CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
MÔ TẢ SÁNG KIẾN
Mã số:…………………………….
Tên sáng kiến: PHƯƠNG PHÁP DẠY- HỌC TỐT MÔN
TẬP ĐỌC LỚP 4
1. Lĩnh vực áp dụng: Giáo dục tiểu học
2. Mô tả bản chất của sáng kiến
2.1. Tình trạng giải pháp đã biết
Tiếng Việt ở tiểu học có nhiều phân môn, trong đó tập đọc là môn học có vị thế
đáng kể, vì biết đọc mới giúp ta học tập, giao tiếp, nắm bắt được mọi thông tin diễn
ra hàng ngày trong xã hội. Thông qua việc đọc, học sinh có kiến thức bước đầu về
văn học, đời sống và giáo dục tình cảm thẩm mĩ. Như vậy mục đích chính của dạy
học tập đọc là học sinh phải đọc đúng, hiểu đúng nội dung bài đọc. Cao hơn nữa,
các em cần hiểu được ý nghĩa giáo dục của bài học để có tình cảm, thái độ đúng,
hành vi đúng.
Thực tế trong những năm qua, dạy tập đọc tôi thấy rằng chất lượng dạy tập đọc
ở tổ tôi chưa cao, học sinh ít có khả năng đọc hay, diễn cảm và hiểu nội dung bài
một cách đầy đủ. Học sinh không quan tâm tới phương pháp đọc của mình. Nhận
ra điều đó nên tôi nghiên cứu vấn đề này. Trong quá trình thực hiện tôi có những
ưu điểm và khuyết điểm sau:
Ưu điểm
- Học sinh biết chuyển chữ viết thành âm thanh, chuyển cái nghe được thành cái
nhận thức được.
- Đa số học sinh đọc rõ âm, rõ tiếng, lên bổng xuống trầm đúng nhịp điệu, ngữ
điệu, đảm bảo được tốc độ đọc.
- Biết ngắt nghỉ hơi khá hợp lí.
- Hiểu được cái hay của ý nghĩa, cái đẹp của câu chữ trong bài đọc.
Khuyết điểm
- Về phía giáo viên
1
+ Thời lượng tiết dạy chỉ 40 phút nên tôi không đủ để sửa chữa, uốn nắn hết tất
cả các đối tượng học sinh, nên khi nghe học sinh đọc khá trôi chảy là được chứ
không yêu cầu cao về đọc diễn cảm.
+ Khi hướng dẫn học sinh trả lời câu hỏi chỉ chú ý đến việc đặt câu hỏi để học
sinh trả lời, thiếu sự giảng dạy thêm làm cho phần khai thác nội dung có phần khô
khan, không có sự mạch lạc, không làm nổi bật được trọng tâm bài học.
+ Việc kết hợp các nội dung lồng ghép, giáo dục kĩ năng sống còn gượng ép
chưa được tự nhiên.
+ Tiến trình tiết dạy chưa có sự sáng tạo, chưa thay đổi nhiều hình thức mới làm
giảm đi sự tò mò hứng thú của học sinh.
- Về phía học sinh
+ Tốc độ đọc, kĩ năng đọc diễn cảm chưa phù hợp với bài học.
+ Đa số học sinh phát âm theo tiếng địa phương.
+ Những câu dài các em ngắt nghỉ không đúng.
+ Đọc lặp từ. đọc ê a, bỏ từ, chưa đọc đúng giọng câu hỏi, câu cảm, câu khiến.
+ Học sinh đọc chưa tốt ảnh hưởng đến việc phân bố thởi gian một tiết học
không hợp lí, lấn sang phần khai thác nội dung và đọc diễn cảm không sâu hoặc
làm kết thúc tiết học không đúng thời gian quy định.
+ Đọc hiểu trả lời câu hỏi các em không biết chọn lọc ý để trả lời mà trả lời theo
nguyên văn sách giáo khoa.
+ Đọc hiểu nắm nội dung bài còn rất ít, do vậy chưa nêu được ý chính của bài
mà phải nhờ sự gợi ý của giáo viên.
