã đỗ hương cống và thi hội đỗ một hay hai kỳ gọi là
trung xá sinh, đỗ một kỳ gọi là hạ xá sinh.
Tổng số xá sinh là 300 người (mỗi xá 100 người). Các xá sinh được nhà
nước cấp học bổng: thượng xá sinh mỗi tháng một quan, trung xá sinh mỗi
tháng 9 tiền, hạ xá sinh mỗi tháng 8 tiền.
Về chế độ dạy và học ở trường Quốc tử giám, theo “trò bình bảo phạm”
do vua Lê Tương Dực (1509-1511) ban hành chế độ học tập của giám sinh được
quy đònh như sau:
Mỗi tháng giảng hai kỳ, nội dung là giảng kinh truyện.
Tập làm văn : Mỗi tháng 4 kỳ. Đúng ngày quy đònh, học trò đến chép đề
về nhà làm, hẹn 5, 6 hôm thì nộp bài để chấm.
Cũng có khi làm bài tại lớp, hạn trong ngày phải làm xong. Các bài văn
được đánh giá theo bốn bậc là : ưu (giỏi), bình (khá), thứ (trung bình), liệt
(kém). Thứ còn được chia thành “thứ mác” và “thứ cộc” (trung bình kém).
Học sinh vào các ngày mùng một và rằm phải mặc mũ áo đúng quy đònh.
Học sinh phải cố gắng học tập và tuân thủ học quy, nếu vi phạm sẽ bò phạt, cụ
thể là : Người nào dám cầu may bên cạnh (nhìn bài), rong chơi đường sá, trễ bỏ
việc học, thiếu điểm một lần thì phạt 140 tờ giấy trung chỉ, thiếu điểm hai lần
thì phạt 200 tờ giấy trung chỉ, thiếu điểm 3 lần thì đánh 40 roi, thiếu điểm 4 lần
thì tâu lên bộ Hình xét hỏi, thiếu điểm 1 năm thì bắt sung quân.
Học sinh nội trú nếu vắng qua đêm hoặc nghỉ một hai ngày đều phải xin

phép xá và trường. Các con em quan lại trong triều được ngoại trú nhưng hàng
ngày phải có mặt từ sáng để học tập.
Thời gian học tập là 3 năm để thi hội. Nếu không đỗ, ở lại học chờ thi
khoa sau cho đến khi đỗ.
b. Các trường Quốc lập khác ở kinh đô:
Ngoài Quốc tử giám, thời Trần còn có Tư Thiện đường là nhà học của
thái tử. Thời Lê, số trường thuộc loại này có Ngự tiền cận thò cục, Chiêu văn
quán, Tứ lâm cục, Trung thư giám, Sùng văn quán.
Ngự tiền cận thò cục là trường đào tạo các quan lại lớp dưới. Học sinh
mãn khóa phải dự một kỳ thi do Bộ Lại tổ chức. Người trúng tuyển được bổ làm
Huyện thừa.
Chiêu văn quán là trường dành riêng cho con cái quan nhất nhò phẩm và
con trưởng của quan tam phẩm. Học sinh theo học ở đây được gọi là “nho sinh”
Tứ lâm cục là trường dành riêng cho con các quan từ tam phẩm đến bát
phẩm. Người học cũng được gọi là “Nho sinh”

Nguyễn Gia Phu

Khoa Lòch Sử


Lòch sử Giáo dục Việt Nam

-9-

Trung thư giám là trường đào tạo thư lại. Tiêu chuẩn tuyển sinh là
những người đã trúng tuyển trong các kỳ thi viết và thi toán. Người học được
gọi là “Hoa văn học sinh”.
Sùng quán văn là trường dành riêng cho con em quý tộc và quan lại cao
cấp. Sau 3 năm học tập, học sinh ở đây phải dự một kỳ thi do Bộ Lại tổ chức.

Nội dung thi gồm có 1 bài ám tả và 2 bài kinh nghóa lấy trong Tứ thư. Người
trúng tuyển được sung vào các chức văn võ, như vậy không phải qua thi hương
thi hội mà cũng được làm quan.
Thời Nguyễn, năm 1803, trường Quốc tử giám được lập ở Huế gọi là nhà
Quốc học. Năm 1821, Minh Mạng lại đổi nhà Quốc học thành quốc tử giám.
Các giám sinh được cấp học bổng.
Bên cạnh Quốc tử giám còn có một số nhà học khác gồm các nhà học của
vua, của các hoàng tử và con cháu các hoàng thân và được gọi bằng nhiều tên
khác nhau.
Về nhà học của vua, năm 1810, Gia Long sai dựng điện Dưỡng Tâm để
làm nơi đọc sách.
Năm 1821, Minh Mạng xây thêm nhà Trí Nhân Đường để đọc sách và
sáng tác.
Năm 1848, Tự Đức mở viện Tập Hiền để nghe giảng bài. Nhà học này
khai giảng vào ngày tốt sau khi tế Nam giao . Mỗi tháng vua học 6 ngày vào
các ngày 2,8,12,18,22,28; nghỉ học 2 tháng (tháng 11 và tháng 12)
Nhân viên làm việc ở đây gồm :
2 Giảng quan
6 Nhật giảng quan.
4 Chuyên viên bút thiếp.
Năm 1887, Đồng Khánh cho xây Thái Bình Ngự Lãm Thư Lâu làm nơi
cất giữ sách và đọc sách. Ít lâu sau bò hỏng. Năm 1919, Khải Đònh cho làm lại,
đặt tên là Thái Bình Lâu. Nhà này cũng là nơi vua tự học. Nhà học của các
hoàng tử lúc đầu chỉ có tập Thiện Đường, lập năm 1817.
Năm 1823, Minh Mạng đặt các giáo quan :
Giáo đạo (quan văn tam phẩm trở lên)
Tán thiện 2 người (quan văn tứ ngũ phẩm)
Bạn độc 4 người (quan văn lục thất phẩm)
Nội dung học tập từ tiểu học trở lên, sách học từ Minh tâm bảo giám đến
Tứ thư Ngũ Kinh.

Về sau, số hoàng tử tăng lên nhiều nên mở thêm nhiều nhà học mới :
Dưỡng Chính, Quảng Thiện, Quảng Phước, Quảng Nhân, Quảng Học, Càn
Đông.
Nguyễn Gia Phu

Khoa Lòch Sử


Lòch sử Giáo dục Việt Nam

- 10 -

Tự Đức còn mở 3 nhà học cho 3 người con nuôi của mình là Dục Đức
Đường, Chánh Mông Đường và Dưỡng Thiện Đường.
Nhà học của con cháu các hoàng thân có Tôn Học Đường do Tự Đức
thành lập năm 1851. Học sinh ở đây gồm có con cháu các hoàng thân tuổi từ
12-25 và chắt của vua từ 12 tuổi trở lên, sau đổi từ 10-35 tuổi.
Học sinh ở đây được cấp học bổng : hạng nhất 5 quan, hạng nhì 4 quan,
hạng ba 3 quan, hạng tư 2 quan.
Cuối mỗi quý mỗi năm có xếp hạng : ưu, bình , thứ, liệt và có phần
thưởng.
Tôn Học Đường đến năm 1871 thì bỏ vì học sinh nghỉ nhiều hơn học nên
giao cho gia đình quản lý.
c. Các trường Quốc lập ở các đòa phương :
Năm 1397, Hồ Quý Ly lấy danh nghóa vua Trần Thuận Tông ra lệnh mở
trường học ở các lộ và đặt chức Giáo thụ để quản lý việc giáo dục nhưng việc
đó chưa kòp thực hiện.
Đến thời Lê các trường học ở phủ huyện mới được thành lập ở xung
quanh kinh đô và vùng đồng bằng. Trông coi việc học ở phủ là Giáo thụ, ở
huyện là Huấn đạo.

