Đề tài nhóm 7: Nợ công và nguy cơ khủng hoảng nợ công đang là mối đe dọa
hệ thống tài chính quốc tế. Phân tích thực trạng và các giải pháp quản lý, sử dụng
và hoàn trả nợ nước ngoài của Việt Nam.
Phần 1: Lý thuyết
1. Nợ công: Nợ chính phủ, hoặc Nợ quốc gia, là tổng giá trị các khoản tiền mà
chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay.
Việc đi vay này là nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách nên nói cách
khác, nợ chính phủ là thâm hụt ngân sách luỹ kế đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình
dung quy mô của nợ chính phủ, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu
phần trăm so với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
1.1.Nợ chính phủ thường được phân loại như sau:
•
Nợ trong nước (các khoản vay từ người cho vay trong nước) và nợ nước
ngoài (các khoản vay từ người cho vay ngoài nước).
•
Nợ ngắn hạn (từ 1 năm trở xuống), nợ trung hạn (từ trên 1 năm đến 10
năm) và nợ dài hạn (trên 10 năm).
Tại VN: Theo luật quản lý nợ công của Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ 5, số
29/2009/QH12 ngày 17 tháng 6 năm 2009 quy định tại điều 2:
Điều 2. Nợ công được quy định trong Luật này bao gồm:
a) Nợ chính phủ;
b) Nợ được Chính phủ bảo lãnh;
c) Nợ chính quyền địa phương.
* Nợ công so với GDP:
a) Chỉ số này phản ánh quy mô nợ công so với thu nhập của toàn bộ nền kinh tế
và được tính tại thời điểm 31/12 hàng năm.
b) Chỉ số này được tính như sau:
Tổng dư nợ công tại thời điểm 31/12
=
x
Tỷ lệ nợ công so với GDP
100%
GDP luỹ kế đến 31/12
2. Mục đích vay của Chính phủ
1. Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách trung ương.
2. Bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước từ vay ngắn hạn.
3. Cơ cấu lại khoản nợ, danh mục nợ chính phủ và nợ được Chính phủ bảo lãnh.
4. Cho doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng, chính quyền địa phương vay lại
theo quy định của pháp luật.
5. Các mục đích khác nhằm bảo đảm an ninh tài chính quốc gia.
2.Các hình thức vay nợ của Chính Phủ
2.1. Chính phủ vay thông qua phát hành công cụ nợ và ký kết thỏa thuận vay
trong phạm vi tổng mức, cơ cấu vay, trả nợ hàng năm của Chính phủ đã được Quốc hội
quyết định.
2.2. Chính phủ vay bằng nội tệ, ngoại tệ, vàng hoặc hàng hoá quy đổi sang nội tệ
hoặc ngoại tệ.
3. Ngưỡng an toàn của nợ công:
Ngân hàng Thế giới (WB) đã đưa ra quy định ngưỡng an toàn nợ công là 50%
GDP. Tuy nhiên, việc xác định “ngưỡng an toàn” chỉ là khái niệm tương đối, còn trên
thực tế nợ công của các quốc gia có thực sự an toàn hay không còn xét trên nhiều khía
cạnh như tốc độ tăng trưởng, tính bền vững trong phát triển, khả năng chống đỡ rủi ro…
4.Tác động của nợ chính phủ
4.1. Tích cực:
- Đảm bảo nhu cầu chi tiêu cần thiết của Chính Phủ. Đối với các nước đang
phát triển và chậm phát triển, nguồn thu của NSNN rất hạn hẹp và nhỏ bé. Đặc
biệt, thiếu hụt về ngoại tệ lớn. Trong khi đó như cầu chi tiêu của NSNN rất lớn để
phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, để giái quyết các vấn đề xã hội, cải thiện
cán cân thanh toán….
- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xã hội, phát huy được các tiềm năng sẵn có
trong nước.
4.2. Tiêu cực:
- Trong dài hạn một khoản nợ chính phủ lớn (tỷ lệ của nó so với GDP cao) làm
cho sự tăng trưởng của sản lượng tiềm năng chậm lại vì:
+ Nếu một quốc gia có nợ nước ngoài lớn thì quốc gia đó buộc phải tăng cường
xuất khẩu để trả nợ nước ngoài. Khi nợ công quá lớn, việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện
chính sách "thắt lưng buộc bụng" để giảm thâm hụt ngân sách là điều kiện phải đáp ứng
để được nhận sự hỗ trợ cần thiết từ các tổ chức tín dụng quốc tế. Tiêu dùng giảm thì tăng
trưởng chậm lại.
+ Nếu một quốc gia có nợ nước ngoài lớn thì quốc gia đó buộc phải tăng cường
xuất khẩu để trả nợ nước ngoài. Khi nợ công quá lớn, việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện
chính sách "thắt lưng buộc bụng" để giảm thâm hụt ngân sách là điều kiện phải đáp ứng
để được nhận sự hỗ trợ cần thiết từ các tổ chức tín dụng quốc tế. Tiêu dùng giảm thì tăng
trưởng chậm lại
+ Một khoản nợ công lớn gây ra hiệu ứng thế chỗ cho vốn tư nhân: thay vì sở hữu
cổ phiếu, trái phiếu công ty, dân chúng sở hữu nợ chính phủ (trái phiếu chính phủ). Điều
này làm cho cung về vốn cạn kiệt vì tiết kiệm của dân cư đã chuyển thành nợ chính phủ
dẫn đến lãi suất tăng và các doanh nghiệp hạn chế đầu tư.
+ Nợ trong nước tuy được coi là ít tác động hơn vì trên góc độ nền kinh tế là một
tổng thể thì chính chủ chỉ nợ công dân của chính nước mình, tuy vậy nếu nợ trong nước
lớn thì chính phủ buộc phải tăng thuế để trả lãi nợ vay. Thuế làm méo mó nền kinh tế,
gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã hội.
- Nợ Chính Phủ để lại gánh nặng nợ nần cho thế hệ tương lai. Các khoản vay
nước ngoài thường có thời hạn tương đối dài và có thể có các ưu đãi. Nhưng nếu sử
dụng không có hiệu quả sẽ không tạo ra tăng trưởng kinh tế, không tạo ra thu nhập
ròng để trả nợ, tạo gánh nặng nợ nần cho thế hệ tương lai.
- Có thể dẫn tới vợ nợ Chính Phủ. Với các khoản nợ trong nước, Chính phủ
có thể tuyên bố là luôn có khả năng trả hết nợ vì Chính Phủ có thể in tiền vô hạn độ
để trả nợ. Còn các khoản nợ nước ngoài, do phải trả bằng vàng hoặc ngoại tệ, nên
đã có nhiều trường hợp Chính phủ phải tuyên bố vỡ nợ. Khi CP tuyên bố vỡ nợ, CP
được lợi là thoái thác trách nhiệm trả nợ. Nhưng CP sẽ chịu nhiều bất lợi từ cộng
đồng tài chính quốc tế như:
+ Bị ngăn cấm không được tham gia vào hoạt động kinh tế quốc tế, đặc biệt
là thương mại quốc tế.
+Bị tịch biên tài sản ở nước ngoài, kể cả tài sản của Chính Phủ và tài sản của
công dân quốc gia đó.
+ Hầu như bị cắt hết các khoản tài trợ quốc tế, kể cả vay nợ, viện trợ, đầu tư
nước ngoài.
PHẦN 2: Nguy cơ khủng hoảng nợ công đang là mối đe dọa hệ thống tài
chính quốc tế
I. Tình trạng nợ công của các nước trên thế giới.
1. Đánh giá chung:
Các học giả kinh tế trên thế giới quan niệm, khủng hoảng tài chính thường xuất
phát từ ba khu vực: khủng hoảng tiền tệ (tỷ giá hối đoái) như từng xảy ra ở Thái Lan năm
1997, khủng hoảng ngân hàng và khủng hoảng nợ công. Nhiều năm trở lại đây, nợ công
đã trở thành vấn đề nóng bỏng của nền tài chính ở các quốc gia phát triển và mới nổi.
Nợ công tích tụ ngày càng lớn và tập trung chủ yếu ở Mỹ, Tây Âu, Bắc Âu, Nhật
Bản ở ngưỡng trên 100% GDP, thậm chí ở Nhật còn trên 200% GDP.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 được châm ngòi từ tín dụng bất
động sản dưới chuẩn ở Mỹ, hoành hành thế giới suốt 3 năm qua tưởng đã tạm yên thì
bước sang năm 2011, lại được châm thêm mồi lửa từ khủng hoảng nợ công. Từ đó, bộc
lộ những ảnh hưởng mang tầm vóc sâu rộng và nguy hiểm đối với nền tài chính toàn cầu,
đến nỗi, nhiều ý kiến cho rằng, thế giới sắp phải đón một “siêu bão” tài chính mới.
Những cuộc cứu trợ khổng lồ mà châu Âu đang áp dụng cho Hy Lạp, Ireland, Bồ
Đào Nha và sắp tới là Tây Ban Nha, Italia cho thấy, khủng hoảng nợ công gây tốn kém
chi phí không kém số tiền mà Mỹ phải bỏ ra để xử lý hệ thống tài chính nước này sau
cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua.
Hầu hết các nhà phân tích đều cảnh báo: không nên xem thường khủng hoảng nợ
công. Bởi nếu không được phòng ngừa và cứu trợ kịp thời, sẽ nổ ra hiệu ứng sụp đổ dây
chuyền và lan truyền nguy hiểm tới chất lượng tài sản hệ thống ngân hàng thương mại do
phần lớn trái phiếu chính phủ phát hành đều được ngân hàng nắm giữ.
Trên thực tế, không chỉ có ngân hàng của Ireland mua trái phiếu Chính phủ nước
này mà nhiều ngân hàng của châu Âu, Mỹ, Nhật Bản… đều mua. Hoặc với trái phiếu Hy
Lạp, Tây Ban Nha, Italia cũng vậy. Hơn nữa, do tính chất hoạt động của ngân hàng
thương mại là toàn cầu hóa nên khi ngân hàng bị tổn thương, uy tín bị giảm sút, sẽ tác
động xấu đến dòng tiền gửi của người dân.
Nguyên nhân của khủng hoảng nợ công, nợ chính phủ:
Đó là việc các tổ chức tài chính quốc tế cho vay đối với một quốc gia quá mức, kế
hoạch vay giãn nợ hoặc đảo nợ đã làm tăng quy mô nợ; Những cú sốc về giá dầu đối với
những nước vay nợ, Chính sách tài trợ thâm hụt và các chính sách khác của các nước vay
nợ, các nguyên nhân khác do khủng hoảng tài chính.
