MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài luận văn
Thanh tra có vai trò quan trọng trong quản lý nhà nước. Qua các giai đoạn
phát triển, tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra không ngừng được hoàn
thiện. Cùng với đó các quy định pháp luật về những nội dung liên quan đến hoạt
động nghiệp vụ thanh tra cũng được hoàn thiện hơn. Trong thời kỳ mới, những
kỹ năng nghiệp vụ đối với cán bộ thanh tra đòi hỏi ngày càng phải được nâng
cao, trong đó có những kỹ năng liên quan đến thẩm tra, xác minh.
Hiện nay, các quy định về thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra
được quy định ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của
ngành thanh tra như: Luật Thanh tra 2010; Nghị định 86/2011/NĐ-CP quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh tra; Luật Khiếu nại
2011, Luật Tố cáo 2011; các Thông tư hướng dẫn quy trình nghiệp vụ thanh tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo….Tuy nhiên, trên thực tế, thì thẩm tra, xác minh
trong hoạt động thanh tra được thực hiện vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, vướng
mắc như: Quy định về nghiệp vụ thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra
được quy định tản mát trong nhiều văn bản; phạm vi, nội dung thẩm tra xác
minh rộng, liên quan đến lĩnh vực thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo; các
chương trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ thẩm tra, xác minh cho đội ngũ cán
bộ thanh tra hiện nay cũng còn nhiều hạn chế. Chính những lý do đó dẫn đến
hoạt động thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra trong nhiều trường hợp
không bảo đảm được tính khách quan, tính chính xác, tính toàn diện, làm cho
hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, chất lượng hoạt động giải quyết khiếu nại,
tố cáo còn nhiều hạn chế.
Để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động thanh tra cần phải nghiên cứu
một cách thấu đáo, làm sáng tỏ những nội dung liên quan đến thẩm tra, xác minh
trong hoạt động thanh tra. Đặc biệt là cần phải nghiên cứu thực tiễn hoạt động
1
này từ thanh tra của một tỉnh – nơi mà phạm vi hoạt động thanh tra bao trùm trên
các lĩnh vực.
Với những lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Thẩm tra, xác minh trong hoạt
động thanh tra - từ thực tiễn Thanh tra ” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Thanh tra là một giai đoạn quan trọng trong chu trình quản lý nhà nước, là
phương thức bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, tăng cường kỷ luật và nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Công tác thanh tra nói chung và hoạt động
thẩm tra, xác minh nói riêng trong thời gian qua đã nhận được sự quan tâm
nghiên cứu của các nhà khoa học. Đã có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu
liên quan đến lĩnh vực tổ chức và hoạt động của ngành thanh tra, đặc biệt là các
đề tài của Thanh tra Chính Phủ; tiêu biểu có công trình nghiên cứu của các tác
giả: Hoàng Quốc Hùng, "Nghiệp vụ xác minh trong công tác thanh tra Tư pháp",
Trang thông tin hướng dẫn nghiệp vụ của Bộ Tư pháp; Đặng Xuân Thao – chủ
nhiệm đề tài, "Hoạt động thu thập, thẩm tra, xác minh chứng cứ trong giải quyết
khiếu nại", Đặng Xuân Thao – chủ nhiệm đề tài, “Hoạt động thu thập thẩm tra,
xác minh chứng cứ trong giải quyết khiếu nại”.
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu đó chủ yếu tập trung nghiên cứu
về tổ chức và hoạt động của ngành Thanh tra. Một số công trình đã phân tích sâu
về quy trình, nghiệp vụ trong hoạt động thanh tra và hoạt động giải quyết khiếu
nại, tố cáo nhưng chưa có một nghiên cứu chuyên biệt nào nghiên cứu toàn diện,
cơ bản về nội dung thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra.
Luận văn của tác giả nghiên cứu không trùng lắp với các công trình đã
được nghiên cứu trước đó. Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về hoạt
động thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra từ thực tiễn Thanh tra . Trên
cơ sở đi sâu nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn và đánh giá thực trạng hoạt động
thẩm tra, xác minh trong thực hiện thanh tra của Thanh tra , nhằm góp phần bổ
2
sung cơ sở lý luận và thực tiễn làm căn cứ cho việc hoàn thiện cơ chế thẩm tra,
xác minh; xác định đầy đủ nội dung, thẩm quyền, trình tự cũng như phương thức
tổ chức thẩm tra, xác minh; đề xuất các giải pháp cụ thể góp phần nâng cao chất
lượng hoạt động thẩm tra, xác minh trong thực hiện thanh tra.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
-
Mục đích nghiên cứu của đề tài “Thẩm tra, xác minh trong hoạt
động thanh tra - từ thực tiễn Thanh tra ” nhằm làm sáng tỏ những vấn đề
lý luận cơ bản về thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra hiện nay;
đánh giá đúng đắn hoạt động thẩm tra, xác minh từ thực tiễn hoạt động
thanh tra của Thanh tra tỉnh; chỉ ra những thuận lợi cũng như khó khăn,
vướng mắc khi thực hiện các hoạt động nghiệp vụ này. Thông qua những
nhận định về nguyên nhân, luận văn đưa ra những giải pháp để nâng cao
hiệu quả hoạt động thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra.
-
Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Luận văn làm rõ những vấn đề cơ bản về thẩm tra, xác minh trong hoạt
động thanh tra như: Quan niệm; mục đích; vai trò; chủ thể; trình tự thủ tục…
hoạt động thẩm tra, xác minh.
+ Luận văn đánh giá đúng đắn thực trạng quy định của pháp luật và việc
thực hiện pháp luật về thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra, đặc biệt là
đánh giá từ thực tiễn hoạt động thẩm tra, xác minh trong quá trình tiến hành hoạt
động thanh tra của Thanh tra , chỉ ra những kết quả đạt được, những thuận lợi,
khó khăn và nguyên nhân dẫn đến những khó khăn đó.
+ Luận văn đưa ra những giải pháp cơ bản, tổng thể để nâng cao chất
lượng thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra. Từ đó góp phần nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra và công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo
hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm:
3
Hoạt động thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra của Thanh tra
thực hiện tập trung vào các quy định pháp luật và việc thực hiện pháp luật liên
quan đến chủ thể, quy trình, thủ tục, phương pháp thẩm tra, xác minh mà cán bộ
tiến hành thanh tra phải thực hiện.
