BẢO TÀNG DÂN TỘC HỌC VIỆT NAM
I. Thông tin cơ bản
1. Khái quát chung của bảo tàng
Địa chỉ: đường Nguyễn Văn Huyên, Cầu Giấy, Hà Nội
Bảo tàng dân tộc học Việt Nam vừa là một cơ sở khoa học, vừa là một trung
tâm văn hóa, có tính khoa học cao và tính xã hội rộng lớn. Vị trí xác định đó được
thể hiện qua các chức năng: nghiên cứu khoa học về các dân tộc ở nước ta, sưu
tầm, đánh giá, bảo quản, phục chế, trưng bày, giới thiệu và khai thác những gia strị
lịch sử - văn hóa của các dân tộc, đồng thời cung cấp tư liệu dân tộc học và đào tạo
cán bộ cho loại hình bảo tàng dân tộc học. Trong tưưong lai, Bảo tàng Dân tộc học
Việt Nam còn hướng tới giới thiệu, trưng bày cả về văn hóa và văn minh của các
dân tộc ở Đông Nam á và Châu á.
2. Lịch sử hình thành
Loại hình bảo tàng dân tộc học rất quan trọng và có ý nghĩa to lớn về nhiều phương
diện trên qui mô quốc gia cũng như ở từng địa phương, bởi vì Việt Nam có tới 54
dân tộc. Cho nên, ngay từ năm 1981 Nhà nước đã chủ trương hình thành một Bảo
tàng Dân tộc học đặt tại thủ đô Hà Nội. Công trình Bảo tàng Dân tộc học được
chính thức phê duyệt luận chứng kinh tế - kỹ thuật ngày 14-12-1987 và được Nhà
nước cấp đất để xây dựng: năm 1987 - 2.500m 2, năm 1988 - 9.500m2, đến năm
1990 Thủ tướng Chính phủ có quyết định giao toàn bộ 3,27 ha.
Bảo tàng bắt đầu được cấp vốn chuẩn bị đầu tư vào năm 1986. Công việc xây dựng
móng triển khai từ cuối năm 1989. Theo luận chứng kinh tế - kỹ thuật, tổng kinh
1
phí để xây dựng là 27 tỷ đồng, chưa kể khoảng 4 tỷ đồng cho việc sưu tầm hiện vật,
tư liệu và tổ chức trưng bày
Suốt nhiều năm, Ban quản lý công trình Bảo tàng và Phòng Bảo tàng là một bộ
phận của Viện Dân tộc học. Ngày 24-10-1995, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định
về việc thành lập Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (trực thuộc Trung tâm Khoa học
xã hội và nhân văn quốc gia, nay là Viện Khoa học xã hội Việt Nam).
2
Ngày 12 tháng 11 năm 1997, đúng vào
dịp Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 7 các nước có sử dụng tiếng Pháp họp tại Hà
Nội, Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình và Tổng thống Cộng hòa Pháp Jacques
Chirac đã cắt băng khai trương Bảo
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam toạ lạc bên đường Nguyễn Văn Huyên ở quận Cầu
Giấy, cách trung tâm thủ đô Hà Nội chừng 8 km. Đây vốn là vùng đất ruộng của
cư dân sở tại. Tất cả các công trình cơ sở hạ tầng đều mới được xây dựng cùng với
quá trình hình thành Bảo tàng. Đường Nguyễn Văn Huyên và đường Nguyễn
Khánh Toàn chạy qua phía trước Bảo tàng cũng đều mới được xây dựng.
Công trình Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam do kiến trúc sư Hà Đức Lịnh (người
dân tộc Tày, thuộc Công ty Xây dựng nhà ở và công trình công cộng, Bộ Xây
dựng) thiết kế. Nội thất công trình do Bà kiến trúc sư Véronique Dollfus (người
Pháp) thiết kế.
3
Trong khoảng một chục năm qua, Bảo tàng có 2 khu vực chính:
- Khu thứ nhất bao gồm nhà trưng bày, văn phòng và cơ sở nghiên cứu, thư viện, hệ
thống kho bảo quản, hệ thống các bộ phận kỹ thuật, hội trường... Các khối nhà liên
hoàn với nhau, có tổng diện tích 2.480m 2, trong đó 750 m2 dùng làm kho bảo quản
hiện vật.
-Khu thứ 2 là khu trưng bày ngoài trời, rộng khoảng 2 ha, bắt đầu xây dựng năm
1998 và hoàn thành công trình trưng bày cuối cùng trong năm 2006.
-Bên cạnh đó, hiện nay Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam được cấp thêm hơn 1 ha
đất, nâng diện tích khuôn viên của Bảo tàng lên gần 4,4 ha. Tại phần đất mở rộng
này, từ giữa năm 2007 bắt đầu xây dựng một tòa nhà 4 tầng, sẽ mang tên “nhà Cánh
diều”, để giới thiệu về văn hóa các dân tộc ngước ngoài, chủ yếu là các dân tộc ở
Đông Nam Á. Đây sẽ là khu trưng bày thứ 3 của Bảo tàng.