Trường học phủ huyện đặt ở văn chỉ (1) của phủ huyện hoặc ở công đường
phủ huyện. Trường tập hợp học sinh vào những ngày sóc vọng hàng tháng để
giảng kinh sử, làm văn, chấm bài, và bình văn.
Trước khi có khoa thi, học sinh có thể được tập trung vài tuần để ôn luyện
và tham gia kỳ thi khảo khóa để được tuyển vào danh sách những người dự thi
hương.
Theo thống kê của Quốc sử quán triều Nguyễn thời Tự Đức (1864-1875),
nước ta có 31 tỉnh và đạo, chia làm 321 phủ và huyện. Số trường học phủ huyện
trong cả nước có 158 trường, tính trung bình cứ 2 huyện có 1 trường.
d. Trường tư thục ở nông thôn:
Các trường tư thục là cơ sở đào tạo chủ yếu của nước ta thời phong kiến.
Những trường lớp này được mở khắp các thôn xóm. Lớp học là nhà riêng của
thầy hoặc của nhà chủ nuôi thầy.
Thầy giáo là những thầy đồ không có điều kiện học cao, hoặc thi không
đỗ, các ông tú, những người đỗ đạt nhưng không muốn làm quan hoặc đã từ
quan… Học trò gồm nhiều lứa tuổi, từ ấu học cho đến những người đủ trình độ
để đi thi.
Nội dung học tập gồm những quyển sách được biên soạn để dạy chữ và
lồng vào một ít lễ nghóa, lòch sử… . Như : Nhất thiên tự, Tam thiên tự, Ngũ thiên

( ) Vă n chỉ : Nơi thờ Khổ ng Tử.

Nguyễn Gia Phu

Khoa Lòch Sử


Lòch sử Giáo dục Việt Nam

- 11 -


tự, Tam trò kinh, Tứ tự kinh, Minh tâm bảo giám, Minh đạo gia huấn, Sơ học
vấn tân, Ấu học ngũ ngôn thi… .
Những quyển sách dạy chữ vỡ lòng thường được viết bằng văn vần cho
học sinh dễ nhớ. Ví dụ :
Thiên trời, đòa đất, vân mây
Vũ mưa, phong gió, trú ngày, dạ đêm.
Tinh sao, lộ móc, tường điềm
Hưu lành, khánh chúc, tăng thêm, đa nhiều.
(Nhất thiên tự).
Hoặc : Thiên trời, đòa đất, cử cất, tồn còn, tử con, tôn cháu, lục sáu, tam
ba, gia nhà, quốc nước
(Tam thiên tự).
Tam tự kinh là một quyển sách mỗi câu đều có 3 chữ tất cả có 358 câu,
nội dung chủ yếu đề cập đến các vấn đề như tầm quan trọng của việc học, đạo
đức, kiến thức thường thức, lòch sử ..
Ví dụ :
Dưỡng bất giáo, phụ chi quá
Giáo bất nghiêm, sư chi đọa
Tử bất học, phi sở nghi
Ấu bất học, lão hà vi
Ngọc bất trác, bất thành khí
Nhân bất học, bất tri lý.
Nghóa là :
Nuôi không dạy là lỗi của cha
Dạy không nghiêm là lỗi của thầy
Người không học, không biết cư xử
Nhỏ không học, già làm gì
Ngọc không dũa, không thành đồ dùng
Người không học, không biết đạo lý

Ấu học ngũ ngôn thi gồm 278 câu, nói về thú vui của việc học tập và niềm
hy vọng về sự đỗ đạt, do đó, còn gọi là Trạng nguyên thi. Trong sách có những
câu như :
Di tử kim mãn doanh

Nguyễn Gia Phu

Khoa Lòch Sử


Lòch sử Giáo dục Việt Nam

- 12 -

Hà như giáo nhất kinh
Tính danh thư quế tòch
Chu tử liệt triều khanh
Nghóa là :
Để cho con vàng đầy rương
Sao bằng dạy cho một quyển sách
Họ tên chép vào sổ quế (danh sách người thi đậu)
Mặc áo đỏ tía đứng cùng các quan trong triều.
Minh tâm bảo giám (cái gương quý làm sáng lòng) gồm 20 thiên, là
quyển sách sưu tập các câu cách ngôn chép trong các kinh truyện và các sách
dạy tu dưỡng đạo đức.
Tiếp đó, học sinh phải học các sách kinh điển của nhà Nho gồm Tứ thư
(Luận ngữ, Mạnh tử, Đại học, Trung dung) Ngũ kinh (Thi, Thư, Lễ, Dòch, Xuân,
Thu), Hiếu Kinh, các tác phẩm lòch sử, thơ, phú…
Từ khi bắt đầu học đến khi có thể đi thi học sinh phải qua 4 cấp học :
mông học, ấu học, trung tập, đại tập.

Mông học tức là cấp vỡ lòng. Học sinh bắt đầu học chữ, học tập viết, bắt
đầu tập làm câu đối 4 chữ. Cấp này kéo dài khoảng vài ba năm.
Sau khi học xong giai đoạn mông học, học sinh đã được khoảng 10 tuổi
bắt đầu chuyển sang giai đoạn ấu học. Ở giai đoạn này, học sinh được học sử
và kinh truyện, được tập làm câu đối 7,8 chữ và bắt đầu tập viết văn sách ngắn.
Sau 5,6 năm, học sinh chuyển sang giai đoạn trung tập. Ở giai đoạn này
học sinh tiếp tục học kinh truyện, học làm thơ phú, kinh nghóa, văn sách. Thầy
giáo hạng này thường là Tú tài trở lên mới dạy được.
Hết giai đoạn trung tập học sinh chuyển sang giai đoạn đại tập. Trường
này thường lập ở tỉnh hoặc phủ huyện do Giáo thụ hoặc Đốc học giảng. Nếu
trường làng do ông Nghè dạy thì học sinh không phải lên học ở trường phủ hoặc
trường tỉnh.
Tập làm văn là một môn học rất quan trọng đối với những học sinh chuẩn
bò đi thi. Mỗi tháng có 4 kỳ tập làm văn. Học sinh đến trường nhận đề về nhà
làm, 5,6 ngày sau thì nộp bài gọi là văn thường kỳ. Ngoài ra, mỗi tháng có 2 kỳ
phải làm bài tập tại lớp, một ngày phải làm xong, gọi là văn nhật khắc.
Năm nào có khoa thi, học sinh cùng làng rủ nhau làm văn hội. Quyển văn
hội làm như đi thi, do người có khoa bảng chấm. Bài nào hay nhất được nhận
giải thưởng bằng giấy hoa tiên hay bút mực.