- Phạm vi nghiên cứu:
Hoạt động thanh tra từ thực tiễn Thanh tra tỉnh được hiểu theo nghĩa rộng
là hoạt động của cơ quan thanh tra, không chỉ giới hạn trong việc tiến hành các
cuộc thanh tra mà còn bao gồm cả các hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo. Vì
vậy, luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu ở hoạt động thẩm tra, xác minh trong
thanh tra từ thực tiễn Thanh tra từ năm 2013 đến nay, tập trung vào hoạt động
thẩm tra, xác minh trong hoạt động tiến hành các cuộc thanh tra và trong hoạt
động giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Phạm vi nghiên cứu giới hạn từ năm 2013 đến nay bởi đây là giai đoạn
thực hiện Luật Thanh tra 2010, Luật Khiếu nại 2011, Luật Tố cáo 2011. Đồng
thời sau khi có ba luật này thì bắt đầu có hệ thống các Nghị định hướng dẫn của
Chính Phủ, có các Thông tư của Thanh tra Chính Phủ: Thông tư số
05/2014/TTTTCP quy định về tổ chức, hoạt động, quan hệ công tác của Đoàn
thanh tra và trình tự, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra; Thông tư số
06/2013/TT-TTCP quy định quy trình giải quyết tố cáo; Thông tư số
07/2013/TT-TTCP quy định quy trình giải quyết khiếu nại hành chính.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận:
Để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra của đề tài, luận văn nghiên cứu dựa trên
cơ sở phương pháp luận về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng cộng sản Việt
Nam gắn với Chiến lược phát triển ngành thanh tra về công tác thanh tra, kiểm
tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong giai đoạn hiện nay.
- Phương pháp nghiên cứu:
4
Trong Chương 1, để làm rõ những vấn đề lý luận về hoạt động thẩm tra,
xác minh trong hoạt động thanh tra, Luận văn sử dụng phương pháp phân tích,
tổng hợp nhằm làm rõ thêm khái niệm, mục đích, yêu cầu, chủ thể, các phương
pháp thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra.
Trong Chương 2, để làm rõ thực tiễn hoạt động thẩm tra, xác minh, Luận
văn sử dụng phương pháp đánh giá, đối chiếu, phân tích, tổng hợp, so sánh,
thống kê, bình luận, diễn giải, tổng hợp…để đánh giá đúng đắn những kết quả
đạt được, những tồn tại, hạn chế đang gặp phải và nguyên nhân dẫn đến những
tồn tại, hạn chế trong hoạt động thanh tra từ thực tiễn Thanh tra hiện nay.
Trong Chương 3, Tác giả dùng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh,
phương pháp cấu trúc hệ thống để đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả
thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra.
Đồng thời, tác giả kết hợp lý luận và thực tiễn, đối chiếu để làm nổi bật
những vấn đề hiện tại với nội dung thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra.
Việc kết hợp các phương pháp nghiên cứu, xem xét các vấn đề lý luận gắn với
thực tiễn cho phép nhìn nhận, đánh giá vấn đề một cách toàn diện, khách quan
trong các mối quan hệ qua lại, gắn bó, tác động với nhau trong những hoàn cảnh,
điều kiện cụ thể nhất định đối với vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
-
Từ việc nghiên cứu và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về thẩm tra,
xác minh trong hoạt động thanh tra như quan niệm, vai trò, chủ thể, trình tự, thủ
tục…Luận văn đánh giá đúng đắn thực trạng thẩm tra, xác minh trong hoạt động
thanh tra từ thực tiễn Thanh tra ; đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra thì kết quả nghiên cứu chung
của Luận văn sẽ góp phần hoàn thiện cơ sở khoa học để phục vụ cho việc hoàn
thiện pháp luật về thanh tra, nhất là các quy định về nghiệp vụ thanh tra; bảo
đảm cho các hoạt động thẩm tra, xác minh được thực hiện tốt, đầy đủ, nghiêm
chỉnh trên địa bản cả nước nói chung và Thanh tra nói riêng.
5
-
Luận văn còn là tài liệu tham khảo cho những người làm công tác nghiên
cứu, cán bộ thanh tra, sinh viên, học viên…và những người quan tâm đến hoạt
động thẩm tra, xác minh trong thực hiện thanh tra hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra;
Chương 2: Thực trạng thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra từ
thực tiễn Thanh tra ;
Chương 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thẩm tra, xác minh
trong hoạt động thanh tra.
6
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THẨM TRA, XÁC MINH TRONG HOẠT
ĐỘNG THANH TRA
1.1. Quan niệm về hoạt động thanh tra và thẩm tra, xác minh trong
hoạt động thanh tra
1.1.1. Quan niệm chung về hoạt động thanh tra
Có nhiều quan niệm khác nhau về Thanh tra, theo từ điển tiếng Việt thì
“thanh tra” được hiểu là “kiểm soát, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ
quan, xí nghiệp”; Theo Từ điển pháp luật Anh – Việt, thanh tra là “sự kiểm soát,
kiểm kê đối với đối tượng bị thanh tra”; Theo Từ điển Luật học, thanh tra “là sự
tác động của chủ thể đến đối tượng đã và đang thực hiện thẩm quyền được giao
nhằm đạt được mục đích nhất định”.
Thuật ngữ “Thanh tra” hiểu một cách chung nhất là việc xem xét tại chỗ
các hoạt động của đối tượng thanh tra nhằm xác minh và xử lý đối với những vi
phạm của đối tượng này. Với vai trò là công cụ của quản lý nhà nước, mục đích
chính của thanh tra là tham mưu cho chủ thể quản lý nhà nước kiểm soát việc
chấp hành pháp luật của đối tượng quản lý (đối tượng quản lý cũng chính là đối
tượng của thanh tra). Ngoài việc phát hiện ra những sai phạm để xử lý thông qua
công tác thanh tra, chủ thể quản lý nhà nước còn kịp thời điều chỉnh, khắc phục
hoàn thiện cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật. Do đó, thanh tra là một chức
năng thiết yếu của hoạt động quản lý nhà nước, là một giai đoạn của chu trình
quản lý, là công cụ hữu hiệu cho cơ quan quản lý nhà nước quản lý tất cả các
mặt đời sống xã hội, ở đâu có quản lý nhà nước thì ở đó cần hoạt động thanh tra,
quản lý nhà nước sẽ không đạt hiệu quả nếu tách biệt với hoạt động thanh tra.
