Thực trạng Quan họ Kinh Bắc
“ Người Bắc Ninh vốn trọng chữ tình, người Bắc Ninh vốn trọng giao
duyên. Khách đến nhà là hát, khách uống trà là ca. Khách đi xa giữ chẳng cho
về...” .Đây là những câu ca trong bài “ ngẫu hứng giao duyên “ của quan họ Bắc
Ninh.
Về với Kinh Bắc, về với cái nôi của văn hóa Việt Nam thì không ai có thể
bỏ qua những làn điệu ngọt ngào, êm ái của dân ca quan họ.Người Bắc Ninh
đem tiếng hát quan họ thay cho lời chào, thay cho lòng mếm khách, cũng như
tình cảm mà mình dành cho người khách.
Cũng như những thể loại dân ca khác trong kho tàng dân gian Việt Nam ,
quan họ cũng mang trong mình những điểm rất độc mà chỉ trong quan họ mới
thấy. Dưới đây sẽ là sơ lược về một vài đặc điểm cũng như nét tiêu biểu của
quan họ Kinh Bắc.
Dân ca quan họ ở Bắc Giang và Bắc Ninh là một trong những làn điệu dân
ca tiêu biểu của vùng châu thổ sông Hồng ở miền Bắc Việt Nam. Nó còn được
gọi là dân ca quan họ Kinh Bắc do được hình thành và phát triển ở vùng văn hóa
Kinh Bắc xưa, đặc biệt là khu vực ranh giới hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh
ngày nay.
Ngày 30 tháng 9 năm 2009, tại kỳ họp lần thứ 4 của Ủy ban liên chính phủ
Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (từ ngày 28 tháng 9 tới
ngày 2 tháng 10 năm 2009), quan họ đã được công nhận là di sản văn hóa phi
vật thể đại diện của nhân loại sau nhã nhạc cung đình Huế, không gian văn hóa
Cồng Chiêng Tây Nguyên và cùng đợt với ca trù.
Trong sáu tỉnh người đà chưa tỏ
Ngoài năm thành chỉ có Bắc Ninh
Yêu nhau trở lại xuân tình
Nghề chơi Quan họ có tinh mới tường.
1
Lịch sử hình thành
Về phía lý luận mà nói thì bất kỳ một nền văn học nghệ thuật nào (trong
đó có dân ca) cũng nảy sinh và phát triển trên một cơ sở vật chất và trong những
điều kiện lịch sử xã hội nhất định. Nó là tấm gương phản ánh và đồng thời cũng
là vũ khí đấu tranh giai cấp của xã hội phong kiến.
Đất Bắc Ninh mà chủ yếu và cơ bản là vùng Vũ Ninh, Kinh Bắc ngày xưa;
đó là nơi có phong cảnh hữu tình, dân cư đông đúc, kinh tế phồn thịnh và lại là
nơi có một nền văn hiến lâu đời. Chính từ trên những cơ sở như vậy, mà đời
sống văn hóa ở đây chẳng những phong phú như bất kỳ một nơi săm uất nào mà
nó còn có rất nhiều phong tục, tập quán riêng làm cho lối chơi Quan họ và lời ca
tiếng hát của nó trở nên rất độc đáo. Cùng với việc xử dụng một cách quen thuộc
các loại dân ca của vùng đồng bằng Bắc bộ cũng như một số dân ca của vùng
khác, dân tộc khác vui chơi trong những ngày gặp gỡ của các tổ chức phường
họ, hội hè, tiếng hát và lối chơi Quan họ đã được phát triển.
Mặt khác, sống dưới chế độ phong kiến dù là thời kỳ đang thịnh, cuộc dấu
tranh giai cấp đã thúc đẫy hướng dẫn người dân Bắc Ninh nắm lấy tiếng hát làm
vũ khí chiến đấu của mình. Vì thế cho nên hát Quan họ chẳng những đã được
yêu thích mà còn rất được coi trọng và có một giá trị rất cao trong đời sống cua
con người. Sống trong những điểu kiện như trên và với cái môi trường luôn có
những hội hè, đình đám là nơi gặp gỡ, trao đổi, thi thố tài năng nên Quan họ đã
ngày càng được phát triển và không ngừng nâng cao cho đến trình độ như ngày
nay chúng ta đã thấy.
Vài nét về quan họ
Năm 2014, có 67 làng quan họ được đưa vào danh sách bảo tồn và phát
triển. Tỉnh Bắc Giang có 23 làng quan họ, tỉnh Bắc Ninh có 44 làng quan họ.
Các làng quan họ Kinh Bắc tồn tại ở các huyện: Yên Phong, Từ Sơn, Tiên Du,
thành phố Bắc Ninh (còn gọi là quan họ bờ nam sông Cầu thuộc tỉnh Bắc Ninh)
và các huyện Việt Yên, Yên Dũng, Hiệp Hòa (còn gọi là quan họ bờ bắc sông
Cầu thuộc tỉnh Bắc Giang).
2
Quan họ Kinh Bắc hiện nay được chia làm hai loại chính:
+ quan họ truyền thống
Quan họ truyền thống chỉ tồn tại ở 67 làng Quan họ gốc ở xứ Kinh Bắc
Quan họ truyền thống là hình thức tổ chức sinh hoạt văn hóa dân gian của người
dân Kinh Bắc, với những quy định nghiêm ngặt, khắt khe đòi hỏi liền anh, liền
chị phải am tường tiêu chuẩn, tuân theo luật lệ. Điều này giải thích lý do người
dân Kinh Bắc thích thú "chơi Quan họ", không phải là "hát Quan họ" Quan họ
truyền thống không có nhạc đệm và chủ yếu hát đôi giữa liền anh và liền chị vào
dịp lễ hội xuân thu nhị kỳ ở các làng quê. Trong quan họ truyền thống, đôi liền
anh đối đáp với đôi liền chị được gọi là hát hội, hát canh; hát cả bọn, cả nhóm
liền anh đối đáp cùng cả nhóm liền chị được gọi là hát chúc, mừng, hát thờ.