Mười năm đầu mở cửa, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã đón tiếp khoảng
1.200.000 lượt khách tham quan, trong đó có trên 530.000 khách quốc tế đến từ
hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ. Số du khách đến Bảo tàng ngày càng gia tăng,
năm 2007 đạt 337.000 lượt người, trong 6 tháng đầu năm 2008 – hơn 210.000 lượt
người…
Có thể nói, Bảo tàng này là một trung tâm trưng bày và lưu giữ quí giá về văn hoá
của đủ 54 dân tộc. Tính đến năm 2000 đã tích luỹ được 15.000 hiện vật, 42.000
phim (kèm ảnh màu), 2190 phim dương bản, 273 băng ghi âm các cuộc phỏng vấn,
âm nhạc, 373 băng video và 25 đĩa CDRom . Đồng thời, đây là một trung tâm
nghiên cứu dân tộc học với những chuyên gia về các dân tộc, các lĩnh vực chuyên
ngành. Người ta đến đây không chỉ để tham quan, giải trí, mà còn để tìm hiểu,
nghiên cứu về các dân tộc, các sắc thái văn hoá đa dạng và đặc sắc của từng tộc,
từng vùng cũng như những giá trị truyền thống chung của các dân tộc. Vì vậy, từ
4
nhân dân khắp các miền trong nước đến khách nước ngoài, từ học sinh, sinh viên
đến nhà khoa học đều có thể tìm thấy sự hấp dẫn ở đây.
3, Sơ đồ bảo tàng:
5
6
7
Nhà
Dao
Nhà
Nhà
HMông
Tày
Nhà mồ Cơ
Nhà Hà
tu
Nhì
Nhà mồ Gia
Khu trưng bày ngoài
rai
trời
Nhà Rông
Bana
Nhà dài
Nhà
Êđê
Chăm
Nhà
Việt
3, Loại hình bảo tàng:
-Thuộc loại hinh Bảo tàng Khoa học Xã hội- Nhân văn.
-
Khu trưng bày Đông Nam Á: Khởi công xây dựng vào năm 2008
Ngoài ra là khu vực cơ quan: cơ sở nghiên cứu, thư viện, hệ thống kho bảo quản
hiện vật...
8
II. Nội dung trưng bày của Bảo Tàng.
Tính đến năm 2000 đã tích luỹ được 15.000 hiện vật, 42.000 phim (kèm ảnh
màu), 2190 phim dương bản, 273 băng ghi âm các cuộc phỏng vấn, âm nhạc, 373
băng video và 25 đĩa CDRom . Đồng thời, đây là một trung tâm nghiên cứu dân tộc
học với những chuyên gia về các dân tộc, các lĩnh vực chuyên ngành. Người ta đến
đây không chỉ để tham quan, giải trí, mà còn để tìm hiểu, nghiên cứu về các dân
tộc, các sắc thái văn hoá đa dạng và đặc sắc của từng tộc, từng vùng cũng như
những giá trị truyền thống chung của các dân tộc. Vì vậy, từ nhân dân khắp các
miền trong nước đến khách nước ngoài, từ học sinh, sinh viên đến nhà khoa học
đều có thể tìm thấy sự hấp dẫn ở đây.
Hiện vật của BTDTHVN không phải chỉ là những cổ vật đắt tiền, mà chủ
yếu bao gồm nhiều thứ rất bình thường trong đời sống hàng ngày của người dân
như: con dao, cái gùi, chiếc khố, ống sáo, cái tẩu, tấm chiếu... Chúng phản ánh mọi
khía cạnh văn hoá vật thể và phi vật thể của cộng đồng dân cư, thể hiện tiêu biểu
mọi mặt cuộc sống và mọi sáng tạo văn hoá của họ. Bởi vậy, trong Bảo tàng này,
Trưng bày trong nhà
Bảo tàng dân tộc học Việt Nam.
bày trongđược
nhà
Bảo tàng
dân tộc
học Việtcác
Nam. tiêu chí khác
hiện vật rất phong phú, có thể hìnhTrưng
thành
nhiều sưu
tập
theo
nhau. Bảo tàng có 54 bộ sưu tập về từng dân tộc, như: về người Thái, về người
Hmông, về người Gia Rai... Phân chia theo công dụng, có các sưu tập về y phục,
các đồ trang sức, về nông cụ, về ngư cụ, về vũ khí, về đồ gia dụng, về nhạc cụ... Lại
có tập hợp riêng về các hiện vật tôn giáo-tín ngưỡng, cưới xin, ma chay hay nhiều
hoạt động tinh thần, xã hội khác. Trên cơ sở đó, Bảo tàng tổ chức trưng bày và xuất
9
bản sách ảnh theo các dạng thức sưu tập khác nhau, bổ ích và lý thú đối với mọi đối
tượng, mọi trình độ học vấn.
BTDTHVN được triển khai theo nhiều quan niệm mới phù hợpvới sự tiến bộ
khoa học và kỹ thuật. Trước hết đó là quan niệm Bảo tàng dành cho tất cả mọi
người. Quan niệm này được thể hiện trong cả kiến trúc lẫn trong kỹ thuật trưng bày.
Bảo tàng có lối đi riêng thích hợp cho thương binh hay những người khuyết tật phải
di chuyển bằng xe đẩy và có thang máy để họ lên xem tầng hai. Các bậc lên xuống
đều có tay vịn cho người già yếu tiện đi lại. Trong trưng bày, kế thừa kinh nghiệm
của nhiều bảo tàng trên thế giới, BTDTHVN đã không chọn chữ in mà chọn chữ
viết thường cho tất cả các bài viết để người xem ở các lứa tuổi có thể đọc dễ dàng
và không mỏi mắt. Các tấm pa nô cũng được treo ở tầm cao có tính toán phù hợp
với cả lứa tuổi thiếu nhi. Phần trưng bày của Bảo tàng có hiện vật, có ảnh, bài viết,
có băng hình, có các tư liệu tham khảo... mà người xem tuỳ trình độ và nhu cầu
khác nhau có thể khai thác nhiều hay ít.
