Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

GIÁO dục PHÁT TRIỂN THẨM mỹ CHO TRẺ 24 36 THÁNG TUỔI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.76 KB, 14 trang )

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Mục đích của sáng kiến.
- Giáo viên hướng cho trẻ tới các bài hát, bài tô, nặn, xé, dán phù hợp với
khả năng và sự phát triển của trẻ thông qua các đề tài.
- Tính mới của giải pháp với các giải pháp được trình bày so với giải pháp
trước đấy.
- Mới trong giải pháp trong các giờ hoạt động trẻ phải được thoải mái
không gò bó và luôn lấy trẻ làm trung tâm phong phú về đồ dùng, đồ chơi, đưa
công nghệ thông tin vào các giờ giảng dậy.
- Ưu điểm của sáng kiến kinh nghiệm là rèn cho trẻ khéo léo đôi bàn tay,
rèn cho trẻ các kỹ năng của các đề tài của từng độ tuổi của trẻ và từ đó trẻ sẽ
nâng cao khả năng tư duy gần gũi với mọi sự việc xung quanh trẻ và trong các
tác phẩm nghệ thuật, một số kỹ năng trong hoạt động âm nhạc. Thể hiện sự
sáng tạo khi tham gia các hoạt động nghệ thuật: âm nhạc, tạo hình…đặc biệt là
những bài hát, bài tô, nặn, xé, dán, giúp trẻ ham học những bài học về phát triển
thẩm mĩ.
- Đóng góp của sáng kiến còn nhiều hạn chế, mong Ban giám hiệu nhà
trường xem xét bổ sung cho bản sáng kiến thường xuyên triển khai làm đồ dùng
đồ chơi phục vụ cho các bộ môn học.
2. Đóng góp của sáng kiến.
a) Đóng góp về mặt khoa học.
Nghiên cứu đề tài SKKN giúp cho giáo viên hiểu và nắm được một số biện
pháp giáo dục thẩm mỹ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi.
b) Đóng góp về mặt kinh tế.
- Với tiêu chí.
+ Không tranh giành đồ chơi với bạn.
+ Biết cảm nhận được cái đẹp qua một số hoạt động vẽ, nặn, xé, dán, xâu
vòng, hát.
+ Biết yêu quý cây trồng, vật nuôi, biết giữ gìn vệ sinh môi trường.
c) Đóng góp về mặt xã hội.
Đào tạo những chủ nhân tương lai của đất nước trở thành những con


người biết cảm nhận cái đẹp của cuộc sống, luôn lạc quan yêu đời, có lối sống
lành mạnh.
Xây dựng một nền văn hoá tiên tiến trong tương lai.

PHẦN II: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA SKKN
1. Cơ sở lý luận
Trường mầm non là mái trường đầu tiên nuôi dưỡng và vun đắp những
ước mơ đầu tiên trong cuộc sống của mỗi con người. Công tác giáo dục mầm
non đã góp phần vào việc xây dựng con người mới, xã hội chủ nghĩa ngay từ
buổi bình minh của cuộc đời đứa trẻ.
Việc giáo dục trẻ mầm non phải đảm bảo cho trẻ tự giác tham gia vào các
hoạt động và được hoạt động tích cực, từ đó phát triển nhân cách cho trẻ. Từ


những việc tổ chức hoạt động thu hút trẻ tham gia như: Múa hát, kể chuyện, đọc
thơ, vẽ, nặn… kích thích sự tò mò khám phá của trẻ. Muốn vậy, trẻ phải được
xem xét như một nhân cách trọn vẹn, việc giáo dục nhân cách phải dựa vào đặc
điểm tâm sinh lý lứa tuổi, vào điều kiện, hoàn cảnh và môi trường sống của trẻ.
* Giáo dục thẩm mỹ.
a. Một số quan điểm về cái đẹp và giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mầm
non.
Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ là một bộ môn khoa học vì nó có hệ thống giáo
dục tốt nhất, có nguyên lý xuất phát, có đối tượng thẩm mỹ, có phương pháp
nghiên cứu, có hệ thống khái niệm và phạm trù riêng biệt, có lịch sử phát sinh và
phát triển.
b. Sự cần thiết của giáo dục thẩm mỹ đối với trẻ.
Giáo dục thẩm mỹ là một bộ phận không thể tách rời của hệ thống giáo
dục chung đối với thế hệ trẻ và cần bắt đầu nó ngay từ lứa tuổi mầm non. Việc
để cho trẻ tiếp xúc với cái đẹp trong nghệ thuật và trong đời sống xung quanh,