Học sinh đọc tốt, đọc một cách có ý thức sẽ giúp các em hiểu biết nhiều hơn,
bồi dưỡng các em lòng yêu cái thiện, cái đẹp trong cuộc sống. Chính vì vậy, dạy
tập đọc có ý nghĩa to lớn ở Tiểu học, nó trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối
với mỗi người đi học. Vì lẽ đó mà tôi đã miệt mài học hỏi để có những sáng kiến
mới. Đổi mới cách dạy, cách học tạo không khí vui tươi, hồn nhiên, nhịp nhàng,
sinh động trong các môn học nói chung, phân môn tập đọc nói riêng là vấn đề mà
hiện nay bản thân tôi luôn quan tâm và áp dụng để nhằm nâng cao chất lượng dạy
học. Đó cũng là lí do tôi chọn đề tài này.
2
2.2. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến
Từ những hạn chế mà tôi đã trình bày ở trên nay tôi đưa ra những giải pháp để
khắc phục như sau:
a) Mục đích của giải pháp
- Rèn kĩ năng đọc thành tiếng và đọc thầm; đọc đúng từ; đọc lưu loát câu, đoạn
bài; đọc lướt để tìm ý trong bài.
- Phát triển kĩ năng đọc hiểu: hiểu ý nghĩa của từ ngữ, câu trong bài, nhận ra ý
chính của đoạn, tóm tắt được bài học từ đó mở rộng vốn hiểu biết về tự nhiên, xã
hội để góp phần hình thành nhân cách con người mới cho học sinh.
- Bước đầu hình thành kĩ năng đọc diễn cảm bài văn, bài thơ, biết nhấn giọng
các từ ngữ quan trọng, thay đổi giọng điệu, tốc độ để thể hiện cảm xúc trong bài.
- Nắm được nội dung cần truyền đạt là cái gì ? Các em hiểu và tiếp thu được
kiến thức gì ?
- Phương pháp cho từng hoạt động phải phù hợp, các nội dung tích hợp lồng
ghép giáo dục một cách nhẹ nhàng lôgic.
b) Nội dung của giải pháp
- Tính mới của giải pháp: Trước đây giáo viên là người chủ động hướng dẫn
học sinh đọc, học sinh chỉ đọc đúng. Còn bây giờ học sinh tự tìm ra cách đọc, biết
nhấn giọng và biết đọc đúng, đọc diễn cảm.
- Sự khác biệt của giải pháp mới so với giải pháp cũ
Trong quá trình lên lớp trước đây tiết dạy thường thể hiện ở các hoạt động :
+ Kiểm tra bài cũ: học sinh đọc bài (cá nhân) và trả lời câu hỏi.
+ Giới thiệu bài mới: Giáo viên trình bày tranh (ảnh) để gợi tả và giới thiệu bài
mới.
+ Luyện đọc: Học sinh đọc (cá nhân) đọc theo đoạn. Đọc nhóm và trình bày đại
diện, kết hợp luyện phát âm từ khó và giải thích từ sách giáo khoa.
+ Tìm hiểu bài: Giáo viên hỏi các câu hỏi theo sách giáo khoa học sinh trả lời.
+ Luyện đọc diễn cảm: Chọn một đoạn nào đó rồi luyện đọc giáo viên nhận xét,
uốn nắn.
+ Củng cố: Một vài học sinh nêu nội dung, ý nghĩa bài đọc.
3
Như vậy giờ tập đọc nào cũng vậy các em sẽ nhàm chán và tẻ nhạt. Vì lẽ đó mà
tôi mạnh dạn thay đổi hình thức dạy học của mình như sau:
+ Phần kiểm tra bài cũ:
. Đọc một đoạn văn ( tự chọn hoặc theo chỉ định) và liên hệ bản thân.
. Đọc đoạn văn em thích, nêu ý nghĩa.
. Đọc phân vai, em chọn bạn để đọc và trả lời câu hỏi.
+ Phần giới thiệu bài mới: Dùng tranh để giới thiệu; kể chuyện có liên quan để
giới thiệu; học sinh thực hiện trò chơi học tập để giới thiệu; dùng động tác, cử chỉ,
điệu bộ, bài hát để giới thiệu…
+ Bài mới
Luyện đọc: Chọn học sinh khá giỏi đọc cả bài, học sinh chia đoạn.
