TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ MÔI TRƯỜNG
TIỂU LUẬN
KỸ THUẬT KIỂM SOÁT Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ
Đề tài:
Nguồn gốc, tác hại và phương pháp kiểm soát
Benzen trong không khí
Lớp: Kỹ thuật Kiểm soát Ô nhiễm không khí - 88678
Giảng viên hướng dẫn: TS. Lý Bích Thủy
Nhóm sinh viên thực hiện
1
Phùng Trà My
20132636
KT Môi trường 01 K58
2
Trần Trọng Thanh
20133493
KT Môi trường 01 K58
3
Nguyễn Việt Trường
20134228
KT Môi trường 01 K58
4
Nguyễn Anh Vũ
20134652
KT Môi trường 01 K58
Hà Nội, tháng 4 năm 2016
Lời nói đầu
Các chất hóa học nói chung và các chất hữu cơ nói riêng là một thành phần
quan trọng trong sự phát triển của nền công nghiệp hiện nay. Với ứng dụng đa dạng,
các chất hữu cơ là nguồn nguyên liệu không thể thiếu để sản xuất những sản phẩm
phục vụ nhu cầu dân sinh cũng như phục vụ các hoạt động sản xuất, từ giày dép, túi
nilon, các sản phẩm nhựa, keo xịt, chất bảo quản, chất bảo vệ thực vật… cho tới các
sản phẩm công nghệ cao như chất bán dẫn, chất dẻo siêu bền, vật liệu màng… Tuy
nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, các hóa chất cũng tồn tại nhiều mặt tiêu cực, mà
điển hình là gây độc cho môi trường và con người.
Thông qua bài tiểu luận “Nguồn gốc, tác hại và phương pháp kiểm soát Benzen
trong không khí”, chúng em hy vọng có thể làm rõ được một số “mặt nguy hiểm” của
benzen trong môi trường không khí nhằm cung cấp thêm thông tin tới các bạn sinh
viên ngành môi trường - một ngành tiếp xúc nhiều với các loại hóa chất và chất thải –
cũng như những người thường xuyên phải tiếp xúc với benzen trong không khí ở nồng
độ cao để có những đề phòng nhất định trong sử dụng và bảo quản benzen. Bài tiểu
luận được thực hiện trong thời gian ngắn, không tránh khỏi những sai sót, chúng em
kính mong các thầy cô giáo và các bạn sinh viên thông cảm và góp ý cho chúng em.
Chúng em xin được gửi lời cảm ơn tới cô giáo, giảng viên TS. Lý Bích Thủy đã
truyền đạt kiến thức và tạo điều kiện cho chúng em thực hiện bài tiều luận này.
Nhóm sinh viên thực hiện
1
Phùng Trà My
20132636
KT Môi trường 01 K58
2
Trần Trọng Thanh
20133493
KT Môi trường 01 K58
3
Nguyễn Việt Trường
20134228
KT Môi trường 01 K58
4
Nguyễn Anh Vũ
20134652
KT Môi trường 01 K58
2
MỤC LỤC
3
Đặt vấn đề
Chúng ta đều biết, benzen là một trong những chất rất quan trọng trong nhiều
ngành công nghiệp, là một nhân tố góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của các
ngành công nghiệp hiện nay. Benzen là dung môi quan trọng, là hóa chất được sử dụng
nhiều để điều chế các dẫn xuất cơ bản trong công nghiệp, cũng như để sản xuất nhiều
loại nguyên liệu quan trọng cho các ngành công nghiệp khác. Bên cạnh những lợi ích
to lớn, giống như nhiều hóa chất khác, benzen cũng tồn tại nhiều mặt hạn chế, và mặt
hạn chế lớn nhất làm con người bắt buộc phải cân nhắc khi sử dụng đó là độc tính của
benzen, những biến chứng nguy hiểm - thậm chí cả ung thư.
Với khả năng bay hơi tốt, sự hiện diện của benzen trong không khí đã và đang
ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe con người và động vật. Tuy nhiên, do có nhiều tính
chất quan trọng và có ích trong công nghiệp, việc thay thế benzen là việc gần như
không thể thực hiện được ở 100% các ngành công nghiệp. Vậy nên, sự hiểu biết đầy
đủ về những ảnh hưởng của benzen trong môi trường không khí là điều kiện tiên quyết
để con người có thể tự bảo vệ sức khỏe của chính bản thân mình.
Chương 1. Giới thiệu chung về benzen
1.1.
Đặc điểm
Benzen có công thức là C 6H6, là hợp chất
hydrocacbon thơm. Ở điều kiện phòng là chất lỏng dễ
cháy, dễ bay hơi, không màu, mùi dễ chịu. Benzen là hợp
chất vòng 6 cạnh đều có 3 liên kết đôi và 3 liên kết đơn.
Góc liên kết giữa các nguyên tử trong benzen đều là 120 o,
các liên kết C-C đều như nhau (139 pm). [1]
Tính chất vật lý
Khối lượng phân tử 78,11 g/mol. [2]
Không màu, có mùi thơm đặc trưng. [2]
Trạng thái vật lý trong điều kiện thường (25oC, 1 atm): lỏng. [2]
Nóng chảy ở 5,5oC, sôi ở 80,1oC (ở ấp suất 1 atm). [2]
Giới hạn cháy trong không khí từ 1.3% đến 7,1%. Tự bốc cháy nhiệt độ 580oC. [2]
Độ hòa tan trong nước là 1800 mg/L (ở 25 oC). Tan tốt trong ancol, chloroform,
ete, cacbon đisunfit, axeton, dầu, ... [2]
- Khối lượng riêng (ở 15oC) 0,8787 g/mL. [2]
- Hệ số phân bố logKow: 2,13; 2,15. [2]
1.1.2. Tính chất hóa học
Phản ứng thế electrophyl: Benzen phản ứng thế với halogen(X2) khi có Fe hoặc AlCl3
tạo phenyl halogenua (C6H5X), phản ứng với axit nitric đặc có xúc tác H2SO4 đậm đặc
1.1.1.
-
-
4
tạo nitro benzen, phản ứng với H2SO4 đậm đặc chưng cất nước thành axit
benzosulfonic. [1]
-
Phản ứng cộng: Benzen trong điều kiện có xúc tác Ni, nhiệt độ cao cộng với H 2 tạo
ra xiclohexan. Khi có chiếu sáng, benzen tác dụng với khí clo tạo
ra hexacloran C6H6Cl6. [1]
1.2.