Nguyễn Gia Phu

Khoa Lòch Sử


Lòch sử Giáo dục Việt Nam

- 13 -

Việc học tập của học sinh được cả làng quan tâm. Học sinh nào học giỏi

được làng khen. Ngược lại nhà nào có con em theo học, tuần phu đi tuần vào
ban đêm không nghe tiếng học thì làng phạt.
III. TÌNH HÌNH THI CỬ Ở VIỆT NAM THỜI PHONG KIẾN :
1. Tình hình thi cử từ năm 1075-1396

Trước năm 1075 tức là thời Bắc thuộc và thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, ở Việ t
Nam chưa có thi cử. Thời Hán, ở Trung quốc thi hành chính sách tiến cử Hiếu
Liêm và Mậu Tài. Do đó, chậm nhất là vào thế kỷ II, có một số người Việt Nam
đã được triều đình Đông Hán công nhận hai danh hiệu đó.
Thời Đường, có một số người Việt Nam đã sang trung Quốc dự thi và đã đỗ
Tiến só, được làm quan ở Trung quốc. Tiêu biểu cho số đó là gia đình họ Khương ở
quận Cửu Chân (Yên Đònh, Thanh Hóa). Người ông là Khương Thần Dực làm Thứ
sử Châu thư, hai cháu là Khương Cô ng Phụ, Khương Công Phục sang học ở Trường
An, đỗ Tiến só và được làm quan to ở Trung Quốc.
Cuối đời Đường, có lẽ là do số thí sinh Việt Nam muốn tham dự các khoa thi
ở Trung Quốc tương đối đông nên năm 845 nhà Đường quy đònh: só tử An Nam thi
khoa Tiến só không được quá 8 người, thi khoa Minh kinh không được quá 10
người.
Sau khi giành được độc lập, thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, nước ta cũng chưa có
thi cử. Vì vậy, trong “Lòch triều hiến chương loại chí”, Phan Huy Chú viết :”Nước
ta từ các đời Đinh Lê về trước, khoa cử còn thiếu, triều đình dùng người đại để
không câu nệ, có lẽ việc cân nhắc còn rộng rãi mà thực ra thì điều mục chưa được
tường”.
Đến năm 1075, lần đầu tiên nhà Lý mở khoa thi để chọn Minh kinh bác học
và Nho học tam trường. Khoa ấy Lê Văn Thònh được trúng tuyển và được “vào
hầu vua học”. (1)
Tiếp đó, nhà Lý còn tổ chức nhiều kỳ sát hạch để chọn những người biết
viết chữ, biết làm toán và hình luật để làm nhân viên hành chính. Ngoài ra nhà Lý
còn chọn người cho vào Quốc tử giám và thi người có văn học sung làm quan Hàn
Lâm Viện.

Đến thời Trần, chế độ thi cử được phát triển thêm một bước. Năm 1232, nhà
Trần tổ chức thi Thái học sinh, những người thi đỗ được chia làm 3 giáp là đệ nhất
giáp, đệ nhò giáp, đệ tam giáp. Việc chia thành 3 giáp ở Việt Nam bắt đầu từ đây.

(1) Nă m 1085, Lý Nhâ n tông (1072-1127) phong Lê Văn Thònh làm Thái sư. Nă m 1096, nhâ n
khi vua ra Hồ Tây xem đá nh cá, lợi dụ ng lúc có mâ y mù, Lê văn Thònh đội lố t hổ bơi thuyền
đế n gầ n thuyền vua. Ngườ i đá nh cá là Mục Thậ n quang lưới trùm lên con hổ, phát hiện ra là
Lê Văn Thònh vua nghó Thònh là đại thần có công khô ng nỡ giết, đà y lê n an trí ở Thao Giang
(Phú Thọ).

Nguyễn Gia Phu

Khoa Lòch Sử


Lòch sử Giáo dục Việt Nam

- 14 -

Năm 1246, sách Đại Việt sử ký toàn thư chép nhà Trần “đònh lệ thi Tiến só,
cứ 7 năm 1 khoa.” Có lẽ chữ :”Tiến só” ở đây chép nhầm mà phải viết “Thái học
sinh” mới đúng. Sang năm 1247, thì tổ chức thi và bắt đầu đặt danh hiệu tam khôi
: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Danh hiệu tam khôi bắt đầu có từ đây.
Trong kỳ thi này, Nguyễn Hiền, 13 tuổi, quê ở Hà Đông đậu Trạng nguyên, Lê
Văn Hưu 17 tuổi, quê ở Thanh Hóa đậu Bảng nhãn; Đặng Ma la 13 tuổi, quê ở Hà
Nội ngày nay đậu Thám Hoa. Đó là 3 vò tam khôi đầu tiên và cũng là 3 vò tam
khôi rất trẻ tuổi trong lòch sử khoa cử Việt nam.
Đặc biệt, Bảng nhãn Lê Văn Hưu đến đời Trần Thánh Tông (1258-1277)
được giữ chức Hàn Lâm Viện học só kiêm Quốc sử viện giám tu và được giao
nhiệm vụ soạn sách Đại Việt sử ký.

Ngoài 3 vò tam khôi, khoa này còn có 48 người đỗ Thái học sinh.
Năm 1304, thời vua Trần Anh Tông (1293-1314), người đỗ đầu đệ nhò giáp
bắt đầu được gọi là Hoàng giáp.
Khoa này, Mạc Đónh Chi quê ở Hải Dương đậu Trạng nguyên, Nguyễn
Trung Ngạn quê ở Hưng Yên, 15 tuổi, đậu Hoàng giáp.
Mạc Đónh Chi đậu trạng nguyên năm 24 tuổi, rất thông minh nhưng tướng
mạo xấu xí, vua có ý chê, ông dâng bài phú Ngọc tỉnh liên (sen trong giếng ngọc)
làm cho vua rất khâm phục. Trong thời gian làm quan, ông được cử đi sứ Trung
quốc hai lần, do đối đáp giỏi, vua quan nhà Nguyên cũng rất khâm phục, gọi ông
là “Lưỡng quốc trạng nguyên”.
Nguyễn Trung Ngạn là vò Hoàng giáp đầu tiên trong lòch sử khoa cử Việt
Nam. Ông từ nhỏ đã nổ i tiếng học giỏi, người đương thời gọi là thần đồng. Năm 25
tuổi cũng được cử đi sứ nhà Nguyên. Do thông minh, có tài, ông có làm bài thơ tự
phụ, dòch ra quốc ngữ như sau :
Giới Hiên tiên sinh tài lang miếu
Có chí nuốt trâu từ niên thiếu
Tuổi mới mười hai Thái học sinh
Vừa đến mười sáu dự thi Đình
Hai mươi bốn tuổi làm Quan giám
Hai mươi sáu tuổi sứ Yên kinh
(16,24,26 tuổi nói trong bài thơ này đều tính cả tuổi mụ, thực chất là
15,23,25 tuổi)
Năm 1374, Nhà Trần bắt đầu đặt ra danh hiệu Tiến só và lần đầu tiên sách
Đại Việt sử ký toàn thư ghi tổ chức “thi đình cho các Tiến só”.
Sách “Quốc triều hương khoa lục” của cao Xuân Dục viết :”Danh hiệu Tiến
só thì đến năm Long Khánh (1373-1377) đời Duệ Tông mới thấy có (xét trước đó
đều gọi là thi Thái học sinh, đến lúc ấy bắt đầu gọi là thi Tiến só, nhưng xem Thái