"Chơi quan họ" truyền thống không có khán giả, người trình diễn đồng thời
là người thưởng thức (thưởng thức "cái tình" của bạn hát). Nhiều bài quan họ
truyền thống vẫn được các liền anh, liền chị "chơi quan họ" ưa thích đến tận
ngày nay như: Hừ La,La rằng, Tình tang, Bạn kim lan, Cái ả, Cây gạo.
+ quan họ mới
Quan họ mới còn được gọi là "hát Quan họ", là hình thức biểu diễn (hát)
quan họ chủ yếu trên sân khấu hoặc trong các sinh hoạt cộng đồng Tết đầu xuân,
lễ hội, hoạt động du lịch, nhà hàng,... Thực tế, quan họ mới được trình diễn vào
bất kỳ ngày nào trong năm.
Quan họ mới luôn có khán thính giả, người hát trao đổi tình cảm với khán
thính giả không còn là tình cảm giữa bạn hát với nhau. Quan họ mới không còn
nằm ở không gian làng xã mà đã vươn ra ở nhiều nơi, đến với nhiều thính giả ở
các quốc gia trên thế giới.
Quan họ mới có hình thức biểu diễn phong phú hơn quan họ truyền thống,
bao gồm cả hát đơn, hát đôi, hát tốp, hát có múa phụ họa...
Quan họ mới được ưa thích hơn quan họ truyền thống không phải do không
gian và những sinh hoạt theo lề lối cổ của quan họ không còn nữa mà một phần
3
do hoạt động "hát quan họ" ngày nay thường được gắn với chính quyền nhiệm
vụ tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá quan họ trên diện rộng.
Quan họ là thể loại dân ca phong phú nhất về mặt giai điệu trong kho tàng
dân ca Việt Nam. Mỗi một bài quan họ đều có giai điệu riêng. Cho đến nay, đã
có ít nhất 300 bài quan họ đã được ký âm. Các bài quan họ được giới thiệu mới
chỉ là một phần trong kho tàng dân ca quan họ đã được khám phá. Kho băng ghi
âm hàng nghìn bài quan họ cổ do các nghệ nhân ở các làng quan họ hát hiện vẫn
được lưu giữ tại Sở Văn hóa hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh.
Các làn điệu quan họ cổ: La rằng, Đường bạn Kim Loan, Cây gạo, Giã bạn,
Hừ la, La hời, Tình tang, Cái ả, Lên núi, Xuống sông, Cái hờn, cái ả, Gió mát
trăng thanh, Tứ quý...
Trong hơn một trăm làn điệu , tuy mỗi bài một vẻ, nhưng khi đã hát lên thì
dù là ngươi mới nghe lần đầu cũng thấy ngay được cái âm hưởng riêng của
Quan họ. Cái âm hưởng đặc biệt ấy như một sợi chỉ đỏ xuyên qua tất thảy các
bài hát nối chúng lại làm cho tính thống nhất đạt đến mức độ rất cao nhưng vẫn
giữ được cái độc đáo của mỗi bài, mỗi giọng. Tiếp thu mạnh dạn, rộng rãi các
loại dân ca khác một cách có sáng tạo để bổ sung nâng cao cho mình thêm
phong phú độc đáo, là một đặc điểm rất đáng quý của dân ca Quan họ mà ngày
nay chúng ta còn thấy rất khoa học, rất tài tình vi cần phải học tập.
- Trang phục
Trang phục quan họ bao gồm trang phục của các liền anh và trang phục của
các liền chị. Trong các lễ hội quan họ có cả những cuộc thi trang phục quan họ.
+Liền anh mặc áo dài 5 thân, cổ đứng, có lá sen, viền tà, gấu to, dài tới quá
đầu gối. Thường bên trong mặc một hoặc hai áo cánh, sau đó đến hai áo dài.
Riêng áo dài bên ngoài thường màu đen.
Quần của liền anh là quần dài trắng, ống rộng, may kiểu có chân què dài tới
mắt cá chân
Có thắt lưng nhỏ để thắt chặt cạp quần. Đầu liền anh đội nhiễu quấn hoặc
khăn xếp. Thời trước, đàn ông còn nhiều người búi tó nên phải vấn tóc bằng
4
khăn nhiễu. Sau này phần nhiều cắt tóc, rẽ đường ngôi nên chuyển sang dùng
loại khăn xếp bán sẵn ở các cửa hàng cho tiện.
Cùng với quần, áo, khăn xếp, dép,… các liền anh thường có thêm nón chóp
với các dạng chóp lá thường hoặc chóp dứa, có quai lụa màu mỡ gà. Ngoài ra
cũng thường thấy các liền anh dùng ô đen.
+Trang phục liền chị thường được gọi là "áo mớ ba mớ bảy", nghĩa là liền
chị có thể mặc ba áo dài lồng vào nhau (mớ ba) hoặc bảy áo dài lồng vào nhau
(mớ bảy). Tuy nhiên trong thực tế, các liền chị thường mặc áo mớ ba. Về cơ bản
trang phục bao gồm các thành phần: trong cùng là một chiếc yếm có màu rực rỡ
thường làm bằng lụa truội nhuộm. Yếm thường có hai loại là yếm cổ xẻ (dùng
cho trung niên) và yếm cổ viền (dùng cho thanh nữ). Bên ngoài yếm là một
chiếc áo cánh màu trắng, vàng, ngà. Ngoài cùng là những lượt áo dài năm thân,
cách phối màu cũng tương tự như ở bộ trang phục nam nhưng màu sắc tươi hơn.
Áo dài năm thân của nữ, có cài khuy, khác với kiểu tứ thân thắt hai vạt trước.
Yếm thường nhuộm màu đỏ (xưa gọi là yếm thắm), vàng thư (hoa hiên),
xanh da trời (thiên thanh), hồng nhạt (cánh sen), hồ thủy (xanh biển)... Giải yếm
to buông ngoài lưng áo và giải yếm thắt vòng quanh eo rồi thắt múi phía trước
cùng với bao và thắt lưng.