Phân loại
Phân loại theo Tiêu chuẩn NFPA 704 (Hệ thống tiêu chuẩn xác định mối nguy
hiểm của vật liệu cho các trường hợp ứng cứu khẩn cấp) của Hiệp hội phòng cháy
quốc gia Hoa Kỳ. [1]
Chỉ số
Giá
trị
Sức khỏe
2
Khả năng
cháy
3
Tính bất ổn
0
Miêu tả
Có thể gây mất sức tạm thời hoặc
gây tổn thương lâu dài.
Có thể bắt lửa ở hầu hết điều kiện
nhiệt độ môi trường xung quanh.
Khá ổn định, thậm chí cả khi bị
cháy.
Tính chất
Không có
đặc biệt
Phân loại theo IARC (Cơ quan nghiên cứu quốc tế về ung thư) của WHO,
benzen được phân loại vào nhóm 1 - tác nhân gây ung thư ở người. [3]
Phân loại theo GHS (Hệ thống phân loại và ghi nhãn hóa chất toàn cầu) [4]
- H225: chất lỏng rất dễ cháy
- H304: Có thể gây tử vong nếu nuốt phải hay đi vào đường hô hấp
- H315: Gây kích ứng da
- H319: Gây kích ứng mắt nghiêm trọng
- H340: Có thể gây ra khuyết tật di truyền
- H350: Có thể gây ung thư
- H372: Gây thiệt hại cho các cơ quan thông qua tiếp xúc kéo dài hoặc lặp lại
- H401: Độc cho sinh vật dưới nước
1.3.
Ứng dụng
Benzen được sử dụng chủ yếu như một dung môi trong các ngành công nghiệp
hóa chất và dược phẩm, nó cũng được dùng như một nguyên liệu ban đầu và trung
gian trong quá trình tổng hợp của rất nhiều hóa chất, và trong xăng. Benzen được sử
5
dụng trong tổng hợp etylbenzen (được sử dụng để sản xuất styren), cumen (được sử
dụng để sản xuất phenol và axeton), cyclohexan, nitrobenzen (được sử dụng để sản
xuất anilin và các hóa chất khác), chất tẩy rửa alkylate (sulfonat alkylbenzen tuyến
tính), clobenzen và các sản phẩm khác. Benzen được sử dụng như một chất phụ gia
trong xăng, nhưng nó cũng có mặt tự nhiên trong xăng, bởi nó có trong dầu thô và là
một sản phẩm phụ của quá trình lọc dầu. Tỷ lệ phần trăm của benzen trong xăng không
chì là khoảng 1% đến 2% theo thể tích.Một số sản phẩm/ngành sử dụng benzen có thể
nói đến như ngành hóa dược, sản xuất thuốc nhuộm, sơn, nhựa tổng hợp, lốp xe, giày
dép, mực in, thuốc tẩy rửa, thuốc bảo vệ thực vật…
Ứng dụng của benzen (U.S. International Trade Commission, 2003)
1.4.
Độc tính benzen
6
Hít phải hoặc ăn uống thực phẩm nhiễm benzen ở nồng độ rất cao có thể gây tử
vong. Nhẹ hơn, và nếu chỉ trong thời gian ngắn có thể bị liệt, hôn mê, lú lẫn, choáng,
buồn ngủ, tim đập nhanh, nặng ngực, khó thở, nôn ói. [5]
Nếu sống, làm việc ở nơi có quá nhiều vật dụng chứa benzen, hít thở không khí
chứa nhiều benzen lâu ngày có thể bị tổn thương não không hồi phục, mờ mắt, nhức
đầu kinh niên hay ngất xỉu. Nhiễm benzen thời gian dài còn làm giảm hồng cầu gây ra
thiếu máu, có thể gây xuất huyết nhiều, giảm miễn dịch nên dễ bị nhiễm trùng. [5]
Benzen dính vào da thì làm da khô, ngứa, sưng đỏ. Nếu rơi vô mắt sẽ gây kích
thích đau rát và tổn thương giác mạc. [5]
1.5.
Một số quy chuẩn quy định về nồng độ benzen trong không khí
Nồng độ tối đa cho phép của benzen trong không khí xung quanh là 22 µg/m 3
tính trong 24h và 10 µg/m3 tính trong 1 năm (QCVN 06:2009/BTNMT)
Nồng độ tối đa cho phép của benzen trong khí thải công nghiệp phát thải vào
môi trường không khí là 5 mg/Nm3 (QCVN20:2009/BTNMT)
Chương 2. Nguồn gốc và tác hại của benzen trong không khí
2.1.
Nguồn gốc của benzen
Benzen là chất dễ bay hơi nên con đường tiếp xúc chủ yếu với benzen là con
đường hô hấp. Trong môi trường không khí, benzen thường nhanh chóng bị phân hủy,
một lượng nhỏ benzen có thể được ngưng tụ bởi mưa, làm ô nhiễm nước mặt và đất.
Tuy nhiên, benzen cũng không tồn tại lâu trong nước mặt hay đất, mà thường bay hơi
trở lại không khí hoặc bị phân hủy bởi vi khuẩn. [6]
2.1.1. Trong công nghiệp
Benzen thường xuất hiện trong dầu thô với nồng độ có thể lên đến 4 g/l, vậy
nên con người hoạt động trong những ngành sử dụng dầu khí thường dễ tiếp xúc với
benzen. Những ngành sử dụng dầu khí bao gồm chế biến và sử dụng các sản phẩm từ
dầu mỏ; sản xuất của toluene, xylene và các hợp chất thơm khác; các ngành sản xuất
các sản phẩm công nghiệp và tiêu dùng sử dụng benzen làm nguyên liệu trung gian...