Nguyễn Gia Phu


Khoa Lòch Sử


Lòch sử Giáo dục Việt Nam

- 15 -

học sinh hạng ưu được gọi là Tam Khôi và Hoàng Giáp, còn lại đều gọi là Thái
học sinh, thì biết Thái học sinh chính là Tiến só vậy)”.
Sự phát triển của nền giáo dục và chế độ khoa cử đời Trần đã đào tạo được
một đội ngũ trí thức quan lại rất đông đảo, trong đó tiêu biểu là Đoàn Nhữ Hài,
Mạc Đónh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh, Trương Hán Siêu…
Đặc biệt, thời Trần có một nhà giáo rất nổi tiếng, đó là Chu Văn An (12921370). Ông quê ở Thanh Trì, Hà Nội, không đi thi nhưng là người có đạo đức mẫu
mực, học vấn uyên bác, là thầy giáo của nhiều người đỗ đại khoa và được làm
quan to ở trong triều. Trong số đó, có Phạm Sư Mạnh, Lê Quát tuy đã làm hành
khiển mà vẫn giữ lễ học trò, khi đến thăm thầy thì lạy ở dưới giường, được nói
chuyện với thầy vài câu rồi đi xa thì lấy làm mừng lắm. Kẻ nào xấu thì ông
nghiêm khắc chửi mắng, thậm chí la thét không cho vào.
Thời Trần Minh Tông (1314-1329), ông được vua mời làm Quốc tử giám Tư
nghiệp dạy Thái tử học. Trần Dụ Tông (1342-1369), con thứ 10 của Minh Tông
ham chơi bời, lười chính sự, quyền thần nhiều kẻ làm trái phép nước. Ông dâng sớ
chém 7 tên nònh thần, Dụ Tông không trả lời, ông liền trao áo mũ từ quan về dạy
học ở Chí Linh (Hải Dương), khi nào triều đình có việc quan trọng triệu ông đến
thì ông mới về kinh đô. Dụ Tông lại có ý đem chính sự trao cho ông nhưng ông
không nhận.
Năm 1370, Chu Văn An mất, Trần Nghệ Tông (1369-1371) sai quan đến tế,
truy tặng ông danh hiệu “Văn Trinh Công”, cho thờ ở văn miếu.
Chu Văn An là một nhà giáo dục được lòch sử đánh giá rất cao. Ngô Só Liên
đời Lê, tác giả “Đại Việt sử ký toàn thư” nhận xét:”Những nhà nho nước Việt ta
được dùng ở đời không phải không nhiều, nhưng kẻ thì chỉ nghó đến công danh,, kẻ

thì chuyên lo về phú quý, kẻ lại a dua với đời, kẻ chỉ cốt ăn lộc giữ thân, chưa có ai
chòu để tâm đến đạo đức, suy nghó tới việc giúp vua nêu đức tốt, cho dân được nhờ
ơn. Như Tô Hiến Thành đời Lý, Chu Văn Chinh đời Trần, có lẽ gần được như thế.
Nhưng Hiến Thành gặp được vua (sáng suốt) cho nên công danh, sự nghiệp được
thấy ngay đương thời. Văn Trinh không gặp vua (anh minh) nên chính học của ông,
đời sau mới thấy được. Huống chi tư thế đường hoàng mà đạo làm thầy được
nghiêm, giọng nói lẫm liệt mà bọn nònh hót phải sợ. Ngàn năm về sau, nghe phong
độ của ông , há không làm cho kẻ điêu ngoa thành liêm chính, người yếu hèn biết
tự lập được sao? Nếu không tìm hiểu nguyên cớ, thì ai biết thụy hiệu của ông xứng
đáng với con người của ông. Ông thực đáng được coi là ông tổ của các nhà Nho
nước Việt ta mà thờ vào văn miếu.”
Phan Huy Chú thời Nguyễn, tác giả bộ sách “Lòch triều hiến chương loại
chí” cũng viết :” Ông Văn Trinh học nghiệp thuần túy, tiết tháo cao thượng, được
đời ấy suy tôn, thời sau ngưỡng mộ. Tìm trong làng Nho ở nước Việt ta, từ trước
đến nay, chỉ có mình ông. Các ông khác thực không thể so sánh được “.

Nguyễn Gia Phu

Khoa Lòch Sử


Lòch sử Giáo dục Việt Nam

- 16 -

2. Tình hình thi cử từ năm 1396-1463:

Từ năm 1396 về trước, việc tuyển chọn nhân tài chỉ qua một kỳ thi mà thôi.
Năm 1396, nhà Trần đặt thêm ký thi hương và quy đònh :”cứ năm trước thi hương
thì năm sau thi hội, người đỗ thì vua thi một bài văn sách để xếp bậc”.

Tuy vậy, lúc bấy giờ nhà Trần đã hết sức suy yếu, Hồ Quý Ly đang chuẩn bò
cướp ngôi vua nhà Trần nên từ đó cho đến khi triều Trần diệt vong (tháng 2 năm
1400) không có kỳ thi nào được tổ chức.
Mãi đến tháng 8 năm 1400 tức là sau khi triều Hồ thành lập, Hồ Quý Ly mới
tổ chức kỳ thi Thái học sinh. Chính Nguyễn Trãi là một trong 20 người đã đậu
trong kỳ thi này.
Tháng 12 năm 1400, hồ Quý Ly nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương.
Năm 1404, Hán Thương đònh thể thức thi chọn nhân tài : Cứ tháng 8 năm nay
thi hương, ai đỗ thì được miễn lao dòch, tháng 8 năm sau thi ở Bộ Lễ, ai đỗ thì được
sung tuyển bổ; lại thá ng 8 năm sau nữa thì thi hội, ai đỗ thì bổ Thái học sinh. Rồi
năm sau nữa lại bắt đầu thi hương như năm trước.
Năm 1405 “ Hán Thương sai bộ lễ thi chọn nhân tài, đỗ được 170 người. Lấy
Hồ Ngạn Thần, Lê Củng Thần sung làm Thái học sinh lý hành (Thái học sinh chưa
chính thức)”.
Đầu thời Lê, ngay sau khi lên ngôi, năm 1428, Lê Thái Tổ ra lệnh cho các
quan văn võ tiến cử người hiền lương phương chính, nếu tiến cử được người giỏi
thì được thăng thưởng; nếu vì tiền tài, vì thân quen, tiến cử người không tốt thì bò
trò tội theo lệ tiến cử kẻ gian.
Cuối năm đó, Lê Thái Tổ lại ra lệnh cho các quan viên và quân dân cả nước,
hạn đến tháng 5 sang năm, đến Đông Kinh để các quan văn hỏi thi kinh sử, ai tinh
thông được bổ làm quan văn.
Năm 1429, Lê Thái Tổ ra lệnh : quân nhân các phủ lộ và những người ẩn dật
núi rừng, nếu ai quả thực thông kinh sử, giỏi văn nghệ thì đến ngày 28 tháng 5 tới
sảnh đườ ng trình diện để chuẩn bò dự kỳ thi Minh kinh, đồng thời các quan văn võ
trong ngoài, từ tứ phẩm trở xuống, người nào thông kinh sử cũng tới sảnh đường để
vào trường thi Minh kinh.
Năm 1434, sau khi lên ngôi, Lê Thái Tông đã tổ chức một kỳ thi, đã chọn
được 1000 học sinh, chia làm 3 bậc. Bậc nhất và bậc nhì được vào học trường
Quốc tử giám, bậc ba cho về học tại nhà học ở các lộ, đều được miễn lao dòch.
Những học trò ở nhà học các lộ, đến 25 tuổi mà thi không đỗ thì đuổi về làm dân.