Biểu đồ 1: Nợ công ở các quốc gia giàu nhất thế giới
2. Tình trạng nợ công tại Châu Âu trong năm 2011.
Trong tháng 7 vừa qua, thị trường tài chính quốc tế trở nên nhạy cảm với những
thông tin liên quan đến vấn đề nợ nần của các nước châu Âu và Mỹ. Phải chăng kinh tế
thế giới đang bắt đầu đi vào khủng hoảng nợ công toàn cầu? Theo phân tích, do lo ngại
về nợ khu vực đồng Euro và việc bế tắc trong thoả thuận giữa Đảng Dân chủ và Đảng
Cộng hoà về nâng trần nợ công trước thời hạn 2/8 khiến vàng thế giới liên tục tăng mạnh
và lập kỷ lục mới 1.638USD/1ounce vàng vào 29/7 vừa qua.
Từ khi bắt đầu nổ ra cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu, các nhà hoạch định
chính sách Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) đã lo ngại rằng cơn hỗn loạn
tài chính bắt đầu từ Hy Lạp, Ireland và Bồ Đào Nha rồi sẽ nhấn chìm những nền kinh tế
lớn khác trong khu vực.
Như chúng ta đã biết, Ngân hàng Trung ương châu Âu, Ngân hàng Anh, Ngân
hàng quốc gia Thụy Sĩ, và Ngân hàng Nhật Bản đã quyết định thiết lập lại các cơ sở trao
đổi USD với Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Theo đó, họ có thể cung cấp không giới hạn
USD cho các ngân hàng quốc gia mình. Trong khi đó, các ngân hàng Pháp và Đức lại
nắm giữ khoảng 900 nghìn tỷ euro các khoản nợ ngoại biên của EU- gần bằng với khoản
vốn tự có của họ. Đối phó với những dấu hiệu căng thẳng tương tự đang gia tăng tại châu
Âu, ECB và các ngân hàng trung ương của Anh, Nhật và Thụy Sĩ đã chấp nhận tái cung
cấp hoạt động thanh khoản đồng đôla ba tháng trong quý IV này.
Rõ ràng là, vấn đề nợ công và nguy cơ lan rộng của chúng có thể sẽ để lại những
hậu quả khó lường lên cả hệ thống tài chính châu Âu cũng như số phận của đồng euro.
Với tình hình hiện nay, lòng tin của các đối tác dành cho Ngân hàng châu Âu đã
giảm đi rất nhiều. Họ không đủ khả năng để đáp ứng các khách hành quốc tế- những
người mà đang rất cần đến đồng USD.
Thống đốc Ngân hàng Pháp, ông Christian Noyer, cho biết tất cả các ngân hàng
châu Âu (không riêng gì Pháp) cần phải điều chỉnh mô hình kinh doanh cũng như thu
nhỏ bảng cân đối của mình, bởi vì các quỹ tiền tệ của Mỹ đang "rút lui khỏi châu Âu".
Sự cần thiết phải tái cơ cấu vốn tại các ngân hàng châu Âu đã được chính I.M.F khẳng
định. Điều này đã khiến chúng ta gợi nhớ về Chương trình Tài trợ Bảo chứng định kỳ
(Term Asset-Backed Securities Loan Facility) mà chính phủ Mỹ đã thành lập nhằm loại
bỏ các tài sản xấu và nâng cao tính thanh khoản giữa các ngân hàng Mỹ. Quỹ khẩn cấp
này đã hỗ trợ hiệu quả đối với các hãng cho vay của Mỹ trong thời kỳ khủng hoảng
2007-2009.
“Chiếc phao cứu sinh” của các chính phủ châu Âu- Quỹ ổn định tài chính châu
Âu (E.F.S.F)- cũng đã được đưa ra với mục đích tương tự như thế. Quỹ này đang được
kêu gọi đảm nhận vai trò của ECB trong việc mua nợ từ các thành viên tại thị trường thứ
cấp. Tuy nhiên, ở châu Âu, quá trình bàn thảo đưa ra hoạt động tương đối chậm chạp.
Việc mở rộng kích thước của “chiếc xuồng cứu sinh” và các hoạt động đi kèm cần phải
nhận được sự phê duyệt của 17 nghị viện- một quá trình vất vả và có thể kéo dài đến
giữa tháng 10 (trong trường hợp không bị cản trở bởi những sự cố ý trên đường đi). Cho
tới khi đó, việc có giữ các thị trường này tồn tại hay không là tùy thuộc vào ECB trong
khi họ phải cung cấp tính thanh khoản không giới hạn cho các ngân hàng tại đây.
Nếu Bảng cân đối kế toán của ECB. phải xem xét, toàn bộ cấu trúc của nền kinh
tế EU sẽ rất dễ bị tổn thương. Với sáu quốc gia thành viên bị giảm định mức tín nhiệm
nợ, rõ ràng cần phải nghi ngờ nhiều về sự phát triển trong hội nhập chính trị và tài chính
tại EU. Điều này cũng giống như việc Đức từ chối hỗ trợ cho các chương trình
'Eurobond’ trước đây.
Việc hội nhập các nước riêng lẻ thành một hệ thống liên bang tập trung ở Hoa Kỳ
đã chỉ ra cho chúng ta một mô hình cần thiết để giải quyết các vấn đề hiện tại của châu
Âu. Tuy nhiên, chủ quyền bị mất đi là điều mà hầu hết các thành viên trong khu vực này
không thể chấp nhận được.
Có thể thấy, nguy cơ khủng hoảng đã thể hiện rõ những điểm yếu trong cơ cấu
kinh tế tại các quốc gia này. Các ngân hàng EU đang khiến việc mở rộng tín dụng của
họ đi vào bế tắc, các doanh nghiệp có xu hướng đối mặt với nhiều rủi ro và tỷ lệ thất
nghiệp cao 10% không có dấu hiệu đảo chiều sớm. Tiếp tục cải cách và loại bỏ sự sợ hãi
về chính trị là điều cần thiết để ECB duy trì được thị trường. Những điều tồi tệ nhất
dường như vẫn còn nằm ở phía trước. Điều này sẽ có lợi cho vàng trong tương lai.
Về vấn đề Hy Lạp, Thủ tướng Hy Lạp, George Papandreou, đang xem xét việc
kêu gọi một cuộc trưng cầu dân ý tại các thành viên khu vực đồng euro như là một cách
để tăng cường sức mạnh của chính phủ trong việc đối phó với cuộc khủng hoảng nợ. Một
dự luật đã được đệ trình quốc hội - mở đường cho hoạt động bỏ phiếu như vậy- sẽ được
thảo luận trong những ngày tới.
Nếu không có đợt cho vay tiếp theo, Athens cho biết họ sẽ hết tiền mặt vào giữa
tháng 10. Nguy cơ vỡ nợ có thể lan rộng tới các nền kinh tế khu vực đồng euro, ví dụ
như Italia cũng như tác động mạnh tới các ngân hàng châu Âu. Khi được hỏi liệu Hy Lạp
sẽ nhận được khoản vay tiếp theo hay không, Bộ trưởng Tài chính Venizelos nói: "Vâng,
tất nhiên sẽ là như vậy." Nếu điều đó không xảy ra, giới kinh tế và các nhà đầu tư tin
rằng núi nợ của Athens sẽ vỡ trong vòng 6 tháng khi chiếm tới hơn 150% tổng sản phẩm
quốc nội. Sau đó, 111 tấn vàng sẽ được sử dụng để duy trì việc tiếp cận thị trường quốc
tế. Như vậy, đây có thể là mối hoạ cho giá vàng giảm xuống nếu họ thực hiện bán ra.
a. Tại Hy Lạp
Hy Lạp đang đối mặt với 2 vấn đề thâm hụt cùng một lúc, đó là thâm hụt ngân
sách và thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai. Theo số liệu nghiên cứu, nợ trong hạn của
Hy Lạp lên tới gần 400 tỷ đôla Mỹ, lãi suất Hy Lạp phải trả cho các khoản vay nợ lên tới
mức kỷ lục, trên 9% đối với các khoản vay có kỳ hạn.
Hy Lạp đã chính thức kêu gọi hỗ trợ tài chính từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và
các quốc gia thành viên Eurozone. Bộ trưởng Tài chính các nước Eurozone đã quyết định
hỗ trợ tài chính dành cho Hy Lạp với mức hỗ trợ 110 tỷ Euro với lãi suất ưu đãi là 5%.
Sau khi nhận được khoản hỗ trợ 110 tỷ Euro, Hy Lạp vẫn tiếp tục ở trong nguy cơ vỡ nợ.
Gần đây, IMF ước tính nợ quốc gia của Hy Lạp có thể lên đến 172% GDP (so với mức
khoảng 120% lúc bắt đầu rơi vào khủng hoảng nợ) trong khi thâm hụt ngân sách của
nước này cao hơn dự kiến và nước này đang cần một khoản hỗ trợ mới.
Sau cuộc họp khẩn cấp ngày 21/07/2011, lãnh đạo 17 nước thuộc Eurozone và
IMF đã đồng ý cấp cho Hy Lạp 159 tỷ Euro (229 tỷ USD), với lãi suất 3,5%, thời gian
đáo hạn có thể lên tới 30 năm, và có thể gia hạn 10 năm nữa. Ngoài ra, Eurozone cũng
đưa ra một số loại hình bảo lãnh đối với trái phiếu chính phủ Hy Lạp để các ngân hàng
Hy Lạp có thể tiếp tục được Ngân hàng Trung ương châu Âu hỗ trợ thanh khoản.
Những bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp.
Trong một bài bình luận trên chuyên mục Op-Ed của tờ New York Times, giáo sư
kinh tế học đạt giải Nobel, Paul Krugman, đã chỉ ra bài học từ cuộc khủng hoảng nợ
công ở Hy Lạp.
Theo ông, cuộc khủng hoảng nợ tại Hy Lạp đang tiến gần tới chỗ không còn
đường để quay lại. Khi viễn cảnh cho một kế hoạch giải cứu Athens dường như cứ mờ
mịt dần, giới đầu tư đã ồ ạt bán tháo trái phiếu chính phủ của nước này, khiến mức lãi
suất mà Chính phủ Hy Lạp có thể phải đưa ra trong những đợt phát hành nợ sắp tới, nếu
có, sẽ không ngừng leo thang.
Do vậy, nếu tiếp tục vay được vốn, Hy Lạp sẽ phải trả lãi nhiều hơn, khiến gánh
nặng nợ nần càng thêm căng thẳng. Thực tế này đang xói mòn niềm tin của thị trường và
cho thấy, tới thời điểm hiện nay, Hy Lạp rất khó thoát khỏi vòng xoáy vỡ nợ mà họ sắp
sửa sa chân vào.