Liền chị mang dép cong làm bằng da trâu thuộc theo phương pháp thủ công;
có một vòng tròn bằng da trên mặt dép để xỏ ngón chân thứ hai khiến khi đi lại,
không rơi được dép. Mũi dép uốn cong và người thợ làm dép phải biết nện,
thuộc cho mũi dép cứng, như một lá chắn nhỏ, che giấu đầu các ngón chân.
Ngoài áo, quần, thắt lưng, dép, người liền chị còn chít khăn mỏ quạ, đội nón
quai thao, và thắt lưng đeo dây xà tích.
Giá trị văn hóa
Văn hoá quan họ còn là cách ứng xử thật khéo léo, tế nhị, kín đáo và mang
đầy ý nghĩa như các làn điệu mời nước, mời trầu thật chân tình, nồng thắm mỗi
khi có khách đến chơi nhà đôi tay nâng chén rượu đào, đổ đi thì tiếc, uống vào
thì say". Quan họ uống chén rượu mừng xuân, mừng hội, vui bầu, vui bạn… rồi
5
ca xướng cho tan canh mãn võ, cho tàn đêm rạng ngày, rồi các làn điệu chia tay
giã bạn đầy quyến luyến trong câu hát "Người ơi người ở đừng về"tàn canh, giã
hội rồi mà quan họ vẫn còn ngậm ngùi tiếc nhớ "Người về tôi vẫn ngậm ngùi, để
thương, để nhớ cho tôi thế này... Người về tôi chẳng dám nài, áo trong người
mặc, áo ngoài người để làm tin"… Và để rồi kết thúc bằng những lời hứa hẹn
tha thiết "Đến hẹn lại lên"… trong mùa hội tới.
Quan họ là "ứng xử" của người dân Kinh Bắc, "mỗi khi khách đến chơi
nhà", không chỉ "rót nước pha trà" mời khách, mà cùng với đó là những câu hát
thắm đượm nghĩa tình:
"Mỗi khi khách đến chơi nhà
đốt than quạt nước pha trà mời người xơi
trà này quý lắm người ơi
Mỗi người một chén cho tôi vui lòng"...
Hát Quan họ tuy chì là một loại dân ca như rất nhiều dân ca khác của nước
ta, song lối chơi cũng như bản thân lời ca tiếng hát Quan họ lại rất độc đáo. Đó
là một tổ chức sinh hoạt tinh thần của quần chúng lao động, có sự lựa chọn kỹ
càng về nghệ thuật, có kỷ luật chặt chẽ về sinh hoạt và rất bình đẳng. Nội dung
của dân, ca Quan họ phán ánh rất phong phú đời sống tinh thần của nhân dân
vùng Bắc Ninh. Ngoài việc nêu lên tình yêu quê hương đất nước, tính cần cù lao
động, khát vọng được sống ấm no, hóa bình, hạnh phúc, đấu tranh chống lại chế
độ phong kiến, Quan họ còn là một bản tình ca vô cùng thân thiết. Lấy tình yêu
nam nữ làm đề tài chủ yếu, lối chơi Quan họ đi trở thành một điều kiện mà ở đây
mỗi tiếng hát cất lên đã làm cho người ta yêu hơn quê hương của mình mà hăng
say lao dộng, yêu mến con người hơn mà gắn bó với nhau để đấu tranh với thiên
nhiên, với giai cấp thống trị giành lại cuộc sống. Người phụ nữ, trong lỗi chơi
tiếng hát Quạn họ, chẳng những đã bình đẳng với nam giới mà còn rất chủ động,
kiên quyết, khác hẳn với người phụ nữ trong xã hội đương thời. Về mặt văn học
mà nói, Quan họ là một loại dân ca mà lời thơ của nó rất giàu hình ảnh. Ngoài
cái vốn ca dao tục ngữ chung lấy làm lời ca ra, Quan họ còn gạn lọc và xử dụng
6
cả dòng văn bác học để bổ sung cho mình nền ngôn ngữ của nó vừa trong sáng,
giản dị, vừa bóng bẩy, chau truốt.
“ Sầu đong càng lắc càng đầy,
Một ngày đằng đẵng coi tầy ba thu...
Là từ câu:
“ Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê...”
Giá trị du lịch
Có thể thấy trước kia vùng đất Kinh Bắc vốn đã nổi danh sầm uất và đông
vui, nhưng từ khi quan họ được quảng bá rộng rãi thì du khách mọi nơi đã tụ
họp tại vùng Kinh bắc nhiều hơn trước với số lượng đáng kể .
Khi về với Kinh Bắc du khách có thể thả mình với những làn điệu dân ca
quan họ êm ái.
Quan họ có thể xem như một sản phẩm du lịch rất đắt giá để phát triển du
lịch tại Bắc Ninh, Bắc Giang.
Với những làn điệu độc đáo kết hợp lối hát giao duyên đã tạo nên ấn tượng
không thể nào quên đối với những du khách đã tới đây cũng như mời gọi những
du khách chưa có dịp ghé thăm đây. Có thể nói quan họ đóng vai trò rất quan
trọng trong việc phát triển du lịch của vùng đất Kinh Bắc.
Tính tới hiện nay đã có rất nhiều các tour du lịch về với vùng đất Bắc Ninh
và Bắc Giang để tìm hiểu cũng như thưởng thức các làn điệu dân ca quan họ ở
đây. Có thể nói quan họ chính là thương hiệu của vùng Kinh Bắc nơi đây.
Thực trạng
- Tích cực
Trải qua những biến động thăng trầm của lịch sử, dân ca Quan họ Bắc Ninh
đã có lúc chìm lắng và có nguy cơ mai một. Nhưng cho tới hiện tại quan họ đã
ngày càng được trú trọng và phát triển.