Tiếp đó, cũng năm 1434, nhà Lê đònh rõ chế độ thi cử như sau : Bắt đầu năm
1438, tổ chức thi hương ở các đạo, đến năm 1439 thì thi hội ở sảnh đườ ng tại Kinh
đô. Từ đó về sau, cứ 3 năm thi một lần.
Tuy vậy, quy chế này chưa được thực hiện đúng kế hoạch. Năm 1438 và
1439 đều chưa tổ chức thi hương và thi hội. Đến năm 1442, nhà Lê mới tổ chức
được kỳ thi hội đầu tiên. Kỳ thi này, Nguyễn Trực, Nguyễn Như Đổ, Lương Như
Nguyễn Gia Phu

Khoa Lòch Sử


Lòch sử Giáo dục Việt Nam

- 17 -

Hộc đỗ Tiến só cập đệ, 7 người đỗ Tiến só xuất thân, 23 người đỗ đồng Tiến só xuất
thân trong đó có Ngô Só Liên.
Tiếp đó các năm 1448, 1453, 1458, 1462 nhà Lê đều tổ chức thi hội, và từ
năm 1463 bắt đầu đònh lệ 3 năm thi Hội một lần, do vậy năm 1466 lại tổ chức thi
Hội tức là đã thực hiện đúng quy chế đó (1).
Như vậy, từ năm 1396, nhà Trần bắt đầu đặt ra 3 cấp thi : Thi hương, thi hội,
thi đình. Cứ năm trước thi hương, thì năm sau thi hội, người đỗ thi hội thì vua thi
một bài văn sách để xếp bậc. Nhưng do đất nước có nhiều biến cố, việc thi cử
chưa thực hiện đúng kế hoạch ngay cả mấy chục năm đầu của thời Lê mãi đến
năm 1466 mới thực hiện đúng quy chế đã đònh.
Khái quát tình hình đó, trong bài “Tiến só đề danh bi ký” của Đàm Văn Lễ
có đoạn viết :”Lê Thái Tổ bình đònh thiên hạ, nuôi dạy anh tài, hỏi tìm rộng rãi thì
cầu người ẩn dật, thu chọn quy mô thì thi khảo học trò, tuy chưa đặt khoa thi Tiến
só mà khí mạnh văn học đã đủ. Thái Tông dựng xây nền móng, từ năm Nhâm Tuất
(1442) mở khoa thi mà nhân tài quần tụ. Nhân Tông kế tiếp mở ba khoa thi mà

nhân văn càng thêm rực rỡ. Đến Thánh Tông trung hưng năm Quý Mùi (1463) thì
số người lấy đỗ nhiều hơn so với trước. Song từ khoa Nhâm Tuất (1442) đến khoa
Quý Mùi (1463), khi thì 6 năm 1 khoa, lúc lại 5 năm 1 khoa, còn 3 năm 1 khoa thì
năm Bính Tuất này (1466) mới bắt đầu.”
3. Chế độ khoa cử từ năm 1466-1919

a. Thi sơ tuyển ở Huyện, Châu, Phủ :
Theo quy đònh của Nhà Lê ban hành năm 1462 những người muốn dự thi
phải có giấy bảo đảm của quan đòa phương về lý lòch và phải dự một kỳ thi sơ
tuyển ở huyện, châu, phủ. Những người bất hiếu, bất mục, bất nghóa, loạn luân,
điêu toa… .dù học giỏi, văn thơ hay cũng không được đi thi.
Phường chèo, con hát, và những kẻ phản nghòch, ngụy quan có tiếng xấu
thì bản thân và con cháu đều không được dự thi. Kỳ thi sơ tuyển ở đòa phương
gọi là thi khảo hạch, nội dung thi là ám tả, kinh nghóa để loại bớt những người
quá kém.
Khi dự kỳ thi sơ tuyển, nếu thí sinh mang sách hay mượn người làm hộ bài
thì bò trò tội theo luật.
Đến năm 1750, tức là vào thời Lê Hiển Tông, niên hiệu Cảnh Hưng
(1740-1786) và thời Trònh Sâm, do triều đình thiếu tiền cho nên cho phép thí

(1) Khoa nà y, Lương Thế Vinh, quê ở Nam Đònh, đậ u Trạng nguyê n, Nguyễ n Đức Trinh đậu
Bả ng nhã n, Quách Đình Bả o đậu Thá m hoa, Lê Thánh Tông đã đề thơ trê n cờ Tam Khôi như
sau :
Trạ ng nguyê n Lương Thế Vinh
Bả ng nhã n Nguyễ n Đứ c Trinh
Thá m hoa Quá ch Đình Bảo
Thiê n hạ cộ ng tri danh (cả thiê n hạ đề u biết tê n).

Nguyễn Gia Phu


Khoa Lòch Sử


Lòch sử Giáo dục Việt Nam

- 18 -

sinh được nộp 3 quan tiền gọi là “tiền thông kinh” và được miễn thi khảo hạch.
“Vì thế người làm ruộng, người đi buôn, cho chí người hàng thòt, người bán vặt
cũng đều làm đơn nộp tiền xin thi cả. Ngày vào thi đông đến nỗi dày xéo lẫn
nhau, có người chết ở cửa trường. Trong trường thi, nào mang sách, nào hỏi
chữ, nào mượn người thi thay, công nhiên làm bậy, không còn biết phép thi là gì,
những người thực tài mười phần không đậu một”. Do đó “hạng sinh đồ 3 quan
“đầy cả thiên hạ. (Phan Huy Chú- Lòch triều hiến chương loại chí).
b. Thi hương :
Thi hương là kỳ thi tổ chức ở các đòa phương. Số đòa điểm thi hương trong
cả nước không cố đònh mà thay đổi theo từng thời kỳ.
Ví dụ : Thời Lê, năm 1678, cả nước có 13 trường thi : phủ Phụng Thiê n
(Thăng Long), Lạng Sơn, Yên Quảng, Hưng Hóa, Thái Nguyê n, Kinh Bắc, Hải
Dương, Sơn Tây, Sơn Nam,Thanh Hóa, Nghệ An, Thuận Hóa, Quảng Nam.
Thời Nguyễn, tuy đất nước được mở rộng hơn thời Lê, nhưng số trường thi
chỉ có 6 trường và đòa điểm thi cũng không cố đònh.
Ví dụ: Khoa Đinh Mão (1807) là khoa thi hương đầu tiên của triều
Nguyễn, có 6 trường thi là : Nghệ An, Thanh Hóa, Kinh Bắc (sau đổi thành Bắc
Ninh), Hải Dương, Sơn Tây.
Khoa thứ 2 là khoa Quý Dậu (1813) gồm có 6 trường là : Quảng
Đức(Thừa Thiên), Nghệ An, Thanh Hóa, Thăng Long, Sơn Nam,Gia Đònh.
Như vậy, bắt đầu từ năm 1813, ở Nam kỳ có một trường thi hương là
trường Gia Đònh.
Năm 1852, lại mở thêm trường thi Bình Đònh, do đó số trường thi trong cả

nước tăng lên 7 trường: Thừa Thiên, Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Nội, Nam Đònh,
Bình Đònh, Gia Đònh.
Năm 1861, Pháp tấn công Đại Đồn, rồi chiếm Gia Đònh, Đònh Tường,
Biên Hòa. Vì vậy khoa này (Tân Dậu 1861) chỉ có 4 trường thi : Thừa Thiên
(chung cho cả trường Bình Đònh), Nghệ An, Hà Nội (chung cho cả trường Thanh
Hóa) và Nam Đònh, còn trường Gia Đònh thì ngưng hẳn.
Khoa Giáp Tý (1864), vì 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ đã nhường cho Pháp
theo hiệp đònh Nhâm Tuất 5-6-1862, nên nhà Nguyễn mở thêm trường An
Giang ở miền Tây Nam Kỳ do vậy khoa này cũng có 6 trường là : Thừa Thiên,
Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Nội, Nam Đònh, An Giang.
Năm 1867, Pháp chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ (An Giang, Vónh
Long, Hà Tiên) vì vậy từ khoa Đinh Mão (1867) này, ở Nam kỳ không còn
trường thi nữa.
Khoa Mậu Ngọ (1918) là khoa thi hương cuối cùng, chế độ khoa cử ở Bắc
kỳ sau khoa t mão (1915) đã bãi bỏ, nên ở Trung kỳ chỉ còn lại 3 trường là
Thừa Thiên, Nghệ An-Thanh Hóa và Bình Đònh.