Vậy cuộc khủng hoảng nợ của Hy Lạp đem đến cho các nước khác bài học gì?
Đúng là Hy Lạp đang phải trả giá cho những bất cẩn trong hoạt động chi tiêu
công trước kia của họ. Nhưng Giáo sư Krugman không cho rằng đó là toàn bộ câu
chuyện. Thảm họa ở Hy Lạp hiện nay còn phản ánh mối hiểm nguy to lớn mà chính sách
tiền tệ giảm phát (bao gồm tăng lãi suất và giảm cung tiền) có thể mang lại.
Giáo sư Krugman nhận xét, điều then chốt về vấn đề của Hy Lạp là cuộc khủng
hoảng này không chỉ bao gồm những khoản nợ khổng lồ. Tuy nợ công của Hy Lạp khá
cao, tương đương 113% GDP, nhưng trên thực tế, nhiều quốc gia khác cũng đang hoặc
đã từng gánh những mức nợ tương tự mà không hề lâm vào khủng hoảng.
Chẳng hạn, vào năm 1946, nước Mỹ khi đó vừa ra khỏi Chiến tranh Thế giới 2 đã
có mức nợ liên bang tương đương 122% GDP. Nhưng các nhà đầu tư khi đó không lo
ngại gì, và một thập kỷ sau, tỷ lệ nợ so với GDP của Mỹ giảm còn một nửa. Trong những
thập kỷ tiếp theo, tỷ lệ nợ công so với GDP của Mỹ tiếp tục giảm, xuống tới mức đáy
33% vào năm 1981.
Vậy làm thế nào mà nước Mỹ có thể trả được những món nợ mà họ vay thời
chiến tranh? Thực tế, nước Mỹ đã không hề làm được điều đó. Vào cuối năm 1946,
Chính phủ Mỹ nợ 271 tỷ USD, và vào cuối năm 1956, mức nợ này tăng nhẹ lên 274 tỷ
USD. Như vậy, tỷ lệ nợ so với GDP giảm không phải bởi nợ giảm mà vì GDP tăng, cụ
thể là tăng gần gấp đôi tính theo USD trong vòng 1 thập kỷ.
Sự gia tăng của GDP tính bằng USD hầu như là kết quả của sự tăng trưởng kinh
tế và lạm phát, với cả hai yếu tố này cùng gia tăng với tốc độ khoảng 40% trong thời
gian 1946-1956.
Không may cho Hy Lạp, quốc gia châu Âu này không thể kỳ vọng điều tương tự.
Lý do nằm ở đồng Euro.
Cho tới gần đây, việc trở thành một thành viên của khu vực sử dụng đồng Euro
vẫn được xem là một điều tốt đẹp đối với Hy Lạp, giúp đem tới những khoản vay lãi suất
thấp và những dòng vốn khổng lồ. Nhưng những dòng vốn này cũng đồng thời dẫn tới
lạm phát và rốt cục, Hy Lạp nhận thấy mình phải đương đầu với tình trạng leo thang của
giá cả mạnh hơn ở các nền kinh tế lớn của châu Âu.
Dần dần, Hy Lạp sẽ phải áp dụng chính sách tiền tệ giảm phát để đưa tỷ lệ lạm
phát về với mức “hợp chuẩn” với các quy định của khu vực đồng Euro. Và sự giảm phát
sẽ làm cho gánh nặng nợ nần của Hy Lạp thêm tồi tệ, trong khi lạm phát giúp nước Mỹ
thời hậu Chiến tranh Thế giới nhẹ nợ.
Đó vẫn chưa phải là tất cả. Giảm phát có nhiều tác động bất lợi cho nền kinh tế,
làm giảm sút tăng trưởng và việc làm. Do đó, Hy Lạp sẽ khó tìm được đường ra cho mớ
bòng bong nợ nần của họ. Ngược lại, Athens sẽ phải giải quyết “núi nợ” trong bối cảnh
nền kinh tế ở trong tình trạng khả dĩ nhất cũng chỉ là đình trệ.
Do đó, cách duy nhất để Hy Lạp khắc phục khó khăn là cắt giảm chi tiêu và tăng
thuế - những biện pháp có thể làm tỷ lệ thất nghiệp của nước này thêm đáng ngại. Và khi
đó, chắc chắn là niềm tin của thị trường trái phiếu vào Hy Lạp càng bị xói mòn, đẩy quốc
gia này vào tình trạng tồi tệ hơn.
Vậy giải pháp có thể là gì? Giới quan sát vẫn hy vọng châu Âu sẽ cùng nhau đứng
ra bảo lãnh nợ cho Hy Lạp, và đổi lại, Hy Lạp phải cam kết thắt lưng buộc bụng chặt hơn
nữa. Đây có thể là một giải pháp tốt, nhưng nếu không có sự ủng hộ của nước Đức, thì
châu Âu sẽ không bao giờ đạt được giải pháp này.
Hy Lạp có thể giải quyết một phần vấn đề của họ bằng cách rút khỏi khu vực sử
dụng đồng Euro và thực hiện phá giá đồng tiền. Nhưng nếu Athens làm vậy, chắc chắn
hệ thống ngân hàng của họ sẽ bị rút vốn ồ ạt. Trên thực tế, do lo ngại về khả năng vỡ nợ
của Hy Lạp, nhiều khách hàng đã bắt đầu tháo chạy khỏi các nhà băng của nước này.
Với những lập luận như vậy, Giáo sư Krugman nhấn mạnh, ngoài việc thận trọng
trong chính sách tài khóa, các nước cần cẩn trọng với bẫy giảm phát. Ngay cả những
quốc gia sử dụng đồng tiền riêng như Nhật Bản cũng có thể rơi vào bẫy này.
3. Tình trạng nợ công tại nước Mỹ
Đã từ lâu, thế giới quá quen với tình trạng nợ nần của Mỹ. Còn người Mỹ luôn
yên tâm rằng, nền tảng kinh tế, thành lũy tài chính hùng mạnh của nước này hoàn toàn
miễn dịch với thứ mầm bệnh kia. Họ tự hào về nền tảng kinh tế, khoa học công nghệ và
năng suất lao động có thể làm chủ được thị trường tài chính thế giới; coi đó là thứ giá trị
bảo hiểm cho đồng tiền của mình, là vật thế chấp đáng tin cậy nhất cho nợ công.
Năm 2006, Bộ Ngân khố Mỹ (Bộ Tài chính) khi thảo luận với Việt Nam về vấn
đề nợ công, phía Việt Nam tỏ ý lo ngại, nợ công của Mỹ sẽ là vấn đề lớn trong tương lai.
Một quan chức phía Mỹ đáp: “Yên tâm, nợ công Mỹ còn chưa đến 100% GDP, Nhật Bản
còn nhiều nợ công hơn chúng tôi. Ai cầm trái phiếu Mỹ là cầm vàng”. Quan chức này
cũng nhắc lại câu nói nổi tiếng của Alexander Hamilton, Bộ trưởng Bộ Ngân khố đầu
tiên của Mỹ, tại vị 1789 - 1795: “Nợ nước Mỹ là vàng”.
Nhưng giờ đây, vấn đề đã khác. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã bộc lộ
mặt trái không mong muốn của nợ công nước Mỹ và nhiều nước khác. Khi thế giới chưa
hết sững sờ về cuộc mặc cả giữa chính phủ và Quốc hội Mỹ nâng trần nợ công lên mức
16,4 nghìn tỷ USD và đổi lại phải cắt giảm chi tiêu 2,1 nghìn tỷ USD trước bờ vực vỡ nợ
thì sự đánh tụt trái phiếu dài hạn của hãng xếp hạng tín nhiệm S&P như thể là “lưỡi dao”
bổ xuống sự kiêu hãnh quá mức của nước này. Đó còn là hồi chuông cảnh báo mạnh mẽ
đối với trung tâm kinh tế, tài chính ở một quốc gia có nền tảng kinh tế vững mạnh bậc
nhất toàn cầu.
Và dù không mong muốn, nhưng hành động của S&P đã dẫn đến tâm lý hoang
mang hoảng loạn, phải bán đổ, bán tháo trái phiếu chính phủ, vốn được coi là thứ hàng
hóa tin cậy hàng đầu.
Đối với những quốc gia sở hữu nhiều trái phiếu Chính phủ Mỹ như Trung Quốc
và Nhật Bản mặc dù vẫn lớn tiếng trấn an rằng: “Đó vẫn là công cụ dự trữ quan trọng
bậc nhất” nhưng trên thực tế, tỷ trọng trái phiếu Chính phủ Mỹ trong dự trữ quốc gia đã
suy giảm rõ rệt để bổ sung thêm vàng, góp phần tạo nên cơn sốt vàng dữ dội nhất trong
lịch sử suốt hai tuần qua. Chẳng hạn, Nhật Bản giảm từ 90% xuống 75% - 80%, Brazil
giảm từ 90% xuống 81%; Trung Quốc giảm từ 90% xuống 80%.
Còn ở thị trường chứng khoán thực sự là thảm họa. Chỉ số Down Jones từ 12.500
điểm tụt xuống dưới 12 nghìn điểm trong vòng mấy ngày; các chỉ số tài chính của châu
Á và Âu đều sụt giảm rất mạnh.
Nhiều người nói rằng, cuộc thỏa hiệp giữa Chính phủ Mỹ và Quốc hội đã kết
thúc, nhưng đó chưa phải dấu chấm hết cho những bất ổn nội tại ở quốc gia này, mà cội
nguồn sâu xa vẫn là nợ công và những chỉ số vĩ mô đang ngày càng xấu thêm. Tỷ lệ thất
nghiệp vẫn ở mức cao, thị trường chứng khoán tiếp tục đình trệ, chỉ số tiêu dùng đã có
một giai đoạn khởi sắc nhưng lại bắt đầu tồi tệ. Thách thức lớn nhất đối với nước Mỹ
hiện nay là làm thế nào để vừa hạn chế thâm hụt ngân sách, vừa kích thích phục hồi kinh
tế.
Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng: “Việc Mỹ nâng trần nợ công cũng giống như
tình trạng một con bệnh nặng được tiếp thêm viên thuốc bổ để cố gượng dậy. Điều quan
trọng là sau khi nâng trần nợ, Mỹ phải chứng tỏ cho thế giới thấy khả năng phục hồi kinh
tế để trả nợ vay trên 16,4 nghìn tỷ USD. Và đó vẫn là dấu hỏi rất lớn, bởi lẽ đến lúc
không trả được, không lẽ lại nâng nợ nữa?”.
