Bảo tồn và phát triển “Nghi lễ Chầu văn của người Việt’’
tại xã Trực Nội, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định.
1
MỤC LỤC
1.
1.1
-
Bối cảnh dự án
. Xu thế toàn cầu hóa
Năm 1986 nhà nước chính thức thựchiện chính sách mở cửa hội nhập với quốc
tế về kinh tế, văn hóa, xã hội... Nước ta lần lượt được gia nhập các tổ chức
mang tính quốc tế và khu vực như WTO, ASEAN, UNNESCO… tạo nhiều điều
kiện để Việt Nam đổi mới phát triển về nhiều mặt, và đưa những nét đẹp của
Việt Nam trở thành điểm mạnh để hội nhập và giới thiệu với bạn bè quốc tế, bên
-
cạnh đó tiếp thu những nét đẹp bên ngoài để phát triển hơn nữa.
Khi nước ta mở cửa hội nhập thì kinh tế đang đà phát triển mạnh, nhưng đi theo
đó là các trào lưu văn hóa, loại hình nghệ thuật mới tràn vào nước ta: Opera,
Hip hop, PoP, Rock… một cách ồ ạt và chưa có chọn lọc, mà đối tượng hướng
tới đó chính là thế hệ thanh niên, thế hệ tiếp nối và phát triển truyền thống đất
nước lại có cơ hội tiếp xúc và thụ hưởng những loại hình mới mẻ này. Từ đó
dần có nhận thức sai lệch và mai một về nét đẹp của những loại hình nghệ thuật
-
truyền thống.
Văn hóa mới dần lấn áp và làm mai một những loại hình văn hóa truyền thống,
trong đó có nghệ thuật hát Chầu văn.
1.2 . Tình hình tại địa phương.
- Chính quyền còn ít quan tâm phát triển và bảo tồn nền nghi lễ hát Chầu văn do
có liên quan tới yếu tố tâm linh, coi đó là mê tín dị đoan rất khó để tiếp cận.Các
hoạt động bảo tồn còn chưa được thực hiện một cách hiệu quả nhất, do chưa có
-
phương hướng cụ thể.
Có một thời gian dài do bị hiểu sai và bị quy là mê tín dị đoan, Chầu Văn bị
cấm và dần dần mai một. Tuy nhiên đến đầu những năm 1990, Chầu văn được
2
trả lại sự trong sạch và lại có cơ hội phát triển. Tuy nhiên, theo thời gian, các
bậc nghệ nhân (cung văn) mẫu mực còn lại rất ít. Phần lớn trong số họ đã qua
thế giới bên kia mà chưa kịp truyền lại hết những vốn liếng vô giá cho thế hệ
tiếp nối. Trong số những nghệ nhân còn lại hiện nay thì nhiều người không chấp
nhận xuất hiện vì thiếu lòng tin bởi sự ám ảnh của quá khứ. Vậy nên phần lớn
các cung văn lớp kế cận đang hành nghề hiện nay đều chỉ nắm giữ được một
phần những giá trị của truyền thống.Chính vì nhận thấy giá trị nghệ thuật vô
-
cùng độc đáo cùng với ý nghĩa văn hóa, lịch sử của Chầu văn
Giá trị truyền thống dần biến đổi theo hướng đi xuống :“buôn thần bán
thánh”… giá trị dần bị lợi dụng vì mục đích kiếm lợi. Do nhận thức chưa đầy
đủ, lại bị tác động bởi xu hướng thương mại hóa, cho nên đã xảy ra nhiều việc
làm sai lệch nghi lễ chầu văn, phủ bóng đen mê tín dị đoan lên tín ngưỡng thờ
Mẫu. Nhiều người tìm đến tín ngưỡng này để cầu xin thánh thần phù hộ làm mờ
nhạt đi vai trò tự lực của con người. Tín ngưỡng thờ Mẫu nhanh chóng bị
thương mại hóa. Nghi lễ chầu văn gồm có hát văn và hầu đồng với những
khuôn mẫu mang vẻ đẹp văn hóa đã bị biến dạng do tác động của những cuộc
hát văn hầu đồng mà chi phí lên tới vài trăm triệu đồng, có khi cả tỷ đồng. Hát
văn gồm một hệ thống làn điệu bài bản, phong phú của dân ca các vùng, miền
trong cả nước. Có người phải dành cả đời mới vững nghề. Ấy vậy mà, một số
người đã học một cách vội vã, rồi tập hợp nhau lại đi kiếm sống dựa trên sự mê
tín của người khác. Ðã xuất hiện nhiều tốp hát văn trẻ, tay nghề "chưa sạch
nước cản" cũng tham gia lập đền, lập phủ. Một số cung văn giỏi vì mục đích
kiếm tiền đã phải chiều theo ý khách, làm méo mó cả bài hát văn. Nhiều người
hát văn không còn giữ đạo, lời văn được thêm thắt tùy tiện, thưởng nhiều tiền
-
thì hăng hái hát "bốc", hầu kém thì cung văn uể oải...