Nguyễn Gia Phu

Khoa Lòch Sử


Lòch sử Giáo dục Việt Nam

- 19 -

Trường thi là một bãi đất trống hoặc cánh đồng đã thu hoạch. Trường thi
gồm 3 ngăn : ngăn trong cùng là nội trường, ngăn giữa là ngoại trường, ngăn
ngoài cùng là nơi thí sinh cắm lều.
Nội trường ở giữa có giám viện (nhà họp của các quan nội trường), hai

bên có nhà quan phúc khảo. Phía sau nhà quan Phúc khảo có hai nhà quan Sơ
khảo, phía sau là nhà quan Giám sát.
Ngoại trường ở giữa có thí viện là nhà họp của các quan ngoại trường.
Hai bên có nhà quan Chánh phó khảo, nhà quan Chánh phó phân khảo, nhà
Giám sát và lại phòng (phòng nhân viên). Giáp nhà ở nội trường có nhà quan
Chánh phó Đề tuyển, giữ quyền thi và khớp phách.
Ngăn ngoài cùng là trường thi, chia làm 8 vi, ngăn nhau bằng một con
đường chữ thập. Giữa đường chữ thập có nhà thập đạo. Thẳng đường thập đạo
ra đằng trước có một cửa gọi là cửa tiền dành riêng cho thí sinh làm bài xong đi
ra. Trường thi được chia thành 8 khu gọi là 8 vi. Bốn vi trước gọi là Giáp nhất,
Giáp Nhò, t nhất, t nhò. Bốn vi đằng sau gọi là Tả nhất, Tả nhò, Hữu nhất,
Hữu nhò. Mỗi vi có một cửa lên nhà thập đạo.Trước cửa cho thí sinh vào đều có
treo bảng ghi danh sách thí sinh. Trong trường thi có 3 cái chòi để các quan
Ngoại trường ngồi coi thí sinh làm bài. Các nhà dùng trong các kỳ thi trước kia
chỉ tạm dựng bằng tre lá, thi xong thì dỡ bỏ.
Từ năm 1834 nhà Nguyễn bắt đầu xây trường thi Thừa Thiên trong kinh
thành, phía cửa Ninh Bắc. Nhà cho các quan Chánh, Phó Chủ khảo, Chánh Phó
Đề điêu, Phân khảo và Thập đạo gồm bảy căn một gian hai chái :Nhà cho các
quan Giám khảo, Sơ khảo, Thể sát, Mật sát, Lại phòng ngoại trường gồm chín
căn hai chái. Nhà Thí viện, Công sả nh của quan Đề điệu, Lại phòng nội trường
gồm 3 căn 5 gian hai chái : Nhà cho các quan sơ khảo gồm 3 căn sáu gian hai
chái. Vách sau và hai bên tả hữu hai chái mỗi căn tính toán mở rộng một cửa
vòm cong hình bán nguyệt, sau cửa nới ra thêm một chỗ nhỏ làm nhà bếp.
mỗi cổng ra tới nhà quan Thập đạo giáp 4 vi Tả, Hữu, Giáp.t, và nhà quan
Giám khảo giáp nhà các quan sơ khảo, phúc khảo đều xây tường gạch ngăn ra.
Nơi 4 vi lại dựng 17 dãy mái che dài, mỗi dãy 17 gian. Phàm thi Hương thì cho
4 người vào một gian, thi hội thì cách 2 hoặc 3 gian cho một người ngồi, đều lợp
bằng ngói.
Ở Gia Đònh, Nghệ An, Hà Nội, Nam Đònh cũng căn cứ theo quy thức của
bộ gửi mà dựng trường thi, chỉ có 4 vi tả Tả Hữu, Giáp t thì để trống chứ

không dựng mái che.
Về thời gian tổ chức các kỳ thi Hương lúc đầu chưa có quy đònh, nhưng
thường là năm trước thi Hương thì năm sau thi Hội và đến năm Quý Mùi (1463)
thì bắt đầu đònh lệ 3 năm một lần thi hội. Từ đó nhà Lê cũng theo quy chế của
nhà Minh :
Thi Hương vào các năm : Tý, Mão, Ngọ, Dậu.
Thi Hội vào các năm : Sửu, Thìn, Mùi, Tuất.

Nguyễn Gia Phu

Khoa Lòch Sử


Lòch sử Giáo dục Việt Nam

- 20 -

Đến đời Nguyễn, trong thời Gia Long, cứ 6 năm tổ chức một kỳ thi hương;
bắt đầu từ năm 1825 mới thực hiện quy chế 3 năm thi một lần. Tuy vậy những
khi có biến cố chính trò thì kỳ thi bò hoãn, ngược lại nhà nước thỉnh thoảng còn
tổ chức thêm một số kỳ thi gọi là ”Ân khoa”. Đặc biệt Thiệu Trò chỉ làm vua
được 7 năm (1841-1847) mà liên tiếp mở ân khoa, đã tổ chức 5 khoa thi liền
vào các năm 1841, 1842, 1843, 1846, 1847.
Do vậy, từ khoa thi Hương đầu tiên năm 1807 đến khoa thi Hương cuối
cùng năm 1918, trong 111 năm nhà Nguyễn đã tổ chức tất cả 45 kỳ thi Hương.
Về nội dung thi, từ năm 1396, vua Trần đã hạ chiếu quy đònh thi Hương
gồm có 4 kỳ:
Kỳ thứ nhất, thi một bài kinh nghóa có các phần phá đề, tiếp ngữ, tiền
giảng, nguyên đề, đại giảng, kết luận, từ 500 chữ trở lên.
Kỳ thi thứ hai, thi một bài thơ Đường luật và một bài phú cổ thể hay thể

Ly tao cũng từ 500 chữ trở lên.
Kỳ thi thứ ba, thi một bài chiếu theo thể Hán, một bài chế, một bài biểu
theo thể tứ lục đời Đường.
Kỳ thứ tư, thi một bài văn sách, đề thi ra theo kinh, sử hay thời sự, 1.000
chữ trở lên.
Từ đó về sau, trong một thời gian dài, nội dung thi đều tương tự như vậy,
tuy có thời kỳ có thay đổi ít nhiều nhưng không đáng kể, chỉ đến kỳ thi năm
1909 nội dung thi có nhiều thay đổi so với trước. Vốn là từ năm 1884, cả nước
ta trở thành thuộc đòa của Pháp. Bên cạ nh chế độ giáo dục và thi cử cũ còn duy
trì ở Trung kỳ và Bắc kỳ, Pháp đang thi hành một chế độ giáo dục mới ở Việt
Nam. Vì vậ y, bắt đầu từ khoa Kỷ Dậu (1909), nội dung thi Hương ở 4 trường
Trung kỳ được sửa đổi như sau :
Kỳ thứ nhất , thi văn sách 10 bài (gồm kinh, truyện, bắc sử, nam sử), nếu
thí sinh làm được 5 bài (kinh 2 bài, truyện 1 bài, bắc sử 1 bài, nam sử 1 bài) là
hợp lệ, nếu làm được cả 10 bài thì càng tốt.
Kỳ thứ hai, thi thơ phú, mỗi loại một bài (như cũ)
Kỳ thứ ba, thi luận hai đề (1 đề chữ Nho, 1 đề chữ Quốc ngữ).
Nếu thí sinh nào tình nguyện thi dòch chữ Pháp ra chữ quốc ngữ thì thi
riêng một kỳ (đề thi do tòa Khâm sứ soạn)
Kỳ thứ tư gọi là kỳ phúc hạch. Nội dung thi gồm có văn sách 1 bài, phú 1
đề, luận chữ quốc ngữ 1 đề.
Riêng trường Hà Nam, việc thi thơ phú kinh nghóa đã bãi bỏ nên nội dung
thi có hơi khác:
Kỳ thứ nhất, thi văn sách 5 bài, (gồm văn chương, luân lý, Nam Bắc sử,
đòa dư và chính trò Đông Dương).
Kỳ thứ hai, thi luận chữ Nho hai đề.
Nguyễn Gia Phu