Trong lịch sử của mình, đã hai lần Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) phát hành
thêm tiền mua trái phiếu phục vụ chi tiêu ngân sách của chính phủ. Nhiều thông tin cho
thấy, có thể FED sẽ làm như vậy thêm một lần nữa nếu như S&P và thị trường tài chính
toàn cầu, đặc biệt là các chủ nợ không gia tăng sức ép để FED từ bỏ ý định này.
Nếu FED tiếp tục, USD sẽ mất giá nghiêm trọng, lạm phát tăng thêm, thị trường
tài chính sẽ suy sụp thực sự. Dĩ nhiên, cũng có nhà phân tích cho rằng, nếu FED phát
hành thêm tiền, sẽ tránh nợ công của Mỹ tăng thêm hay nói cách khác, cả thế giới phải
xúm lại lo chuyện nợ nần cho Mỹ thông qua đóng thuế vô hình khi đồng USD mất giá.
Hiện tại, vấn đề này còn tùy thuộc vào quan điểm giải quyết vấn đề tài chính sống còn
của nước Mỹ của Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ như thế nào.
Có thể nói, cuộc khủng hoảng nợ công toàn cầu đang diễn ra ở châu Âu, Mỹ và
có thể sẽ lan tới Nhật Bản. Và rất có thể, chúng là tiền đề cho một cơn bão tài chính mới
diễn ra vào năm 2012.
Riêng với nước Mỹ hiện nay, nhiều người bày tỏ sự lo ngại về những ý kiến đòi
hỏi tăng lãi suất cơ bản USD và kết thúc các biện pháp kích thích tăng trưởng từ phía
những người chủ trương chống lạm phát mặc dù thị trường việc làm mới chỉ manh nha
hồi phục. Nếu những đòi hỏi này được thực hiện, thất nghiệp ở Mỹ rất có thể sẽ tăng
mạnh.
Mặt khác, nhiều chuyên gia kinh tế cũng cho rằng, nợ công của Mỹ sẽ dễ kiểm
soát hơn nếu chính sách tiền tệ nới lỏng được duy trì để giúp nền kinh tế tăng trưởng
mạnh trở lại và lạm phát tăng lên mức vừa phải.
Một quốc gia có nền kinh tế lớn nhất thế giới và cũng là quốc gia có số nợ công
hàng đầu thế giới. Tại sao nước Mỹ lại có quá nhiều nợ như vậy? Có thể kể ra một số
nguyên nhân chính như sau:
Thứ nhất, dưới thời Tổng thống George W.Bush, nợ của Mỹ đã tăng tới 4.360 tỷ
USD do chi phí chiến tranh tại Iraq và Afghanistan cùng với việc cắt giảm thuế mới.
Thứ hai, đến thời của Obama, nợ của Mỹ tăng thêm 3.900 tỷ USD do các chương
trình kích thích kinh tế và giảm thuế trong giai đoạn suy thoái kinh tế toàn cầu. Chính
phủ Mỹ mỗi tháng chi nhiều hơn thu khoảng 120 tỷ USD, và chỉ có một tài khoản ngân
hàng tại Cục Dự trữ Liên bang với hơn 100 tỷ USD để sử dụng. Theo số liệu nghiên cứu,
hơn 70% trái phiếu Bộ Tài chính Mỹ do nhà đầu tư tư nhân bên ngoài nắm giữ đáo hạn
trong 5 năm tới, việc nhà đầu tư kém tin tưởng vào nước Mỹ sẽ khiến chi phí lãi vay của
chính phủ và lĩnh vực tư nhân Mỹ tăng lên. Và theo thông báo của Bộ Tài chính Mỹ, 3
tháng liên tiếp cuối năm 2010, đầu năm 2011, Trung Quốc đã bán ròng trái phiếu chính
phủ Mỹ. Hàng loạt các quĩ đầu tư lớn nhất thế giới về trái phiếu chính phủ Mỹ cũng bắt
đầu bán tháo.
Đối với chính quyền của ông Obama, những quyết định nói trên có thể gây tình
trạng trái phiếu chính phủ Mỹ mất giá mạnh, dẫn đến việc phải nâng lãi suất và qua đó
tăng thêm khối lượng nợ ngân sách vốn đã rất khổng lồ (năm 2009, thâm hụt 1.420 tỷ
USD, năm 2010, giảm xuống còn 1.290 tỷ USD, nhưng năm 2011, rất có thể thâm hụt
đạt tới 9,8% GDP tương đương 1.450 tỷ USD). Giới phân tích cho rằng Mỹ phải giải
quyết vấn đề thâm hụt ngân sách khổng lồ, tránh các nhà đầu tư bán phá giá trái phiếu
gây ra một cuộc khủng hoảng nợ công..
II. Tác động của khủng hoảng nợ công:
Các nền kinh tế còn lại như Nhật Bản, Nga, các nước Nam Mỹ, Châu Á và Châu
Phi, liệu họ có bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng nợ công trên không? Đó là điều mà các
nhà kinh tế, các nhà lãnh đạo của các quốc gia còn lại hết sức quan tâm.
1. Tác động đối với Châu Á
Đối với khu vực châu Á, vấn đề nợ công nghiêm trọng tại phương Tây giống như
một hành tinh có quỹ đạo bay hướng thẳng về Trái Đất. Hành tinh đó quá to để có thể né
tránh, cũng như quá khó để xác định chính xác mức độ thiệt hại sau cú va chạm.
Với khoảng 3.000 tỷ USD dự trữ ngoại tệ nắm giữ dưới hình thức trái phiếu của
Bộ Tài chính Mỹ, trong đó riêng Trung Quốc và Nhật Bản đã sở hữu tổng cộng trên
2.000 tỷ USD, rõ ràng châu Á sẽ là khu vực chịu ảnh hưởng trực tiếp nếu Mỹ rơi vào
tình trạng vỡ nợ.
Mối lo lớn nhất của Nhật Bản là đồng yen tăng giá so với USD hay euro trong
trường hợp cuộc khủng hoảng nợ diễn biến theo chiều hướng xấu đi. Đồng yên tăng giá
chắc chắn sẽ tác động xấu tới hoạt động xuất khẩu của Nhật Bản và ảnh hưởng tới tiến
trình phục hồi kinh tế đất nước "Mặt Trời mọc" sau thảm họa kép động đất và sóng thần
kinh hoàng hồi tháng Ba vừa qua.
Đối với Trung Quốc, quốc gia "chủ nợ" lớn nhất của Mỹ, tiếp tục mua thêm 7,3 tỷ
USD trái phiếu Bộ Tài chính Mỹ trong tháng 5 vừa qua, đánh dấu tháng tăng thứ hai liên
tiếp sau 5 tháng sụt giảm. Giới chuyên gia cho rằng, chính Trung Quốc đã tự đẩy mình
vào "thế khó" để bảo vệ quyền lợi kinh tế của riêng mình.
Trên phương diện khu vực Châu Á, vấn đề đáng quan ngại nhất là những hiệu
ứng tiêu cực toàn cầu, tương tự như những gì từng xảy ra sau sự sụp đổ của Ngân hàng
đầu tư Lehman Brothers hồi năm 2008. Điều này có thể khiến các nhà đầu tư rút tiền ra
khỏi các thị trường đang phát triển, cho dù triển vọng tăng trưởng của các nền kinh tế
này sáng sủa hơn hẳn so với nhiều quốc gia phát triển khác. Mặt khác, các ngân hàng
phải dựa vào Trái phiếu Bộ Tài chính Mỹ như là nguồn dự trữ ngoại tệ an toàn có thể
phải ngừng cho vay hoặc bán các tài sản rủi ro hơn để gia tăng vốn.
2. Đối với Nam Phi
Tại Nam Phi, các nhà xuất khẩu cũng đang cảm nhận được ảnh hưởng của tâm lý
bi quan đang có chiều hướng gia tăng tại các nền kinh tế khác. Ông Stewart Jennings,
Giám đốc điều hành của hãng sản xuất kính xây dựng và kính xe PG Group, cho hay,
doanh thu ở một số mảng làm ăn của công ty này đã giảm 20% vì khách hàng không còn
hứng thú nhiều với việc thúc đẩy sản xuất trong bối cảnh thị trường toàn cầu nhiều bất
ổn. “Năm nay sẽ còn khó khăn nữa”, ông Jennings nhận định.
3. Đối với Nam Mỹ
Thống kê hồi tuần trước của Chính phủ Brazil cho thấy, doanh thu bán lẻ ở nước
này trong tháng 8 đã giảm mạnh sau nhiều tháng tăng cao. Trong tháng 9, doanh số thị
trường xe hơi của Brazil giảm 5% so với tháng trước đó, đồng thời nhiều hãng ôtô lớn
cũng quyết định sản xuất chậm lại. Một số chuyên gia kinh tế đã hạ mức dự báo tăng
trưởng kinh tế của Brazil năm nay xuống còn 3% từ mức dự báo 5% trước đó. “Kinh tế
Brazil đang đi xuống nhanh hơn kỳ vọng của chúng tôi”, một nhà phân tích của ngân
hàng Goldman Sachs cho biết.
Brazil là quốc gia đầu tiên trong số các nền kinh tế mới nổi nói trên tìm cách hỗ
trợ tăng trưởng bằng cách hạ lãi suất hồi cuối tháng 8, bất chấp những lo ngại về lạm
phát.
4. Tại khu vực Đông Nam Á
Nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á là Indonesia đã trở thành nền kinh tế đầu tiên ở
châu Á thực hiện hạ lãi suất trong chu kỳ kinh tế này, với lý do được đưa ra là khả năng
giảm tốc tăng trưởng do những bất ổn trên thị trường tài chính và nhu cầu giảm xuống ở
các thị trường xuất khẩu.
Đối mặt sự sụt giảm trong kim ngạch xuất khẩu hàng điện tử, Chính phủ
Phillipines hồi tuần trước đã hạ 0,5 điểm phần trăm trong dự báo tăng trưởng GDP năm
nay, xuống còn 5-6%. Chính phủ này đồng thời cũng công bố một gói kích thích tăng
trưởng trị giá 1,66 tỷ USD theo con đường chi tiêu chính phủ vào cơ sở hạ tầng và giảm
nghèo.
Theo các chuyên gia kinh tế của UBS, những vấn đề về thương mại mà các nền
kinh tế mới nổi đang đương đầu không được phản ánh ở những con số. Mặc dù giá trị
tính bằng USD của thương mại vẫn tăng theo năm, UBS cho rằng, khối lượng hàng hóa
được giao dịch thực sự suy giảm trong năm nay, và đến đầu năm 2012, các con số về
thương mại sẽ trở thành một rào cản đối với tăng trưởng ở các nền kinh tế phụ thuộc vào
xuất khẩu.