Đến nay từ 44 làng quan họ gốc, tỉnh Bắc Ninh đã nhân lên thành 329 làng
Quan họ mới, trong đó có 41 nghệ nhân dân ca Quan họ. Đối với thôn Viêm Xá,
7
xã Hòa Long, TP Bắc Ninh, nơi được coi là Thủy tổ dân ca Quan họ Bắc Ninh
đã có nhiều giải pháp khôi phục, bảo tồn dân ca Quan họ, nhất là các bài Quan
họ cổ.
Về ẩm thực Quan họ, khôi phục lại " Mâm đan, bát đàn" đó là những vật
dụng của người quan họ khi mời thực khách dự ẩm thực quan họ. Xây dựng
phòng trưng bày văn hóa quan họ, giới thiệu diu sản với bạn bè trong nước, quốc
tế. Các phương tiện thông tin đại chúng tăng thời lượng tuyên truyền về dân ca
quan họ, nhất là các lề lối Quan họ, văn hóa Quan họ.
Quan họ không ngừng được bổ sung vì nội dung, làn điệu và luôn có tính
thời đại của mình. Đó là con đường đưa Quan họ đến phong phú và độc đáo.
Hiện nay quan họ ngày càng tiếp cận gần gũi hơn với tất cả mọi nơi trên cả
nước cũng như nước ngoài vì vậy không chỉ có người Kinh Bắc mới hát quan họ
mà ngay càng đông đảo những liền anh liền chị từ khắp mọi vùng về đây tụ họp.
- Hạn chế
Do điều kiện kinh tế còn ở trình độ lạc hậu, kiến thức văn hóa còn thấp và do
chính sách phản động của bọn phong kiến, thực dân nên việc nghiên cứu, sưu
tầm, lưu trữ về dân ca Quan họ trong suốt quá trình nó hình thành và phát triển
hầu như không có gì. Ngày nay, dưới ánh sáng đường lối văn nghệ của Đảng,
việc tìm hiểu, giữ gìn, nâng cao và phát triển Quan họ đã được các cơ quan
chuyên môn từ Trung ương đến địa phương hết sức chú ý và đã tiến hành công
tác đó một cách tích cực. Song, kết quả của những cố gắng đó chưa cho phép
chúng ta dừng lại. Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa xác định được thời điểm và
gốc tích của dân ca Quan họ một cách chính xác, đầy đủ. Việc khai thác cũng
như bảo tồn Quan họ như thế nào là một việc rất khó và còn phải cố gắng rất
nhiều.
sống trong chế độ phong kiến và thực sự bị đè nén của bọn thống trị, Quan
họ không tránh khỏi có những ảnh hưởng, hạn chế nhất định. Từ nội dung đến
phong cách còn có những bài bản, hình thức mang tính chất không phải của
8
người dân lao động. Thí dụ câu: “ Chim khôn đỗ nóc nhà quan “, “Trai khôn
năm thê bảy thiếp; gái ngoan chỉ có một chồng” trong bài " Chim khôn" chẳng
hạn. Do đặc điểm hát Quan họ là một loại dân ca khó về kỹ thuật, nhiều làn điệu
lại chặt chẽ vẽ tổ chức nên số người chơi Quan họ không đông, số làng xóm hát
Quan họ không nhiều lắm. Chính vì thế mà Quan họ Bắc Ninh chi có khoáng
chừng trén bổn mươi thốn xung quanh vùng Vũ Ninh, Kinh Bắc xưa mà thôi.
Quan họ là một loại hình dân ca phong phú về giai điệu. Quan họ được lưu
truyền trong dân gian từ đời này sang đời khác qua phương thức truyền khẩu.
Phương thức này là một yếu tố giúp cho Quan họ trở thành một loại hình dân ca
có số lượng lớn bài hát với giai điệu khác nhau. Tuy nhiên, cũng chính phương
thức này đã làm cho các bài Quan họ lưu truyền trong dân gian bị biến đổi
nhiều, thậm chí khác hẳn so với ban đầu. Nhiều giai điệu cổ đã mất hẳn. Mặc dù
sự thay đổi này cũng làm cho Quan họ phát triển, nhưng ở trong bối cảnh văn
hóa Phương Tây đang xâm nhập mạnh mẽ vào Việt Nam, vấn đề bảo tồn nguyên
trạng Quan họ trong từng giai đoạn phát triển là việc làm cấp thiết.
Định hướng phát triển
Phải có sự phối hợp rất chặt chẽ giữa lĩnh vực khai thác du lịch và hoạt động
văn hóa của tỉnh, nhằm phối hợp tạo ra các sản phẩm du lịch văn hoá chất lượng
cao lấy di sản văn hoá dân ca Quan họ Bắc Ninh làm nòng cốt.
- Cần tiến hành hợp tác chặt chẽ với các địa phương phụ cận, đặc biệt là Hà
Nội, Bắc Giang, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh... để tạo nhiều hơn nữa các
sản phẩm du lịch văn hoá có chất lượng cao thông qua các tuyến, điểm du lịch
liên vùng.
- Quy hoạch, xây dựng một số điểm du lịch tham quan trình diễn văn hoá
Quan họ với những chương trình biểu diễn độc đáo, đặc sắc mang tính nghệ
thuật và dân tộc (đồi Lim, làng Diềm, thành lập Nhà hát Quan họ...) để tạo khả
năng thu hút khách du lịch.
9
- Kết hợp với các công ty du lịch tầm cỡ trong nước xây dựng các sản phẩm
du lịch tham quan tìm hiểu di sản văn hoá dân ca Quan họ Bắc Ninh độc đáo và
đặc sắc để phục vụ khách du lịch trong nước và quốc tế.
- Cần có chính sách ưu đãi thỏa đáng đối với các nghệ nhân tham gia thực
hiện các chương trình phục vụ du khách du lịch.
- Hàng năm ưu tiên nguồn vốn dành cho công tác tuyên truyền quảng bá, xúc
tiến phát triển du lịch di sản văn hoá dân ca Quan họ Bắc Ninh.
The end...