Sự hiện diện của benzen trong xăng và việc sử dụng rộng rãi benzen như một dung
môi công nghiệp có thể dẫn đến phơi nhiễm nghề nghiệp đáng kể và phát thải benzen
vào không khí trên diện rộng. Phương tiện giao thông cá nhân (ô tô, xe máy) là nguồn
xả benzen lớn nhất trong môi trường. Hơi vật liệu xây dựng, quá trình cháy vật liệu,
chất thải công nghiệp, nước rỉ rác cũng là nguồn thải benzen đáng kể. [6]
2.1.2. Không khí trong nhà
Benzen đã được phát hiện ở nồng độ cao trong không khí trong nhà. Bên cạnh
một số nguồn benzen nhỏ như hơi thoát ra từ vật liệu xây dựng (sơn, keo dán,...) thì
nguồn phát thải benzen lớn nhất hiện nay là từ khói thuốc lá, ở cả nhà riêng và nơi
công cộng. Những ngôi nhà để xe bên trong cũng ghi nhận nồng độ benzen cao hơn so
với những ngôi nhà không để xe. Nồng độ benzen trong không khí cũng tăng lên với
7
những ngôi nhà gần xăng trạm xăng. Những người dành nhiều thời gian ở trong nhà,
như là trẻ nhỏ, có thể có nguy cơ tiếp với benzen cao hơn. [6]
2.1.3.
Không khí trong xe
Benzen đã được phát hiện có trong không khí trong xe ô tô ở mức cao hơn so
với không khí xung quanh, nhưng thấp hơn đáng kể so với không khí xung quanh trạm
xăng dầu. [6]
2.2.
Tác hại của benzen trong không khí
Ảnh hưởng chủ yếu của benzen trong không khí là tác động tới con người và
các loại động vật khi tiếp xúc qua đường hô hấp.
2.2.1. Ảnh hưởng tới các hệ cơ quan trong cơ thể
a. Ảnh hưởng đến hệ hô hấp
Ảnh hưởng đến hệ hô hấp sau khi tiếp xúc ngắn hạn với hơi benzene đã được
biết đến từ nhiều năm nay (Avis và Hulton 1993; Midzenki et al. 1992;...). Viêm mũi
và đau họng đã được báo cáo bởi các công nhân khi tiếp xúc với hơi benzene ở nồng
độ tương ứng 33 ppm và 59 ppm trong hơn 1 năm. Xuất hiện tình trạng kích thích
màng nhầy và khó thở ở 80% và 67% số công nhân khi tiếp xúc với nồng độ trên 60
ppm trong 3 tuần. [7]
b. Ảnh hưởng đến hệ tuần hoàn
Benzene tác động mạnh nhất vào hệ tuần hoàn. Khi tiếp xúc với hơi benzene
trên 60 ppm trong 2 ngày gây ra giảm bạch cầu và hồng cầu trong máu, tắc mạch
máu,... Tiếp xúc với hơi benzene vượt quá ngưỡnglàm việc liên tục trong vài tháng làm
giảm lượng máu lưu thông, nếu tiếp tục tiếp xúc với benzene sẽ gây ra bệnh thiếu máu
hoặc bệnh bạch cầu. Tiếp xúc với nồng độ nhỏ benzene làm giảm một hoặc một vài
loại máu (bao gồm hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu) được thấy trong nhóm 44 người khỏ
mạnh cho tiếp xúc với benzene nông độ trung bình 8 tiếng là 31 ppm trong thời gian
trung bình 6.3 năm. Trong 22 người cho tiếp xúc với benzene trong 5 ngày với nồng
độ trung bình 8 tiếng TWA (time-weight average) là 13.6 ppm và nồng độ không vượt
31 ppm cho thấy lượng tiểu cầu và hồng cầu rõ rệt. Trong một nhóm khác gồm 11
người tiếp xúc với benzene trung bình 8 tiếng TWA là 7.6 ppm, nồng độ không vượt
quá 31 ppm chỉ cho thấy giảm lượng tiểu cầu. [7]
Một nghiên cứu mới đây được thực hiên với 250 công nhân (năm 2004) trong
ngành sản xuất giầy ở Trung Quốc. Lấy 140 công nhân cùng tuổi và giới tính trong
ngành may mặc không tiếp úc với benzene (nồng độ benzene dưới 0.04 ppm) làm
chuẩn.Nghiên cứu được thực hiện trong thời gian trung bình là 6.1+2.9 năm.Những
người tiếp xúc với benzene đươc chia làm 4 nhóm (kiểm soát,<1, 1-10, >10 ppm) phụ
thuộc vào lượng benzene tiếp xúc trước khi lấy mâu máu 1 tháng. Số lượng tế bào
bạch cầu và tiểu cầu của các đối tượng nghiên cứu đều giảm so với nhóm kiểm chứng
(giảm từ 8-15% ở nhóm tiếp xúc với nồng độ thấp nhất , giảm từ 15-36% ở nhóm tiếp
xúc với nồng độ cao nhất). [7]
Tiếp xúc với benzene dù nồng độ thấp hơn nhưng trong thời gian dài nguy hiểm
hơn tiếp xúc với nồng độ cao và thời gian ngắn. [7]
8
Khả năng hồi phục sau khi tiếp xúc với benzene phụ thuộc vào nồng độ và thời
gian tiếp xúc: tiếp xúc với hơi benzene nồng độ 316 ppm trong thời gian dài trên chuột
khiến chuột không còn khả năng phụ hồi thương tổn máu nhưng cho chuột tiếp xúc hơi
benzene nồng độ cao hơn 10 lần trong thời gian ngắn hạn thì vẫn thấy chuột có khả
năng hồi phục lại (Cronlite et al. 1989). [7]
c. Ảnh hưởng đến hệ cơ
Ruiz cùng cácđồng nghiệp đã báo cáo có ảnh hưởng đến hệ cơ (đau nhức các
cơ) cùng với thiếu bạch cầu do benzene gây ra cho các công nhân làm việc trong một
nhà máy sản xuất thép ở Cubatao, Saint Paulo, Brazil. Bệnh nhân là những công nhân
là việc trong nhà máy (trong khoảng thời gian 7 năm và 4 tháng) và những công nhân
được thuê để sửa chữa nhà máy (trong thời gian 5 năm và 5 tháng). [7]
d. Ảnh hưởng tới gan
Chưa có báo cáo cụ thể nào về ảnh hưởng nghiêm trọng tới ganngười khi tiếp
xúc với hơi benzene nhưng đã có những thí nghiệm trên động vật về ảnh hưởng của
benzene tới gan. [7]
Chuột CFY được cho tiếp xúc liên tục với hơi benzene nồng độ 125 ppm trong
7 ngày cho thấy khối lượng gan tăng (4.67% khối lượng cơ thể) so với mẫu kiểm
chứng (4.25% khối lượng cơ thể) nhưng chênh lệch quá ít nên không được coi là ảnh
hưởng nghiêm trọng. Trong một nghiên cứu khác, chuột CFY cho tiếp xúc liên tục với
hơi benzene trong 7 ngày với nồng độ là 0, 141, 470, 939 ppm (Taitrei at el. 1980), kết
quả cho thấy từ nồng độ benzene 141 ppm trở lên thì tỷ lệ khối lượng gan so với cơ thể
tăng lên rõ rệt. [7]
e. Ảnh hưởng đến hệ miễn dịch
Ảnh hưởng của benzene lên hệ thống miễn dịch của con người đã được biết tới.