“Lĩnh vực xuất khẩu nói chung của các nền kinh tế mới nổi đã rơi vào suy thoái
xét trên phương diện kỹ thuật”, kinh tế gia Jonathan Anderson của UBS viết trong một
báo cáo ngắn mới đây được Wall Street Journal trích dẫn.
Một thông tin tốt nữa là đa phần các nhà phân tích không đưa ra dự báo về sự suy
giảm tăng trưởng mạnh ở các nền kinh tế mới nổi trừ phi khủng hoảng và suy thoái bùng
nổ ở các nước phát triển. Nhu cầu tiêu thụ nội địa và chi tiêu của các doanh nghiệp có thể
giúp các nền kinh tế mới nổi bù đắp sự giảm sút trong lĩnh vực xuất khẩu. Thêm vào đó,
hầu hết các chính phủ ở các nền kinh tế này đều có cơ hội đưa ra các biện pháp kích
thích tăng trưởng.
PHẦN 3: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG, HOÀN TRẢ VÀ QUẢN LÝ NỢ
CÔNG Ở VIỆT NAM
3.1. Quy mô và cơ cấu nợ công ở Việt Nam
Nợ công đang là vấn đề nóng bỏng không chỉ ở các nước mà còn là vấn đề
của Việt Nam. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu kéo dài chưa có điểm dừng,
trong đó có nguyên nhân quan trọng là một số nước EU đang ngập sâu vào thâm
hụt ngân sách. Nợ công thực sự là cái bẫy khiến chính phủ các nước này không
thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng.
Cùng với lạm phát và thâm hụt ngân sách, nợ công cũng đang là vấn đề hiện
hữu, quan trọng cần được đặc biệt quan tâm tại Việt Nam. Chúng ta hãy nhìn nhận
các yếu tố nợ công dựa trên những gì đã và đang diễn ra ngay trong nội bộ nền kinh
tế Việt Nam để từ đó có cái nhìn đúng đắn hơn về vấn đề nợ công và đưa ra những
dự báo cũng như những giải pháp để quản lý có hiệu quả nợ công ở Việt Nam.
a)
Quy mô nợ công
Theo báo cáo của IMF, ta có thể thấy trong những năm gần đây nợ công của
Chính phủ Việt Nam không ngừng tăng cao. Nếu như vào năm 2006, nợ Chính phủ
mới chỉ là 407.714tỷ đồng thì đến 2010 đã lên tới 1.046.863 tỷ đồng, tăng gấp hơn
2,5 lần . Điều đáng nói hơn là, trong giai đoạn này nợ Chính phủ đang có xu hướng
tăng đều, trung bình khoảng 20%/năm, gấp ba lần tăng trưởng GDP. Tỷ lệ nợ công
so với GDP các năm là 41,848% (2006); 44,583% (2007); 42,896% (2008);
51,161% (2009); 52,847% (2010) và năm 2011 là 50,338%.
Đối chiếu với số liệu công bố của Tạp chí Kinh tế The Economist tổng nợ
công của Việt Nam tính đến 1/9/2011 là 44,795 tỷ USD (2009), 50,294 tỷ USD
(2010), 56,061 tỷ USD (2011). Nợ công tính trên bình quân mỗi người Việt Nam:
516,62 USD (2009), 574,28 USD (2010) và 633,95 USD (2011). Nợ công/GDP
tương đương lần lượt là 50,7% (2009), 51,7% (2010) và 50,9% GDP (2011).
Nguồn số liệu các tổ chức quốc tế của Factbook - CIA lại đưa ra số liệu về
tỷ lệ nợ công so với GDP Việt Nam năm 2009 là 49,8%, năm 2010 là 57,1% - Việt
Nam đứng hạng thứ 41/133 quốc gia và lãnh thổ về nợ công.
Trên đây là số liệu của một số tổ chức quốc tế còn trong nước theo số liệu từ
Ủy ban giám sát tài chính quốc gia, tỷ lệ nợ công so với GDP năm 2007 là 33,8%;
năm 2008 là 36,2%, năm 2009 là 41,9%, năm 2010 là 56,7% GDP và dự báo
58,7% cho năm 2011. Những con số này cho thấy tỷ lệ nợ công tăng nhanh một
cách đáng ngại, khoảng 25% tính từ năm 2007 đến cuối năm 2011, tức là trung
bình tăng 5% mỗi năm. Nợ công tăng nhanh trong bối cảnh mà ngân sách của Việt
Nam luôn bị thâm hụt, buộc chính phủ phải vay nợ thêm chưa kể điều kiện vay nợ
nước ngoài kể từ nay khó khăn hơn với lãi suất cao hơn cho nên nợ nần sẽ chồng
chất, lãi mẹ đẻ lãi con. Một trong những nguyên nhân quan trọng khiến tỷ lệ nợ
công ngày càng tăng là do tỷ lệ đầu tư của VN trong những năm qua trung bình từ
40-42% GDP, trong đó khu vực công chiếm khoảng 45%. Tỷ lệ đầu tư lớn, đầu tư
càng nhiều tăng liên tục nhiều năm trong khi ngân sách luôn ở tình trạng thâm hụt
(trên 5% GDP) khiến chính phủ phải đi vay nợ. Nếu giả định mức tăng trưởng GDP
bình quân mỗi năm của Việt Nam là 7%/năm cho giai đoạn 2011 – 2020, nếu thâm
hụt ngân sách Nhà nước (NSNN) vẫn giữ ở mức bình quân 5,6% GDP/năm như giai
đoạn 2006 – 2010 thì nợ công của Việt Nam sẽ vào khoảng 70,8% GDP vào năm
2020; 75,5% GDP vào năm 2025 và 78,1% GDP vào năm 2030.
Có sự khác biệt giữa những con số về nợ công của Việt Nam được công bố
là do cách định nghĩa và tính toán nợ công không giống nhau. Theo khoản 2 Điều 1
của Luật Quản lý nợ công số 29/2009/QH12 ngày 17/06/2009 của Quốc hội Việt
Nam nợ công được quy định bao gồm: Nợ chính phủ; Nợ được Chính phủ bảo lãnh;
Nợ chính quyền địa phương. Tuy nhiên, cách tính nợ công tiêu chuẩn của Liên hợp
quốc phải bao gồm cả các khoản tự vay tự trả của các tổng công ty, tập đoàn Nhà
nước mà Chính phủ cũng cần có nghĩa vụ trả nợ dự phòng và các khoản nợ lương
hưu tiềm ẩn. Sở dĩ nhiều nước có nợ Chính phủ và nợ công gần như đồng nhất vì
khu vực DNNN của họ rất nhỏ. Còn ở Việt Nam nợ của DNNN có quy mô xấp xỉ
với nợ của Chính phủ nên không được phép loại nó ra khỏi nợ công vì nếu DNNN
không trả được nợ thì ngân sách cũng phải gánh. Ví dụ như năm 2005, Chính phủ đã
phát hành 750 triệu USD trái phiếu ra thị trường chứng khoán New York và dùng toàn bộ
số vốn này đầu tư cho các dự án của Vinashin. Hiện tại, Vinashin thua lỗ, khó có khả
năng thanh toán số nợ trên thì Chính phủ phải đứng ra trả nợ thay. Hay theo số liệu tổng
hợp từ UBGSTCQG, ước tính đến hết năm 2009, chỉ tính riêng tổng dư nợ nội địa
của các tập đoàn, tổng công ty Nhà nước là trên 300.000 tỷ đồng, chiếm khoảng
22% GDP của năm 2009. Báo cáo điểm lại của Ngân hàng Thế giới (WB), đến cuối
năm 2010, khoản nợ được gọi là nghĩa vụ dự phòng của Chính phủ cho khu vực
doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) còn lớn hơn nhiều, lên đến 36,2% GDP. Và theo
báo cáo của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW, đầu tư dự kiến của 22 trên tổng
số gần 100 tập đoàn, tổng công ty nhà nước trong năm 2011 là 350.000 tỉ đồng,
tương đương 17% GDP. Nếu tính tất cả gần 100 tập đoàn, tổng công ty thì quy mô
đầu tư là khổng lồ mà một tỷ lệ lớn trong số này là đi vay. Thêm vào đó, trong nợ
công còn có phần quỹ hưu trí, vấn đề này hiện nay bị bỏ lơ khi tính nợ công ở Việt
Nam nhưng chắc chắn câu chuyện này sẽ nóng vào năm 2017: thời điểm khi mà
Việt Nam thành quốc gia có dân số già, tức 10% dân số ở độ tuổi từ 60 trở lên.
Cách tính khác biệt này lý giải tại sao có nhiều nước phát triển có tỷ lệ nợ
công/GDP đến 80 – 90%/GDP, trong khi rất nhiều nước khác như: Ấn Độ, Thái
Lan, Trung Quốc… và Việt Nam có tỷ lệ nợ công/GDP xoay quanh mức 50% – mà
WB lại khuyến cáo.
Như vậy, có nghĩa là theo cách tính tiêu chuẩn của Liên hợp quốc, nợ công
của Việt Nam nếu được tính đúng và tính đủ sẽ lớn hơn nhiều so với các số liệu đã
được công bố.
b)
Cơ cấu nợ công
+ Theo tiêu chí phân loại nợ chính phủ, nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ của
chính quyền địa phương:
Trong cơ cấu nợ công của Việt Nam năm 2006 - 2010 thì nợ chính phủ chiếm
chiếm tỷ trọng lớn nhất khoảng 78,1%, còn lại là nợ được chính phủ bảo lãnh và nợ
chính quyền địa phương. Cụ thể, năm 2009 tỷ lệ nợ Chính phủ là 41,9%, nợ Chính phủ
bảo lãnh là 9,8%, nợ chính quyền địa phương là 0,8%. Con số tương tự của năm 2010 lần
lượt là 44,3%, 11,36% và 0,94%.
+ Theo tiêu chí nguồn vay trong nước và ngoài nước:
Nợ nước ngoài trong cơ cấu nợ công Việt Nam có vai trò quan trọng và chiếm
tỷ trọng cao nhất. Và mặc dù nợ công khác với nợ nước ngoài, nhưng hiện nay ở Việt
Nam, thông tin chi tiết về nợ công chưa đầy đủ; do vậy, các nhà kinh tế thường sử
dụng chỉ số nợ nước ngoài để hình dung quy mô và mức độ nghiêm trọng của nợ
công của quốc gia. Gánh nặng nợ nước ngoài của Việt Nam trong giai đoạn năm
2006-2010 tăng liên tục về quy mô, tổng nợ nước ngoài (gồm nợ nước ngoài
của Chính phủ và nợ do Chính phủ bảo lãnh) lần lượt là 31,4% GDP (2006);
32,5% GDP (2007); 29,8%GDP (2008); 39,0%GDP (2009) tương đương với
hơn 27,9 tỷ USD (trong đó, nợ nước ngoài của Chính phủ trên 23,9 tỷ USD) và
năm 2010 lên tới 42,2% tương đương 32,5 tỷ USD (trong đó tổng dư nợ nước
ngoài của Chính phủ 27,86 tỷ USD, chiếm 85,7% tổng dư nợ) tăng 4,6 tỷ USD
so với năm 2009, đạt mức nợ cao nhất kể từ năm 2005. Điều này cho thấy mức
nợ nước ngoài của Việt Nam đã tiếp cận giới hạn chịu đựng của nền kinh tế và
mấp mé dưới mức cảnh báo an toàn của WB.