Hiện nay, theo Khoản 1 điều 3 Luật Thanh tra 2010: “Thanh tra nhà nước
là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật,
7
nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Theo quy định của Luật
Thanh tra 2010, có 2 loại hình hoạt động thanh tra, đó là thanh tra hành chính và
thanh tra chuyên ngành. Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc
thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Thanh tra
chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo
ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật
chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành,
lĩnh vực đó.
Quy định trên đây trong Luật Thanh tra năm 2010 là quy định về “Thanh
tra nhà nước”, từ góc độ hoạt động thanh tra là hoạt động của cơ quan thanh tra
thì hoạt động thanh tra bao gồm:
- Thứ nhất, tiến hành các cuộc thanh tra kinh tế xã hội.
- Thứ hai, thực hiện nhiệm vụ trong quá trình giải quyết khiếu nại.
- Thứ ba, thực hiện nhiệm vụ trong quá trình giải quyết tố cáo.
Sở dĩ quan niệm hoạt động thanh tra bao gồm cả việc thực hiện nhiệm vụ
giải quyết khiếu nại, tố cáo vì thực tế trong các cơ quan thanh tra cũng tiến hành
các cuộc thanh tra giải quyết khiếu nại, tố cáo. Trong các cuộc thanh tra đó, các
chủ thể có thẩm quyền phải tiến hành các hoạt động thẩm tra, xác minh theo quy
định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Đặc điểm của hoạt động thanh tra:
Thứ nhất, hoạt động thanh tra của cơ quan thanh tra là hoạt động mang
tính quyền lực nhà nước: Trong lĩnh vực hành pháp, chủ thể tiến hành hoạt động
thanh tra luôn là các cơ quan nhà nước được trao quyền lực nhà nước; có quyền
ra quyết định bắt buộc thực hiện đối với đối tượng thanh tra; có quyền kiến nghị
cấp có thẩm quyền giải quyết các vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra, đề
nghị truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những người vi phạm pháp luật; trong
những trường hợp cần thiết và được pháp luật quy định, trực tiếp áp dụng các
8
biện pháp cưỡng chế (thu hồi, hủy hàng giả, hàng nhái, băng đĩa lậu…).
Thứ hai, hoạt động thanh tra của cơ quan thanh tra phải bảo đảm tính
khách quan: Hoạt động thanh tra luôn đòi hỏi phải xem xét, đánh giá một cách
khách quan việc thực hiện chính sách pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân, các tài liệu, chứng cứ thu thập được nhằm đưa
ra kết luận đúng, sai, đánh giá ưu, khuyết điểm, phát huy nhân tố tích cực, phòng
ngừa và xử lý vi phạm, góp phần bảo vệ lợi ích của nhà nước, xã hội, các quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân. Hoạt động thanh tra dựa trên cơ sở pháp luật
và đều tuân thủ pháp luật. Thanh tra phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về
hành vi và quyết định của mình.
Thứ ba, hoạt động thanh tra của cơ quan thanh tra phải bảo đảm tính độc
lập tương đối: Thanh tra có bộ máy riêng, có nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định
của pháp luật thanh tra, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp
luật.
Thứ tư, thanh tra luôn gắn với quản lý nhà nước: Thanh tra là một giai
đoạn của chu trình quản lý, nhằm phát hiện những sở hở trong cơ chế quản lý, sơ
hở trong chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
các biện pháp để khắc phục; nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi
phạm pháp luật giúp các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng các quy định
của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, các nhân.
1.1.2. Quan niệm về thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra
Thẩm tra là “điều tra, xem xét lại có đúng, có chính xác không một vấn
đề, một sự việc nào đó” (Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2000, trang 922).
Xác minh là “làm cho rõ sự thật qua thực tế và chứng cứ cụ thể” (Từ điển
Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2000, trang 1140).
9
Thẩm tra, xác minh trong hoạt động của cơ quan thanh tra gắn liền với
hoạt động cụ thể, chủ yếu là thẩm tra, xác minh các loại thông tin, tài liệu.
Tài liệu ở đây được hiểu một cách chung nhất là những vật mang tin được
hình thành trong quá trình hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân, bao gồm:
Văn bản, dự án, bản vẽ thiết kế, bản đồ, công trình nghiên cứu, sổ sách, biểu
thống kê, âm bản, dương bản phim, ảnh, vi phim; tài liệu điện tử; bản thảo tác
phẩm văn học, nghệ thuật; sổ công tác, nhật ký, hồi kỳ, bút tích, tài liệu viết tay;
tranh vẽ hoặc in; ấn phẩm và vật mang tin khác.
Hoạt động thẩm tra thông tin, tài liệu có thể coi là quá trình tìm hiểu, xem
xét lại tài liệu để xác định tính chính xác và hợp pháp của thông tin, tài liệu với
những hoạt động cụ thể như sau:
-
Nghiên cứu, phân tích từng tài liệu, xem xét nó có phù hợp với thực tế
không;
-
So sánh đối chiếu các tài liệu xem có phù hợp nội dung, vụ việc cần giải
quyết không, nếu mâu thuẫn thì do đâu;
-
Sàng lọc, loại bỏ những thông tin, tài liệu không liên quan và tìm những
thông tin, tài liệu mới làm sáng tỏ những thông tin, tài liệu đã thu thập được; Xác định nguồn thông tin, tài liệu.