Không có thế hệ kế thừa bởi vì thế hệ trẻ sau này coi nghi lễ này là mê tín dị
đoan, có tư tưởng tránh xa và đào thải nghi lễ hát chầu văn. Thế hệ trẻ xuất hiện
-
tư tưởng tẩy chay và ‘bài trừ’ nền nghệ thuật truyền thống này.
Chưa có chính sách, dự án phát triển cụ thể vì thế nên khó có thể để đứng ra tổ
chức hội thảo và tọa đàm để tìm cách khắc phục.Đo đó địa phương không có
3
chính sách và phương hướng cụ thể để khắc phục và bảo tồn một cách hiệu quả
nhất.
1.3.Thuận lợi
Chính quyền địa phương và người dân đã nhận thức được sự mai một của
nghệ thuật hát Chầu văn.
Được đưa vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.Nghi lễ Chầu
văn của người Việt được Thủ tướng Chính phủ đồng ý cho lập hồ sơ trình
UNESCO đưa vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại
trong giai đoạn tới và đã được Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa
vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia (đợt 1), loại hình Tập quán xã
hội và tín ngưỡng, tháng 12 năm 2012.
1.4. Khó khăn
- Hiện nay( 2014) chỉ còn 2 nghệ nhân so với năm 2004 có 5 ngệ nhân.
- Một số nhạc cụ, trang phục đã cũ và hư hỏng.
- Thế hệ trẻ tại địa phương có nhận thức sai lệch về hát Chầu văn là mê tín
dị đoan.
- Kinh phí của địa phương để bảo tồn và phát triển còn hạn hẹp.
2. Mục Đích Của Dự Án
-
Bảo tồn vẻ đẹp truyền thống.
Bảo tồn các tác phẩm nghệ thuật hát Chầu văn.
Bảo tồn và tu sửa trang phục và nhạc cụ.
Nâng cao nhận thức và phát triển thế hệ nghệ nhân trẻ.
Trở thành 1 địa chỉ du lịch, tín ngưỡng tâm linh lành mạnh , mang đậm nét đẹp
3.
truyền thống.
Hoạt Động Của Dự Án.
4
3.1 Giai đoạn 1: Bảo tồn
- Địa điểm: Nhà văn hóa xã Trực Nội.
Thời gian 1 tháng:
3 ngày đầu: Sáng từ 7h30 đến 10h30
Chiều từ 14h30 đến 17h30
Đối tượng tham gia: đại diện tổ chức cơ quan thực hiên dự án,ủy ban nhân
dân xã, ban văn hóa xã, các nhà nghiên cứu, các nghệ nhân, người dân trong
xã…
-
Giảng giải tọa đàm với người dân đại phương về nét đẹp truyền thống của nghệ
-
thuật hát Chầu văn.
Đưa ra khuyến nghị góp ý về bảo tồn và phát triển nghệ thuật hát Chầu văn gửi
tới cơ quan quản lý văn hóa và chính quyền địa phương.
Sau 3 ngày: thu thập và trùng tu hiện vật.
-
Thu thập những nhạc cụ, trang phục phục vụ hát Chầu văn tại địa phương. Từ
đó lập danh sách để tu sửa và chuẩn bị bổ sung.
- Thu thập, sao chép những tài liệu về nghệ thuật hát Chầu văn: bài hát,
sách cổ.
3.2 Giai đoạn phát triển
- Địa điểm nhà Văn hóa xã Trực Nội.
- Đối tượng tham gia tập huấn: Thanh niên xã Trực Nội.(Khoảng 30
người).
- Thời gian tập huấn 30 ngày.
- Người giảng dạy:
+ Các chuyên gia nghiên cứu về hát Chầu văn
+ Các nghệ nhân.
5
-
Tổ chức tuyên truyền giới thiệu nét đẹp nghệ thuật hát Chầu văn.