có ý nghĩa quan trọng không chỉ với sự phát triển thẩm mỹ mà cả đối với sự phát
triển đạo đức và trí tuệ của trẻ. Vì vậy, cần tạo ra những điều kiện tối ưu cho sự
phát triển thẩm mỹ không kể những điều kiện bẩm sinh của chúng thế nào, bởi
mỗi đứa trẻ có thể tiếp xúc với tất cả các loại nghệ thuật. Với trẻ mẫu giáo tỏ ra
là xuất sắc trong một loại nghệ thuật nào đó thì việc tiếp xúc với các nghệ thuật
khác càng làm giàu nhân cách nói chung cũng như làm giàu năng lực của
chúng.
Trường mầm non là môi trường giáo dục đầu tiên của trẻ, đứa trẻ bị ảnh
hưởng tốt xấu như thế nào là do sự tác động của cô giáo mầm non, bạn bè,
hoàn cảnh sống xung quanh như trường lớp, đồ chơi, đồ dùng, trang trí phòng
nhóm. Thông qua các tác phẩm nghệ thuật như: tác phẩm văn học, âm nhạc, hội
họa, cũng chính thông qua dạy học là phương tiện quan trọng giáo dục thẩm mỹ
cho trẻ một cách có mục đích, có kế hoạch.
Trẻ mầm non rất thích cái đẹp, thích được mọi người khen đẹp, dễ bị lôi cuốn
một cách tự phát vào những gì hấp dẫn xung quanh, đó là điều kiện thuận lợi để
chúng ta tiến hành thực hiện nhiệm vụ giáo dục thẩm mỹ nhằm giúp trẻ nhận
thức đúng đắn về cái đẹp, yêu cái đẹp, biết giữ gìn cái đẹp mong muốn tạo ra cái
đẹp ở xung quanh trẻ.
2. Cơ sở thực tiễn giáo dục thẩm mỹ cho trẻ 24-36 tháng tuổi.
Trường mầm non nơi tôi đang công tác là một trường lớn, tập trung đông con em
nông dân, trẻ đi học được ăn bán trú tại trường là 100%. Sự quan tâm của bố
mẹ tới trẻ còn ít, mà đặc biệt còn phó mặc cho giáo viên chăm sóc dạy dỗ trẻ.
Các cháu ít được sự phối hợp chăm sóc giữa gia đình và nhà trường dẫn đến
việc phát triển thẩm mỹ của trẻ bị hạn chế. Cho nên việc rèn thêm khả năng
thẩm mỹ cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi ở trường mầm non là một nhiệm vụ cơ bản.
Ngoài ra, còn tác động toàn bộ tới quá trình chăm sóc giáo dục trẻ.
a) Quan tâm đến công tác bồi dưỡng.
Nhà trường đã tổ chức cho 100% cán bộ giáo viên tham dự các lớp bồi dưỡn do
Phòng, Trường tổ chức. Sau mỗi đợt bồi dưỡng về nhà trường tiếp tục tổ chức
cho tất cả giáo viên trong trường được trao đổi, thảo luận, viết thu hoạch và đề

xuất những kiến nghị.


b) Tạo môi trường giáo dục xung quanh trẻ.
Trẻ lứa tuổi nhà trẻ có đặc điểm hay bắt chước. Vì vậy, phải tạo môi trường mẫu
mực xung quanh trẻ; phải có môi trường sư phạm, môi trường xanh - sạch - đẹp
(có vườn hoa, có khu thiên nhiên, có đồ chơi đẹp…), giáo viên phải gương mẫu
đối với trẻ đó là ăn mặc, cử chỉ, lời nói, tác phong sư phạm phải nhanh nhẹn,
đúng mực để hình thành cho trẻ thói quen gương mẫu trước trẻ.
c) Xây dựng các góc.
Ở mỗi nhóm lớp xây dựng các góc, ở mỗi góc này giáo viên phải sưu tầm tranh
sách ở nhiều hình ảnh và thường xuyên được trang trí thay đổi theo chủ điểm
một cách phong phú, sáng tạo để lôi cuốn trẻ (xây dựng góc mở để cô và trẻ tạo
sản phẩm trong thời gian thực hiện chủ điểm), cô trưng bày những sản phẩm
đẹp do trẻ tự làm như các bức tranh sản phẩm vẽ, nặn, xé, dán…
d) Giáo dục trẻ mọi lúc mọi nơi.
Đặc điểm tâm lý trẻ mầm non dễ nhớ mau quên, việc giáo dục thẩm mỹ đối với
trẻ phải được thường xuyên, liên tục và giáo dục ở mọi lúc mọi nơi thông qua
các hoạt động là biện pháp tốt nhất. Giáo dục thẩm mỹ thực hiện qua các hoạt
động hàng ngày như đón trả trẻ, hoạt động vui chơi, lao động, vệ sinh, hoạt động
vẽ, nặn, xé, dán, âm nhạc. Yêu cầu giáo viên phải gần gũi để kịp thời phát hiện
và uốn nắn những sai sót của trẻ. Hoạt động học tập chiếm ưu thế trong giáo
dục thẩm mỹ, cho nên đội ngũ giáo viên đã lồng ghép nội dung giáo dục thẩm
mỹ vào tất cả các môn học.
e) Xây dựng môi trường xanh - sạch - đẹp.
Để hỗ trợ cho chuyên đề các lớp đã chú ý tạo cảnh quan sân trường để thu hút
trẻ; hoa và cây cảnh được sắp xếp, chăm sóc chu đáo. Quy định chỗ để xe cho
phụ huynh khi đưa con đến trường để tạo ý thức thực hiện nếp sống văn minh,
trật tự; tạo các thùng đựng rác và tạo thói quen bỏ rác vào thùng cho phù huynh
và học sinh; tạo góc thiên nhiên cây cảnh, nuôi các con vật gần gũi để trẻ làm