Thẩm tra trong thanh tra mà cụ thể là thẩm tra thông tin, tài liệu là hoạt
động do các chủ thể có thẩm quyền trong cơ quan thanh tra tiến hành để kiểm tra
lại tính xác thực của thông tin, tài liệu đã thu được nhằm loại bỏ những tài liệu
giả hoặc không cần thiết cho việc kết luận các nội dung của cuộc thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo. Để tiến hành công việc này, cán bộ thanh tra phải có linh
cảm, phân tích các hiện tượng một cách có hệ thống để phát hiện ra các sai phạm
trong hoạt động được phản ánh trong những tài liệu đã thu thập được, đôi khi
phải hết sức nhạy bén để phát hiện những điểm bất hợp lý (như các trường hợp
lập ra các chứng từ, hoá đơn, hợp đồng giả, hạch toán lắt léo, phân bổ chi phí sai
nguyên tắc…) trên cơ sở đó chọn ra tài liệu điển hình nhất.
10
Xác minh trong hoạt động thanh tra mà cụ thể là xác minh thông tin, tài
liệu là làm sáng tỏ những nghi vấn về tính khách quan, liên quan và hợp pháp
của thông tin, tài liệu. Đó là quá trình tìm hiểu, thu thập, kiểm tra các thông tin,
tài liệu, thông tin, tài liệu từ những sự việc, hiện tượng xảy ra trong thực tế cuộc
sống bằng những cách khác nhau để làm sáng tỏ sự thật khách quan. Trong hoạt
động thanh tra, xác minh là một biện pháp nghiệp vụ, được thực hiện nhằm mục
đích thu thập các thông tin, tài liệu có liên quan đến nội dung thanh tra, làm cơ
sở cho việc phân tích, đánh giá và kết luận về một hoặc một số vấn đề phục vụ
cho cuộc thanh tra.
Sự phân biệt các khái niệm trên chỉ là tương đối, bởi quá trình thu thập
hoặc thẩm tra tài liệu thực chất là quá trình xác minh tài liệu và ngược lại, quá
trình xác minh tài liệu để làm rõ vụ việc thực chất là quá trình thu thập, thẩm tra
tài liệu. Thẩm tra, xác minh tài liệu trong hoạt động thanh tra là hai khái niệm
khác nhau nhưng có liên hệ qua lại biện chứng với nhau; do vậy, khi nói đến một
khái niệm người ta thường nhắc đến cả cụm từ là: Thẩm tra, xác minh tài liệu
trong hoạt động thanh tra.
1.1.3. Vai trò của thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra
Mục đích cuối cùng của hoạt động thẩm tra, xác minh tài liệu trong thanh
tra là nhằm đưa ra kết luận thanh tra (gồm cả giải quyết khiếu nại, tố cáo) khách
quan, chính xác, trung thực. Thẩm tra, xác minh là công việc rất quan trọng
trong hoạt động thanh tra. Vai trò của thẩm tra, xác minh trong thanh tra được
thể hiện trên các phương diện sau:
Thứ nhất, thẩm tra, xác minh thông tin, tài liệu nhằm mục đích củng cố,
hoàn thiện các căn cứ để giải đáp cho những nội dung mà hoạt động thanh tra
(cuộc thanh tra) yêu cầu. Thẩm tra, xác minh thông tin, tài liệu để tìm kiếm,
củng cố, hoàn thiện thông tin, tài liệu, xác định tính chính xác và hợp pháp của
thông tin, tài liệu, làm cơ sở đưa ra các nhận xét chính xác, khách quan, đúng
pháp luật về vụ việc, từ đó giúp cấp có thẩm quyền ra quyết định giải quyết, xử
11
lý được chính xác, đủ căn cứ, bảo vệ được lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của các chủ thể liên quan.
So với các hoạt động khác trong quản lý nhà nước, trọng tâm của hoạt
động thanh tra là hoạt động thẩm tra, xác minh thông tin, tài liệu.
Thứ hai, trong từng bước của hoạt động thanh tra thì hoạt động thẩm tra,
xác minh đóng vai trò ở những mức độ nhất định:
+ Trong khâu chuẩn bị cho hoạt động thanh tra, thẩm tra, xác minh thông
tin, tài liệu ban đầu về đối tượng thanh tra sẽ tạo cơ sở ban đầu để lập kế hoạch
và tổ chức chuỗi hành vi thanh tra sau đó.
+ Trong quá trình tác nghiệp thanh tra, hoàn tất thông tin cần thiết cho
cuộc thanh tra, hiệu quả của hoạt động thẩm tra, xác minh thông tin, tài liệu
quyết định sự thành bại của cuộc thanh tra.
Suốt quá trình này, vai trò của hoạt động thẩm tra, xác minh tài liệu thể
hiện rõ nét phục vụ xây dựng báo cáo nghiệp vụ và kết luận thanh tra, kết luận
nội dung khiếu nại, tố cáo. Thẩm tra, xác minh tài liệu còn phục vụ cho kiểm tra
những tình huống, sự việc mang tính đột xuất trong thanh tra. Chất lượng và kết
quả của hoạt động thẩm tra, xác minh trực tiếp quyết định độ chính xác của các
kết luận và độ xác đáng của các quyết định xử lý đối với đối tượng kiểm tra.
Thứ ba, thẩm tra, xác minh tài liệu là hoạt động quan trọng trong quá trình
tiến hành các hoạt động thanh tra của các cơ quan Thanh tra nhà nước, là yếu tố
quyết định chất lượng các cuộc thanh tra. Hoạt động thanh tra có chất lượng khi
thu thập, kiểm tra, xác minh tài liệu được tiến hành đúng pháp luật, đúng thủ tục,
trình tự và với phương pháp khoa học, hợp lý.
Trong thực tiễn, hoạt động thẩm tra, xác minh liên quan trực tiếp đến sự
thật khách quan mà dựa vào đó có thể xác định được tính đúng, sai, thật, giả của
vấn đề. Tính khách quan, tính chính xác của các kết luận thanh tra và những đề
xuất, kiến nghị trong hoạt động thanh tra phụ thuộc phần lớn vào kết quả thẩm
tra, xác minh. Nếu thẩm tra, xác minh thông tin, tài liệu đầy đủ, đánh giá tài liệu
12
khách quan, chính xác sẽ tạo ra những căn cứ vững vàng để kết luận, quyết định
xử lý trong thanh tra có tính thuyết phục cao. Ngược lại, nếu không làm rõ bản
chất của vụ việc thì việc đánh giá vụ việc sẽ không chính xác, các kết luận, kiến
nghị trong công tác thanh tra sẽ không thuyết phục.