10
Quan họ Kinh Bắc
“ Người Bắc Ninh vốn trọng chữ tình, người Bắc Ninh vốn trọng giao
duyên. Khách đến nhà là hát, khách uống trà là ca. Khách đi xa giữ chẳng cho
về...” .Đây là những câu ca trong bài “ ngẫu hứng giao duyên “ của quan họ Bắc
Ninh.
Về với Kinh Bắc, về với cái nôi của văn hóa Việt Nam thì không ai có thể
bỏ qua những làn điệu ngọt ngào, êm ái của dân ca quan họ.Người Bắc Ninh
đem tiếng hát quan họ thay cho lời chào, thay cho lòng mếm khách, cũng như
tình cảm mà mình dành cho người khách.
Cũng như những thể loại dân ca khác trong kho tàng dân gian Việt Nam ,
quan họ cũng mang trong mình những điểm rất độc mà chỉ trong quan họ mới
thấy. Dưới đây sẽ là sơ lược về một vài đặc điểm cũng như nét tiêu biểu của
quan họ Kinh Bắc.
Dân ca quan họ ở Bắc Giang và Bắc Ninh là một trong những làn điệu dân
ca tiêu biểu của vùng châu thổ sông Hồng ở miền Bắc Việt Nam. Nó còn được
gọi là dân ca quan họ Kinh Bắc do được hình thành và phát triển ở vùng văn hóa
Kinh Bắc xưa, đặc biệt là khu vực ranh giới hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh
ngày nay.
Ngày 30 tháng 9 năm 2009, tại kỳ họp lần thứ 4 của Ủy ban liên chính phủ
Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (từ ngày 28 tháng 9 tới
ngày 2 tháng 10 năm 2009), quan họ đã được công nhận là di sản văn hóa phi
vật thể đại diện của nhân loại sau nhã nhạc cung đình Huế, không gian văn hóa
Cồng Chiêng Tây Nguyên và cùng đợt với ca trù.
Trong sáu tỉnh người đà chưa tỏ
Ngoài năm thành chỉ có Bắc Ninh
Yêu nhau trở lại xuân tình
Nghề chơi Quan họ có tinh mới tường.
11
Lịch sử hình thành
Về phía lý luận mà nói thì bất kỳ một nền văn học nghệ thuật nào (trong
đó có dân ca) cũng nảy sinh và phát triển trên một cơ sở vật chất và trong những
điều kiện lịch sử xã hội nhất định. Nó là tấm gương phản ánh và đồng thời cũng
là vũ khí đấu tranh giai cấp của xã hội phong kiến.
Đất Bắc Ninh mà chủ yếu và cơ bản là vùng Vũ Ninh, Kinh Bắc ngày xưa;
đó là nơi có phong cảnh hữu tình, dân cư đông đúc, kinh tế phồn thịnh và lại là
nơi có một nền văn hiến lâu đời. Chính từ trên những cơ sở như vậy, mà đời
sống văn hóa ở đây chẳng những phong phú như bất kỳ một nơi săm uất nào mà
nó còn có rất nhiều phong tục, tập quán riêng làm cho lối chơi Quan họ và lời ca
tiếng hát của nó trở nên rất độc đáo. Cùng với việc xử dụng một cách quen thuộc
các loại dân ca của vùng đồng bằng Bắc bộ cũng như một số dân ca của vùng
khác, dân tộc khác vui chơi trong những ngày gặp gỡ của các tổ chức phường
họ, hội hè, tiếng hát và lối chơi Quan họ đã được phát triển.
Mặt khác, sống dưới chế độ phong kiến dù là thời kỳ đang thịnh, cuộc dấu
tranh giai cấp đã thúc đẫy hướng dẫn người dân Bắc Ninh nắm lấy tiếng hát làm
vũ khí chiến đấu của mình. Vì thế cho nên hát Quan họ chẳng những đã được
yêu thích mà còn rất được coi trọng và có một giá trị rất cao trong đời sống cua
con người. Sống trong những điểu kiện như trên và với cái môi trường luôn có
những hội hè, đình đám là nơi gặp gỡ, trao đổi, thi thố tài năng nên Quan họ đã
ngày càng được phát triển và không ngừng nâng cao cho đến trình độ như ngày
nay chúng ta đã thấy.
Vài nét về quan họ
Năm 2014, có 67 làng quan họ được đưa vào danh sách bảo tồn và phát
triển. Tỉnh Bắc Giang có 23 làng quan họ, tỉnh Bắc Ninh có 44 làng quan họ.
Các làng quan họ Kinh Bắc tồn tại ở các huyện: Yên Phong, Từ Sơn, Tiên Du,
thành phố Bắc Ninh (còn gọi là quan họ bờ nam sông Cầu thuộc tỉnh Bắc Ninh)
và các huyện Việt Yên, Yên Dũng, Hiệp Hòa (còn gọi là quan họ bờ bắc sông
Cầu thuộc tỉnh Bắc Giang).
12
Quan họ Kinh Bắc hiện nay được chia làm hai loại chính:
+ quan họ truyền thống
Quan họ truyền thống chỉ tồn tại ở 67 làng Quan họ gốc ở xứ Kinh Bắc
Quan họ truyền thống là hình thức tổ chức sinh hoạt văn hóa dân gian của người
dân Kinh Bắc, với những quy định nghiêm ngặt, khắt khe đòi hỏi liền anh, liền
chị phải am tường tiêu chuẩn, tuân theo luật lệ. Điều này giải thích lý do người
dân Kinh Bắc thích thú "chơi Quan họ", không phải là "hát Quan họ" Quan họ
truyền thống không có nhạc đệm và chủ yếu hát đôi giữa liền anh và liền chị vào
dịp lễ hội xuân thu nhị kỳ ở các làng quê. Trong quan họ truyền thống, đôi liền
anh đối đáp với đôi liền chị được gọi là hát hội, hát canh; hát cả bọn, cả nhóm
liền anh đối đáp cùng cả nhóm liền chị được gọi là hát chúc, mừng, hát thờ.