. Giáo viên hướng dẫn sơ cách đọc, sau đó học sinh đọc nối tiếp theo đoạn (hai
hoặc ba lượt) kết hợp sửa lỗi đọc sai, ngắt nghỉ hơi không đúng, đọc chưa đúng
giọng, giúp học sinh hiểu nghĩa của từ trong bài.
. Đọc theo nhóm
. Giáo viên đọc mẫu
Tìm hiểu bài:
. Học sinh đọc thành tiếng, đọc thầm, đọc lướt để tìm hiểu nội dung bài.
. Bổ sung câu hỏi để học sinh tiếp thu bài có hệ thống, nắm được trình tự diễn
biến nội dung truyện - bài đọc giúp các em khắc sâu bài hơn.
. Học sinh tự rút ra ý của đoạn tìm hiểu, nội dung chính của bài.
. Quan sát phân tích, phân tích để khái quát ý nghĩa nội dung bài học.
. Bổ sung câu hỏi liên hệ vận dụng thực tế cuộc sống để giáo dục ý thức hành
động thực tiễn cho học sinh.
Luyện đọc diễn cảm và học thuộc lòng ( nếu có)
. Học sinh đọc theo đoạn và nêu cách đọc của từng đoạn ( Chọn học sinh có
giọng đọc phù hợp đọc và trình bày cách đọc)
. Chọn một đoạn luyện đọc diễn cảm cho cả lớp ( Hỏi tại sao em phải thể hiện
diễn cảm như vậy.
. Kiểm tra và rèn đọc cho nhiều đối tượng học sinh: trung bình, yếu (đánh giá
4
nhìn vào sự tiến bộ của từng cá nhân)
. Thi đua đọc diễn cảm
. Bình chọn học sinh đọc hay – Tuyên dương
+ Phần củng cố, dặn dò:
. Nói lên suy nghĩ của em về nội dung bài học
. Nêu điều em học tập được sau bài học
. Em có nhận xét, đánh giá về nhân vật trong bài,…
. Nhận xét giờ học
Thông qua các hoạt động dạy học trên tùy theo nội dung bài học tôi luôn tạo
cho học sinh sự hấp dẫn, hứng thú theo bài học để các em có niềm tin trong giờ
học và tích cực luyện đọc tốt hơn. Đề đạt được điều trên , người giáo viên trước hết
phải tự hoàn thiện mình như: đọc trôi chảy, có chất giọng diễn cảm tốt, tự nhiên,
nắm vững nội dung, diễn biến tình tiết trong một văn bản. Định hướng câu hỏi phù
hợp với trình độ của từng đối tượng học sinh, có dự kiến người trả lời, suy nghĩ
sáng tạo hình thức tổ chức dạy học mới hấp dẫn học sinh, làm cho các em tích cực
say mê học tập.
Vậy để dạy tốt- học tốt môn tập đọc bản thân tôi thực hiện các yêu cầu sau:
1. Tư thế khi đọc: Học sinh khi ngồi đọc tôi luôn tập ở tư thế ngay ngắn,
khoảng cách từ mắt đến sách khoảng 30- 35 cm, cổ và đầu thẳng. Các em được gọi
đọc phải tự tin, bình tĩnh, không vội vàng đọc ngay. Khi đứng đọc phải chỉnh tề,
thoải mái, sách hoặc vở được mở rộng ra và cầm bằng hai tay. Tôi luôn nhắc nhở
các em đọc thành tiếng phải cho cả lớp cùng nghe, phải to, rõ nhưng không có
nghĩa là đọc quá to hoặc gào thét lên. Trường hợp có học sinh đọc quá nhỏ, tôi gọi
em đó đọc thường xuyên và động viên đọc to dần.
2. Luyện đọc mẫu: Giọng đọc của giáo viên có sức ảnh hưởng rất lớn đến việc
đọc của các em, vì vậy đòi hỏi giáo viên đọc phải chuẩn, chính xác, có tác dụng
làm cơ sở định hướng cho học sinh. Giáo viên đọc diễn cảm tốt để học sinh sẽ cảm
nhận được cái hay, cái đẹp của bài tập đọc. Trong quá trình đọc mẫu giáo viên biết
sử dụng các thủ pháp ngắt nghỉ hơi đúng chỗ, dùng ngữ điệu nhấn giọng, hạ giọng,
lên giọng, thay đổi tốc độ đọc… làm nổi bật ý nghĩa và tình cảm của tác giả đã gửi
5
gắm vào bài đọc. Từ đó giúp học sinh thấy sôi nổi hào hứng tham gia vào việc tìm
hiểu, khám phá bài tập đọc hơn, học sinh có ý thức đọc diễn cảm tốt hơn.