Bảo tàng lấy hiện vật làm trung tâm
vì hiện vật phản ánh những sinh hoạt đời thường của nhân dân các dân tộc. Vậy nên
một quan điểm xuyên suốt là: trang trí thật đơn giản, không cầu kỳ, để người xem
có thể cảm thụ nhiều nhất cái hay, cái đẹp, cái tinh tế của mỗi hiện vật rất bình dị,
đời thường. Trong Bảo tàng không có tranh minh hoạ. Nếu cần minh chứng cho
những sinh hoạt nào đó thì Bảo tàng chỉ dùng ảnh hay băng hình phản ánh cuộc
sống thực của các dân tộc.
Phần trưng bày thường xuyên của Bảo tàng hiện nay chỉ trưng bày một số
lượng hiện vật hạn chế: gần 700 hiện vật khối và 280 ảnh. Quan điểm chủ đạo là
không tham đưa quá nhiều hiện vật vào trong các tủ trưng bày, bởi sẽ gây cảm giác
thừa ứ hoặc khó tiếp cận được một cách tập trung.
10
Phương pháp bố trí nội dung trong trưng bày của Bảo tàng là kết hợp giữa
cộng đồng ngôn ngữ và vùng lãnh thổ. Hầu hết hiện vật trưng bày là hiện vật gốc,
được lựa chọn và chủ yếu phô bày trong 97 tủ kính lớn nhỏ khác nhau: có loại tủ 1
mặt, có loại 4 mặt, có tủ chứa nhiều hiện vật, có tủ chỉ đặt 1 hoặc vài ba hiện vật.
Trong số đó, hơn 50 tủ có bài viết giới thiệu kèm theo. Mỗi hiện vật đều có phụ đề
ghi rõ tên gọi hiện vật, đồng thời cho biết dân tộc và xứ sở sản sinh ra nó. Bảo tàng
cũng sử dụng manơcanh, bản đồ, biểu đồ, sách cứng, ảnh, phim video, băng âm
thanh, một số mô hình và 33 pa nô trong trưng bày. Mặc dù diện tích không lớn,
nhưng trong nhà vẫn có một số điểm nhấn được trưng bày theo hình thức tái tạo về
một tập tục hay một nét văn hoá nào đó. Người xem có thể hiểu được nội dung tái
tạo không chỉ thông qua hệ thống hiện vật, mà còn có cả phim video nữa.
Bảo tàng chủ trương tăng cường lời giải thích để phục vụ người xem. Hơn
100 bài viết trên panô và gắn với tủ kính hoặc với tái tạo đều cố gắng cung cấp
những thông tin cần thiết và ảnh minh hoạ, nhiều pa nô có cả bản đồ. Tuy nhiên, do
hạn chế về khuôn khổ nên phải viết dưới dạng ngắn gọn và cô đọng. Với mục đích
phục vụ cả khách nước ngoài, các bài viết đó cũng như các phụ đề của hiện vật
không chỉ dùng tiếng Việt, mà còn in bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Vì vậy, dù
không cần thuyết minh viên giới thiệu, người xem vẫn có thể hiểu được đáng kể về
các phần, các tủ, các hiện vật trưng bày.
Bảo tàng cố gắng tìm các giải pháp kỹ thuật hiện đại trong phương pháp thể
hiện trưng bày như việc sử lý ánh sáng, dùng đèn chuyên dụng chiếu vào từng hiện
vật hay từng bộ phận của hiện vật làm nổi lên vẻ đẹp cần gây sự chú ý quan sát.
Trong điều kiện hiện nay, Bảo tàng đã lựa chọn phương án thông khí cho toàn bộ
khu trưng bày. Từng tủ kính đều được lắp hệ thống thông khí để đảm bảo cho hiện
vật không bị mốc.
11
Đối với khu ngoài trời, do đất hẹp nên Bảo tàng chỉ có thể dựng 9 công trình
kiến trúc dân gian cùng một số hiện vật lớn như: Nhà rông của người Ba Na, nhà
sàn dài của người Ê Đê, nhà sàn của người Tày, nhà nửa sàn nửa đất của người
Dao, nhà trệt lợp ván pơmu của người Hmông, nhà ngói của người Việt, nhà trệt
của người Chăm, nhà trình tường của người Hà Nhì, nhà mồ của người Gia Rai.
Xen giữa các công trình kiến trúc dân gian đó là cây xanh các loại, các lối đi ngoằn
ngoèo và cả con suối uốn khúc chảy suốt 4 mùa, có cầu bắc nối đôi bờ. Những
trưng bày ở phần này đang từng bước được thực hiện.
Trưng bày thường xuyên:
Trong toà nhà 2 tầng (nhà "Trống đồng"), phần lớn diện tích bố trí trưng bày
thường xuyên, bên cạnh đó có không gian để tổ chức các trưng bày chuyên đề. Bố
cục phổ biến của mỗi phần nội dung đều có trưng bày ngay bên lối đi, có các tủ
kính trưng bày chính và có tái tạo. Hiện tại, trưng bày thường xuyên trong toà nhà
này được chia làm 9 phần lớn:
1, Thông tin chung.
2, Nhóm ngôn ngữ Việt- Mường
3, Trưng bày tạm thời.