Benzene tác động lên hệ thống miễn dịch thông qua tác động lên bạch cầu đã được nói
ở phần trên.Rất nhiều nghiên cứu đã chỉ ra ảnh hưởng tới hệ miễn dịch khi tiếp xúc với
hơi benzene: giảm lượng bạch cầu và tế bào tủy xương khi cho chuột tiếp xúc với nồng
độ từ 100 ppm trở lên trong suôt 8 ngày (Gill et al. 1980); giảm lượng bạch cầu và tế
bào tủy xương khi cho chuột DBA/2 tiếp xúc với nồng độ tới 900 ppm trong 2 tuần
(Chertkov et al. 1992); giảm số lương tế bào lympho (một loại bạch cầu) trong lá lách,
tuyến ức (giảm từ 25 đếm 43% so với kiểm chứng) khi cho chuột tiếp xúc với hơi
benzene nồng đồ trên 100 ppm trong 6 giờ/ngày, 5 ngày/tuần, và rất nhiều các của Ward
(1985), Li (1986), Snyder (1978,1980,1984),... cũng chỉ các kết quả tương tự. [7]
f.
Ảnh hưởng đến hệ thần kinh
Khi con người bị phơi nhiễm với benzene nồng độ cao (từ 300 đến 3000ppm)
xuất hiện một số triệu chứng như buồn ngủ, đau đầu, chóng mặt, run rẩy, mê sảng, bất
tỉnh,... và có thể gây tử vong nếu nồng độ tiếp xúc quá cao. Những triệu chứng trên
giống các triệu chứng khi bị phơi nhiễm với nhiều chất dung môi hữu cơ khác và có
thể hồi phục nếu cho các nạn nhân ra khỏi vùng phơi nhiễm. [7]
2.2.2. Tử vong
9
Nguyên nhân gây tử vong ở người là do ngạt thở, suy giảm chức năng thần kinh
trung ương, suy giảm chức năng tim. Đã có các báo cáo từ những năm 1900 về các vụ
tử vong do tiếp xúc với benzene. Flury đã ước tính sau khi tiếp xcus với hơibenzene
nồng độ 20,000 ppm trong 5 – 10 phút gây tử vong. [7]
2.2.3. Ung thư
US-EPA đã xếp benzen là chất độc nhóm A, tức là các chất được đánh giá có
thểgây ung thư ở người. [7]
US-EPA đã ước tính tỷ lệ phát triển ung thư ở người hít thở liên tục với
khôngkhí có chứa benzen ở nồng độ khoảng từ 0,13 đến 0,45 μg/m3 trong suốt cuộc
đờilà dưới 1/1.000.000. Con số này tăng lên là 1/100.000 đối với nồng độ benzen là1,3
đến 4,5 μg/m3. [7]
Từ lâu đã có những nghiên cứu chỉ ra khả năng gây ung thư của hơi benzene
tuy nhiên đa số các nghiên cứu có hạn chế là có nhiều chất gây độc, thiếu sự kiểm soát
nồng độ phơi nhiễm và có ít số liệu do có ít vụ nhiễm độc. Nhưng các nghiên cứu vẫn
chỉ ra benzene là yếu tố gây nên bệnh bạch cầu. Có hai nghiên cứu đối tượng là các
công nhân bị phơi nhiễm với benzene ở Ohio (Mỹ) và ở Trung Quốc là có các số liệu
chắc chắn về benzene làm gia tăng khả năng bị bệnh bạch cầu. [7]
Ở Ohio, đối tượng nghiên cứu là các công nhân làm việc tại ba nhà máy sản
xuất Pliofilm. Trong báo cáo của Rinsky và các đồng nghiệp (1987), một nhóm gồm
1165 nam công nhân da trắng được tuyển dụng từ 1940 và 1965 làm việc đến 1981 cho
thấy số lượng người chết do bệnh bạch cầu tăng (9 người chết so với 2.7 người) và u
tủy (4 người chết so với 1 người). Tỷ lệ chết trong nhóm đối tượng theo dõi được so
sánh với tỷ lệ chết của nam da trắng cùng tuổi ở Mỹ trong cùng một khoảng thời gian.
Khả năng bị bệnh bạch tạng tăng rõ rệt khi ta tăng nồng độ tích tụ với benzene trên
200 ppm/năm. [7]
Ở Trung Quốc,các nghiên cứu trên đối tượng là 74828 công nhân bị phơi nhiễm
với benzene và 35805 công nhân không tiếp xúc với benzene làm việc trong 672 nhà
máy ở 12 thành phố đã được tiến hành (Hayes 1996, 1997,2001; Linet et al. 1996).
Các công nhân làm việc trong trung bình 12 năm ở nhiều loại ngành nghề khác nhau
sử dụng benzene làm dung môi như sản xuất sơn, keo, áo khoác và các sản phẩm khác
cho thấy các đối tượng còn tiếp xúc với nhiều loại hóa chất khác. Các công nhân đều
thấy khản năng bị bệnh bạch cầu tăng (xác suất tăng phụ thuộc vào ngành nghề).
Nghiên cứu theo nồng độ phơi nhiễm benzene trung bình (<10, 10 – 24, >25 ppm) và
lượng benzene tích tụ (<40, 40 – 99, >100 ppm/năm) cho thấy nguy cơ bị bệnh về
hồng cầu tăng rõ rệt dù ở mức độ phơi nhiễm thấp nhất (<10 ppm và <40 ppm/năm).