3. Luyện học sinh đọc đúng:
- Đọc đúng là đọc không thừa, không sót tiếng, từ, không đọc theo cách phát âm
của địa phương.
- Đọc đúng bao gồm việc đọc đúng âm đầu, vần, dấu thanh, ngắt nghỉ hơi đúng
chỗ. Tôi thấy học sinh phát âm sai nhiều, chủ yếu là phát âm sai âm đầu
tr/t,s/x,v/d /gi, nguyên nhân là do học sinh chưa phân biệt được cách phát âm và
phát âm do thói quen của địa phương. Để khắc phục tình trạng trên tôi làm như
sau:
+ Điều tra phân lỗi ngay từ đầu năm cho từng em, từng nhóm để có kế hoạch
uốn nắn.
+ Thường xuyên gọi những em phát âm sai đọc để theo dõi sự tiến bộ cũng như
những tồn tại của học sinh qua mỗi tiết học.
+ Sau mỗi học sinh đọc gọi học sinh khác nhận xét, phát hiện lỗi sai của bạn để
cùng sửa chữa.
+ Khi hướng dẫn học sinh phát âm tôi phân tích cho các em thấy sự khác biệt
của phát âm đúng với phát âm sai mà các em mắc phải.
+ Đọc rõ từng tiếng, không được kéo dài tiếng này sang tiếng khác (đọc ê a).
- Rèn học sinh biết ngừng nghỉ, biết phân biệt câu thơ, dòng thơ. Đối với câu
văn dài hướng dẫn đọc thành cụm, biết giữ hơi để khỏi phải bị ngắt quãng giữa các
âm tiết.
4. Luyện học sinh đọc nhanh:
Đây là giai đoạn đọc cao hơn đọc đúng, đọc trôi chảy không đọc ê a, đọc vấp.
Khi đọc cho người khác nghe thì người đọc phải xác định tốc độ đọc nhanh, nhưng
để cho người nghe hiểu được. Vì vậy khi dạy, muốn học sinh đọc tốt giáo viên
hướng dẫn cho các em làm chủ tốc độ bằng cách đọc mẫu để học sinh theo dõi tốc
độ đọc đã quy định. Giáo viên tổ chức đọc nối tiếp trên lớp, đọc nhẩm có sự kiểm
tra của giáo viên, của bạn để điều chỉnh tốc độ.
5. Luyện đọc hiểu
6
- Đây là việc làm quan trọng để hình thành và phát triển kĩ năng, kĩ xảo đọc
thầm và nó luôn theo ta trong suốt cuộc đời. Đọc thầm giúp các em chuẩn bị tốt
cho khâu đọc thành tiếng, tìm hiểu bài và nắm bắt nội dung bài học tốt hơn, cho
nên chúng ta không bỏ qua được bước này.
- Đối với học sinh lớp 4, kĩ năng đọc thầm bằng mắt khá thành thạo, trước khi
đọc thầm giáo viên đặt câu hỏi định hướng để học sinh đọc trong trạng thái có vấn
đề vừa đọc vừa động não. Mục đích đặt câu hỏi giúp học sinh đọc kĩ văn bản hơn,
hạn chế đọc sót từ, sót dòng.
- Để hướng dẫn học sinh đọc thầm đạt kết quả khi dạy tôi yêu cầu học sinh tập
trung vào bài đọc, kết hợp với việc đặt câu hỏi để học sinh nhận biết nhiệm vụ học
tập, có như vậy các em mới chú ý và tập trung trong khi đọc thầm và kích thích
tinh thần học tập của học sinh.
- Học sinh đọc thầm dưới nhiều hình thức: Cả lớp đọc thầm, đọc thầm theo bạn
(học sinh đọc cá nhân) hoặc theo giáo viên (đọc mẫu) và có thể giáo viên đưa ra
những định hướng sau:
+ Bài văn, bài thơ nói về ai ?
+ Trong bài có những nhân vật nào ?