4, Nhóm ngôn ngữ Thái- Ka đai
5, Nhóm ngôn ngữ Mông- Dao
6, Nhóm ngôn ngữ Hán- Tạng
7, Nhóm ngôn ngữ Môn- Khmer
8, Nhóm ngôn ngữ Nam Đảo
9, Nhóm ngôn ngữ Chăm- Hoa- Khmer
12
Trưng bày ngoài trời:
Không gian trưng bày ngoài trời của Bảo tàng DTHVN rộng khoảng 2 ha,
giới thiệu những phong cách kiến trúc đặc trưng của một số dân tộc ở Việt Nam:
Nhà dài người Ê Đê, nhà sàn người Tày, nhà nửa sàn nửa trệt của người Dao, nhà
Tầng 1
Trưng bày trong nhà
lợp bằng gỗ pơ-mu của người Hmông, nhà mồ người Gia Rai, nhà mồ người Cơ
Tu, nhà rông người Ba Na, khuôn viên cư trú của người Chăm, nhà trình tường của
1
Trưng bày trong nhà
người Hà Nhì, khuônTầngviên
cư trú của người Việt. Phía trước
nhà người Việt có thủy
đình là nơi trình diễn múa rối nước của các phường rối đến từ những làng quê ở
Nam Định, Hải Dương, Hà Nội... Ngoài ra, cũng trong khu trưng bày này, còn có
cối giã gạo người Dao dùng sức nước, lò rèn của người Nùng, lò đúc gang của
người Hmông, ghe ngo của người Khơ Me và một số kiểu thuyền đưa về từ những
vùng miền khác nhau. Không chỉ trưng bày như sự bổ sung, tiếp nối với phần trưng
bày trong toà nhà "Trống đồng" về văn hoá và cuộc sống của các tộc người ở Việt
Nam, khu ngoài trời của Bảo tàng còn như một công viên với suối nước cùng rất
nhiều thảm cỏ, cây xanh, có những loại cây đưa về từ các địa phương và nhiều loại
cây thuốc Nam.
13
1, Nhà mồ Gia Rai:
Nhà mồ do 5 người đàn ông Gia Rai (nhóm Aráp) ở làng Mrông Ngọ, xã Ia
ka, huyện Chư Pả, tỉnh Giai Lai dựng năm 1998. Tượng trang trí quanh nhà mồ
được đẽo và tạc bằng rìu và dao. Những tượng trai gái giao hoan và phụ nữ mang
thai tượng trưng cho sự sinh sôi. Các tượng người, động vật được coi là để phục vụ
cho người chết ở thế giới bên kia. Những ché, bát đĩa, chai, chén và các mô hình
công cụ lao động làm bằng gỗ đặt bên trong nhà mồ với ý tưởng cung cấp đồ dùng
cần thiết cho cuộc sống của những người dưới mộ. Mái nhà lợp gỗ ván và được phủ
bởi một lớp phên nan tre lồ ô trên đó trang trí nhiều hình vẽ bằng phẩm màu họ tự
chế tác theo lối cổ truyền. Những hình tạc trên nóc nhà chủ yếu mô tả cảnh sinh
hoạt trong dịp lễ bỏ mả. Nhà mồ được dựng và trang trí chỉ để phục vụ cho mấy
ngày lễ hội bỏ mả (đoạn tang), sau đó sẽ hư hỏng dần theo năm tháng.
2, Nhà Tày:
14
Người Tày thích ở gần nguồn nước, thường dựng nhà bên chân núi hay ven
sông, suối. Xung quanh nhà là ruộng lúa, rừng cọ, vầu và một số loại cây lấy gỗ.
Có những bản cư dân sống tập trung khá đông đúc, nhà nọ liền nhà kia nhưng ở
nhiều bản họ lại phân tán trên diện rộng, tạo thành những chòm xóm nhỏ hay từng
nhà tương đối biệt lập. Nhà ở của từng gia đình người Tày thường nằm trong một
khuôn viên riêng với hàng rào bao bọc xung quanh và 1 hoặc 2 cổng ra vào. Hàng
rào có thể là những đoạn nứa cắm dọc sát nhau hay cắm xiên đan với nhau, hoặc là
những thanh nứa đập giập đan vào hàng cọc tre, và thường được nối cao thêm bởi
những que nứa cắm xiên, đan chéo nhau. Nhiều gia đình dựng thêm ngôi nhà phụ ở
gần nhà chính, để chứa lương thực, đặt bếp nấu cám lợn... Bên cạnh nhà ở là sàn
phơi. Mỗi nhà thường có máng nước rửa chân và một mảnh vườn trồng những loại
cây khác nhau. Ngoài ra, trong khuôn viên nhà người Tày còn dựng một miếu nhỏ
thờ thổ công. Ngôi nhà này được tái tạo năm 1999 tại Bảo tàng DTHVN, trên cơ sở
nhà của gia đình ông Đào Thế Diệm làm năm 1967 ở bản Thẩm Rộc, xã Bình Yên,
Định Hoá, Thái Nguyên. Mái nhà lợp hết 6000 tàu lá cọ.
15
3, Nhà Việt
Nhà chính, thực ra là hai ngôi nhà 5 gian, mua từ làng Phúc Thọ, xã Thọ
Lộc, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hoá dựng lại tại Bảo tàng DTHVN năm 2000.