Nguy cơ bị bệnh bạch cầu tăng khi nồng độ phơi nhiễm trung bình là 10 – 24 ppm và
nồng độ tích tụ là 40 – 99 ppm. Nghiên cứu theo thời gian phơi nhiễm cho thấy nguy
cơ bị nhiễm bệnh không tăng theo thời gian phơi nhiễm. [7]
Chương 3. Giải pháp kiểm soát benzen
10
Có nhiều giải pháp kiểm soát và giảm thiểu lượng phát thải benzen, bao gồm:
Tuyên truyền, cảnh báo với người dân về sự nguy hiểm của benzen
Đưa ra các bộ luật, quy định cụ thể giới hạn sự phát thải benzen
Cải tiến, thay đổi các công nghệ, ký thuật giảm thiếu phát thải benzen
Dùng các nguyên liệu thay thế
Thiết kế, bảo dưỡng thiết bị tránh sự rò rỉ benzen
...
Dưới đây trình bày vắn tắt về một số phương pháp kiểm soát và giảm phát thải
benzen tại các nguồn khác nhau.
3.1.
Phát thải từ quá trình sản xuất benzen
Bao gồm một số quá trình sau:
- Quá trình tách/ chuyển hóa có xúc tác
- Quá trình dealkyl hóa benzen và toluen
- Quá trình sản xuất etylen
Các phương pháp ước lượng lượng phát thải benzen từ các nguồn thải
3.1.1. Các giao thức của EPA cho ước lượng lượng phát thải do rò rỉ thiết bị
- Phương pháp đơn giản nhất: phương pháp tiếp cận hệ số phát thải trung bình, yêu cầu
đã số lượng của từng loại thành phần. Phương pháp này chỉ nên được sử dụng nếu
không có dữ liệu có sẵn vì nó có thể dẫn đến một đánh giá quá cao hoặc đánh giá thấp
lượng khí thải bị rò rỉ thực tế. [8]
- Tiếp cận độ chặn lại (trước đây gọi là tiếp cận rò rỉ / không rò rỉ) dựa trên việc xác
định số lượng các thành phần bị rò rỉ và không bị rò rỉ. [8]
- Cách tiếp cận tương quan theo EPA cung cấp thêm cho việc ước tính lượng phát thải
do rò rỉ bằng cách cung cấp một phương trình để dự đoán mức phát thải hàng loạt với
chức năng của giá trị sàng lọc cho một loại thiết bị cụ thể. [8]
- Các cách tiếp cận tương quan EPA được sử dụng khi các giá trị sàng lọc thực tế có sẵn.
[8]
- Phương pháp tiếp cận tương đương đơn vị cụ thể, phương pháp này yêu cầu kiểm tra
nghiêm ngặt hơn, phân tích sự rò rỉ của thiết bị để quyết định tỉ lệ phát thải hàng loạt.
[8]
3.1.2. Phát thải benzen từ các thùng chứa, bể chứa
- Phát thải benzen từ các thùng chứa có thể được làm giảm bằng các thiết bị kiểm soát
và thực hành công việc. Các loại thiết bị kiểm soát có thể được sử dụng để làm giảm
lượng thải chất hữu cơ, bao gồm
+ Việc lưu trữ các chất lỏng trong một bể chứa với một tầng nổi (bể mái nổi bên ngoài
hoặc bể mái nối bên trong) [8]
+ Trang bị sàn nổi với các thiết bị khác để giảm lượng phát thải (ví dụ, áp dụng niêm
phong cơ chế xung quanh chu vi của các tầng nổi, hàn vỉa tầng, lắp đặt các miếng đệm
quanh các lỗ và trong các thiết bị đóng cửa trên sàn nổi) [8]
+ Thông khí thải từ bồn chứa cố định mái với một thiết bị kiểm soát (ví dụ, một hệ thống
thông hơi khép kín và một bộ phận hấp phụ carbon, bình ngưng, hay ngọn lửa). [8]
- Thực hành công việc giảm phát thải chất hữu cơ bao gồm giữ hố ga và cửa tiếp xúc
khác được chốt và đệm kín khi không sử dụng. [8]
3.1.3. Hệ thống xử lí và tập trung nước thải
-
11
Phát thải benzen từ các hệ thống thu gom nước thải có thể dẫn từ nhiều loại thiết bị
khác nhau bao gồm các bể chứa nước thải, hồ chứa trên bề mặt, thùng chứa, hệ thống
thoát nước và thiết bị tách dầu-nước. [8]
Khí thải cũng bắt nguồn từ hệ thống xử lý nước thải. [8]
- Hai chiến lược kiểm soát có thể được áp dụng cho phát thải benzen từ nước thải:
+ Cách thức kiểm soát đầu tiên là giảm thiểu chất thải thông qua việc thay đổi quy trình,
thay đổi cách thức vận hành, bảo dưỡng phòng ngừa, tái chế, hoặc phân biệt các dòng
thải. [8]
+ Các chiến lược kiểm soát thứ hai là giảm hàm lượng benzen trong nước thải qua xử lý
trước khi dòng tiếp xúc với không khí xung quanh. [8]
3.2.