Hiện nay, nguồn cung cấp nợ nước ngoài chủ yếu của Việt Nam là các khoản
vay ODA. Kể từ khi nối lại quan hệ với các nhà tài trợ từ tháng 11.1993, VN đã nhận
được sự cam kết viện trợ vốn ODA của nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế. Từ 1993 đến
cuối 2010, tổng số vốn ODA được các nhà tài trợ cam kết dành cho VN đạt tới hơn 64 tỉ
USD. Theo số liệu thống kê, tỉ lệ giải ngân vốn ODA trong 4 năm (2006- 2010) cho thấy,
tổng số giải ngân đạt hơn 12,5 tỉ USD, chiếm trên 40% tổng vốn ODA cam kết. Có thể
nói, nguồn vốn ODA cam kết dành cho VN của các nhà tài trợ quốc tế là tương đối lớn
và có xu hướng tăng lên qua mỗi năm. Theo danh mục nợ công năm 2009 của Bộ Tài
chính (BTC), 60,3% nợ công là ODA và 29,8% được tài trợ từ trái phiếu trong nước.
Hiện nay, đối tác lớn tài trợ vốn ODA cho VN bao gồm: Nhật Bản, Ngân hàng Phát
triển Châu Á (ADB), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), các tổ
chức của Liên Hợp Quốc (UN), các tổ chức phi chính phủ (NGO) và nhiều nhà tài
trợ song phương khác. Nhật Bản đang là nhà tài trợ vốn ODA song phương lớn nhất
cho VN trong hơn 17 năm qua (trong 7,88 tỉ USD vốn cam kết đầu tháng 12.2010,
Nhật Bản có mức cam kết là 1,76 tỉ USD). WB giữ vị trí là nhà cung cấp ODA đa
phương lớn nhất. Mức cam kết trong hội nghị tháng 12.2010 đạt tới 2,6 tỉ USD.
ADB là 1,5 tỉ USD. Các chủ nợ này đã nâng lượng nắm giữ trái phiếu chính phủ Việt
Nam lên hơn 2 tỷ USD trong năm 2010 (so với hơn 1 tỷ USD của năm 2009).
Các điều khoản ưu đãi của ODA đã giúp Việt Nam giảm bớt được áp lực nợ
công; tuy nhiên, tỷ trọng nợ nước ngoài cao tăng nguy cơ rủi ro về cơ cấu nợ trong
tương lai. Kinh nghiệm từ các cuộc khủng hoảng nợ trong lịch sử cho thấy, khi tỷ
trọng nợ nước ngoài quá cao, Chính phủ mất đi tính chủ động khi ứng phó với các
biến động kinh tế thế giới và khó kiểm soát các món nợ vay phụ thuộc vào tỷ giá
hối đoái và tâm lý của nhà đầu tư quốc tế. Khủng hoảng nợ Argentina (2001) và sự
bất ổn của Hy Lạp hiện nay là minh chứng điển hình cho tác động tiêu cực của
nguồn nợ công từ nước ngoài. Trường hợp ngược lại là Nhật, mặc dù có mức nợ
công trên GDP cao nhưng Nhật Bản vẫn được đánh giá là bền vững do nợ công chủ
yếu được tài trợ từ các nhà đầu tư trong nước.
+ Theo tiêu chí loại tiền vay:
Nợ nước ngoài của Việt Nam khá đa dạng về cơ cấu tiền vay. Về mặt lý thuyết,
việc đa dạng hóa các loại tiền vay được cho là có thể hạn chế rủi ro về tỷ giá, giảm áp
lực lên nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ. Tuy nhiên, trên thực tế cơ cấu
này cũng tiềm ẩn những rủi ro khi có biến động trên thị trường tài chính thế giới.
Trong cơ cấu vay nợ nước ngoài của chính phủ ta thấy t ỷ trọng của các khoản
vay bằng USD và JPY chiếm tỷ trọng cao lần lượt là 22,16% và 38,83%. Điều này gây
nguy cơ gia tăng khoản chi gốc và lãi khi tỷ giá USD/VND luôn có xu hướng tăng,
mặt khác JPY lại đang lên giá so với USD.
Biểu đồ: Cơ cấu dư nợ nước ngoài của Chính phủ phân theo loại tiền
Nguồn: Bản tin số 7 (Bộ tài chính)
+ Theo tiêu chí lãi suất:
Các khoản vay nước ngoài của Việt Nam đa số đều có lãi suất thấp, trong đó
chủ yếu là ở mức 1% - 2,99%. Tuy nhiên Theo các chuyên gia, điều kiện vay
nợ ngày càng ngặt nghèo hơn. Bộ Tài chính cho biết lãi suất vay nợ đang
có xu hướng tăng lên do nước ta đã bị giảm mức nhận ưu đãi vì gia nhập
nhóm nước có thu nhập trung bình. so với các năm trước, năm 2010, các khoản
vay của Việt Nam có lãi suất cao hơn và khoản vay với lãi suất thả nổi đang ngày
càng tăng lên, gây thêm áp lực nợ cho Chính phủ. Trong 27,857 tỷ USD tổng nợ nước
ngoài của Chính phủ, có hơn 21,289 tỷ USD có lãi suất từ 1 - 2,99%; 2,152 tỷ USD
chịu lãi suất từ 3 - 5,99% (tăng 649.26 triệu USD so với 2009) và có tới 1,890 tỷ USD ở
mức lãi suất 6- 10%, tăng hơn gấp đôi so với 2009. Ngoài ra, các khoản vay với lãi
suất thả nổi cũng tăng 48.44 triệu USD so với 2009. Theo Cục Quản lý nợ và Tài chính
đối ngoại, lãi suất trung bình nợ nước ngoài của Chính phủ đã tăng từ 1,54%/năm vào
năm 2006 lên 1,9%/năm trong năm 2009 và năm 2010 đạt tới 2,9%/năm. Với thực
trạng này, rõ ràng chi phí trả lãi đang trở thành gánh nặng ngày càng gia tăng của
Chính phủ.
Kết luận:
Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước đang phát triển, quy mô nền kinh tế của
Việt Nam vẫn là nhỏ so với mặt bằng chung của thế giới; nền kinh tế phụ thuộc
nhiều vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ là chủ yếu. Do
đó, hiện tại và trong tương lai gần, việc tăng vay nợ chính phủ nói riêng và nợ công
nói chung là một nhu cầu tất yếu vì Việt Nam vẫn rất cần sự hỗ trợ về mặt tài chính
(tức là vay nợ và viện trợ phát triển chính thức) từ các tổ chức đơn phương, đa phương
trên thế giới để phát triển nền kinh tế hơn nữa. Mặc dù, hiện n ay mức nợ công so với
GDP của Việt Nam vẫn được đánh giá là an toàn nhưng cơ cấu nợ công đang ẩn chứa
nhiều rủi ro, dư nợ nước ngoài tăng cao cả về quy mô, điều kiện, lãi suất vay nợ. Thêm
vào đó, trong tình trạng lạm phát toàn cầu đang gia tăng, nguy cơ bùng nổ chiến tranh
tiền tệ trên thế giới thì vấn đề sử dụng và quản lý hiệu quả nợ công phải được đặc biệt
quan tâm.
3.2.
Thực trạng sử dụng và quản lý nợ công của Việt Nam
Về thực trạng sử dụng nợ công của Việt Nam trong thời gian qua, có thể xem xét
ở ba lĩnh vực: Nợ chính phủ vay trong nước (trái phiếu Chính phủ), Nợ nước ngoài (các
khỏan vay ODA); và Nợ nước ngoài của các công ty, tổng công ty, tập đòan Nhà nước
do Chính phủ bảo lãnh.
3.2.1. Thực trạng sử dụng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ
Phát hành trái phiếu Chính phủ là một kênh huy động vốn nhằm bù đắp thâm hụt
ngân sách và đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, cải thiện đời sống nhân dân, tạo
động lực phát triển kinh tế - xã hội. Các Bộ, ngành và các tỉnh, thành phố được giao quản
lý và sử dụng vốn TPCP đã có nhiều cố gắng trong quá trình triển khai tổ chức thực hiện,
bám sát mục tiêu, nội dung, danh mục dự án sử dụng vốn TPCP để phân bổ, quản lý và sử
dụng bảo đảm có hiệu quả, tránh thất thoát, lãng phí... Số vốn TPCP đã giải ngân giai
đoạn 2006 - 2009 là 117.169 tỷ đồng cho hơn 2.000 dự án, công trình. Theo báo cáo của
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến 31/8/2010 đã có 1.410 công trình, dự án đã hoàn thành đưa
vào khai thác sử dụng, chiếm 68%, trong đó có những công trình, dự án như: Dự án
đường Hồ Chí Minh giai đoạn 1 chiều dài 1.432 km, các tuyến quốc lộ 4C, 4D...
Tuy nhiên, việc sử dụng và quản lý nguồn vốn trái phiếu Chính phủ còn nhiều bất
cập.
Trước hết là ở khâu đăng ký nhu cầu vốn, lập kế hoạch vốn TPCP còn nhiều hạn
chế, xét duyệt thiếu chặt chẽ; xác định tổng mức đầu tư, tổng dự toán sơ sài, thiếu chính
xác, khi thực hiện phải điều chỉnh nhiều lần, với mức tăng cao làm vỡ kế hoạch vốn. Đến
năm 2009, đã giải ngân vượt mức tổng vốn TPCP của cả giai đoạn 2003 - 2010 nhưng chỉ
có hơn 50% dự án đã hoàn thành, nhiều công trình, dự án để hoàn thành cần số vốn tăng
2-3 lần so với mức đăng ký...Kết quả giám sát của UB Tài chính – Ngân sách của Quốc
hội vừa qua cho thấy, tổng mức đầu tư ban đầu của các công trình, dự án thuộc danh mục
đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2003 - 2010 là 246.447 tỷ đồng.