quen như: lợn, gà…
g) Phối kết hợp với các bậc cha mẹ và các lực lượng xã hội để làm tốt việc
giáo dục thẩm mĩ.
Công tác chăm sóc giáo dục trẻ mẫu giáo nói chung và công tác giáo dục thẩm
mĩ nói riêng, muốn đạt kết quả cao đều không thể thiếu có sự ủng hộ của các
bậc phụ huynh. Với nhận thức như vậy, khi triển khai chuyên đề giáo dục thẩm
mĩ, tôi đã phối kết hợp chặt chẽ với các bậc phụ huynh. Trong buổi họp phụ
huynh đầu tiên, tôi đã thông báo rõ mục đích yêu cầu, nội dung thực hiện của
chuyên đề với phụ huynh và cùng ban đại diện hội phụ huynh bàn biện pháp
phối hợp và thực hiện.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ SKKN ĐỀ CẬP ĐẾN
Trong quá trình thực hiện “Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ 24 - 36 tháng
tuổi”. Tôi đã gặp một số thuận lợi, khó khăn sau:
1. Thuận lợi.
Là giáo dục thẩm mỹ cho trẻ của trường nên tôi nhận được rất nhiều sự
quan tâm đầu tư, tạo điều kiện hỗ trợ về cơ sở vật chất trang thiết bị đồ dùng, đồ
chơi.


- Diện tích lớp rộng, thoáng mát, đủ để cho trẻ tham gia vào các hoạt
động.
- Ban giám hiệu nhiệt tình, năng động, có trình độ chuyên môn, thường
xuyên quan tâm giúp đỡ giáo viên khi gặp khó khăn, vướng mắc về tiết dạy.
Luôn bố trí dự giờ chéo nhau, xây dựng những tiết mẫu, những tiết khó thực
hiện, thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn cùng nhau trao đổi,
bàn bạc, khám phá, rút kinh nghiệm tìm ra những biện pháp thực hiện tiết dạy
hay nhất, hiệu quả nhất.
- Các cháu khỏe mạnh đồng đều lứa tuổi.
- Bản thân vốn có sẵn năng khiếu hội họa, năng khiếu làm đồ dùng đồ
chơi, thiết kế môi trường học tập và có lòng yêu nghề, mến trẻ, tâm huyết với sự

nghiệp giáo dục mầm non.
2. Khó khăn.
Bên cạnh những thuận lợi trên thì cũng có rất nhiều khó khăn:
- Nhận thức của trẻ không đồng đều, một số trẻ sức khoẻ yếu, ảnh hưởng
đến việc học tập của trẻ.
- Ngôn ngữ một số trẻ còn ngọng, kỹ năng trả lời các câu hỏi còn chậm,
nói chưa đủ câu, đủ ý.
- Trẻ còn nhút nhát, khả năng giao tiếp hạn chế, trẻ chưa mạnh dạn, thiếu
tự tin trong các hoạt động. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả học tập
của trẻ.
- Với những thuận lợi, khó khăn trên, tôi đã băn khoăn, suy nghĩ rất nhiều
và đã tìm ra một số biện pháp để khắc phục làm sao thực hiện tốt việc giáo dục
thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo nhỡ. Để trẻ có một tâm thế mạnh dạn, tự tin trong
giao tiếp, trong cuộc sống hàng ngày.
3. Khảo sát nhận thức thẩm mỹ của trẻ.
Để nắm vững thực trạng sự nhận thức về giáo dục thẩm mỹ cho trẻ nhà
trẻ, tôi đã tiến hành khảo sát 16 cháu nhóm 24 - 36 tháng tuổi do lớp tôi phụ
trách.
a) Nội dung khảo sát.
- Khảo sát nhận thức của trẻ dựa trên các tiêu chí nhận thức hành vi đạo
đức, văn hoá vệ sinh và thông qua môn giáo dục âm nhạc, hoạt động tạo hình.
Tiêu chí 1: Biết chào hỏi, thưa gửi, xin lỗi.
Tiêu chí 2: Thích tham gia hoạt động âm nhạc tạo hình.
Tiêu chí 3: Trẻ hát vận động theo nhạc, theo giai điệu.
Tiêu chí 4: Trẻ thể hiện được bài hát, bài vẽ.
Tiêu chí 5: Trẻ có năng khiếu về âm nhạc, tạo hình.
Tiêu chí 6: Không tranh giành đồ chơi với bạn, thích chơi với bạn.
Tiêu chí 7: Biết yêu thương những người gần gũi.
Tiêu chí 8: Giao tiếp mạnh dạn, lễ độ.
Tiêu chí 9: Biết yêu quý cây trồng, vật nuôi.