Vậy, nếu làm tốt việc thẩm tra, xác minh thông tin, tài liệu trong hoạt động
thanh tra sẽ có vai trò hết sức quan trọng đối với chất lượng một cuộc thanh tra,
cũng như hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh tra. Có thể nói, ngoài yếu tố con
người, chất lượng thông tin, tài liệu thanh tra quyết định các yếu tố của một cuộc
thanh tra. Kết luận thanh tra có tính khách quan không? Chính xác không? Có
giúp người quản lý và đối tượng thanh tra nhận biết đúng đắn thực trạng không?
Kết luận, kiến nghị thanh tra có hiệu lực và hiệu quả không?... Tất cả đều phụ
thuộc vào quá trình thẩm tra, xác minh tài liệu.
Nếu như chúng ta thu thập tài liệu không đầy đủ, không đúng sẽ dẫn đến
một kết luận thanh tra phiến diện, thiếu chính xác. Nếu như chúng ta sử dụng
những sự kiện, sự vật, tài liệu…không có các thuộc tính của thông tin, tài liệu để
làm căn cứ đưa ra kết luận, kiến nghị thì những kết luận, kiến nghị đó không
khách quan, không có giá trị cho hoạt động quản lý, thậm chí gây ra “phản ứng
ngược”. Nếu như chúng ta thu thập tài liệu một cách tràn lan (những tài liệu
không liên quan) thì không những không đáp ứng được trọng tâm yêu cầu của
một cuộc thanh tra mà còn dễ dẫn đến tình trạng tuỳ tiện, mở rộng phạm vi, đối
tượng thanh tra, kéo dài thời gian thanh tra, gây phiền hà cho cơ sở. Nếu như
chúng ta sử dụng không đúng các biện pháp nghiệp vụ để thu thập thì không
những tài liệu không có giá trị chứng minh bởi vì không có tính hợp pháp, mà
người tiến hành thanh tra còn vi phạm các quy định của pháp luật. Thực tiễn
công tác thanh tra những năm qua cho thấy: Có những cuộc thanh tra kéo dài
nhưng không kết luận được những vấn đề đặt ra theo yêu cầu quản lý, có những
kết luận thanh tra không đầy đủ, thiếu tính khách quan, mang tính chủ quan, áp
đặt hoặc bỏ sót những hành vi vi phạm pháp luật…
13
1.1.4. Đặc điểm thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra
Thứ nhất, do các chủ thể có thẩm quyền trong cơ quan thanh tra tiến hành.
Điều này khác với thẩm quyền thu thập và đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình
sự, tố tụng dân sự.
Thứ hai, các nguồn thông tin, tài liệu để thẩm tra, xác minh trong hoạt
động thanh tra khác nguồn chứng cứ trong tố tụng hình sự. Nguồn thông tin, tài
liệu để thẩm tra, xác minh ở đây gần giống, hay nói cách khác là tương tự các
nguồn thông tin, tài liệu phục vụ cho việc giải quyết các vụ án hành chính:
Hoạt động thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra thực chất là hoạt
động nghiệp vụ được thực hiện theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định và do
cơ quan có chức năng thanh tra tiến hành. Đặc điểm của hoạt động thẩm tra, xác
minh mặc dù đi đến tận cùng là xem xét, đánh giá chứng cứ trong hoạt động
thanh tra, nó có đặc điểm khác so với việc xem xét, đánh giá chứng cứ trong tố
tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng hành chính.
- Trong tố tụng hình sự, Điều 87 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định:
1. Chứng cứ được thu thập, xác định từ các nguồn:
a) Vật chứng;
b) Lời khai, lời trình bày;
c) Dữ liệu điện tử;
d) Kết luận giám định, định giá tài sản;
đ) Biên bản trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án;
e) Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác;
g) Các tài liệu, đồ vật khác.
2. Những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do
Bộ luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn
cứ để giải quyết vụ án hình sự.
Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tình tiết tăng
nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ
14
luật hình sự để xác định tội danh, quyết định hình phạt, mức bồi thường thiệt hại
đối với bị cáo, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa giải quyết vụ
án đều phải được trình bày, tranh luận, làm rõ tại phiên tòa.
- Trong tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, Điều 94 Bộ luật Tố tụng dân
sự 2015, Điều 81 Luật Tố tụng hành chính 2015:
Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:
1. Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử;
2. Vật chứng;
3. Lời khai của đương sự;
4. Lời khai của người làm chứng;
5. Kết luận giám định;
6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ;
7. Kết quả định giá, thẩm định giá tài sản;
8. Văn bản xác nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập;
9. Văn bản công chứng, chứng thực;
10. Các nguồn khác theo quy định của pháp luật.
- Trong hoạt động thanh tra, các nguồn chứng cứ cũng như các tài liệu,
chứng cứ, vật mang tin hiện nay chưa được quy định rõ trong một văn bản quy
phạm pháp luật nào. Tuy nhiên, trên thực tế có thể hiểu các tài liệu, chứng cứ
trong hoạt động thanh tra mà đòi hỏi cán bộ thanh tra phải thẩm tra, xác minh
bao gồm những loại sau đây:
1.
Tài liệu là bản chính hoặc bản sao.
2.
Tài liệu nghe được, nhìn được.
3.
Thông điệp dữ liệu điện tử.
4.
Vật chứng.
5.
Lời trình bày, giải trình.
6.
Kết luận giám định.
7.
Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ.
15
8.
Kết quả định giá tài sản, kết quả thẩm định giá tài sản.
9.
Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng
lập tại chỗ
10.
Văn bản công chứng, chứng thực.
Qua hoạt động thực tế, các thông tin, tài liệu, chứng cứ trong hoạt động
thanh tra gần với chứng cứ trong tố tụng hành chính.
Thứ ba, nội dung, đối tượng thẩm tra, xác minh rất đa dạng, không chỉ tập
trung vào những hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật của các cơ quan, tổ chức,
cá nhân mà còn cả những thông tin, tài liệu thể hiện tính đúng, sai trong hoạt
động quản lý, thậm chí cả các ưu điểm, nhược điểm của các chủ thể.