Nhưng hiện nay qua tổng hợp của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tổng mức đầu tư điều chỉnh từ
các bộ, ngành, địa phương đã lên tới 558.654 tỷ đồng. Hầu hết các dự án đều có phát
sinh, có những dự án không chỉ điều chỉnh tăng giá nhân công, vật liệu, đền bù, giải
phóng mặt bằng mà còn điều chỉnh cả thiết kế kỹ thuật, quy mô dự án, có những dự án
vừa thi công, vừa đấu thầu, vừa điều chỉnh tổng mức đầu tư. Riêng các bộ, ban, ngành
lập dự tóan nhu cầu trái phiếu Chính phủ năm 2011 này đã có mức tăng và tỷ lệ tăng rất
cao so với năm 2010. Điển hình như Bộ Giao thông Vận tải tăng 7.700 tỷ đồng, tăng
62,6%; nhu cầu vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2011 - 2015 của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn là 54.000 tỷ đồng, bình quân mỗi năm là 10.800 tỷ đồng, so với năm
2010 tăng 70% (6.800 tỷ đồng); của Bộ Giáo dục và Đào tạo là 36.200 tỷ đồng, bình quân
mỗi năm là 7.240 tỷ đồng, so với năm 2010 tăng 60,8% (2.740 tỷ đồng); Bộ Y tế tăng
75,9% (tăng 4.250 tỷ đồng).
Bên cạnh đó là việc sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ không đúng nội dung, mục
đích, bố trí ngoài danh mục dự án; không bố trí vốn đối ứng theo đúng cơ cấu vốn được
duyệt, còn trông chờ hoàn toàn vào vốn TPCP diễn ra ở hầu hết các bộ, ngành, địa
phương. Tình trạng này làm tăng thêm nhu cầu TPCP. Trong khi việc huy động trái phiếu
chính phủ trong thời gian gần đây gặp nhiều khó khăn do các tác động tiêu cực của tình
hình kinh tế vĩ mô khiến trái phiếu chính phủ không còn hấp dẫn đối với người dân nữa.
Ngay trong năm 2009, mặc dù phát hành nhiều phiên nhưng vẫn chưa thể huy động đủ số
vốn dự định. Kế hoạch là 126.000 tỷ đồng và 950 triệu USD, song số thực hiện chỉ là
19.172 tỷ đồng và 543 triệu USD.
Ngòai ra, công tác quản lý vốn đầu tư xây dựng từ nguồn vốn TPCP còn nhiều hạn
chế, sai sót ở tất cả các khâu, từ lập, thẩm định, phê duyệt dự án, phân bổ vốn cho tới
thực hiện đầu tư, đưa công trình vào khai thác sử dụng. Đáng chú ý, vốn TPCP là vốn vay
của Chính phủ nhưng đầu tư còn dàn trải, tiến độ thực hiện nhiều dự án còn chậm, có dự
án chưa thực sự cấp bách, không thuộc đối tượng sử dụng vốn TPCP nhưng vẫn được bố
trí đầu tư bằng nguồn vốn TPCP.
3.2.2. Thực trạng sử dụng nguồn vốn ODA:
Vốn ODA là một phần của nguồn tài chính chính thức mà Chính phủ các nước
phát triển và các tổ chức đa phương dành cho các nước đang phát triển nhằm hỗ trợ phát
triển kinh tế và phúc lợi xã hội các quốc gia này. Nguồn vốn ODA có những ưu thế như:
Thời hạn vay dài, lãi suất thấp, thời gian ân hạn ưu đãi, có yếu tố tài trợ không hoàn lại...
Với những nước có xuất phát điểm kinh tế thấp như Việt Nam hiện nay, nguồn vốn ODA
có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trong thời gian qua tại Việt Nam, đầu tư bằng vốn ODA
chiếm khoảng 12% tổng vốn đầu tư xã hội, 28% vốn đầu tư từ NSNN, 50% vốn tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước. Từ năm 1993 đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ với
hơn 50 nhà tài trợ song phương và đa phương cùng 350 tổ chức Chính phủ với hơn 1500
chương trình dự án. Từ 1993 đến cuối 2010, tổng số vốn ODA được các nhà tài trợ cam
kết dành cho Việt Nam đạt tới hơn 64 tỉ USD. Riêng vốn cam kết của các nhà tài trợ tại
Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho VN (CG) năm 2010 vào đầu tháng 12.2010 là
7,88 tỉ USD. Tổng số vốn đã được giải ngân đạt trên 28 tỉ USD (năm 2010 giải ngân đạt
3,5 tỉ USD). Theo số liệu thống kê, tỉ lệ giải ngân vốn ODA trong 4 năm (2006- 2010)
cho thấy, tổng số giải ngân đạt hơn 12,5 tỉ USD, chiếm trên 40% tổng vốn ODA cam kết.
Vốn ODA chủ yếu được đầu tư vào việc phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội.
Hơn 4,5 tỷ USD cùng với 101 dự án đầu tư chủ yếu cho ngành GTVT, trong đó tập
trung cho đường bộ, đường biển. Vốn ODA được sử dụng để nâng cấp, khôi phục, xây
mới 3676km đường quốc lộ, khôi phục và cải tạo khoảng 1000km đường tỉnh lộ, quốc
lộ 5, quốc lộ 1A (đoạn Hà Nội – Vinh, Tp Hồ Chí Minh – Cần Thơ), làm mới và khôi
phục 188 cầu, chủ yếu trên các Quốc lộ 1, quốc lộ 10, quốc lộ 18 với tổng chiều dài
33,7km; cải tạo và nâng cấp 10000km đường nông thôn và gần 31km cầu nông thôn
quy mô nhỏ; xây mới 111 cầu nông thôn với tổng chiều dài 7,62km.
Vốn ODA đầu tư nâng cấp giai đoạn 1 cảng Hải Phòng, nâng công suất bốc xếp
lên 250000TE/năm; nâng cấp cảng Sài Gòn: từ công suất 6,8 triệu tấn/năm lên 8,5 triệu
tấn /năm; xây dựng mới cảng nước sâu Cái Lân, cải tạo cảng Tiên Sa, Đà Nẵng.
Theo kết quả đánh giá 06 dự án trong khuôn khổ Chương trình đánh giá chung
Việt Nam - Nhật Bản 2007,2008, 05 dự án được xếp hạng ở mức "Rất hài lòng" bao
gồm: Dự án khôi phục Cầu đường bộ - quốc lộ 1A, Dự án khôi phục Cầu đường sắt Hà
Nội – Thành phố Hồ Chí Minh, Dự án thông tin Duyên hải khu vực phía Nam của Việt
Nam, Dự án Đường dây truyền tải 500kv Phú Mỹ - thành phố Hồ Chí Minh, Dự án
Thủy điện Hàm Thuận – Đa Mỹ và 01 dự án được xếp hạng ở mức "Hài lòng" là Dự án
Nâng cấp đường Quốc lộ 5.
Bên cạnh đó, vốn ODA còn được sử dụng chủ yếu trong các dự án phát triển cơ
sở hạ tầng xã hội như giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khỏe hay xóa đói giảm nghèo
v.v… Tổng vốn ODA đầu tư cho giáo dục và đào tạo khoảng 550 triệu USD ( chiếm
khoảng 8,5 -10% kinh phí chi cho giáo dục đào tạo) đã góp phần cải thiện chất lượng
trường lớp, cơ sở dạy và học, nâng cao chất lượng giáo dục ở các cấp, tạo môi trường
phát triển lành mạnh cho học sinh. Một số chương trình xã hội hoạt động nhờ nguồn
vốn chính thức này như: Chương tình Dân số và Phát triển, Chương trình tiêm chủng
mở rộng, Chương trình nước sạch nông thôn, Chương trình xóa đói giảm nghèo. Ngoài
ra, nhiều dự án, chương trình do các Bộ, ban, ngành đứng tên là đơn vị chủ quan nhằm
nâng cao năng lực quản lý và thi hành chính sách như: Dự án tăng cường năng lực phân
tích chính sách phục vụ phát triển con người VIE/03/010 (2003 – 2008), Tiểu dự án
Chia sẻ - BTC (2003 – 2009), Phát triển bảo hiểm nông nghiệp Việt nam (2005 –
2007), Phát triển năng lực ngân sách giới (2006-2007), v.v…
Một số vấn đề trong quá trình sử dụng và quản lý vốn ODA:
*) Tình hình thực hiện các dự án thường bị chậm ở các khâu: thủ tục , chậm triển
khai, giải ngân chậm và tỷ lệ giải ngân thấp. Qua bảng số liệu ở phía trên, trong giai
đoạn 2006 - 2009, tỷ lệ giải ngân vốn ODA so với cam kết giảm từ trên 50% trong giai
đoạn trước xuống chỉ còn khoảng 43%. Năm 2010, tỷ lệ giải ngân chỉ còn đạt 40% so
với vốn cam kết. Do đó, thời gian dự án bị kéo dài, làm phát sinh các khó khăn, đặc
biệt là vốn đầu tư thực tế thường tăng hơn so với dự kiến và cam kết, làm tăng nguy cơ
nợ quá hạn cho Chính phủ, làm ùn đọng vốn ODA cam kết và ký kết, đồng thời còn làm
giảm tính hiệu quả của dự án khi đi vào vận hành. Ngoài ra, điều đó còn làm giảm uy
tín của Việt Nam trong việc tiếp nhận và quản lý sử dụng vốn trước các nhà tài trợ, ảnh
hưởng đến sự vận động nguồn vốn này sau này.
*) Có sự chồng chéo trong thủ tục chuẩn bị và triển khai đầu tư. Theo Bộ Tài
chính, chỉ có 4% lượng vốn ODA áp dụng các quy định về đấu thầu và 3% sử dụng hệ
thống quản lý tài chính công của Việt Nam, còn lại theo cách thức của nhà tài trợ. Vì
vậy, có những dự án phải thực hiện cùng một lúc 2 hệ thống thủ tục, một thủ tục để giải
quyết vấn đề nội bộ trong nước, một thủ tục đối với nhà tài trợ. Điều này sẽ làm kéo dài
thời gian thực hiện dự án, gia tăng chi phí(chi phí chuẩn bị dự án, tăng chi phí đầu tư do
lạm phát) tăng khả năng rủi ro vì có thể bị lợi dụng cho các hoạt động phi pháp.
*) Tình trạng thất thoát nguồn vốn, lãng phí vẫn diễn ra thường xuyên. Điều này
dẫn đến chất lượng các công trình xây dựng sử dụng nguồn vốn ODA đều chưa đảm
bảo tiêu chuẩn và định mức kỹ thuật mà dự án đã đề ra.Nguyên nhân chủ yếu là do thất
thoát chi phí. Trong xây dựng cơ bản của Việt Nam, thất thoát thường chiếm 20 – 30 %
tổng vốn đầu tư. Một số trường hợp tiêu biểu cho việc sử dụng nguồn vốn lãng phí là ví
dụ của PM18 và Dự án đại lộ Đông – Tây (PCI) khiến cho dư luận hai nước và Quốc
hội không khỏi bức xúc. Sau sự cố PCI, Chính Phủ Nhật đã từng tuyên bố tạm ngừng
cung cấp vốn ODA cho Việt Nam.