+ Tìm những từ cần nhấn giọng, hạ giọng, lên giọng, chỗ ngắt nghỉ hơi.
+ Phát hiện giọng đọc của đoạn, bài từng nhân vật.
6. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài:
Hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài ở đây không phải là người giáo viên giúp cho
học sinh nhìn sách giáo khoa để trả lời câu hỏi mà thông qua những câu hỏi đó
giáo viên khai thác làm nổi bật giá trị nghệ thuật trong bài văn, bài thơ. Từ đó mở
rộng vốn hiểu biết về tự nhiên xã hội, con người góp phần hình thành nhân cách
của người học sinh.
Qua tìm hiểu bài giáo viên giúp học sinh rèn kĩ năng nói gián tiếp hoặc trực tiếp
bằng ngôn ngữ, giáo viên lưu ý uốn nắn sửa chữa những từ, câu cho học sinh trong
quá trình trả lời câu hỏi. Để làm tốt khâu này người giáo viên phải cảm thụ sâu sắc
đoạn văn, bài văn sẽ truyền đạt cho học sinh thì tiết dạy của giáo viên mới thành
công.
7
Để học sinh tiếp thu nội dung bài học tốt giáo viên cần:
+ Bổ sung câu hỏi để học sinh trả lời theo trình tự diễn biến nội dung truyện bài
đọc.
+ Hệ thống câu hỏi đặt ra phải được nâng bậc từ thấp đến cao, tránh đặt nhiều
câu hỏi không phù hợp với chủ điểm học tập, vượt quá khả năng nhận thức của học
sinh. Cuối cùng chốt lại bài, yêu cầu học sinh nêu nội dung bài học, giáo viên lồng
ghép liên hệ thực tế giáo dục đạo đức cho học sinh.
7. Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học cho học sinh:
- Song song việc tìm hiểu bài giáo viên nên chú ý việc bồi dưỡng năng lực cảm
thụ văn học cho học sinh. Nếu học sinh có năng lực cảm thụ văn học tốt thì các em
sẽ thấy được sự phong phú, trong sáng của Tiếng Việt, cảm nhận được cái hay, cái
đẹp trong thơ văn. Học sinh sẽ được tìm hiểu tín hiệu nghệ thuật và giá trị của các
tín hiệu nghệ thuật như:
+ Em có nhận xét gì về câu, về cách dùng từ đặt câu trong bài ?
+ Trong câu văn (đoạn văn, đoạn thơ) tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ gì ? Sử
dụng biện pháp nghệ thuật đó có tác dụng gì ?...
8. Luyện đọc diễn cảm:
Đọc diễn cảm là để biểu đạt đúng ý nghĩa và tình cảm mà tác giả đã gởi gắm
trong bài đọc, đồng thời khẳng định sự thông hiểu, cảm thụ của người đọc đối với
tác phẩm. Đọc diễn cảm thể hiện năng lực đọc ở trình độ cao và chỉ thực hiện được
trên cơ sở học sinh đọc đúng, lưu loát. Khi đọc thường biểu hiện giọng vui, buồn,
giận dữ, trang nghiêm, thay đổi giọng điệu già hay trẻ.
Để dạy tốt việc đọc diễn cảm đối với văn bản nghệ thuật tôi hướng dẫn học
sinh đọc thông qua dẫn dắt, gợi mở giúp các em thể hiện tình cảm, thái độ của
mình chẳng hạn:
- Học sinh biết nhấn giọng từ gợi tả, gợi cảm, từ ngữ chìa khóa làm nổi bật ý
chính trong câu.
Ví dụ: Dạy bài Sầu riêng
Sầu riêng là loại trái quy của miền Nam. Hương vị nó hết sức đặc biệt, mùi
thơm đậm, bay rất xa, lâu tan trong không khí. Còn hàng chục mét mới tới nơi để
8
sầu riêng, hương đã ngào ngạt xông vào cánh mũi. Sầu riêng thơm mùi thơm của
mít chín quyện với hương bưởi, béo cái béo của trứng gà, ngọt cái vị của mật ong
già hạn. Hương vị quyến rũ đến kì lạ.