Tiêu chí 10: Biết giữ gìn vệ sinh thân thể, vệ sinh môi trường.
Tiêu chí 11: Biết cầm bút, tô màu.
Tiêu chí 12: Giữ và cất lấy đồ chơi đúng nơi quy định.
Tiêu chí 13: Phân biệt được sai đúng.
Tiêu chí 14: Hứng thú chơi và học.


Tiêu chí 15: Hứng thú tham gia các hoạt động tập thể.
Khi xây dựng kế hoạch khảo sát trẻ, tôi đề ra 15 tiêu chí trên để đánh giá
phân loại theo 4 mức độ: tốt, khá, trung bình, yếu tương ứng với số điểm của
từng tiêu chí, cụ thể như sau:

Tốt: 4 điểm
Trung bình: 3 điểm
Khá: 8 điểm
Yếu: 1 điểm
Loại tốt: Trẻ có thói quen giao tiếp thường xuyên, thể hiện được của mình
qua bài hát, bài vẽ.
Loại khá: Trẻ đã có ý thức nhưng chưa có thói quen thường xuyên, thể
hiện được tình cảm của mình qua bài hát, bài vẽ, đôi khi phải có sự nhắc nhở
của người lớn.
Loại trung bình: Khi thực hiện phải có sự nhắc nhở của người lớn trẻ mới
làm nhưng chưa đạt yêu cầu.
Loại yếu: Trẻ chưa có ý thức thực hiện việc giao tiếp, thể hiện được tình
cảm của mình qua bài hát, bài vẽ, trong khi chơi và khi học.
Sau thời gian khảo sát, nghiên cứu từng tiêu chí đến từng trẻ, tôi đã ghi lại cụ
thể như sau:
Loại tốt
Loại khá
Loại YC

Không đạt
S
T.số
T.số
T.số
T.số
tt
Tên tiêu chí
trẻ Tỷ lệ % trẻ Tỷ lệ % trẻ Tỷ lệ % trẻ Tỷ lệ %
1

2

3
4

5

6
7
8

Biết chào hỏi, thưa
gửi, cảm ơn, xin lỗi
Thích tham gia hoạt
động âm nhạc, tạo
hình
Trẻ hát đúng nhạc,
đúng giai điệu
Thể hiện được bài

hát, bài tô vẽ
Thể hiện được năng
khiếu về âm nhạc,
tạo hình
Không tranh giành
đồ chơi của bạn,
thích chơi với bạn
Biết yêu thương
người gần gũi
Giao tiếp mạnh dạn,
lễ độ

2

12,5

9

56

4

25

1

6,25

4


25

8

54

3

19

1

4

4

25

3

19

9

59

0

0


0

0

5

33

8

52

3

19

0

0

7

45

7

45

2


15

5

34,25

3

19

7

45

1

6,25

4

25

9

59

3

19


0

0

3

19

10

12,5

2

15

1

4


9
10
11

12

13
14


15

Biết yêu quý cây
trồng, vật nuôi
Biết giữ gìn VSTT,
vệ sinh môi trường
Biết tô màu và biết
cách cầm bút tô
Giữ và cất lấy đồ
chơi đúng nơi quy
định
Phân biệt được sai
đúng
Hứng thú chơi và
học
Hứng thú tham gia
các hoạt động tập
thể