Nguyên nhân dẫn đến những bất cập trên:
-
Một số vị lãnh đạo từ Trung ương đến địa phương có quan điểm chưa đúng
về vốn ODA. Đúng là ODA có một phần viện trợ không hoàn lại nhưng phần này rất nhỏ,
phần còn lại là vốn vay. Do thời hạn vay dài, thời hạn ân hạn dài, lãi suất thấp, áp lực trả
nơ chỉ phát sinh sau thời gian dài nên dễ tạo tâm lý chủ quan trong quyết định lựa chọn
nguồn tài trợ ODA. Ngoài ra còn có tâm lý ỷ lại, coi ODA là nguồn vốn cho không nên
cứ thoải mái tiêu dùng.
-
Cơ chế vận động và sử dụng nguồn ODA quá phức tạp liên quan đến nhiều
cấp, bộ ngành, địa phương. Do đó, một dự án đầu tư bằng nguồn vốn ODA không thành
công thường liên quan đến trách nhiệm của nhiều bộ phận, ban ngành khác nhau. Từ đây
nảy sinh việc đù đẩy trách nhiệm, dẫn đến chậm trẽ trong khắc phục , biện pháp những
vấn đê sai.
-
Năng lực quản lý và sử dụng vốn ODA của các cán bộ quản lý dự án. Còn
ở địa phương, đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý ODA chưa được chuyên môn hóa, it
được bồi dưỡng và không có điều kiện tiếp cận các nguồn thông tin chuyên biệt. Do đó,
để triển khai một dự án tài trợ ODA , nhiều khi địa phương đã phải mất 1-2 năm cho công
tác đào tạo, bồi dưỡng năng lực quản lý của cán bộ địa phương.
Không thể phủ nhận những đóng góp quan trọng của ODA đối với sự phát triển
và thay đổi của đất nước. Tuy nhiên, khi nhìn nhận ODA từ góc độ nợ công, chúng ta sẽ
thấy có những vấn đề sau:
Trước hết, ODA là nguồn vốn mà Chính phủ Việt Nam đi vay từ Chính phủ các
nước và từ các tổ chức quốc tế như WB, ADB, v.v… Mặc dù trong cơ cấu của ODA có
một phần viện trợ không hoàn lại nhưng tỷ lệ của nó rất nhỏ. Cơ cấu giữa vốn vay và
viện trợ trong ODA của Việt Nam đang dần dần thay đổi theo xu hướng giảm viện trợ và
tăng vốn vay. Biểu đồ sau minh họa cho sự thay đổi trên qua các giai đoạn:
Cơ cấu vốn vay và viên trợ trong ODA
Đơn vị: %
Nguồn: Bộ kế hoạch đầu tư.
Như vậy rõ ràng, vốn vay ODA của Việt Nam đang tăng lên đồng nghĩa với việc
trách nghiệm trả nợ của Việt Nam cũng có xu hướng tăng lên. Nếu không tính viện trợ,
bình quân nợ ODA của Việt Nam là khoảng 180$/người/năm. ODA không phải là một
“khoản cho không” của nước ngoài đối với Việt Nam mặc dù chúng ta đang được hưởng
mức lãi suất ưu đãi (1 – 2,99% và 3- 5,99%) và thời gian ân hạn khoảng 5 – 10 năm. Tuy
nhiên, khi “lượng vay càng nhiều, số tiền phải trả nợ càng lớn. Mỗi năm khoản trả nợ
theo đó cũng sẽ tăng lên” (trích lời Ông Motonori Tsuno – Trưởng đại diện Jica tại Việt
Nam). Có thể những yếu tố trên chưa gây sức ép lên nền kinh tế trong hiện tại nhưng khi
thời hạn trả nợ của các khoản vay đến gần thì điều gì sẽ xảy ra, nhất là trong bối cảnh
nền kinh tế có nhiều bất ổn như hiện nay???
Thứ hai, việc quản lý khoản nợ ODA của Việt Nam, như đã chỉ ra ở trên, còn rất
yếu kém. Trong đó nổi lên hai vấn đề mấu chốt, đó là tốc độ giải ngân quá chậm và tình
trạng thất thoát vốn. Theo nhận định của nhiều chuyên gia, tốc độ giải ngân vốn ODA
của Việt Nam thấp hơn nhiều so với mức trung bình của khu vực (năm 2010 Việt Nam
mới chỉ giải ngân được 40% số vốn đã cam kết). Nguyên nhân khiến quá trình giải ngân
vốn ì ạch là do:
-
Dự án ODA chủ yếu tập trung vào các dự án xây dựng cơ bản do vậy, khâu
giải phóng mặt bằng là khâu quan trọng đầu tiên. Tuy nhiên, tình hình giải phóng mặt
bằng ở Việt Nam thì thật sự nan giải. Có những dự án, công tác giải phóng mặt bằng phải
kéo dài đến 1-2 năm mới hoàn thành.
-
Cơ chế có phần bị chồng chéo khiến cho công tác đấu thầu, triển khai dự
án cũng bị chậm. Sự khác biệt về quy trình, thủ tục giữa Việt Nam và nhà tài trợ, đặc biệt
trong lĩnh vực đấu thầu, chính sách về an sinh xã hội (đền bù, GPMB và tái định cư),...
đặc biệt trong bối cảnh chính sách, thể chế thay đổi nhanh cũng là một trong những
nguyên nhân làm chậm tiến độ thực hiện và giải ngân.
-
Bản thân công tác đấu thầu cũng còn nhiều bất cập. Các PMU là cơ quan
được giao quyền quản lý sử dụng vốn ODA này, tự đưa ra các yêu cầu ban đầu đối với
gói thầu mà không có sự tư vấn của các chuyên gia, nên nhiều dự án còn gây tranh cãi,
thắc mắc, khiến thời gian đấu thầu kéo dài.
Riêng đối với tình trạng thất thoát vốn, trường hợp PMU 18 là ví dụ điển hình
cho sự quản lý yếu kém của Nhà nước đối với nguồn vốn vay quan trọng này.
PMU -18 là một trong những đơn vị được ưu ái giao cho quản lý hàng triệu USD
từ nguồn vốn ODA và trái phiếu Chính phủ… để đầu tư phát triển giao thông. Với nguồn
tài chính dồi dào, mỗi năm nhận hàng tỷ USD vốn đầu tư, PMU 18 là "siêu ban" quản lý
rất nhiều dự án lớn của Bộ Giao thông Vận tải. Trong thời gian 13 năm từ 1993 đến
2006, đơn vị này quản lý khoảng 2 tỷ USD do Ngân hàng Quốc tế (World Bank), Nhật
Bản và một số quốc gia Âu châu tài trợ và nhà nước Việt Nam góp vốn. Tuy nhiên đây
lại trở thành nơi sử dụng lãng phí nhất nguồn vốn ODA và là nơi chứa đựng những hành
vi tham nhũng trắng trợn chưa từng có ở Việt Nam. Hàng loạt các công trình, dự án lớn
đầy tai tiếng, vừa xây dựng chưa được bao lâu đã hỏng hóc, xuống cấp như công trình
cầu Hoàng Long (Thanh Hóa) (thất thoát 4,5 tỷ đồng trong tổng kinh phí đầu tư 224 tỷ
đồng), phà Minh Châu (Ba Vì, Hà Nội) do PMU18 tự ý đưa vào dự án giao thông nông
thôn do WB tài trợ với kinh phí trị giá 64.000USD, thế nhưng khi vừa đưa vào sử dụng
đã bị hư hỏng, Quốc lộ 2 đã xuống cấp nghiêm trọng sau 3 tháng sử dụng…. PMU 18 đã
gây xôn xao dư luận tại Việt Nam cũng như các nước và tổ chức cung cấp viện trợ phát
triển chính thức (ODA) cho Việt Nam đã khiến Bộ trưởng Bộ GTVT Đào Đình
Bình phải từ chức và Thứ trưởng Thường trực Nguyễn Việt Tiến bị bắt giam. Bùi Tiến
Dũng, Tổng Giám đốc Ban Quản lý Các Dự án PMU-18 bị bắt giữ và cáo buộc đã cá
độ bóng đá với số tiền trên 1,8 triệu đô la cùng với trên 200 nhân viên đã tham gia cá độ
Một nguồn tiền khổng lồ được các quan chức tại PMU 18 sử dụng vào mục đích cá nhân
trong thời gian qua.
Trường hợp của PMU 18 chỉ là một ví dụ điển hình, một vụ thất thoát vốn ngân
sách được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng. Bên cạnh nó, chúng ta
không thể biết rằng có bao nhiêu PMU, bao nhiêu đơn vị đang được giao trọng trách
khoản vốn vay quan trọng này đang gây thất thoát và số tiền thất thoát là bao nhiêu. Chỉ
nhìn vào chất lượng một số công trình, một số dự án không đảm bảo chất lượng, ngổn
ngang vật liệu xây dựng cũng có thể thấy rằng con số đó chắc hẳn là không nhỏ. Những
vụ việc như PMU 18 cho chúng ta thấy một phần của bức tranh sử dụng nợ công còn
kém hiệu quả của Việt Nam hiện nay. Nếu chúng ta cứ đi vay nợ rồi quản lý gây thất
thoát thì gánh nặng trả nợ sẽ chỉ đè nặng lên thế hệ tương lai của chúng ta.
Như lời bà Victoria Kwa Kwa - Giám đốc WB tại VN - cho rằng, Việt Nam cần
cân nhắc tới vấn đề phát triển bền vững trong dài hạn, thay vì chạy theo những mục tiêu
ngắn hạn trước mắt thông qua việc ổn định các biến số của nền kinh tế vĩ mô. "Tăng tốc"
tiến độ giải ngân và có những giải pháp quản lý linh hoạt, phù hợp đối với vốn ODA
chính là những nhân tố tác động đến việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn đáng quý này,
mang lại nhiều lợi ích cho phát triển kinh tế và đây là một cách làm khôn ngoan góp
phần giải quyết hiệu quả bài toán "nợ công". Vì vay đầu tư đúng, trúng, hiệu quả, không
thất thoát thì đến kỳ nào đáo hạn sẽ trả được và trả một cách sòng phẳng, đàng hoàng.
3.2.3. Nợ nước ngoài của các công ty, tổng công ty và tập đoàn Nhà