Phát thải từ một số quá trình sử dụng benzen làm nguyên liệu
3.2.1. Quá trình sản xuất etylbenzen và styren
-
Sự phát thải Benzen từ quá trình sản xuất ethylbenzene và Styrene thông qua
alkyl hóa và quá trình khử [8]
Các phương pháp kiểm soát đối với các quá trình ethylbenzene / styrene được
sử dụng ở Hoa Kỳ bao gồm ngưng tụ, hấp phụ, đốt cháy bằng khí thải, và đốt cháy
trong lò hơi hoặc các lò đốt khác. Kiểm soát phát thải rò rỉ ra từ các thùng chứa, thiết
bị, và những nguồn khác bao gồm việc sử dụng các xe thùng chứa mái nổi và các
chương trình phát hiện / sửa chữa rò rỉ. [8]
3.2.2. Quá trình sản xuất phenol
-
-
-
-
-
Hấp phụ bằng than củi là phương pháp thường được sử dụng nhất để kiểm soát lượng
phát thải từ các lỗ thông hơi lò phản ứng oxy hóa; Tuy nhiên, sự ngưng tụ, hấp thu, và
quá trình oxy hóa nhiệt cũng đã được sử dụng. [8]
Thiết bị thu hồi (ví dụ, một hoặc nhiều nồi ngưng và / hoặc vật liệu hấp thụ) là những
phương pháp thường được sử dụng nhất để thu hồi và kiểm soát phát thải sản phẩm và
điều khiển từ bộ phận phân tách và cột chưng cất tinh chế sản phẩm; tuy nhiên, phương
pháp hấp phụ và đốt cháy cũng đã được sử dụng để giảm lượng phát thải. [8]
3.2.3. Quá trinh sản xuất nitrobenzene
Phát thải do rò rỉ thiết bị thường được kiểm soát bằng các phát hiện rò rỉ và sửa chữa,
trong khi lượng phát thải thứ cấp nói chung không được kiểm soát. [8]
Các giá trị được trình bày cho các phát thải benzen từ nguồn trữ chính đã được tính
toán bằng cách giả định rằng mái nhà nổi bên trong loại tiếp xúc và các bộ phận niêm
phong thứ cấp sẽ làm giảm lượng phát thải bể cố định mái 85 %.[8]
Các giá trị trình bày cho phát thải do rò rỉ thiết bị được kiểm soát dựa trên giả định
rằng rò rỉ từ van và máy bơm, có nồng độ lớn hơn 10.000 ppm khối lượng, được phát
hiện, và các biện pháp thích hợp được thực hiện để sửa chữa những chỗ rò rỉ. [8]
Phát thải trong quá trình có thể được giảm thiểu bằng những thiết bị hấp thụ ở các lỗ
thông hơi, máy lọc khí bằng nước, bình ngưng, lò đốt, và / hoặc chất oxi hóa nhiệt. [8]
Phát thải trong lưu trữ từ bể chứa chất thải axit và bể chứa benzen nhỏ có thể dễ dàng
được kiểm soát cùng với lượng phát thải trong quá trình. (Một bể chứa nhỏ chứa
khoảng lượng cung cấp benzen trong một ngày; Bể lớn hơn là các bể chứa benzen
chính). Ngược lại, lượng phát thải từ bể chứa benzen chính được kiểm soát bằng cách
sử dụng các bể chứa mái nổi. [8]
12
3.2.4. Quá trình sản xuất chlorobenzene
-
hấp phụ cacbon là một công nghệ kiểm soát thích hợp để kiểm soát cuối nguồn lượng
phát thải và các ông thông hơi cột chưng cất. Các kỹ thuật kiểm soát áp dụng được với
phát thải do rò rỉ thiết bị trong quá trình có chương trình kiểm tra / bảo trì cho máy
bơm, van, và mặt bích. Các bể chứa mái nổi bên trong có thể được sử dụng để kiểm
soát lượng phát thải benzen trong lưu trữ. [8]
3.2.5. Quá trình sản xuất linear alkylbenzene
Phát thải benzen từ quá trình sản xuất LAB sử dụng quá trình clo hóa được
kiểm soát với lựa chọn được áp dụng thường xuyên nhất là sử dụng khí thải làm
nhiên liệu. [8]
3.3.
Phát thải từ các nguồn khác
3.3.1. Cửa giếng dầu khí
-
-
-
-
-
-
-
Phát thải từ cửa giếng dầu và khí đốt có thể được ước tính bằng cách sử dụng phương
pháp hệ số phát thải trung bình như đã nêu trong giao thức của EPA ước tính cho phát
thải do rò rỉ thiết bị. [8]
Cách tiếp cận này cho phép việc sử dụng các yếu tố phát thải trung bình kết hợp với dữ
liệu 54 cửa giếng cụ thể. Những dữ liệu này bao gồm: (1) số lượng từng loại thành
phần (van, mặt bích, vv), (2) các dạng của mỗi thành phần (khí, ngưng tụ, hỗn hợp,
vv), (3) nồng độ benzen dòng thải, và (4) số giếng. [8]
3.3.2. Các khối khử nước glycol
Các chất khử nước glycol được sử dụng trong các ngành công nghiệp dầu mỏ và khí
đốt tự nhiên gần đây mới được phát hiện là một nguồn phát thải quan trọng các hợp
chất dễ bay hơi hữu cơ (VOC), bao gồm benzene, toluene, ethylbenzene, và xylen
(BTEX). [8]
Hầu hết các bộ xử lý khí đã bắt đầu thay đổi thiết bị chưng cất glycol hiện có để giảm
hoặc loại bỏ khí thải VOC. [8]
3.3.3. Quá trinh lọc dầu
Phát thải benzen, cũng như các chất ô nhiễm không khí nguy hại khác (HAPS) từ các
nhà máy lọc dầu có thể được nhóm lại thành năm nhóm chính [8]
+ Quá trình thông gió
+ Các bể chứa,
+ Rò rỉ thiết bị,
+ Hoạt động vận chuyển
+ Thu gom và xử lí nước thải.
Ngoài ra, nồi đun và nồi hơi trong quá trình đặt tại các khâu khác nhau thải ra khói khí
có chứa benzen, và HAPS khác. Các HAPS phát thải từ quá trình đốt cháy không hoàn
toàn của nhiên liệu khí hoặc từ sản phẩm cháy. [8]
Một lựa chọn cho việc ước tính lượng phát thải các hợp chất hữu cơ từ các hệ thống xử
lý nước thải là sử dụng mô hình khí thải được trình bày trong các tài liệu của EPA về
các yếu tố ô nhiễm trong khí thải. Mô hình phát thải này dựa trên mối tương quan
chuyển khối lượng và có thể dự đoán được lượng khí thải của loại chất hữu cơ riêng
biệt từ một hệ thống xử lý nước thải. [8]
13
-
-
-
-
Theo báo cáo của EPA, phương pháp kiểm soát phổ biến cho các ông thông khí quá
trình tái sinh xúc tác tại các đơn vị cracking xúc tác lỏng là lọc bụi tĩnh điện, nồi hơi
carbon monoxide (CO), cyclon, và bộ phận lọc khí. [8]
3.3.4. Hoạt động phân phối xăng dầu
Hoạt động lưu trữ và phân phối xăng dầu là các nguồn tiềm năng của phát thải benzen.
[8]
Benzen có thể được phát ra trong khi dầu thô và các sản phẩm lọc dầu (xăng, dầu
chưng cất, vv) được nạp và được vận chuyển bằng tàu chở dầu biển và sà lan. [8]
Mỗi hoạt động, trong đó xăng được chuyển giao hoặc được lưu trữ là một nguồn tiềm
tàng của phát thải benzen. Tại bến đỗ và các nhà máy lớn, bốc xếp, lưu trữ xăng là các
nguồn phát thải benzen. [8]
a. Công nghệ kiểm soát cho việc bốc dỡ tại tàu thuyền
Hệ thống kiểm soát hơi cho ngành hàng hải có thể được chia thành hai loại [8]:
- Hệ thống thu hồi hơi
- Hệ thống tiêu hủy hơi
Có nhiều hệ thống tái sinh hơi có thể được sử dụng với hệ thống thu hồi hơi.