Trùng tu và bổ sung các nhạc cụ và trang phục phục vụ nghi lễ hát Chầu văn.
Tổ chức biên soạn: xuất bản 1 quyển sách giới thiệu về “ Nghi lễ hát Chầu văn”
hoặc 1 đĩa DVD Video về hát Chầu văn.
Tổ chức 1 CLB để kế thừa và truyển dạy nghệ thuật hát Chầu văn cho thế
hệ trẻ từ đó có kế hoạch phát triển và bồi dưỡng lâu dài cho thế hệ thanh niên tại
địa phương để bảo tồn và phát triển loại hình nghệ thuật hát Chầu văn một cách
lành mạnh.
4 . Kết quả của hoạt động
-
Chất lượng bảo tồn đúng với truyền thống: ý nghĩa của hát Chầu văn:là một
-
nghi lễ quan trọng gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu và thờ Đức Thánh Trần.
Bảo tồn và bổ sung mới các nhạc cụ, trang phục, tài liệu phục vụ nghệ thuật hát
-
Chầu văn
Người dân, thanh niên địa phương nhận thưc được hát Chầu văn là một nét đẹp
-
truyền thống đang bị mai một cần được bảo tồn.
Xây dựng một CLB để truyền dạy và phát triểnnghệ thuật hát Chầu văn cho lớp
-
trẻ địa phương.
Xây dựng một nét đẹp, điểm nhấn về văn hóa cho địa phương, du lịch của địa
5
-
-
phương một cách lành mạnh.
. Đầu vào của dự án
Âm nhạc:
Nghệ thuật diễn xướng.
Nghệ thuật biểu diễn.
Ngôn ngữ
Hát Chầu văn gồm có 13 điệu bao gồm:
Bỉ mang sắc thái trịnh trọng, được dùng để hát trước khi chính thức vào
một bản văn thờ hoặc văn thi. Có 2 cách hát: Bỉ 4 câu và Bỉ 8 câu. Bỉ được lấy
theo dây lệch, nhịp theo lối dồn phách.
Miễu là lối hát rất nghiêm trang, đĩnh đạc, chỉ được dùng trong hát thi và
hát thờ, tuyệt nhiên không bao giờ được dùng trong Hầu Bóng. Miễu được lấy
theo dây lệch, nhịp đôi.
6
Thổng chỉ giành riêng cho văn thờ và văn thi, được lấy theo dây bằng, nhịp
ba.
Phú Bình dành riêng cho hát văn thờ, rất đĩnh đạc, và dùng để hát ca ngợi
các nam thần. Phú Bình được lấy theo dây lệch, nhịp 3.
Phú Chênh là lối hát buồn, thường dùng để hát trong những cảnh chia ly.
Được lấy theo dây bằng, nhịp 3.
Phú nói thường dùng để mô tả cảnh hai người gặp gỡ, nói chuyện với
nhau. Dùng trong hát văn thờ, văn thi và cả trong hầu bóng. Lấy theo dây bằng,
nhịp ba hoặc không có nhịp mà chỉ dồn phách.
Phú rầu là lối hát rất buồn, được lấy theo dây bằng nhưng hát theo nhịp
đôi.
Đưa thơ được lấy theo dây bằng, nhịp 3 và dồn phách, nhưng chủ yếu là
dồn phách.
Vãn lấy theo dây bằng, nhịp đôi, hát theo lối song thất lục bát, hát theo lối
vay trả (vay của câu trước thì trả lại trong câu sau).
Dọc lấy theo dây bằng, nhịp đôi, hát theo lối song thất - lục bát và hát theo
nguyên tắc vay trả. Nếu hát từng câu thì gọi là nhất cú. Nếu hát liền hai câu
song thất - lục bát thì gọi là "Dọc gối hạc" hay "Dọc nhị cú".
Cờn dùng để ca ngợi sắc đẹp các vị nữ thần. Cờn được lấy theo dây lệch,
nhịp đôi. Có thể hát theo dây bằng, nhưng hầu hết là hát kiểu dây lệch (biến
hóa).
Hãm lấy theo dây bằng, nhịp đôi, đây là lối hát rất khó vì phải hát liền
song thất lục bát. Trong lối hát này có một tuyệt chiêu là Hạ Tứ Tự, có nghĩa là
mượn bốn chữ của trổ sau, khi sang một trổ mới thì lại trả lại bốn chữ ấy.
Dồn được lấy theo dây bằng, nhịp 3.
-
Trang phục, nhạc cụ.