5

33

2

15

7

45


2

15

3

19

5

31,25

8

50

0

0

4

25

6

40

5


31,25

1

4

5

31,25

3

19

8

50

0

0

0

0

4

25


9

59

3

19

5

31,25

10

62,5

1

6,25

0

0

2

12,5

8


50

6

38

0

0

Trong quá trình khảo sát nghiên cứu, phương pháp chính của tôi là theo dõi, ghi
chép, trò chuyện. Vì vậy, trẻ giao tiếp hoàn toàn tự tin thoải mái nên kết quả điều
tra theo từng tiêu chí cũng như vậy, sự giao tiếp từng trẻ là hoàn toàn trung thực.
Các cháu ở đây vô cùng hiếu động, các cháu luôn muốn nói và thích nói, thích
chơi với đồ vật và bạn bè.
Kết quả của từng trẻ thể hiện trên các tiêu chí và số điểm trên các tiêu chí như
sau:
Loại tốt: Từ 40 - 60 điểm.
Loại khá: Từ 35 đến 39 điểm.
Loại trung bình: Từ 39 - 44 điểm.
Loại yếu: Từ 5 - 10 điểm.
Tổng số trẻ tôi khảo sát là 16 cháu. Kết quả như sau:
Trên cơ sở cho điểm như vậy, tôi thấy số cháu được xếp loại tốt là 3 cháu =
18%.
Số trẻ đạt loại khá là 7 cháu = 43%.
Số trẻ đạt loại trung bình là 5 cháu - 31%
Số trẻ loại yếu là 1 cháu = 4% đó là các cháu.
Để hiểu nguyên nhân dẫn đến khả năng giao tiếp có văn hoá và thẩm mỹ không
đồng đều của các cháu, tôi đã tìm hiểu thêm về hoàn cảnh gia đình, điều kiện

sống, nghề nghiệp của bố mẹ, tôi đã được gia đình các cháu nhiệt tình giúp đỡ,
trao đổi và trò chuyện vui vẻ.
Qua trao đổi, tôi thấy trong 16 cháu tôi khảo sát điều tra đa số bố mẹ trẻ làm
nông nghiệp và phần ít bố mẹ là cán bộ công nhân viên nhà nước. Đối với các
cháu bố mẹ là cán bộ công nhân viên nhà nước thì điều kiện, thời gian chăm sóc
các cháu nhiều hơn so với các cháu có bố mẹ làm nông nghiệp. Do đặc điểm địa
bàn trường mầm non nơi tôi khảo sát hầu hết làm nghề nông nghiệp, nên họ
chưa quan tâm mấy đến việc học hành các cái, mà chủ yếu vẫn lo kinh tế gia


đình, có cháu 1 tuổi mới được ít tháng. Chính những yếu tố trên đã ảnh hưởng
không nhỏ đến sự phát triển thẩm mỹ của trẻ. Sự giao tiếp, tiếp xúc với bạn bè,
với cô giáo, cảm nhận cái đẹp hay tiếp xúc với trường lớp, sách, vở, bút, đàn
nhạc… giúp trẻ phát triển là yếu tố quan trọng cho sự phát triển thẩm mỹ trẻ.

CHƯƠNG III
NHỮNG GIẢI PHÁP MANG TÍNH KHẢ THI
1. Đổi mới phương pháp và nội dung giáo dục thẩm mỹ cho trẻ 24 36 tháng tuổi.
Khi nói đến đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục thẩm mỹ thì nên
quan tâm đến đổi mới hình thức tổ chức. Trong việc đổi mới nội dung, phương
pháp giáo dục thẩm mỹ ta không nên áp dụng những phương pháp gò bó, cứng
nhắc mà phải luôn luôn cải tiến và đổi mới nội dung, hình thức mở rộng phong
phú, để giúp trẻ hình thành và phát triển những năng lực cảm thụ, nhận thức
đúng đắn về cái đẹp, giáo dục trẻ yêu cái đẹp và bước đầu hình thành năng lực
sáng tạo ra cái đẹp.
Hàng ngày trẻ được tiếp xúc với thiên nhiên, môi trường, xã hội đã hình
thành ở trẻ những nhu cầu cảm thụ cái đẹp. Vì vậy, nội dung giáo dục thẩm mỹ
cho trẻ bao gồm nhiều thể loại đặc biệt. Cần phát hiện ra cái đẹp và hướng trẻ
vào vẻ đẹp để trẻ được quan sát, hưởng thụ và để trẻ phát huy năng khiếu vốn
có của mình trong cuộc sống hàng ngày.