Khoa Lòch Sử



Lòch sử Giáo dục Việt Nam

- 21 -

Kỳ thứ ba, thi luận chữ quốc ngữ 2 đề.
Kỳ phúc hạch thi một bài luận chữ nho, một bài luận chữ quốc ngữ.
Do phương thức thi là phải trúng kỳ trước mới được thi kỳ sau, nên thời
gian thi Hương thường là một tháng hoặc hơn một tháng. Ngày thi Hương ở các
trường thi trong cả nước không thống nhất. Dựa vào đặc điểm thời tiết, thời
Nguyễn quy đònh các trướng Thừa Thiên , Nghệ An thi vào tháng 7 âm lòch, các
trường Hà Nội, Nam Đònh thì thi vào tháng 10, trường Gia Đònh thi vào tháng 9.
Về trường quy, chế độ khoa cử ngày xưa quy đònh hết sức nghiêm ngặt.
Thí sinh không được mang tài liệu vào trường thi, nếu vi phạm thì bò cấm
thi suốt đời.
Cụ Phan Bội Châu trong khoa thi năm Đinh Dậu (1897) bò một thí sinh
khác bỏ tài liệu vào lều của cụ nên bò án ấy. Về sau nhờ có các cụ Nguyễn
Thượng Hiền, Khiếu Nă ng Tónh, Đào Tấn xin triều đình bỏ án ấy nên đến khoa
thi Canh Tý (1900) được đi thi và đỗ giải nguyên.
Bài thi phải viết bằng chữ chân. Cả bài không được xóa, móc sót, chữa
quá 10 chỗ. Chữ viết thiếu hay thừa nét thì mắc lỗi “thiệp tích” tức là bài thi có
dấu vết lạ, bò nghi là thí sinh làm dấu hiệu riêng cho quan trường biết.
Trong khoa Nhâm Tý (1912), ở trường Bình Đònh có Trần Tuân trong bài
văn sách trên chữ “đệ” có dấu thêm vào nên bò quy lỗi”thiệp tích”, lại chép
ngược miếu hiệu, thiếu cẩn thận đối với chữ tôn quý, nên đáng lẽ đỗ Cử nhân
đã bò giáng cho đỗ Tú tài.
Phải kiêng chữ húy tức là phải kiêng tên vua và tên những người trong
vương thất. Trước ngày thi, danh sách tên húy được yết bảng. Khi làm bài, gặp
chữ trọng húy thì phải viết rời các nét, chữ khinh húy thì phải viết thiếu nét.
Nếu phạm húy thì thí sinh bò đóng gông phơi nắng 3 ngày và bò cấm thi suốt

đời. Nếu phạm trọng húy thì có thể bò tử tội, thầy giáo cũng bò liên lụy.
Khi viết bài còn phải chú ý các quy đònh như đài, trang. Đài là khi gặp
những chữ được coi là thiêng liêng như “thiên”, “giao”, “miếu”, “thánh
thượng” thì phải viết cao lên ở phía trên dòng, nếu không viết như vậy thì
phạm lỗi “khiếm đài”.
Trang là phải thể hiện sự cung kính đối với vua, như khi làm văn không
được đặt các chữ “hôn” (tối), ”sát” lên trên các chữ “quân vương”, “đế”,
“thánh thượng”… Nếu vô tình việt như vậy thì phạm lỗi “khiếm trang”.
- Về danh hiệu thi đỗ, thời Lê và đầu thời Nguyễn, thi Hương có hai
danh hiệu là Hương cống và Sinh đồ. Từ khoa Ất dậu (1825) thời Minh Mạng,
Hương cống đổi gọi là Cử nhân, Sinh đồ đổi thành Tú tài.
Tiêu chuẩn để trúng tuyển Hương cồng hoặc Cử nhân và Sinh đồ hoặc Tú
tài mỗi thời một khác. Thời Lê và đầu thời Nguyễn người trúng tam trường (tức
là kỳ thứ ba) là Sinh đồ, người trúng tứ trường (kỳ thứ tư ) là Hương cống.

Nguyễn Gia Phu

Khoa Lòch Sử


Lòch sử Giáo dục Việt Nam

- 22 -

Sau khi đổi Hương cống thành Cử nhân, Sinh đồ thành Tú tài, cách lấy đỗ
cũng như vậy, tức là trúng tam trường là Tú tài, trúng tứ trường là Cử nhân.
Thời kỳ này, chấm điểm chia làm 6 hạng : ưu, ưu thứ, bình, bình thứ, thứ,
thứ thứ. Ngoài ra còn có điểm liệt là điểm kém.
Năm 1909, bắt đầu áp dụng cách chấm điểm từ 0 – 20. Kỳ thứ nhất và kỳ
thứ hai nếu được 10 điểm là trúng tuyển, được vào thi tiếp kỳ sau. Riêng kỳ thứ

ba, được 40 điểm mới được vào phúc hạch. Điểm của kỳ thi phúc hạch phải
được 7 điểm trở lên mới đậu Cử nhân, đồng thời cộng điểm của cả bốn kỳ thi
để xếp hạng. Số còn lại cộng điểm cả 3 kỳ thi, nếu được từ 30-39 điểm thì đỗ
Tú tài, nhưng đồng thời phải theo tỷ lệ 1 cử nhân chỉ lấy 3 tú tài.
Những người đỗ thi Hương cống hoặc Cử nhân được ban mũ áo và được
đãi tiệc. Những người chỉ trúng nhò trường thì được miễn đi lính đi phu trong 3
năm, thi trúng nhất trường được miễn một năm.
Tuổi dự thi tối đa thường là 40 tuổi, riêng từ năm 1909 quy đònh tuổi dự
thi tối đa là 50 tuổi, nhưng những người đã đỗ tú tài, hoặc là tôn ấm… thì không
hạn tuổi. Vì vậy, khoa Canh Tý (1900) ở trường Nghệ An có Đoàn Tử Quang đã
từng hai lần đậu Tú Tà i, đến khoa này mới đậu Cử nhân thứ 29/30. Năm ấy,
ông đã… 82 tuổi!
c. Thi Hội :
Thi Hội là kỳ thi tổ chức ở kinh đô cho những người đã đỗ thi Hương. Đầu
đời Lê, thi ở Thăng Long, thời Lê trung hưng thi ở Thanh Hóa, thời Mạc thi ở
Thăng Long 2 lần, những lần khác thi ở ngoài Kinh đô hoặc Cao bằng, thời
Nguyễn thi ở Huế.
Trường thi vẫn là một bãi đất trống nhưng lều của thí sinh được dựng
sẵn. Năm 1664, trường thi Hội ở trước sân điện Giảng Võ. Năm 1688, trường thi
hội ở bãi sông Nhò Hà. Năm 1834, nhà Nguyễn cho xây dựng trường thi ở trong
kinh thành, bên trong dựng nhà ngói, bên ngoài bao tường gạch. Đây là vừa
trường thi Hương của đòa điểm Thừa Thiên vừa là trường thi Hội của cả nước.
Do trường thi thì rộng mà số người được vào thi Hội thì ít nên cách 2 hoặc 3
gian mới có 1 người ngồi thi.
nhân.