"Chơi quan họ" truyền thống không có khán giả, người trình diễn đồng thời
là người thưởng thức (thưởng thức "cái tình" của bạn hát). Nhiều bài quan họ
truyền thống vẫn được các liền anh, liền chị "chơi quan họ" ưa thích đến tận
ngày nay như: Hừ La,La rằng, Tình tang, Bạn kim lan, Cái ả, Cây gạo.
+ quan họ mới
Quan họ mới còn được gọi là "hát Quan họ", là hình thức biểu diễn (hát)
quan họ chủ yếu trên sân khấu hoặc trong các sinh hoạt cộng đồng Tết đầu xuân,
lễ hội, hoạt động du lịch, nhà hàng,... Thực tế, quan họ mới được trình diễn vào
bất kỳ ngày nào trong năm.
Quan họ mới luôn có khán thính giả, người hát trao đổi tình cảm với khán
thính giả không còn là tình cảm giữa bạn hát với nhau. Quan họ mới không còn
nằm ở không gian làng xã mà đã vươn ra ở nhiều nơi, đến với nhiều thính giả ở
các quốc gia trên thế giới.
Quan họ mới có hình thức biểu diễn phong phú hơn quan họ truyền thống,
bao gồm cả hát đơn, hát đôi, hát tốp, hát có múa phụ họa...
Quan họ mới được ưa thích hơn quan họ truyền thống không phải do không
gian và những sinh hoạt theo lề lối cổ của quan họ không còn nữa mà một phần
13
do hoạt động "hát quan họ" ngày nay thường được gắn với chính quyền nhiệm
vụ tuyên truyền, giới thiệu, quảng bá quan họ trên diện rộng.
Quan họ là thể loại dân ca phong phú nhất về mặt giai điệu trong kho tàng
dân ca Việt Nam. Mỗi một bài quan họ đều có giai điệu riêng. Cho đến nay, đã
có ít nhất 300 bài quan họ đã được ký âm. Các bài quan họ được giới thiệu mới
chỉ là một phần trong kho tàng dân ca quan họ đã được khám phá. Kho băng ghi
âm hàng nghìn bài quan họ cổ do các nghệ nhân ở các làng quan họ hát hiện vẫn
được lưu giữ tại Sở Văn hóa hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh.
Các làn điệu quan họ cổ: La rằng, Đường bạn Kim Loan, Cây gạo, Giã bạn,
Hừ la, La hời, Tình tang, Cái ả, Lên núi, Xuống sông, Cái hờn, cái ả, Gió mát
trăng thanh, Tứ quý...
Trong hơn một trăm làn điệu , tuy mỗi bài một vẻ, nhưng khi đã hát lên thì
dù là ngươi mới nghe lần đầu cũng thấy ngay được cái âm hưởng riêng của
Quan họ. Cái âm hưởng đặc biệt ấy như một sợi chỉ đỏ xuyên qua tất thảy các
bài hát nối chúng lại làm cho tính thống nhất đạt đến mức độ rất cao nhưng vẫn
giữ được cái độc đáo của mỗi bài, mỗi giọng. Tiếp thu mạnh dạn, rộng rãi các
loại dân ca khác một cách có sáng tạo để bổ sung nâng cao cho mình thêm
phong phú độc đáo, là một đặc điểm rất đáng quý của dân ca Quan họ mà ngày
nay chúng ta còn thấy rất khoa học, rất tài tình vi cần phải học tập.
- Trang phục
Trang phục quan họ bao gồm trang phục của các liền anh và trang phục của
các liền chị. Trong các lễ hội quan họ có cả những cuộc thi trang phục quan họ.
+Liền anh mặc áo dài 5 thân, cổ đứng, có lá sen, viền tà, gấu to, dài tới quá
đầu gối. Thường bên trong mặc một hoặc hai áo cánh, sau đó đến hai áo dài.
Riêng áo dài bên ngoài thường màu đen.
Quần của liền anh là quần dài trắng, ống rộng, may kiểu có chân què dài tới
mắt cá chân
Có thắt lưng nhỏ để thắt chặt cạp quần. Đầu liền anh đội nhiễu quấn hoặc
khăn xếp. Thời trước, đàn ông còn nhiều người búi tó nên phải vấn tóc bằng
14
khăn nhiễu. Sau này phần nhiều cắt tóc, rẽ đường ngôi nên chuyển sang dùng
loại khăn xếp bán sẵn ở các cửa hàng cho tiện.
Cùng với quần, áo, khăn xếp, dép,… các liền anh thường có thêm nón chóp
với các dạng chóp lá thường hoặc chóp dứa, có quai lụa màu mỡ gà. Ngoài ra
cũng thường thấy các liền anh dùng ô đen.
+Trang phục liền chị thường được gọi là "áo mớ ba mớ bảy", nghĩa là liền
chị có thể mặc ba áo dài lồng vào nhau (mớ ba) hoặc bảy áo dài lồng vào nhau
(mớ bảy). Tuy nhiên trong thực tế, các liền chị thường mặc áo mớ ba. Về cơ bản
trang phục bao gồm các thành phần: trong cùng là một chiếc yếm có màu rực rỡ
thường làm bằng lụa truội nhuộm. Yếm thường có hai loại là yếm cổ xẻ (dùng
cho trung niên) và yếm cổ viền (dùng cho thanh nữ). Bên ngoài yếm là một
chiếc áo cánh màu trắng, vàng, ngà. Ngoài cùng là những lượt áo dài năm thân,
cách phối màu cũng tương tự như ở bộ trang phục nam nhưng màu sắc tươi hơn.
Áo dài năm thân của nữ, có cài khuy, khác với kiểu tứ thân thắt hai vạt trước.
Yếm thường nhuộm màu đỏ (xưa gọi là yếm thắm), vàng thư (hoa hiên),
xanh da trời (thiên thanh), hồng nhạt (cánh sen), hồ thủy (xanh biển)... Giải yếm
to buông ngoài lưng áo và giải yếm thắt vòng quanh eo rồi thắt múi phía trước
cùng với bao và thắt lưng.