Thứ tư, trong quá trình thẩm tra, xác minh phải được thực hiện công khai,
không sử dụng các biện pháp nghiệp vụ của các cơ quan bảo vệ pháp luật như sử
dụng cơ sở bí mật, đặc tình và phương pháp nội tuyến, ngoại tuyến.
Thứ năm, hoạt động thẩm tra, xác minh được thực hiện theo trình tự, thủ
tục do pháp luật quy định (lập kế hoạch thẩm tra, xác minh, tiến hành thẩm tra,
xác minh, báo cáo kết quả thẩm tra, xác minh và sử dụng kết quả thẩm tra, xác
minh) nhằm mục đích thu thập các thông tin, tài liệu có liên quan đến nội dung
thanh tra, làm cơ sở cho việc phân tích, đánh giá, kết luận về một hoặc một số
vấn đề phục vụ cho cuộc thanh tra.
1.2. Nội dung thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra
Hoạt động thanh tra theo nghĩa rộng gồm cả thanh tra, tiếp công dân, giải
quyết khiếu nại. Tuy nhiên, ở đây phải hiểu hoạt động tiếp công dân chủ yếu
phục vụ cho công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và trong lĩnh vực thanh tra thì
việc thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng
được thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra hiện hành. Chính vì vậy,
trong Luận văn này sẽ giới hạn nội dung thẩm tra, xác minh trong hoạt động
thanh tra tập trung vào ba nội dung lớn:
Một là, thẩm tra, xác minh trong hoạt động tiến hành các cuộc thanh tra.
16
Hai là, thẩm tra, xác minh trong hoạt động giải quyết khiếu nại.
Ba là, thẩm tra, xác minh trong hoạt động giải quyết tố cáo.
Như đã phân tích trong phần phạm vi nghiên cứu, từ thực tiễn hoạt động
thanh tra của cơ quan thanh tra tỉnh, có nhiều cuộc thanh tra về giải quyết khiếu
nại, tố cáo. Thực chất đây cũng chính là hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Do đó, thẩm tra, xác minh trong hoạt động thanh tra không tách rời với thẩm tra,
xác minh trong giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Trong hoạt động thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo, thông tin, tài
liệu sau khi thu thập được cần được tìm hiểu và xem xét lại để xác định tính
chính xác và hợp pháp của thông tin, tài liệu. Việc tìm hiểu, xem xét lại thông
tin, tài liệu do các chủ thể có thẩm quyền tiến hành hoạt động thanh tra thực
hiện, bao gồm các công việc:
- Nghiên cứu, phân tích từng thông tin, tài liệu. Tài liệu cần thu thập trong
hoạt động thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo gồm những loại sau đây:
+ Văn bản liên quan đến nội dung thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo;
+ Chứng từ, sổ sách kế toán, bảng kê, chứng từ ghi sổ, sổ mục kê, bản
đồ…;
+ Báo cáo quyết toán, bảng cân đối vật tư, hàng hoá, biên bản kiểm kê các
loại, bảng chấm công, báo cáo tình hình sử dụng lao động…;
+ Các hợp đồng ngoại thương, hợp đồng kinh tế, các tài liệu, hồ sơ có liên
quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu, mua bán hàng hoá
hoặc bộ tài liệu về hợp đồng tín dụng…;
+ Báo cáo của đơn vị được thanh tra, báo cáo của các cá nhân, đơn vị liên
quan theo yêu cầu của Đoàn thanh tra hoặc Thanh tra viên, Tổ xác minh khiếu
nại, tố cáo…;
+ Biên bản xác minh, biên bản làm việc giữa Đoàn thanh tra hoặc Thanh
tra viên, tổ xác minh khiếu nại, tố cáo với các đơn vị, đối tượng có liên quan trực
tiếp và gián tiếp;
17
+ Bản giải trình của đối tượng thanh tra, người khiếu nại, tố cáo, người bị
tố cáo;
+ Một số loại sổ sách, tài liệu, văn bằng, chứng chỉ và các loại giấy tờ,
chứng từ khác.
Lưu ý rằng không phải tất cả các tài liệu trên đã là bằng chứng trong cuộc
thanh tra. Thông tin, tài liệu này sẽ trở thành chứng cứ khi có đầy đủ 3 thuộc
tính: tính khách quan, tính liên quan, tính hợp pháp. Yêu cầu đối với người
được giao nhiệm vụ thẩm tra, xác minh là phải có linh cảm, phân tích các hiện
tượng một cách có hệ thống để phát hiện ra các sai phạm trong hoạt động được
phản ánh trong những tài liệu đã thu thập được, cần nhạy bén để phát hiện những
điểm bất hợp lý trên cơ sở đó chọn ra tài liệu điển hình nhất.
-
Người thẩm tra, xác minh phải so sánh đối chiếu các tài liệu xem có phù
hợp nội dung, vụ việc cần giải quyết không, nếu mâu thuẫn thì do đâu; sàng lọc,
loại bỏ những tài liệu không liên quan và tìm những tài liệu mới làm sáng tỏ
những tài liệu đã thu thập được; xem xét, đánh giá tính khách quan, đầy đủ của
thông tin, tài liệu; xem xét tính hợp pháp của thông tin, tài liệu; xem xét tính thời
sự của thông tin, tài liệu, thời hiệu của tài liệu…
-
Trong quá trình thẩm tra, xác minh, bên cạnh việc đối chiếu, so sánh thì
người thẩm tra, xác minh có thể tiến hành các phương pháp:
+ Trưng cầu giám định: Trưng cầu những người giám định có kiến thức
chuyên ngành của các lĩnh vực khoa học kỹ thuật, văn hóa, thủ công theo quy
định của pháp luật đề nghiên cứu, kết luận những vấn đề cần làm rõ trong hoạt
động thanh tra.
+ Xác minh tại chỗ: Là phương pháp xác minh được tiến hành thường
xuyên, tại địa điểm thanh tra, nơi phát sinh khiếu nại, tố cáo hoặc trụ sở cơ quan
thanh tra, được áp dụng đối với những trường hợp đơn giản, tính chất vụ việc
không phức tạp, cán bộ xác minh chỉ cần nghiên cứu hồ sơ, tài liệu liên quan là
đã có thể tìm ra được vấn đề cần xác minh.