* Các biện pháp cụ thể:
- Cái đẹp là nền móng thu hút tâm hồn trẻ thơ, vì vậy cần cho trẻ thường
xuyên tiếp xúc với tranh, ảnh nghệ thuật, cho trẻ đi chơi, tham quan để trẻ được
tiếp xúc với thiên nhiên môi trường xung quanh. Từ đó trẻ sẽ hiểu được cái đẹp
một cách khái quát dẫn đến trẻ hiểu được một cách tổng quát.
- Muốn đổi mới thì: “học phải đi đôi với hành” nên cần có kế hoạch đầu tư
kinh phí mua sắm đồ dùng, đồ chơi để các giờ dạy mang lại kết quả ca.
- Đối với các góc: Cần luôn luôn thay đổi cách trang trí, tạo ra nhiều cái
mới lạ mắt, hấp dẫn trẻ về màu sắc, hình dáng, kích thước thật phong phú và có
nội dung phù hợp với từng độ tuổi, đảm bảo tính sư phạm.
- Cô giáo luôn uốn nắn, tạo cơ hội để trẻ có thói quen giữ gìn đồ dùng, đồ
chơi và biết bảo vệ cái đẹp.
2. Tổ chức cho trẻ luyện tập để hình thành kỹ năng, thói quen thẩm mỹ.
Thói quen thẩm mỹ là toàn bộ những cử chỉ, điệu bộ, lời nói, cách cư xử,
cảm nhận cái đẹp, các hoạt động âm nhạc, tạo hình… của con người với nhau
trong cuộc sống. Nó được lặp đi lặp lại nhiều lần và trong thời gian dài sẽ tạo
thành thói quen. Đây là khâu quan trọng nhất của công tác giáo dục thẩm mỹ
cho trẻ mẫu giáo. Bởi vì những xúc cảm, tình cảm, những tri thức về chuẩn mực
cái đẹp đã trang bị cho trẻ kỹ năng hành động, trẻ nhất thiết phải được luyện tập
một cách có hệ thống dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú. Xong tùy
từng nội dung, từng lớp, từng trường, từng đối tượng học sinh mà lựa chọn các


biện pháp và hình thức luyện tập cho phù hợp thông qua các trò chơi; đặc biệt là
cho trẻ tiếp xúc với các tác phẩm nghệ thuật đa dạng, phong phú trong sinh hoạt
hàng ngày. Cần phối hợp sử dụng các hình thức luyện tập đỡ nhàm chán. Chú ý
thực hiện các thói quen từ đơn giản đến phức tạp. Giáo dục thẩm mỹ của trẻ chỉ
có thể được hình thành trong điều kiện trẻ phải biết và hiểu các chuẩn mực, các
quy tắc và cố gắn thực hiện các chuẩn mực đó trong cuộc sống hàng ngày.
Trong quá trình trẻ luyện tập, trẻ tự rút ra cho mình kinh nghiệm hành động và

được thực hiện trong điều kiện nhất định, được củng cố và trở thành thói quen.
Những động cơ giáo dục thẩm mỹ có giá trị sẽ làm cho thói quen của trẻ thêm
bền vững và sâu sắc hơn.
Để giáo dục kỹ xảo thói quen thẩm mỹ tốt, trước hết cần tổ chức cuộc sống của
trẻ thật tốt. Điều này có nghĩa là tổ chức các hoạt động của trẻ để mọi sự giao
tiếp, hoạt động âm nhạc, tạo hình của chúng với mọi người xung quanh được
lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ trở thành thói quen cần thiết. Việc giáo dục thẩm mỹ
cho trẻ cần được thực hiện thường xuyên. Trong quá trình thực hiện giáo viên
cần tiến hành tổ chức luyện tập để hình thành kỹ năng, kỹ xảo thói quen thẩm
mỹ cho trẻ.
Việc luyện tập đối với trẻ cần nâng cao dần mức độ như sau:
- Từ dễ đến khó.
- Từ yêu cầu chỉ diễn tả bằng lời cách ứng xử của bản thân đến bằng hành động
cụ thể.
- Từ hình thức đơn giản đến phức tạp.
- Luyện tập từng thao tác, từng chuẩn mực riêng lẻ đến luyện tập kết hợp các
thao tác, nhiều chuẩn mực cùng một lúc; từ tình huống giả định đến tình huống
có thực trong cuộc sống hàng ngày. Giáo viên cần luyện tập cho trẻ ở các hoạt
động đa dạng, phong phú. Việc tổ chức chế độ sinh hoạt hàng ngày cho trẻ và
việc luyện tập đó phải được tiến hành thường xuyên để trở thành kỹ năng, kỹ
xảo thói quen thẩm mỹ.
3. Phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường tạo điều kiện để giáo dục
thẩm mỹ mang lại kết quả cao.
Môi trường gần gũi nhất đối với trẻ là gia đình và nhà trường. Việc kết hợp giữa
gia đình và nhà trường sẽ tạo ra sức mạnh và là chỗ tin cậy vững chắc cho sự
phát triển của trẻ. Khi có cháu đến lớp mẫu giáo thì điều kiện sống, sự giao tiếp
của mỗi gia đình có sự khác nhau về nhiều mặt như vị trí xã hội, nghề nghiệp,
tuôi tác.
Hàng năm nhà trường tổ chức các buổi họp phụ huynh học sinh vào đầu năm,
giữa năm, cuối năm để trao đổi tình hình học tập và hoạt động, sinh hoạt. Từ đó