Khi đọc đoạn một này tôi gợi ý học sinh: Theo em để làm nổi bật giá trị và
hương vị của quả sầu riêng, chúng ta nên đọc bài với giọng như thế nào? Ngoài thể
hiện giọng đọc em cần chú ý nhấn giọng những từ ngữ nào?
Học sinh biết nhấn giọng vào những từ ngữ ca ngợi vẻ đặc sắc của quả sầu
riêng như mùi vị, hương thơm,…
- Học sinh biết thể hiện ngữ điệu, sự thay đổi tốc độ, cao độ, cường độ… phù
hợp với từng loại câu kể, câu hỏi, câu cảm, câu khiến.
Ví dụ: Dạy bài Ga- vrốt ngoài chiến lũy
Khi đọc đoạn miêu tả chi tiết thể hiện lòng dũng cảm của Ga-vrốt tôi lưu ý nhắc
nhở học sinh thay đổi giọng đọc:
- Cậu làm trò gì đấy ? – Cuốc-phây-rắc hỏi (Câu hỏi thể hiện sự ngạc nhiên)
- Em nhặt cho đầy giỏ đây ! (Câu cảm thể hiện sự bình tĩnh)
- Cậu không thấy đạn réo à ? (Câu hỏi nhắc nhở Ga-vrốt không được liều
mình)
Ga-vrốt trả lời:
Có chứ, nó rơi như mưa ấy. Nhưng làm sao nào ? (Khi đọc lên giọng ở câu hỏi
thể hiện sự hồn nhiên)
Cuốc-phây-rắc thét lên:
- Vào ngay ! (Câu khiến thể hiện sự đề nghị, mệnh lệnh kèm sự lo lắng)
- Tí ti thôi ! - Ga-vrốt nói. (Thể hiện sự tinh nghịch)
Trong đoạn đọc diễn cảm tôi cũng lưu ý học sinh phải biết ngắt hơi ở chỗ không
có dấu câu nhưng chỗ đó là chỗ tách ý.
Ví dụ: Dạy bài Con sẻ
Học sinh ngắt câu dài: “Bỗng/ từ trên cây cao gần đó, một con sẻ già có bộ ức
đen nhánh lao xuống như hòn đá/ rơi trước mõm con chó”.
Đồng thời hướng dẫn học sinh đọc phân biệt lời kể của tác giả với lời nhân vật.
Phân biệt giọng đọc phù hợp với lứa tuổi, tính cách nhân vật (người già, trẻ em,
9
người tốt, người xấu).
Ví dụ: Dạy bài Người ăn xin
Trong bài có hai nhân vật là ông lão ăn xin và chú bé (nhân vật tôi)
… “Chao ôi ! Cảnh nghèo đói đã gặm nát con người đau khổ kia thành xấu xí
biết nhường nào !” (Giọng cảm xúc ngậm ngùi của cậu bé)
- “Ông đừng giận cháu, cháu không có gì để cho ông cả”. (Giọng xót thương,
ray rứt của cậu bé).
- “Cháu ơi, cảm ơn cháu ! Như vậy là cháu đã cho lão rồi. (Giọng ông lão yếu
ớt, khản đặc và cảm động).
Ngoài ra tôi giúp học sinh thể hiện ngữ điệu phù hợp tình huống miêu tả hay
thái độ cảm xúc của nhân vật (vui, buồn, nghiêm trang, giận dữ).
Ví dụ: Dạy bài Chị em tôi
Học sinh đọc lời người chị lễ phép khi xin phép ba “- Thưa ba, con xin phép đi
học nhóm.”, sau đó lại chuyển sang giọng giận dữ khi hỏi người em “- Mày tập văn
nghệ ở rạp chiếu bóng à ?”
Học sinh đọc lời người em thì tinh nghịch, lúc thản nhiên, lúc giả bộ ngây thơ:
- Em đi tập văn nghệ.
- Ủa, chị cũng ở đó sau ? Hồi nãy chị bảo đi học nhóm mà !