Liền chị mang dép cong làm bằng da trâu thuộc theo phương pháp thủ công;
có một vòng tròn bằng da trên mặt dép để xỏ ngón chân thứ hai khiến khi đi lại,
không rơi được dép. Mũi dép uốn cong và người thợ làm dép phải biết nện,
thuộc cho mũi dép cứng, như một lá chắn nhỏ, che giấu đầu các ngón chân.
Ngoài áo, quần, thắt lưng, dép, người liền chị còn chít khăn mỏ quạ, đội nón
quai thao, và thắt lưng đeo dây xà tích.
Giá trị văn hóa
Văn hoá quan họ còn là cách ứng xử thật khéo léo, tế nhị, kín đáo và mang
đầy ý nghĩa như các làn điệu mời nước, mời trầu thật chân tình, nồng thắm mỗi
khi có khách đến chơi nhà đôi tay nâng chén rượu đào, đổ đi thì tiếc, uống vào
thì say". Quan họ uống chén rượu mừng xuân, mừng hội, vui bầu, vui bạn… rồi
15
ca xướng cho tan canh mãn võ, cho tàn đêm rạng ngày, rồi các làn điệu chia tay
giã bạn đầy quyến luyến trong câu hát "Người ơi người ở đừng về"tàn canh, giã
hội rồi mà quan họ vẫn còn ngậm ngùi tiếc nhớ "Người về tôi vẫn ngậm ngùi, để
thương, để nhớ cho tôi thế này... Người về tôi chẳng dám nài, áo trong người
mặc, áo ngoài người để làm tin"… Và để rồi kết thúc bằng những lời hứa hẹn
tha thiết "Đến hẹn lại lên"… trong mùa hội tới.
Quan họ là "ứng xử" của người dân Kinh Bắc, "mỗi khi khách đến chơi
nhà", không chỉ "rót nước pha trà" mời khách, mà cùng với đó là những câu hát
thắm đượm nghĩa tình:
"Mỗi khi khách đến chơi nhà
đốt than quạt nước pha trà mời người xơi
trà này quý lắm người ơi
Mỗi người một chén cho tôi vui lòng"...
Hát Quan họ tuy chì là một loại dân ca như rất nhiều dân ca khác của nước
ta, song lối chơi cũng như bản thân lời ca tiếng hát Quan họ lại rất độc đáo. Đó
là một tổ chức sinh hoạt tinh thần của quần chúng lao động, có sự lựa chọn kỹ
càng về nghệ thuật, có kỷ luật chặt chẽ về sinh hoạt và rất bình đẳng. Nội dung
của dân, ca Quan họ phán ánh rất phong phú đời sống tinh thần của nhân dân
vùng Bắc Ninh. Ngoài việc nêu lên tình yêu quê hương đất nước, tính cần cù lao
động, khát vọng được sống ấm no, hóa bình, hạnh phúc, đấu tranh chống lại chế
độ phong kiến, Quan họ còn là một bản tình ca vô cùng thân thiết. Lấy tình yêu
nam nữ làm đề tài chủ yếu, lối chơi Quan họ đi trở thành một điều kiện mà ở đây
mỗi tiếng hát cất lên đã làm cho người ta yêu hơn quê hương của mình mà hăng
say lao dộng, yêu mến con người hơn mà gắn bó với nhau để đấu tranh với thiên
nhiên, với giai cấp thống trị giành lại cuộc sống. Người phụ nữ, trong lỗi chơi
tiếng hát Quạn họ, chẳng những đã bình đẳng với nam giới mà còn rất chủ động,
kiên quyết, khác hẳn với người phụ nữ trong xã hội đương thời. Về mặt văn học
mà nói, Quan họ là một loại dân ca mà lời thơ của nó rất giàu hình ảnh. Ngoài
cái vốn ca dao tục ngữ chung lấy làm lời ca ra, Quan họ còn gạn lọc và xử dụng
16
cả dòng văn bác học để bổ sung cho mình nền ngôn ngữ của nó vừa trong sáng,
giản dị, vừa bóng bẩy, chau truốt.
“ Sầu đong càng lắc càng đầy,
Một ngày đằng đẵng coi tầy ba thu...
Là từ câu:
“ Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê...”
Giá trị du lịch
Có thể thấy trước kia vùng đất Kinh Bắc vốn đã nổi danh sầm uất và đông
vui, nhưng từ khi quan họ được quảng bá rộng rãi thì du khách mọi nơi đã tụ
họp tại vùng Kinh bắc nhiều hơn trước với số lượng đáng kể .
Khi về với Kinh Bắc du khách có thể thả mình với những làn điệu dân ca
quan họ êm ái.
Quan họ có thể xem như một sản phẩm du lịch rất đắt giá để phát triển du
lịch tại Bắc Ninh, Bắc Giang.
Với những làn điệu độc đáo kết hợp lối hát giao duyên đã tạo nên ấn tượng
không thể nào quên đối với những du khách đã tới đây cũng như mời gọi những
du khách chưa có dịp ghé thăm đây. Có thể nói quan họ đóng vai trò rất quan
trọng trong việc phát triển du lịch của vùng đất Kinh Bắc.
Tính tới hiện nay đã có rất nhiều các tour du lịch về với vùng đất Bắc Ninh
và Bắc Giang để tìm hiểu cũng như thưởng thức các làn điệu dân ca quan họ ở
đây. Có thể nói quan họ chính là thương hiệu của vùng Kinh Bắc nơi đây.
Thực trạng
- Tích cực
Trải qua những biến động thăng trầm của lịch sử, dân ca Quan họ Bắc Ninh
đã có lúc chìm lắng và có nguy cơ mai một. Nhưng cho tới hiện tại quan họ đã
ngày càng được trú trọng và phát triển.