Ngoài ra, còn có nhà ngang và nhà bếp, sân, vườn, chuồng trâu, giếng nước. Chủ
nhà trước kia là cụ bà Cố Hợi, dòng họ Lê Duy. Vùng đồng bằng Thanh Hoá hay có
bão nên nhà thường thấp. Tại làng, 2 ngôi nhà quay về hướng Nam đón gió mát.
Đặc biệt, trong khuôn viên cư trú của gia đình này, ban đầu ngôi nhà chính có 5
gian, làm năm 1906. Trong đó,gian giữa là nơi thờ cúng gia tiên, 2 gian kề bên để
tiếp khách và nghỉ ngơi gian buồng là phòng ngủ của bà chủ nhà, đồng thời là nơi
cất đặt một số đồ đạc. Nhà được làm bằng gỗ chua khét (lát khét) là loại gỗ quý ở
miền núi Thanh Hoá kết cấu 6 hàng cột với vì kèo kiểu giá chiêng, tiền kẻ hậu bẩy.
Các đồ án chạm khắc trang trí vẫn hầu như nguyên vẹn. Cây thước tầm nằm vắt
16
ngang trên 2 câu đầu, chính là bản thiết kế của người thợ mộc dân gian khi dựng
các công trình kiến trúc tre gỗ cổ truyền. Khoảng những năm 30 trong thế kỷ XX, 5
gian nhà nữa được dựng thêm, nối đốc với nhà chính. Phần nhà này, ban đầu để
chứa thóc gạo, về sau dùng làm chỗ dạy học.
4, Nhà Hmông:
Ông Thào Pháng Khày (sinh năm 1972) là chủ ngôi nhà này. Nhà do người
bố dựng năm 1984 ở bản Đề Chờ Chua A, xã Púng Luông, huyện Mù Cang Chải,
tỉnh Yên Bái. Gia đình Ông Khày gồm 4 người: hai vợ chồng và hai con. Người
Hmông Hoa chỉ ở nhà trệt. Nhà làm bằng gỗ pơmu (có thể thấy loại cây này ở đằng
sau nhà). Công việc làm nhà là của đàn ông. Dân bản thường giúp nhau dựng nhà.
Họ chỉ dùng búa và dao. Hầu hết các bộ phận được liên kết với nhau bằng dây
buộc. Một nhóm 7 người dân địa phương đã dựng lại ngôi nhà này trong 6 ngày tại
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam năm 1999.
5, Nhà rông Bana:
Ngôi nhà dựng theo nhà rông hồi nửa đầu thế kỷ XX của làng Kon Rbàng
(xã Vinh Quang, thị xã Kon Tum, tỉnh Kon Tum). Nhà rông hiện nay ở làng này là
ngôi nhà rông duy nhất ở Tây Nguyên còn giữ được hệ thống cột-xà cùng 2 cột đầu
sàn sân đã có trên 70 năm tuổi. Căn cứ vào đó, kết hợp cùng với hiểu biết dân tộc
học về nhà rông Ba Na vùng Kon Tum, đồng thời qua tìm hiểu hình ảnh tư liệu cũ
và điều tra hồi cố tại làng, Bảo tàng DTHVN cùng những người làng Kon Rbàng
cố gắng tái tạo ngôi nhà rông Kon Rbàng như khi nó chưa “hiện đại hóa”. Từ kiểu
17
dáng, kích cỡ, kết cấu đến hướng nhà đều cơ bản được giữ nguyên như ở làng.
Song, mái không lợp tôn mà lợp cỏ tranh rui không dùng gỗ xẻ vuông mà dùng gõ
tròn mặt sàn không lát gỗ ván mà trải tre đập giập bổ banh vách không trát đất và
quét vôi mà dùng phên nứa sân sàn không phải bằng bê-tông mà bằng gỗ, với các
thang lên xuống đều bằng gỗ tròn. Gỗ, tre, nứa, dây mây và cỏ tranh dùng làm nhà
đều là những vật liệu Tây Nguyên. Những cây cột lớn nhất có đường kính 60cm.
Những cây đòn tay hay xà dọc dài suốt chiều dài nhà, khoảng 14-15m. Ngôi nhà
thuộc kiểu nhà rông mái cao, chiều cao gần 19m (kể cả dải hoa văn trên nóc), mỗi
mái chính cao khoảng 13m, mặt sàn cao gần 3m và rộng hơn 90m2 (không kể phần
sân sàn), có 4 thang lên xuống. Tiếp theo đợt làm việc đầu năm 2002, từ ngày 26-32003, 29 người Ba Na từ làng Kon Rbàng được Bảo tàng DTHVN mời đến bắt đầu
làm mộc. Ngày 26-4, các vì cột đã được dựng lên. Sau đó các phần việc khác lần
lượt được thực hiện: lắp dựng đầy đủ hệ thống khung cột, sân sàn, dựng giàn giáo,
lắp ráp hệ thống rui, đòn nóc, đòn tay, các bộ phận chống và giằng cho khung mái,
đặt mè mái để lợp, đan tấm phên phủ nóc... Ngày 4-6-2003, ngôi nhà rông của
người Ba Na làng Kon Rbàng đã hoàn thành. Công chúng đến Bảo tàng DTHVN
được chiêm ngưỡng thêm một nét văn hóa cổ truyền đặc sắc Tây Nguyên tại Hà
Nội và thấy khâm phục người dân làng Kon Rbàng tạo dựng công trình kiến trúc
dân gian Ba Na công phu, bề thế, hoành tráng này. Công trình được Bộ ngoại giao
Cộng hòa Liên bang Đức (thông qua Đại sứ quán Đức tại Hà Nội) tài trợ phần lớn
kinh phí.