Thí sinh thi Hội chủ yếu là những người đã đỗ thi Hương cống hoặc Cử

Ngoài ra, giám sinh Quốc tử giám, nho sinh ở Chiêu văn quán và Tú lâm
cục, ấm sinh và tôn sinh đã qua khảo hạch, các quan chức nhỏ hoặc quân nhân

người đã đỗ tú tài đã qua sát hạch của Quốc Tử giám hoặc các quan đầu tỉnh
cũng được dự thi.
Tuy đây là kỳ thi của những người đã đỗ đạt, đã hoặc sắp trở thành quan
lại, nhưng nội quy trường thi vẫn rất nghiêm ngặt. Thí sinh chỉ được mặc 2 áo
đơn không được mặc áo kép (thường thi vào các tháng 3,4,5) và phải qua 3 lần
khám mới vào đến nơi ngồi thi.
Về nội dung thi, Thi Hội cũng gồm 4 kỳ :
Nguyễn Gia Phu

Khoa Lòch Sử


Lòch sử Giáo dục Việt Nam

- 23 -

Kỳ thứ nhất, thi kinh nghóa
Kỳ thứ hai, thi chế, chiếu, biểu
Kỳ thứ ba, thi thơ, phú
Kỳ thứ tư, thi một bài văn sách.
Năm 1434, nhà Lê quy đònh kỳ thi thứ nhất của thi Hội thi một bài kinh
nghóa, tứ thư mỗi sách 1 bài, mỗi bài đều 300 chữ trở lên. Kỳ thứ tư thi văn
sách, bài làm phải dài 1.000 chữ trở lên.
Khoa thi Hội năm Nhâm Thìn (1472) thời Lê Thánh Tông quy đònh :
Kỳ thứ nhất : 8 đề Tứ thư (luận ngữ 4 đề, Mạnh Tử 4 đề)
Thí sinh được chọn 4 đề làm 4 bài văn. Kinh Xuân Thu thì hai đề gộp làm
một mà làm.
Kỳ thứ hai: thi chế, chiếu, biểu, mỗi loại 3 đề.
Kỳ thứ ba : thi thơ phú, mỗi loại 2 đề.
Kỳ thứ tư : thi một bài văn sách, hỏi về chỗ dò đồng trong nghóa lý của

kinh truyện, điều hay dở trong chính sự của các đời.
Sau khi nước ta trở thành thuộc đòa của Pháp, năm 1909, nội dung của thi
Hương đã có một số thay đổi, nên nội dung khoa thi Hội năm Canh Tuất (1910)
cũng thay đổi. Cụ thể là :
Kỳ thứ nhất : thi 10 bài văn sách (gồm 5 bài kinh, 2 bài truyện, 2 bài Bắ c
sử, 1 bài nam sử).
Kỳ thứ hai : 1 bài chiếu, 1 bài dụ, 1 bài sớ, 1 bài biểu.
Kỳ thứ ba : 1 bài luận chữ hán, 2 bài luận quốc ngữ.
Ký thứ tư : 10 bài văn sách gồm 2 bài sử Pháp, 2 bài Cách trí, 2 bài Đòa
dư Việt Nam, 2 bài nhân vật nhà nước, 2 bài về thời sự.
Kỳ thứ nhất và kỳ thứ tư nếu mỗi kỳ làm được 6 bài là đủ lệ.
Riêng khoa thi Hội cuối cùng là khoa Kỷ Mùi (1919), kỳ thứ tư phải dòch
1 bài chữ Quốc ngữ ra chữ Pháp, 1 bài chữ Pháp ra chữ Hán, và phải làm một
bài luận chữ Pháp.
Về danh hiệu những người thi đỗ thi Hội, trước kia ba người đỗ đầu vẫn
gọi là Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Năm 1484 (Hồng Đức thứ 15),
nhân việc vua Lê Thánh Tông ra lệnh dựng bia Tiến Só, Thượng thư bộ Lễ
Quách Đình Bảo xin thống nhất quy đònh :
Trạng nguyên đổi thành Tiến só cập đệ đệ nhất danh.
Bảng nhãn : Tiến só cập đệ đệ nhò danh.
Thám Hoa: Tiến só cập đệ đệ tam danh.
Những người đậu chánh bảng gọi là Tiến só xuất thân.
Nguyễn Gia Phu

Khoa Lòch Sử


Lòch sử Giáo dục Việt Nam

- 24 -


Những người đậu phụ bảng gọi là Đồng Tiến só xuất thân.
Đến đời Nguyễn có một số thay đổi :
Trước kia chỉ có người đỗ đầu đệ nhò giáp gọi là Hoàng giáp, nay tất cả
ngững người đỗ đệ nhò giáp đều gọi là Hoàng giáp, tất cả những người đỗ
đệtam giáp đều gọi là Tiến só.
Ngoài ra, từ khoa Kỷ Sửu (1829), nhà Nguyễn đònh lệ chấ m điểm chia ra
chánh bảng, phó bảng.
Cách chấm điểm lúc bấy giờ được quy đònh như sau :
Hạng ưu : 10 –9 điểm.
Hạng ưu thứ : 8 – 7 điểm.
Hạng bình : 6 –5 điểm.
Hạng bình thứ : 4 – 3 điểm.
Hạng thứ : 2 – 1 điểm.
Hạng liệt : 0 điểm.
Những người 3 kỳ liền được 10 điểm trở lên là chánh bảng, được 9 điểm
trở xuống tới 4 điểm, hoặc hai kỳ liền được 10 điểm trở lên là phó bảng. Phó
bảng cũng được vào thi điện.
Đến năm 1880 thì quy đònh chỉ có những người được 8 điểm trở lên mới
được thi điện, những người được 4 – 7 điểm là là phó bảng, không được thi
Điện.
d. Thi Đình :
Thi Đình tức thi điện là kỳ thi tổ chức ở trong cung vua, thí sinh là những
người đã đậu thi Hội, mục đích là xếp hạng, chỉ trừ một số trường hợp cá biệt
(1), nói chung không ai bò đánh trượt.
Về danh hiệu những người thi Đình tùy theo quyết đònh của vua, có thể
lấy cả 3 hạng đệ nhất, đệ nhò và đệ tam giáp, có khoa chỉ lấy đệ nhò và đệ tam
giáp, có khoa chỉ lấy đệ tam giáp mà thôi. Ngay trong đó đệ nhất giáp từ thời
Lê có Khoa chỉ có đệ nhò hay đệ tam danh. Riêng triều Nguyễn không lấy
Trạng nguyên, nên đỗ cao nhất chỉ có Bảng nhãn mà thôi. Vì vậy, có khi đỗ

đầu nhưng chỉ là Đình nguyên Bảng nhãn hoặc Đình nguyên Thám hoa. Nếu

(1) Khoa quý Sửu (1493), Nguyễ n Huyên đã đỗ đệ nhò giá p nhưng khi vua cho ă n tiệ c, không
ăn được tô m đất, vua cho là bất kính, bò đá nh trượt.
Khoa Bính Thìn (1496), thi Hội đã lấy đỗ 43 người, khi vào thi Đình, vua Lê Thá nh Tô ng
xem dung mạo từ ng người, chỉ cho 30 người đỗ, 13 người bò loại.
Khoa Canh Thìn (1520) thi Hội đã lấy đỗ 14 người. Nguyễ n Đốc Bùi và Phạm Quang Tá giấu
tang để đi thi, bò phát hiệ n, không được và o thi Đình.
Khoa Quý Hợi (1623) Nguyễn Khiê m Hanh đã đỗ thi Hội, khi vào thi Đình mang sá ch vào, bò
phát hiệ n, bò đá nh hỏ ng và khô ng đượ c đi thi nữ a.

Nguyễn Gia Phu

Khoa Lòch Sử


×