18
+ Xác minh bằng công văn: Là phương pháp xác minh bằng hình thức
công văn đề nghị hoặc yêu cầu của cơ quan thanh tra đối với các đối tượng lien
quan nhằm thu thập thông tin cần thiết. Biện pháp này được áp dụng đối với
những trường hợp đơn giản, tính chất vụ việc không phức tạp và đối tượng xác
minh thường là cơ quan, tố chức có trụ sở cách xa nơi tiến hành thanh tra.
+ Xác minh bằng công nghệ thông tin: Là phương pháp xác minh thông
qua mạng máy tính, điện thoại, điện tín, Fax... Bằng việc sử dụng công nghệ
thông tin, người có trách nhiệm xác minh có thể kiểm tra các thông tin, tài liệu,
đánh giá tính xác thực của các thông tin đó.
+ Yêu cầu đối tượng thanh tra, yêu cầu người khiếu nại, tố cáo giải trình:
Kỹ năng yêu cầu giải trình phải đảm bảo không trái với đạo đức xã hội, không
trái với quy định của pháp luật, có căn cứ khoa học là số lượng tài liệu, thông tin,
tài liệu thu được, đặc điểm tâm lý của đối tượng thanh tra, người khiếu nại, tố
cáo, người bị tố cáo. Hình thức yêu cầu giải trình điển hình và phổ biến được áp
dụng nhiều trong thực tiễn thanh tra là yêu cầu đối tượng viết giải trình và hỏi.
Hỏi cũng là biện pháp được sử dụng rất hiệu quả trong tố tụng hình sự. Tuy
nhiên, ở mỗi lĩnh vực, kỹ năng này lại được vận dụng một cách linh hoạt, sáng
tạo phù hợp với tình huống và đối tượng cụ thể. Trong tố tụng hình sự, bị can là
người đã bị khởi tố hình sự, việc hỏi cung bị can phải được tiến hành theo đúng
trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự. Trong hoạt động
thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, đối tượng bị hỏi là cá nhân, đại diện cho
cơ quan, tổ chức bị thanh tra hoặc có liên quan đến nội dung thanh tra, nội dung
khiếu nại, tố cáo việc hỏi phải tuân theo nguyên tắc chung của Luật Thanh tra
2010, Luật Khiếu nại 2011, Luật Tố cáo 2011.
+ Yêu cầu cung cấp thông tin, tài liệu: Đây là biện pháp quan trọng trong
thẩm tra, xác minh. Khi tiến hành biện pháp này, người thẩm tra, xác minh phải
tuân thủ quy định và biểu mẫu theo Thông tư số 05/2014/TT-TTCP quy định về
tổ chức, hoạt động, quan hệ công tác của Đoàn thanh tra và trình tự, thủ tục tiến
19
hành một cuộc thanh tra; Thông tư số 06/2013/TT-TTCP quy định quy trình giải
quyết tố cáo; Thông tư số 07/TT-TTCP quy định quy trình giải quyết khiếu nại
hành chính.
- Một vấn đề cần lưu ý đối với việc thẩm tra, xác minh tài liệu là:
+ Tài liệu nếu là bản chính hoặc bản sao phải có công chứng, chứng thực
hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.
+ Tài liệu nghe được, nhìn được: nếu được xuất trình kèm theo văn bản
trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu, nếu họ tự thu âm, thu
hình hoặc văn bản có xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về
xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu
hình đó.
+ Thông điệp dữ liệu điện tử: được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ
liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình
thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.
+ Vật chứng phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
+ Lời trình bày, giải trình: nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa
ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác chứa âm thanh, hình ảnh theo
quy định tại khoản 2 trên đây hoặc khai bằng lời trình bày trực tiếp.
+ Kết luận giám định: nếu việc giám định đó được tiến hành theo đúng thủ
tục do pháp luật quy định.
+ Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ: nếu việc thẩm định được tiến
hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
+ Kết quả định giá tài sản, kết quả thẩm định giá tài sản: nếu việc định giá,
thẩm định giá được tiến hành theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
+ Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập tại
chỗ: nếu việc lập văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý được tiến hành theo
đúng thủ tục do pháp luật quy định.
20
+ Văn bản công chứng, chứng thực: nếu việc công chứng, chứng thực
được thực hiện theo đúng thủ tục do pháp luật quy định.
1.3. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục thẩm tra, xác minh trong hoạt động
thanh tra của Thanh tra tỉnh
1.3.1. Thẩm quyền thẩm tra, xác minh của Thanh tra tỉnh
Theo quy định của Luật Thanh tra 2010, hệ thống cơ quan thanh tra nhà
nước hiện nay bao gồm: Thanh tra Chính Phủ; Thanh tra tỉnh; Thanh tra huyện;
Thanh tra bộ; Thanh tra sở. Trong đó, Thanh tra tỉnh chỉ tiến hành các hoạt động
thanh tra hành chính. Bên cạnh đó còn có các cơ quan được giao thực hiện chức
năng thanh tra chuyên ngành.
Thanh tra tỉnh là cơ quan chuyên môn Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, có trách
nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham những; tiến hành thanh tra
giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp
luật.
Với tư cách là cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Thanh
tra tỉnh là đơn vị tương đương cấp sở chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh, đồng thời chịu sự chỉ đạo về công tác hướng dẫn về tổ
chức và nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ.
Thanh tra tỉnh thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trên bốn lĩnh vực. Cụ thể:
Thứ nhất, xây dựng kế hoạch thanh tra trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh phê duyệt và tổ chức thực hiện kế hoạch; Yêu cầu cơ quan chuyên môn
thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân cấp huyện báo cáo về công
tác thanh tra, tổng hợp, báo cáo kết quả về công tác thanh tra; Chỉ đạo công tác
thanh tra, hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra hành chính đối với Thanh tra sở, Thanh
tra huyện.