6, Nhà Hà Nhì:
Ngôi nhà này được làm theo mẫu nhà của anh Tráng A Lù, người Hà Nhì ở
thôn Lao Chải 1, xã Y Tý, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai. Tráng A Lù là con thứ 6,
cũng là con út trong gia đình. Anh cưới vợ năm 1986, đến năm 1987 sinh con đầu
lòng và được cha mẹ làm nhà cho ra ở riêng năm 1988. Hiện nay, gia đình anh có 5
18
người, gồm hai vợ chồng và 3 con trai. Các con của anh đều đã lớn, nhưng chưa có
gia đình riêng nên vẫn ở cùng cha mẹ. Anh Lù dự định dành gian buồng bên trái
cho vợ chồng người con trai cả. Những người con thứ, sau khi lấy vợ, sinh con
cũng sẽ được anh làm nhà và cho ra ở riêng. ''Nhà là nơi ở của vợ chồng, con cái,
cháu chắt và cũng là chỗ đi về của tổ tiên, cha mẹ mình. Đi đâu, làm gì, cũng nhớ
nhà nhất. Có được cái nhà rồi, mới yên tâm làm ăn. Sau khi lấy vợ, đời người quan
trọng nhất là làm được cái nhà''. (Tráng A Lù, 38 tuổi, thôn Lao Chải 1, Y Tý, Bát
Xát, Lào Cai).
7, Nhà Dao:
Ngôi nhà nửa sàn đất này được ông Bàn Văn Sấm (sinh năm 1946) và 7
người Dao ở thôn Khe Mụ, xã Sơn Hà, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai đến dựng
tại Bảo tàng DTHVN năm 1999 theo kiểu ngôi nhà hiện thời của ông Sấm. Nhà
chia làm hai phần: phần nền đất là nơi đặt bàn thờ tổ tiên, bếp, khung cửi và là chỗ
tiếp khách phần sàn, lát bằng những cây bương bổ đôi đập giập, là giường ngủ của
gia đình, cũng là nơi ăn uống khi nhà có đám. ''''Phần sàn này rất quan trọng.
Thường khi dựng xong 4 cột cái thì người ta bắc sàn để lấy thăng bằng cho ngôi
nhà. Đây là việc làm khó và mất nhiều thời gian nhất''''. Cột nhà làm bằng lõi cây
gỗ thọ, loại cây không bị mối mọt. Ngôi nhà này có sử dụng một số cột đã được
dân bản dựng vài chục năm, có cột đã qua 60-70 năm. Mái nhà lợp bằng nứa bổ
đôi, 5 hay 6 năm sau phải lợp lại một lần. ''''Trước đây, người Dao sống ở rừng già,
nứa rất nhiều, dễ kiếm nứa to để lợp mái. Ngày nay, rừng già không còn nữa, nứa
ngày một khan hiếm, cỏ gianh mọc rất nhiều trên nương nên từ khoảng 20-30 năm
trước chúng tôi dần dần chuyển sang lợp bằng cỏ gianh. Nay nhiều nhà bắt đầu lợp
bằng ngói'''' (ông Bàn Văn Sang, dân bản).
8, Nhà dài Ê Đê:
19
Ngôi nhà này dài 42,50m, sàn cao 1,10m và rộng 6m, từ sàn lên nóc 4,30m.
Nó được dựng lại trên cơ sở nhà bà HĐách Êban làm năm 1967 ở buôn Ky, phường
Thành Nhất, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắc Lắc. Xưa kia, vùng Ê Đê có nhà
dài tới trên dưới 200m. Gia đình càng giàu, đông người và có thế lực thì nhà càng
dài, càng đẹp. Những năm 70 của thế kỷ XX, còn thấy những ngôi nhà dài 50-60m.
Từ những năm 80, quá trình giải thể nhà dài diễn ra nhanh chóng và rộng khắp.
Theo truyền thống, nhà ở trong làng đều quay một đầu hồi về hướng Bắc. Đó là
dằng đầu nhà, nơi có sân sàn rộng và có cửa ra vào chính. Còn cửa đối diện ở cuối
nhà chủ yếu dành cho phụ nữ qua lại. Khi nằm trong nhà phải quay đầu về hướng
Đông, chân duỗi về hướng Tây.
9, Nhà Chăm:
Thang lâm là tên gọi ngôi nhà quan trọng nhất trong 5 ngôi nhà ở của một
khuôn viên gia đình người Chăm. Đây là nơi ngủ của vợ chồng gia chủ, nơi để các
20
tài sản quý, nơi tiếp khách của gia đình. Thang lâm thường làm bằng các loại gỗ tốt
như cẩm xe (tapah), gõ (akuh), gáo vàng (bărmưh)... Thang lâm có sàn lát bằng
ván, có 2 lớp mái: mái dưới trát bùn trộn rơm và mái trên lợp bằng ngói hoặc cỏ
tranh (agăk ralang). Nhà quay về phía nam. Ngôi nhà này vốn ở thôn Trường Thọ,
xã Phước Hậu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Nhà được làm từ khoảng 100
năm trước, đã trải qua 5 thế hệ, kể từ ông Dương Tấn Phát (một quan huyện ở Ninh
Phước). Từ sau năm 1964, do lũ lụt, cả làng Chăm chuyển đi nơi khác nên ngôi nhà
được nhượng lại cho một gia đình người Kinh. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam đã
mua lại ngôi nhà này. Sau gần 2 tháng thi công, 14 thợ người Chăm do ông Kiều
Khai và ông Sử Văn Ngọc chủ trì đã dựng lại ngôi nhà tại Bảo tàng. Đây là một
trong 4 ngôi nhà thang lâm cổ còn lại ở tỉnh Ninh Thuận và hầu như còn giữ
nguyên những nét đặc trưng nhà thang lâm truyền thống của người Chăm.