có biện pháp hướng dẫn nuôi dạy trẻ đạt được kết quả cao.
Ngoài ra, còn trao đổi với phụ huynh vào những lúc đón, trả trẻ để gia đình và
nhà trường nắm được tình hình sức khoẻ, học tập khả năng tiếp thu của trẻ. Từ
đó có sự thống nhất trong việc nuôi dạy trẻ.
* Kết quả giáo dục.
Qua quá trình nghiên cứu điều tra thực tế tại lớp 2 tuổi tôi chủ nhiệm, tôi nhận
thấy rằng hoạt động thẩm mỹ của trẻ có tiến bộ rõ rệt. Đa số trẻ biết cảm nhận
cái đẹp, thực hiện được các tiêu chí nhận thức hoạt động âm nhạc, tạo hình đạt
kết quả cao.


CHƯƠNG IV
KIỂM CHỨNG CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ TRIỂN KHAI

S
tt
1
2

3
4

5

6
7
8
9
10
11

12

13

Tên tiêu chí

Biết chào hỏi, thưa gửi,
cảm ơn, xin lỗi
Thích tham gia hoạt
động âm nhạc, tạo hình
Trẻ hát đúng nhạc,
đúng giai điệu
Thể hiện được bài hát,
bài tô vẽ
Thể hiện được năng
khiếu về âm nhạc, tạo
hình
Không tranh giành đồ
chơi của bạn, thích
chơi với bạn
Biết yêu thương người
gần gũi
Giao tiếp mạnh dạn, lễ
độ
Biết yêu quý cây trồng,
vật nuôi
Biết giữ gìn VSTT, vệ
sinh môi trường
Biết tô màu và biết
cách cầm bút tô

Giữ và cất lấy đồ chơi
đúng nơi quy định
Phân biệt được sai
đúng

Loại tốt
T.số Tỷ lệ
trẻ
%

Loại khá
T.số Tỷ lệ
trẻ
%

Loại YC
Không đạt
T.số Tỷ lệ
trẻ
% T.số trẻTỷ lệ %

14

87

2

12

0


0

0

0

15

93

1

6

0

0

0

0

13

81

3

18


0

0

0

0

12

75

4

25

0

0

0

0

10

62

6


37

0

0

0

0

15

93

1

6

0

0

0

0

15

9*3


1

6

0

0

0

0

14

87

2

12

0

0

0

0

15


93

1

6

0

0

0

0

13

81

3

18

0

0

0

0


12

75

2

12.5

2

12.5

0

0

15

93

1

6

0

0

0


0

13

81

3

18

0

0

0

0


14 Hứng thú chơi và học

15

93

1

6


0

0

0

0

Hứng thú tham gia các
15 hoạt động tập thể
15

93

1

6

0

0

0

0

PHẦN III: KẾT LUẬN
1. Những vấn đề quan trọng nhất được đề cập đến của sáng kiến.
Qua việc điều tra nghiên cứu, điều tra thống kê và phân tích trên tôi có thể
rút ra những kết luận sau đây:

Để hình thành cho trẻ thói quen có thẩm mỹ ngay từ khi còn nhỏ thì vai trò
của gia đình và nhà trường mầm non là rất quan trọng. Trước hết phải nói đến
trách nhiệm của những người lớn trong gia đình như: ông, bà, bố, mẹ, anh, chị.
Người lớn hơn luôn phải là người tốt, gương mẫu để trẻ noi theo, phải gương
mẫu từ lời ăn tiếng nói, cử chỉ, việc làm để trẻ bắt chước làm theo.
Trong chương trình cần chú trọng lồng ghép tích hợp các nội dung giáo
dục thẩm mỹ vào các tiết học cũng như các hoạt động trong ngày của trẻ một
cách linh hoạt ở mọi lúc mọi nơi, phù hợp với trẻ. Trẻ có ý thức để thực hiện
hành vi thẩm mỹ của mình, để phát triển tốt cần cho trẻ giao tiếp rộng rãi với mọi
người xung quanh, với bạn bè cùng học cùng chơi. Qua đây trẻ có điều kiện học
hỏi lẫn nhau, điều đó sẽ mở rộng khả năng thẩm mỹ của trẻ, chúng ta cần duy trì
thường xuyên không chỉ giờ học mà trong các giờ chơi, trong các giờ hoạt động
mọi lúc, mọi nơi, kích thích tính tích cực của trẻ. Cần kịp thời phát hiện những
cháu nhút nhát để có biện pháp gợi mở, dẫn dắt trẻ vào các hoạt động.
Như vậy, nhu cầu thẩm mỹ của trẻ trước hết là nhu cầu phát triển của
chính bản thân trẻ, sự cảm nhận được cái đẹp trong cuộc sống càng mang lại
kết quả bao nhiêu càng kích thích trẻ tích cực chủ động bấy nhiêu.
Một trong những điều kiện phát triển thẩm mỹ cho trẻ tốt nhất là áp dụng một
cách linh hoạt các hình thức và biện pháp phát triển cảm nhận được vẻ đẹp cuộc
sống, áp dụng mọi lúc, mọi nơi cho phù hợp với lứa tuổi của trẻ trong quá trình
chăm sóc giáo dục trẻ ở gia đình và xã hội.
2. Hiệu quả thiết thực của SKKN.
Rèn luyện kỹ năng cảm nhận cho trẻ nhà trẻ.
Tạo nhiều cơ hội cho trẻ cảm nhận cái đẹp, khiến cho trẻ tự tin, mạnh dạn hơn
và yêu đời, yêu cuộc sống, lạc quan hơn.
3. Những kiến nghị.
Qua việc điều tra nghiên cứu thực trạng giáo dục thẩm mỹ ở lớp 2 tuổi, tôi thấy:
Mặc dù công tác giáo dục đã được quan tâm rất nhiều, xong không tránh khỏi
những khó khăn và hạn chế ảnh hưởng đến việc chăm sóc giáo dục trẻ. Chính vì
vậy, tôi có một số ý kiến đề xuất với Phòng giáo dục.