Học sinh đọc lời người cha giọng dịu dàng khi đáp lại lời xin phép của người
con: “Ờ, nhớ về sớm nghe con !” và trầm buồn khi phát hiện con mình nói dối:
- Các con ráng bảo ban nhau mà học cho nên người
Tuy nhiên học sinh đọc diễn cảm như thế nào còn phụ thuộc vào sự cảm nhận
riêng của từng em. Tôi không áp đặt cho các em một cách đọc theo khuôn mẫu mà
tôi chọn học sinh có giọng đọc phù hợp để đọc mẫu và nêu cách đọc của mình, học
sinh khác nhận xét nêu ý kiến. Sau đó rèn đọc cho nhiều đối tượng học sinh yếu,
trung bình, khá và đánh giá nhìn vào sự tiến bộ của từng cá nhân. Sau đó tôi tổ
chức thi thố tài năng của học sinh biểu lộ cảm xúc qua phần luyện đọc diễn cảm
của mình. Song bên cạnh đó cần quan tâm đầu tư hướng dẫn nâng cao cho học sinh
có khả năng phát triển.
10
Như vậy so với giải pháp cũ tiến trình một tiết dạy thường rập khuôn, công
thức, làm cho tiết học buồn tẻ, đơn điệu. Học sinh chỉ cần đọc trôi chảy lưu loát
theo sách giáo khoa chứ không bộc lộ rõ cảm xúc của mình qua bài học, học sinh
tiếp thu bài một cách thụ động. Học sinh khá giỏi làm việc nhiều, trong khi học
sinh trung bình, yếu thì làm việc ít. Nhưng với giải pháp mới tiết học sinh động
hơn, lôi cuốn tất cả học sinh cùng hoạt động, từ khâu rèn cho học sinh kĩ năng đọc
đúng tiến tới đọc hay, đọc diễn cảm một văn bản. Sau khâu luyện đọc hiểu, học
sinh có thể trả lời được những câu hỏi nêu ra, hiểu sâu hơn nội dung ý nghĩa văn
bản. Bên cạnh đó còn rèn cho học sinh năng lực tư duy, năng lực nhận thức qua
việc trả lời câu hỏi ở bài tập đọc. Ví dụ:
+ Lựa chọn câu hỏi dành cho học sinh trung bình, yếu là những câu hỏi chỉ yêu
cầu học sinh tìm đúng những lời lẽ có sẵn trong văn bản là có thể đáp ứng được
câu hỏi.
+ Loại câu hỏi học sinh không thể lấy những lời lẽ có sẵn trong văn bản để trả
lời mà học sinh phải biết suy luận, sắp xếp lại các ý trong văn bản. Sau đó tự tổ
chức lại lời lẽ của mình. Chính việc suy luận, việc sắp xếp các từ ngữ trong lời đáp
như vậy sẽ giúp các em tích cực hóa hoạt động nhận thức, hiểu sâu hơn nội dung
văn bản, loại câu này thường dành cho những học sinh khá trong lớp. Muốn đưa ra
câu hỏi này, giáo viên thường hỏi theo kiểu: Theo em…?; Nếu em…?; Em nghĩ thế
nào…?;
+ Còn loại câu hỏi vượt ra khỏi phạm vi của văn bản, muốn trả lời được học sinh
phải biết rút ra từ những ý nghĩa chung nhất có thể có nhiều câu trả lời khác nhau
và tất cả đều có thể chấp nhận được. Câu hỏi loại này thường chủ yếu dành cho
những học sinh khá giỏi. Loại câu hỏi này thường sử dụng kiểu câu như: Bài này
khuyên em điều gì…?; Bài này muốn nói với em điều gì về…?; Qua bài này em có
suy nghĩ gì ?.
Tóm lại: Trong một giờ tập đọc, căn cứ vào nội dung từng phần, tôi đã tổ chức
cho các em được tự mình tham gia tìm hiểu bài, tìm ra cách đọc bài đúng, hay. Như
vậy các em sẽ hoạt động tích cực hơn, sôi nổi hơn. Khi đó người giáo viên sẽ trở
thành một người tổ chức sáng tạo còn học sinh thật sự trở thành trung tâm, là chủ
11
thể của giờ học. Coi trọng phần luyện đọc vì đây là nội dung chính của tiết học,
đặc biệt chú ý tới luyện đọc cá nhân là chủ yếu, quan tâm đến mọi đối tượng học
sinh. Luyện đọc bằng nhiều hình thức khác nhau, tuỳ theo đối tượng học sinh,
không theo một quy trình cứng nhắc và phải được thực hiện trước bước tìm hiểu
bài. Có thể dùng một số trò chơi có tác dụng luyện đọc để tạo không khí học tập
vui tươi, sôi nổi, nhẹ nhàng sinh động trong giờ học.