7
5
-
Kinh phí để bảo tồn nghệ thuật hát Chầu văn.
Nguồn nhân lực để kế thừa và phát triển nghệ thuật hát Chầu văn.
. Giám Sát
Giám sát trực tiếp.
+ Kiểm tra thực tế các hoạt động được giao.
+ Quan sát trực tiếp các hoạt động.
-
Giám sát gián tiếp
+ Thông qua báo cáo, văn bản, giấy tờ.
6
-
. Biện minh
Nếu dự án được tài trợ thì người hưởng lợi chính là người dân điạ phương và
-
các nghệ nhân, có thể nhận ra vai trò của mình, hướng đi một các hiệu quả nhất.
Bảo tồn được nghệ thuật truyền thống hát Chầu văn không bị mai một và xuyên
-
tạc về nội dung và nét đẹp truyền thống.
Thay đổi nhận thức sai lệch của người dân và thế hệ trẻ về nghệ thuật truyền
-
thống hát Chầu văn. Không còn tư tưởng sai lệch và có nhận thức đúng đắn.
Xây dựng được chiến lược phát triển lâu dài cho địa phương để phát triển nghệ
7
-
thuật hát chầu văn phát triển hơn nữa.
. Phân tích rủi ro
Nghệ nhân tại địa phương đã già yếu nếu không có kế hoạch đào tạo, tuyển
chọn thế hệ kế thừa tại địa phương thì rất có thể vài năm sau loại hình nghệ
-
thuật này sẽ biến mất tại địa phương.
Là loại hình nghệ thuật truyền thống, lớp trẻ chưa có sự hiểu biết rõ ràng. Việc
nghiên cứu, sưu tầm các tài liệu, trang phục, nhạc cụ còn gặp nhiều khó khăn do
-
rải rác trong gia đình địa phương.
Công tác tuyên truyền còn nhiều hạn chế vì liên quan đến yếu tố tâm linh là yếu
-
tố nhạy cảm và khó tiếp cận.
Ðể bảo tồn nghi lễ chầu văn, cần chấn chỉnh ngay những việc làm sai lệch nêu
trên. Mặt khác, cần tuyên truyền vận động rộng rãi về mục đích, ý nghĩa của
nghi lễ để người dân nhận thức đầy đủ giá trị văn hóa, nhân văn của tín ngưỡng
thờ Mẫu, xua tan bóng đen mê tín dị đoan trong các cuộc hầu đồng. Các địa
phương cần có hướng dẫn về thực hành nghi lễ chầu văn ở các đền, điện, phủ.
8
Các cuộc liên hoan hoặc trình diễn nghi lễ chầu văn phải bảo đảm tính nguyên
mẫu và giá trị nghệ thuật của hát văn, hầu đồng.
. Kinh phí thực hiện dự án
8
Chi phí sưu tầm mua mới tài liệu, trang phục, nhạc cụ.
50. 000 000đ
Chi phí tổ chức phòng trưng bày
20. 000 000đ
Chi phí tổ chức phòng biểu diễn
20. 000 000đ
Chi phí tổ chức hội thảo và đào tạo
50. 000 000đ
Chi phí tuyên truyền, giới thiệu trên phương tiện thông
tin xã , tỉnh
30. 000 000đ
Chi phí biên soạn, sản xuất sách, in DVD
40. 000 000đ
Chi phí quản lý dự án
20. 000 000đ
Tổng
230. 000 000đ
9
o
o
10.
-
. Thời gian thực hiện
Từ tháng 3/2015 đến hết tháng 7/2015
Từ Tháng 3/2015
Xây dựng dự án
Tìm nguồn tài trợ cho dự án
Từ Tháng 5/2015 đến quý 7/20115: Triển khai dự án
Nguồn kinh phí
Sở Văn hóa thể thao tỉnh Nam Định.
Hỗ trợ kinh phí từ chính quyền đại phương.
Công ty Dệt may Thao Thức Đc: xã Trực Nội, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam
-
Định.
Vận động quyên góp từ người dân đại phương .
11.
Biểu đồ quản lý dự án.
Các hoạt Kết
Thời gian
Ghi
9
động
quả dự
kiến
1
Nguồn
nhân
lực
10
người
1.1
2 người
1.2
3 người
1.3
5 người
Tài
chính
100%
2.1
30%
2.2
30%
2.3
30%
2.4
10%
chú
2
3
4
5
6
10
7
8
9
10
11
12