* Đối với Phòng giáo dục:
Thường xuyên tổ chức các lớp chuyên đề và thao giảng những tiết giáo viên dạy
giỏi ở các cuộc thi làm tiết mẫu cho giáo viên trong huyện học tập và có cơ hội
được giao lưu học hỏi kinh nghiệm.


Trên đây là đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Giáo dục phát triển thẩm mỹ cho trẻ
24 - 36 tháng tuổi”. Đề tài này không tránh khỏi sự thiếu sót và hạn chế, rất
mong các độc giả và các bạn đồng nghiệp đóng góp ý kiến để sáng kiến hoàn
chỉnh hơn trong quá trình giảng dạy.
Về phần mình, tôi xin hứa sẽ cố gắng đem hết tinh thần, trách nhiệm và khả
năng bản thân với tấm lòng “yêu nghề mến trẻ” để xứng đáng là người mẹ hiền
thứ hai của trẻ, góp phần vào sự nghiệp trồng người.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạp chí giáo dục mầm non.
2. Một số định hướng đổi mới trong chương trình giáo dục mầm non.
3. Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ nhà trẻ.
4. Tài liệu giáo dục thẩm mỹ tuổi mầm non.
Tác giả: Đinh Hồng Thái - Phạm Quang Trung
5. Tâm lý học mầm non - Tác giả: Nguyễn Ánh Tuyết
6. Thực trạng giáo dục mầm non - Vụ giáo dục mầm non.
Tác giả: Lê Thị Ánh Tuyết
7. Sách chương trình giáo dục mầm non mới.
8. Sách hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình GDMN cho trẻ từ 2436 tháng tuổi.

MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU.. 1
1. Mục đích của sáng kiến. 1

2. Đóng góp của sáng kiến. 1
PHẦN II: NỘI DUNG.. 2
CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA SKKN.. 2


1. Cơ sở lý luận. 2
2. Cơ sở thực tiễn giáo dục thẩm mỹ cho trẻ 24-36 tháng tuổi. 3
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ SKKN ĐỀ CẬP ĐẾN.. 5
1. Thuận lợi. 5
2. Khó khăn. 5
3. Khảo sát nhận thức thẩm mỹ của trẻ. 6
CHƯƠNG III 10
NHỮNG GIẢI PHÁP MANG TÍNH KHẢ THI 10
1. Đổi mới phương pháp và nội dung giáo dục thẩm mỹ cho trẻ 24 - 36 tháng
tuổi. 10
2. Tổ chức cho trẻ luyện tập để hình thành kỹ năng, thói quen thẩm mỹ. 10
3. Phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường tạo điều kiện để giáo dục thẩm
mỹ mang lại kết quả cao. 12
CHƯƠNG IV.. 13
KIỂM CHỨNG CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ TRIỂN KHAI 13
PHẦN III: KẾT LUẬN.. 14
1. Những vấn đề quan trọng nhất được đề cập đến của sáng kiến. 14
2. Hiệu quả thiết thực của SKKN. 14
3. Những kiến nghị. 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO.. 16



PH
TRƯỜNG MẦM NON THỊ TRẤN THỨA


ĐỀ TÀI (SKKN) ĐĂNG KÝ CẤP TRƯỜNG
TÊN ĐỀ TÀI (SKKN)
“GIÁO DỤC PHÁT TRIỂN THẨM MỸ CHO TRẺ
24 - 36 THÁNG TUỔI”

Tác giả :
Chức vụ : Giáo viên
Đơn vị :

Tháng 9 năm 2016



×