2.3. Khả năng áp dụng của giải pháp
Trên đây là sáng kiến mà tôi đã áp dụng để dạy phân môn Tập đọc ở lớp 4
trường tôi. Với phương pháp dạy và học mà tôi vừa trình bày được hội đồng sư
phạm nhà trường và các trường lân cận đồng tình thực hiện để chứng minh cho
tính thực tiễn của đề tài. Nếu có điều kiện triển khai rộng rãi tôi tin chắc rằng giải
pháp này sẽ góp phần trong việc đổi mới phương pháp dạy học tích cực trong quá
trình giảng dạy của giáo viên. Đồng thời đây cũng là nền tảng góp phần bồi dưỡng
năng lực cảm thụ văn học cho học sinh ở những cấp học tiếp theo.
2.4. Hiệu quả, lợi ích thu được do áp dụng giải pháp
Từ hai năm nay tôi luôn áp dụng các giải pháp trên vào việc soạn giảng của
mình. Tôi tự thấy mình tìm được cách làm đúng cho việc dạy tập đọc, dạy đúng
đặc trưng bộ môn, tiết học không còn nặng nề, khô khan nữa. Tính đến thời điểm
này lớp mà tôi chủ nhiệm đều có số học sinh học tốt môn Tiếng việt rất cao, các em
có sự tiến bộ rõ, hầu hết các em có kĩ năng đọc tốt hơn, đọc đúng, đọc trôi chảy
phát âm chuẩn và bộc lộ được cảm xúc của mình qua giọng đọc. Điều đáng mừng
hơn là các em yếu chính tả, tập làm văn cũng tiến bộ rõ rệt, viết ít sai lỗi chính tả,
văn viết dùng từ hay, câu văn diễn đạt rõ ý. Trong giao tiếp, phát biểu các em mạnh
dạn tự tin hơn. Tôi đã tiến hành khảo sát và có số liệu như sau:
Lớp 41 – Sĩ số: 33 (Trong đó 02 học sinh kém trí)
Đọc nhỏ, ấp úng
Đọc to, rõ, lưu loát
Đọc diễn cảm
Phát âm chuẩn
Đầu năm
9 - 27,3%
21 - 63,6%
3 - 9,1%
Cuối học kì I
5 - 15,2%
20 - 60,6%
8 - 24,2%
Giữa học kì II
2 - 6,1%
18 - 54,5%
13 - 39,4%
Như vậy, trong thực tế giảng dạy và trong quá trình nghiên cứu làm chuyên đề
12
Tôi rút ra bài học kinh nghiệm cho mình là:
+ Hết lòng tận tụy vì học sinh, luôn ý thức tìm tòi và sáng tạo trong soạn giảng.
+ Nắm vững đặc trưng, phương pháp, nhiệm vụ của môn học, nghiên cứu kĩ
mục tiêu bài dạy, để từ đó có được phương pháp dạy học phù hợp, có tác dụng phát
triển tư duy và năng lực cảm thụ văn học cho học sinh.
+ Nắm được trình độ hết các đối tượng học sinh trong lớp thì mới phát huy
được tính năng động sáng tạo của học sinh trong tiết học.
+ Thường xuyên giáo dục học sinh có thói quen đọc sách và làm việc với văn
bản.
+ Ngay từ đầu năm học cần phân loại học sinh để có hướng bồi dưỡng học sinh
giỏi kèm cặp học sinh yếu kém, tích cực kiểm tra, theo dõi thường xuyên kết quả,
sự tiến bộ về việc đọc của học sinh.
Trong năm học này và những năm học tiếp theo tôi sẽ chắc lọc và học hỏi bạn
bè hơn nữa để giúp học sinh có kĩ năng học tập đọc tốt hơn cũng như giúp học sinh
học tốt môn Tiếng Việt nhằm nâng cao chất lượng dạy và học.
2.5. Những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu
Sáng kiến được triển khai trong đơn vị. Được sự tham gia của tổ trưởng chuyên
môn khối 4 và 5 cùng với một số trường bạn tham gia thực hiện giải pháp.
………………, ngày 31 tháng 3 năm 2016
Người viết
………………………….
13