Hầu hết các hệ thống tái sinh hơi được thiết lập đến nay bao gồm tủ lạnh, hấp phụ/hấp
phụ carbon, hoặc hấp thụ dầu nạc. Ba loại chính của hệ thống tiêu hủy hoặc đốt hơi có
thể hoạt động trênphạm vị tốc độ dòng chảy và nhiệt rộng của các ứng dụng hàng hải
là: đốt bằng khí thải với ngọn lửa mở lửa, hoặc ngọn lửa kèm theo, và lò đốt nhiệt. [8]
b. Công nghệ kiểm soát cho vận chuyển xăng dầu
Công nghệ kiểm soát bao gồm việc sử dụng một hệ thống xử lý hơi kết hợp với
một hệ thống thu thập hơi. Hệ thống cân bằng hơi, bao gồm một đường ống dẫn giữa
các không gian hơi của xe tải và thùng chứa, là hệ thống khép kín. Những hệ thống
này cho phép chuyển hơi lên xe tải vận chuyển như xăng dầu được đưa vào
bể chứa. [8]
c. Công nghệ kiểm soát cho kho chứa xăng dầu
Các công nghệ kiểm soát phát thải benzen từ kho xăng dầu liên quan đến việc
nâng cấp các loại bồn chứa được sử dụng hoặc thêm một hệ thống kiểm soát hơi. Đối
với bể cố định mái, khí thải được dễ dàng kiểm soát nhất bằng cách lắp đặt mái nhà
nổi bên trong. Một mái nổi bên trong làm giảm diện tích bề mặt chất lỏng tiếp xúc trên
các bể chứa và, do đó, giảm tổn thất bay hơi. Lắp đặt một mái nổi bên trong bể chứa
cố định mái có thể giảm tổng lượng khí thải từ 68,5 đến 97,8%. [8]
d. Công nghệ kiểm soát cho phát thải khi tiếp nhiên liệu lên phương tiện vận chuyển
Phát thải khi tiếp nhiên liệu lên phương tiện vận chuyển là do hơi được thế chỗ
từ bể chứa di động bởi xăng pha chế và rớt ra ngoài. Hai lựa chọn thay thế kiểm soát
hơi nhiên liệu cơ bản [8]:
- Hệ thống điều khiển trên thiết bị trạm dịch vụ và
Hệ thống điều khiển trên xe ,hệ thống này về cơ bản được giới hạn với ống đựng
carbon.
3.3.5. Công trình xử lý nước công cộng
Công trình xử lý nước công cộng (POTW) xử lý nước thải từ các cơ sở dân cư, tổ
chức, thương mại và công nghiệp. Nhìn chung, lượng khí thải benzen từ POTW bắt
nguồn từ hàm lượng benzen của nước thải công nghiệp đi vào POTW, và benzen có
thể được phát ra bởi sự bay hơi ở bề mặt lỏng của nước thải. [8]
14
-
-
+
+
+
+
-
-
-
-
Nói chung, những loại thiết bị và kỹ thuật kiểm soát duy nhất được tìm thấy tại POTW
là máy lọc khí đốt và các bọc được sử dụng để cải thiện mùi của không khí thoát ra từ
các khâu quy trình. [8]
3.3.6. Các bãi chôn lấp chất thải rắn đô thị
Một bãi chôn lấp chất thải rắn (MSW) thành phố là một khu đất riêng biệt hoặc được
khai quật để tiếp nhận chất thải từ hộ gia đình. Một bãi rác MSW cũng có thể nhận các
loại chất thải khác, chẳng hạn như chất thải rắn thương mại , bùn không độc hại và
chất thải rắn công nghiệp. khí thải benzen từ các bãi chôn lấp MSW được dự đoán bắt
nguồn từ các nguồn phi hộ gia đình của MSW [8]
Hệ thống thu gom khí rác thải là những hệ thống cả chủ động hoặc thụ động [8]
Hệ thống thu gom chủ động cung cấp một gradient áp lực để giải nén khí rác thải bằng
cách sử dụng các máy thổi khí hoặc máy nén.
Hệ thống thụ động cho phép gradient áp lực tự nhiên được tạo ra bởi sự gia tăng áp lực
bãi rác từ khí bãi rác đểthu hồi khí.
Kiểm soát khí bãi rác và các lựa chọn xử lý bao gồm (1) đốt khí bãi rác, và (2) thanh
lọc khí bãi rác [8]
Kỹ thuật đốt bao gồm các kỹ thuật mà không phục hồi năng lượng (ví dụ, đốt bằng khí
thải và lò đốt nhiệt) và kỹ thuật phục hồi năng lượng và tạo ra điện từ quá trình đốt
cháy của khí bãi rác (ví dụ, tua bin khí và động cơ đốt trong). Nồi hơi cũng có thể
được sử dụng để phục hồi năng lượng từ khí bãi rác ở dạng hơi. Đốt bằng khí thải liên
quan đến một quá trình đốt cháy mở đòi hỏi oxy cho quá trình đốt cháy; các ngọn lửa
do đốt khí thải có thể được mở hoặc đóng kín. Lò đốt nhiệt làm nóng chất hữu cơ đến
một nhiệt độ đủ cao với đủ oxy để oxy hóa các chất hóa học độc về CO và nước.
Kỹ thuật thanh lọc cũng có thể được sử dụng để xử lý khí bãi rác thô thành khí tự
nhiên bằng cách sử dụng hấp phụ, hấp thụ, và màng.