Đến nay từ 44 làng quan họ gốc, tỉnh Bắc Ninh đã nhân lên thành 329 làng
Quan họ mới, trong đó có 41 nghệ nhân dân ca Quan họ. Đối với thôn Viêm Xá,
17
xã Hòa Long, TP Bắc Ninh, nơi được coi là Thủy tổ dân ca Quan họ Bắc Ninh
đã có nhiều giải pháp khôi phục, bảo tồn dân ca Quan họ, nhất là các bài Quan
họ cổ.
Về ẩm thực Quan họ, khôi phục lại " Mâm đan, bát đàn" đó là những vật
dụng của người quan họ khi mời thực khách dự ẩm thực quan họ. Xây dựng
phòng trưng bày văn hóa quan họ, giới thiệu diu sản với bạn bè trong nước, quốc
tế. Các phương tiện thông tin đại chúng tăng thời lượng tuyên truyền về dân ca
quan họ, nhất là các lề lối Quan họ, văn hóa Quan họ.
Quan họ không ngừng được bổ sung vì nội dung, làn điệu và luôn có tính
thời đại của mình. Đó là con đường đưa Quan họ đến phong phú và độc đáo.
Hiện nay quan họ ngày càng tiếp cận gần gũi hơn với tất cả mọi nơi trên cả
nước cũng như nước ngoài vì vậy không chỉ có người Kinh Bắc mới hát quan họ
mà ngay càng đông đảo những liền anh liền chị từ khắp mọi vùng về đây tụ họp.
- Hạn chế
Do điều kiện kinh tế còn ở trình độ lạc hậu, kiến thức văn hóa còn thấp và do
chính sách phản động của bọn phong kiến, thực dân nên việc nghiên cứu, sưu
tầm, lưu trữ về dân ca Quan họ trong suốt quá trình nó hình thành và phát triển
hầu như không có gì. Ngày nay, dưới ánh sáng đường lối văn nghệ của Đảng,
việc tìm hiểu, giữ gìn, nâng cao và phát triển Quan họ đã được các cơ quan
chuyên môn từ Trung ương đến địa phương hết sức chú ý và đã tiến hành công
tác đó một cách tích cực. Song, kết quả của những cố gắng đó chưa cho phép
chúng ta dừng lại. Cho đến nay, chúng ta vẫn chưa xác định được thời điểm và
gốc tích của dân ca Quan họ một cách chính xác, đầy đủ. Việc khai thác cũng
như bảo tồn Quan họ như thế nào là một việc rất khó và còn phải cố gắng rất
nhiều.
sống trong chế độ phong kiến và thực sự bị đè nén của bọn thống trị, Quan
họ không tránh khỏi có những ảnh hưởng, hạn chế nhất định. Từ nội dung đến
phong cách còn có những bài bản, hình thức mang tính chất không phải của
18
người dân lao động. Thí dụ câu: “ Chim khôn đỗ nóc nhà quan “, “Trai khôn
năm thê bảy thiếp; gái ngoan chỉ có một chồng” trong bài " Chim khôn" chẳng
hạn. Do đặc điểm hát Quan họ là một loại dân ca khó về kỹ thuật, nhiều làn điệu
lại chặt chẽ vẽ tổ chức nên số người chơi Quan họ không đông, số làng xóm hát
Quan họ không nhiều lắm. Chính vì thế mà Quan họ Bắc Ninh chi có khoáng
chừng trén bổn mươi thốn xung quanh vùng Vũ Ninh, Kinh Bắc xưa mà thôi.
Quan họ là một loại hình dân ca phong phú về giai điệu. Quan họ được lưu
truyền trong dân gian từ đời này sang đời khác qua phương thức truyền khẩu.
Phương thức này là một yếu tố giúp cho Quan họ trở thành một loại hình dân ca
có số lượng lớn bài hát với giai điệu khác nhau. Tuy nhiên, cũng chính phương
thức này đã làm cho các bài Quan họ lưu truyền trong dân gian bị biến đổi
nhiều, thậm chí khác hẳn so với ban đầu. Nhiều giai điệu cổ đã mất hẳn. Mặc dù
sự thay đổi này cũng làm cho Quan họ phát triển, nhưng ở trong bối cảnh văn
hóa Phương Tây đang xâm nhập mạnh mẽ vào Việt Nam, vấn đề bảo tồn nguyên
trạng Quan họ trong từng giai đoạn phát triển là việc làm cấp thiết.
Định hướng phát triển
Phải có sự phối hợp rất chặt chẽ giữa lĩnh vực khai thác du lịch và hoạt động
văn hóa của tỉnh, nhằm phối hợp tạo ra các sản phẩm du lịch văn hoá chất lượng
cao lấy di sản văn hoá dân ca Quan họ Bắc Ninh làm nòng cốt.
- Cần tiến hành hợp tác chặt chẽ với các địa phương phụ cận, đặc biệt là Hà
Nội, Bắc Giang, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh... để tạo nhiều hơn nữa các
sản phẩm du lịch văn hoá có chất lượng cao thông qua các tuyến, điểm du lịch
liên vùng.
- Quy hoạch, xây dựng một số điểm du lịch tham quan trình diễn văn hoá
Quan họ với những chương trình biểu diễn độc đáo, đặc sắc mang tính nghệ
thuật và dân tộc (đồi Lim, làng Diềm, thành lập Nhà hát Quan họ...) để tạo khả
năng thu hút khách du lịch.
19
- Kết hợp với các công ty du lịch tầm cỡ trong nước xây dựng các sản phẩm
du lịch tham quan tìm hiểu di sản văn hoá dân ca Quan họ Bắc Ninh độc đáo và
đặc sắc để phục vụ khách du lịch trong nước và quốc tế.
- Cần có chính sách ưu đãi thỏa đáng đối với các nghệ nhân tham gia thực
hiện các chương trình phục vụ du khách du lịch.
- Hàng năm ưu tiên nguồn vốn dành cho công tác tuyên truyền quảng bá, xúc
tiến phát triển du lịch di sản văn hoá dân ca Quan họ Bắc Ninh.
The end...
20