Trưng bày trong nhà
21
Trước tiên người xem có thể tiếp cận ngay với một panô có nhan đề: "Việt Nam Những chặng đường lịch sử văn hoá", qua đó có được thông tin về các thời kỳ lịch
sử của đất nước, sự hội nhập của các dân tộc và các nền văn hoá - văn minh vào
Việt Nam.
Một tấm bản đồ lớn in màu chỉ ra sự phân bố các dân tộc ở Việt Nam theo các
nhóm ngôn ngữ, đồng thời có 3 mặt cắt ở các vị trí Bắc, Trung, Nam để thấy được
đặc điểm cư trú theo độ cao.
Bên cạnh đó, có 5 panô giới thiệu chân dung người của 54 dân tộc được sắp xếp
theo 5 ngữ hệ: Nam Á, Nam Đảo, Hmông - Dao, Thái - Ka Đai, Hán - Tạng.
-Nhóm ngôn ngữ Việt Mường:
Ngay bên lối vào phòng trung bày này có panô giới thiệu một số thông tin
chung nhất về dân tộc Việt cùng với ảnh và bản đồ. Một không gian rộng rãi, sáng
22
sủa và đầy ấn tượng dành cho việc tái tạo quá trình làm nón và hoạt động của
người đan đó. Nón là một vật dụng gắn bó sâu sắc với người phụ nữ từ lâu đời.
Nghề làm nón ở làng Chuông cũng như nghề đan đó ở làng Thủ Sỹ được tái tạo
không chỉ thể hiện sự tinh tế, khéo léo, cần mẫn trong các nghề thủ công này mà
còn chứng minh làng ở đồng bằng Bắc Bộ từ lâu đã có mối quan hệ kinh tế và xã
hội rộng rãi trong việc làm ra sản phẩm cũng như tiêu thụ sản phẩm. Cảnh làm nón
và chợ bán nón, cảnh làm đó và vận chuyển đó đi bán được thể hiện trên màn hình.
Một số nét văn hoá cổ truyền người Việt được giới thiệu trong 11 tủ kính trưng bày
với các chủ đề: Múa rối nước, nhạc cụ, tín ngưỡng thờ Mẫu, các đồ chơi dân gian
của trẻ em, thờ Tổ nghề hát bội. Một số nghề thủ công tiêu biểu như nghề đúc
đồng, chạm khắc gỗ, nghề sơn, nghề làm tranh Đông Hồ... được giới thiệu trong
các tủ kính. Người xem vừa được thấy một số sản phẩm của nghề thủ công, vừa
được biết công cụ, dụng cụ và quy trình sản xuất ra các sản phẩm ấy. Thờ cúng tổ
tiên, nét văn hoá tiêu biểu của người Việt được thể hiện qua trưng bày bàn thờ tổ
tiên ở một gia đình nông dân.
+Dân tộc Việt:
Người Việt (Kinh) chiếm khoảng 87% dân số toàn quốc. Họ sinh sống trên khắp
cả nước song tập trung ở đồng bằng, trung du và ven biển. Tổ tiên của dân cư Việt
- Mường đã hình thành Nhà nước đầu tiên của mình vào khoảng đầu thiên niên kỷ
thứ I trước Công nguyên. Người Việt luôn là trung tâm liên kết các dân tộc anh em
để cùng dựng nước và giữ nước. Làng là đơn vị cư trú cơ bản, nơi sản xuất nông
phẩm, làm thủ công nghiệp và buôn bán nhỏ. Làng xã được tổ chức chặt chẽ với bộ
máy quản lý theo lệ tục. Làng thường có đền thờ Thành hoàng và các danh nhân
văn hoá, lịch sử... Làng là một cơ cấu duy trì cơ cấu xã hội và văn hoá truyền
23
thống. Đô thị xuất hiện sớm và ngày càng phát triển, trở thành các trung tâm chính
trị, kinh tế, văn hoá. Người Việt sớm chọn lọc để tiếp thu văn hoá Trung Hoa, Ấn
Độ và văn hoá phương Tây đồng thời bảo tồn, phát triển tiếng nói và những tinh
hoa văn hoá của dân tộc. Chữ Hán, chữ Nôm và Quốc ngữ đã lần lượt giữ vai trò
quan trọng trong lịch sử phát triển văn hoá quốc gia. Một không gian rộng rãi, sáng
sủa và đầy ấn tượng dành cho việc tái tạo quá trình làm nón và hoạt động của
người đan đó. Nón là một vật dụng gắn bó sâu sắc với người phụ nữ từ lâu đời.
Nghề làm nón ở làng Chuông cũng như nghề đan đó ở làng Thủ Sỹ được tái tạo
không chỉ thể hiện sự tinh tế, khéo léo, cần mẫn trong các nghề thủ công này mà
còn chứng minh làng ở đồng bằng Bắc Bộ từ lâu đã có mối quan hệ kinh tế và xã
hội rộng rãi trong việc làm ra sản phẩm cũng như tiêu thụ sản phẩm. Cảnh làm nón
và chợ bán nón, cảnh làm đó và vận chuyển đó đi bán được thể hiện trên màn hình.