3.3.7. Sản xuất graphite tổng hợp
Buồng đốt hai lần có thể được sử dụng để kiểm soát phát thải hydrocarbon không cháy
từ lò nung ban đầu và tái nung , cũng như tháp trao đổi nhiệt và bồn chứa được nước
nóng sử dụng cho quá trình ngâm hắc ín. [8]
Dữ liệu liên quan đến việc sử dụng các buồng đốt hai lần trong ứng dụng này không
khả thi. Tuy nhiên, có khả năng là các buồng đốt hai lần sẽ làm giảm lượng khí thải
benzen. Ngoài ra, ESP có thể được sử dụng để kiểm soát phát thải hạt bụi từ xi lanh
làm mát; tuy nhiên, ESP chưa chắc sẽ làm giảm lượng khí thải benzen. [8]
3.3.8. Vật tư xây dựng và các sản phẩm tiêu dùng
Việc kiểm soát chính để giảm lượng khí thải benzen từ các sản phẩm tiêu dùng là tái lập,
chẳng hạn như nước thay thế hoặc các vật liệu khác ít phát thải VOC hơn. [8]
Chính phủ liên bang và một số bang hiện đang đưa ra các quy định cho hàm lượng
benzen (hoặc VOC) của sản phẩm tiêu dùng. Sản phẩm tiêu dùng là một loại rất đa
dạng và các sản phẩm được sử dụng rộng rãi. [8]
3.4.
Phát thải từ các nguồn đốt
3.4.1. Lò đốt chất thải y tế và bùn thải
MWIs đốt rác thải từ các bệnh viện, các cơ sở thú y, nhà hỏa táng, và các cơ sở nghiên
cứu y học. Những chất thải bao gồm cả chất thải y tế truyền nhiễm ( "túi đỏ" và bệnh
lý) và không lây nhiễm, chất thải vệ sinh chung. [8]
15
-
-
-
-
-
-
-
Mục đích chính của MWIs là (1) làm cho các chất thải vô hại, (2) giảm thể tích và khối
lượng của chất thải, và (3) cung cấp năng lượng qua chuyển đổi chất thải. [8]
Hầu hết kiểm soát các khí thải hợp chất hữu cơ có thể đạt được bằng cách thúc đẩy đốt
cháy hoàn toàn theo thực tế kinh nghiệm thực tế sau (GCP). Nói chung, các điều kiện
của GCP như sau [8]
+ Đồng hóa chất thải đầu vào
+ Cung cấp đầy đủ và phân phối đủ không khí trong lò đốt;
+ Nhiệt độ khí lò đốt đủ cao (>815oC);
+ trộn đều khí đốt và không khí trong tất cả các vùng;
+ Giảm thiểu PM cuốn theo vào khói thải lò đốt ra khỏi lò;
+ Kiểm soát nhiệt độ của khí vào thiết bị kiểm soát ô nhiễm không khí đến 230 oC
hoặc ít hơn.
3.4.2. Nung chảy chì thứ cấp
Phát thải trong quá trình (tức là, những phát ra từ các lò luyện kim xả chính) chứa kim
loại, chất hữu cơ (bao gồm benzene), HCl, và Cl. Phát thải trong quá trình cũng chứa 2
chất gây ô nhiễm khác, bao gồm cả PM, VOC, CO, SO2. [8]
Các phương pháp Kiểm soát được sử dụng để giảm lượng khí thải hữu cơ từ lò nấu
chảy trong ngành công nghiệp luyện kim chì thứ cấp bao gồm buồng đốt hai lần trên lò
cao và kết hợp nổ và ống xả lò phản xạ. Lò phản xạ và lò quay có lượng khí thải
benzen tối thiểu vì nhiệt độ và sự hôn loạn khí thải cao , thúc đẩy việc đốt cháy hoàn
toàn các chất hữu cơ. [8]
3.5.
Phát thải benzen từ các nguồn di động
3.5.1. Các nguồn di động trên đường
Giảm lượng khí thải benzen gắn liền với việc sử dụng các nhiên liệu methanol phụ
thuộc vào hàm lượng methanol trong nhiên liệu. Ví dụ, lượng khí thải benzen cho M10
(10% methanol và 90 % xăng không chì) giảm 20 % so với nhiên liệu truyền thống, và
cho M85 (85 % methanol và 15 % xăng không chì) giảm 84% (SAE 1992). M100
(100% methanol), ethanol, LPG, và CNG thải ra một lượng tối thiểu benzen. [8]
Hơn nữa, bởi vì cả hai LPG và CNG yêu cầu hệ thống phân phối đóng, lượng khí thải
bay hơi được giả định là bằng không. [8]
3.5.2. Máy bay
Có hai loại chính của động cơ máy bay được sử dụng: động cơ phản lực và piston. [8]
Dầu lửa được sử dụng trong các động cơ phản lực, trong khi xăng hàng không với áp
suất hơi thấp hơn so với xăng ô tô được sử dụng cho động cơ piston. [8]
Hướng dẫn hiện hành từ EPA cho việc ước tính lượng khí thải hydrocarbon từ máy bay
xuất hiện trong Procedures for Emission Inventory Preparation, Tập IV: Nguồn di
động. [8]
Phương pháp ước lượng phát thải đã nói ở trên là phương pháp phổ biến do nó xem xét
sự khác biệt giữa các máy bay mới và cũ. Nếu thông tin chi tiết máy bay không có sẵn,
chỉ số phát thải hydrocarbon cho hỗn hợp được cung cấp trong the emissions inventory
guidance document Procedures for Emissions Inventory Preparation Tập IV: Nguồn di
động. [8]
Kết luận
16
Benzen là một chất hữu cơ rất tuyệt vời trong việc ứng dụng vào các ngành
công nghiệp dưới dạng một nguyên liệu, một chất phụ gia, một dung môi. Tuy nhiên,
với những ảnh hưởng có hại tới sức khỏe và môi trường mà benzen gây ra, chúng ta
thực sự cần xem xét lại việc sử dụng benzen trong sản xuất công nghiệp. Việc chúng ta
cần làm hiện nay là tăng cường các biện pháp bảo hộ lao động, giảm thiểu nguy cơ
tiếp xúc với những nguồn phát tán benzen cũng như đẩy mạnh việc nghiên cứu ra chất
mới an toàn hơn để thay thế benzen trong nhiều ngành công nghiệp.
Tài liệu tham khảo
[1] Wikipedia, Benzene. (ngày truy cập
20/04/2016)
[2] California Public Health Goal (PHG), Benzene in Drinking Water, 2001
[3] IARC, IARC Monographs Supplement 7, 1987.
[4] BASF, GPS Safety Summary: Benzene, 2012.
[5] U.S.EPA, Benzene. (ngày
truy cập 20/04/2016)
[6] WHO, Exposure to Benzene: A major public health concern, 2010
[7] ATSDR, Toxicological Profile for Benzene, 2007
[8] U.S.EPA, Locating and Estimating Air Emissions from Sources of Benzene, 1998
17