Một số nét văn hoá cổ truyền người Việt được giới thiệu trong 11 tủ kính trưng bày
với các chủ đề: Múa rối nước, nhạc cụ, tín ngưỡng thờ Mẫu, các đồ chơi dân gian
của trẻ em, thờ Tổ nghề hát bội. Một số nghề thủ công tiêu biểu như nghề đúc
đồng, chạm khắc gỗ, nghề sơn, nghề làm tranh Đông Hồ... được giới thiệu trong
các tủ kính. Người xem vừa được thấy một số sản phẩm của nghề thủ công, vừa
được biết công cụ, dụng cụ và quy trình sản xuất ra các sản phẩm ấy. Thờ cúng tổ
tiên, nét văn hoá tiêu biểu của người Việt được thể hiện qua trưng bày bàn thờ tổ
tiên ở một gia đình nông dân.
+Dân tộc thổ
Người Thổ là một cộng đồng thuộc các nhóm Kẹo, Mọn, Cuối, Họ, Đan Lai - Ly
Hà, Tày Poọng. Dân số khoảng 51.000 người. Họ cư trú ở miền Tây tỉnh Nghệ An
(thuộc các huyện Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, Con Cuông, Tương Dương) và Thanh Hoá.
Tuỳ từng nơi, họ sống chủ yếu bằng nương rẫy hay bằng ruộng nước. Cây gai đóng
vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế. Các hình thức săn bắn bằng lưới gai được
sử dụng một cách phổ biến. Người Thổ ở nhà sàn hoặc nhà trệt. Họ không làm
nghề dệt, thường đem các sản phẩm từ gai đổi lấy vải hoặc quần áo may sẵn. Nam
giới ăn vận như nông dân người Việt. Còn nữ giới thì ở mỗi nhóm lại có một kiểu
trang phục riêng do ảnh hưởng của những dân tộc cận cư. Đồ dùng trong nhà
thường đơn giản. Nhà nào cũng có võng gai và chiếc cối gỗ hình thuyền.
+Dân tộc Chứt
Cộng đồng Chứt gồm có 5 nhóm: Sách, Mày, Rục, A-rem, Mã Liềng. Dân số
khoảng 3.000 người. Họ cư trú rải rác trong các thung lũng hẹp của dải Trường
Sơn thuộc các huyện Minh Hoá, Tuyên Hoá, Bố Trạch (Quảng Bình), một số ít ở
Hương Khê (Hà Tĩnh). Họ vốn là cư dân nông nghiệp nhưng do bị phân tán thành
từng nhóm nhỏ, sống gần như tách biệt nhau nên sinh hoạt kinh tế và trình độ phát
triển giữa các nhóm có sự chênh lệch. Người Sách sống ở vùng thấp, ngoài nương
rẫy còn có ruộng nước, ruộng khô, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Nhà cửa của họ
vững chãi, làng bản tập trung. Các nhóm khác đều ở vùng cao, trước kia sống dựa
24
vào săn bắt và hái lượm những sản phẩm của núi rừng, đặc biệt là thịt Khỉ và bột
cây Nhúc. Họ cư trú phân tán, nhà ở tạm bợ. Cách đây không lâu còn có những gia
đình thuộc nhóm Rục sống trong các mái đá và hang động.
+dân tộc Mường:
Với dân số hơn 900.000 người, dân tộc Mường phân bố chủ yếu ở tỉnh Hoà Bình
(trong đó nổi tiếng là 4 mường: Bi, Vang, Thành, Động) và các tỉnh Thanh Hoá,
Phú Thọ, Sơn La. Người Mường làm ruộng nước trong các thung lũng với trình độ
canh tác khá cao. Ngoài ra, họ còn chăn nuôi gia súc, gia cầm, săn bắn, đánh cá,
hái lượm và làm thủ công nghiệp. Làng xóm định cư ở chân núi, bên sườn đồi, gần
sông suối. Chế độ nhà Lang theo hình thức thế tập là tổ chức xã hội truyền thống
trước đây. Mỗi dòng họ lãnh chúa (Đinh, Quách, Bạch, Hà, Hoàng...) đều có luật lệ
riêng để chi phối các bản mường thuộc phạm vi cai quản của mình.
Người Mường có kho tàng văn học dân gian phong phú với những trường ca,
truyện thơ nổi tiếng như Út Lót - Hồ Liêu, Nàng Nga - Hai Mối..., có làn điệu Xéc
Bùa, hát Ví và những điệu dân vũ đặc sắc như múa Bông, múa Quạt, múa Sạp...
Tầng hai:
Sơ đồ khu trưng bày trong nhà( tầng
-Chăm, Hoa, KhơMe:
Người Chăm thuộc ngữ hệ Nam Đảo, người Hoa nói ngôn ngữ Hán người Khơ Me
thuộc ngữ hệ Nam Á. Mỗi dân tộc được giới thiệu trên 1 panô riêng và có thêm 1
panô thứ tư về kiến trúc chùa tháp và đạo Phật Tiểu thừa. Một số nét văn hoá của
mỗi dân tộc được giới thiệu thích hợp. Với người Chăm là tôn giáo, nghề dệt, nghề
gốm, hình thức vận chuyển bằng xe bò... Với người Hoa là đám cưới, hội múa
25