Thứ hai, trong hoạt động thanh tra, Thanh tra tỉnh có nhiệm vụ, quyền hạn
sau đây:
21
Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ, quyền hạn của
sở, của Ủy ban nhân dân cấp huyện; thanh tra đối với doanh nghiệp nhà nước do
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thành lập;
Thanh tra vụ việc phức tạp, liên quan đến trách nhiệm của nhiều sở, Ủy
ban nhân dân cấp huyện;
Thanh tra vụ việc khác do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao;
Kiểm tra tính chính xác, hợp pháp của kết luận thanh tra và quyết định xử
lý sau thanh tra của Giám đốc sở, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện khi cần
thiết.
Thứ ba, là giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo; thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo
quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Thứ tư, là giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý nhà nước về công tác
phòng, chống tham nhũng; thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng theo
quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Với nhiệm vụ được giao và thực tiễn hoạt động của Thanh tra tỉnh hiện
nay, thẩm quyền của Thanh tra tỉnh trong thẩm tra, xác minh tập trung ở ba chủ
thể:
+ Chủ thể thứ nhất là Chánh thanh tra, có vai trò là người ra quyết định
thanh tra, thành lập Đoàn hoặc Tổ xác minh.
+ Chủ thể thứ hai là Trưởng Đoàn thanh tra, Trưởng đoàn hoặc Tổ trưởng
Tổ xác minh khiếu nại, tố cáo.
+ Chủ thể thứ ba là thành viên đoàn thanh tra, Thành viên đoàn thanh tra,
thành viên đoàn hoặc tổ xác minh khiếu nại, tố cáo.
Ở đây cần lưu ý rằng, việc ra quyết định thanh tra hay việc ra quyết định
thành lập Tổ hoặc Đoàn xác minh trong giải quyết khiếu nại, tố cáo được quy
định thẩm quyền cụ thể của mỗi người, của các chủ thể trên đây là tương tự nhau.
22
Một là, đối với thẩm quyền trong quá trình tiến hành thanh tra, các quyền
của người ra quyết định thanh tra, của trưởng đoàn thanh tra, của thành viên
đoàn thanh tra được quy định trong Luật Thanh tra 2010 và Nghị định
86/2011/NĐ-CP.
- Chánh thanh tra tỉnh có quyền hạn sau đây:
Quyết định việc thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật và
chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về quyết định của
mình;
Quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Giám đốc sở kết luận nhưng phát
hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật khi được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
giao; quyết định thanh tra lại vụ việc đã được Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
huyện kết luận nhưng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật;
Yêu cầu Giám đốc sở, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cáp huyện thanh tra
trong phạm vi quản lý của sở, Ủy ban nhân dân cấp huyện khi phát hiện có dấu
hiệu vi phạm pháp luật; trường hợp Giám đốc sở, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
huyện không đồng ý thì có quyền ra quyết định thanh tra, báo cáo và chịu trách
nhiệm trước Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về quyết định của mình;
Kiến nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giải quyết vấn đề về công
tác thanh tra; trường hợp kiến nghị đó không được chấp nhận thì báo cáo Tổng
Thanh tra Chính phủ;
Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, ban
hành quy định cho phù hợp với yêu cầu quản lý, kiến nghị đình chỉ hoặc hủy bỏ
quy định trái pháp luật phát hiện qua công tác thanh tra.
- Khi Chánh thanh tra tỉnh là người ra quyết định thanh tra thì Chánh
thanh tra tỉnh có các nhiệm vụ và quyền hạn theo Khoản 1 Điều 48 Luật Thanh
tra 2010 như sau:
+ Chỉ đạo, kiểm tra, giám sát Đoàn thanh tra thực hiện đúng nội dung
quyết định thanh tra;
23
+ Yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu, báo cáo bằng
văn bản, giải trình về vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra; yêu cầu cơ quan,
tổ chức, cá nhân có thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra cung cấp
thông tin, tài liệu đó;
+ Trưng cầu giám định về vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra;
+ Yêu cầu người có thẩm quyền tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép sử dụng
trái pháp luật khi xét thấy cần ngăn chặn ngay việc vi phạm pháp luật hoặc để
xác minh tình tiết làm chứng cứ cho việc kết luận, xử lý;
+ Tạm đình chỉ hoặc kiến nghị người có thẩm quyền đình chỉ việc làm khi
xét thấy việc làm đó gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
+ Yêu cầu tổ chức tín dụng nơi đối tượng thanh tra có tài khoản phong tỏa
tài khoản đó để phục vụ việc thanh tra khi có căn cứ cho rằng đối tượng thanh
tra tẩu tán tài sản, không thực hiện quyết định thu hồi tiền, tài sản của Thủ
trưởng cơ quan thanh tra nhà nước hoặc của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà
nước;
+ Kiến nghị người có thẩm quyền tạm đình chỉ việc thi hành quyết định kỷ
luật, thuyên chuyển công tác, cho nghỉ hưu đối với người đang cộng tác với cơ
quan thanh tra nhà nước hoặc đang là đối tượng thanh tra nếu xét thấy việc thi
hành quyết định đó gây trở ngại cho việc thanh tra;
+ Kiến nghị người có thẩm quyền tạm đình chỉ công tác và xử lý đối với
cán bộ, công chức, viên chức cố ý cản trở việc thanh tra hoặc không thực hiện
yêu cầu, kiến nghị, quyết định thanh tra;
+ Quyết định xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị người có thẩm quyền
xử lý kết quả thanh tra; kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện quyết định xử lý về
thanh tra;
+ Quyết định thu hồi tiền, tài sản bị chiếm đoạt, sử dụng trái phép hoặc bị
thất thoát do hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng thanh tra gây ra;
24
+ Giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến trách nhiệm của Trưởng đoàn
thanh tra, các thành viên khác của Đoàn thanh tra;
+ Đình chỉ, thay đổi Trưởng đoàn thanh tra, thành viên Đoàn thanh tra khi
không đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ thanh tra hoặc có hành vi vi phạm pháp
luật hoặc là người thân thích với đối tượng thanh tra hoặc vì lý do khách quan
khác mà không thể thực hiện nhiệm vụ thanh tra;
+ Kết luận về nội dung thanh tra;
+ Chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm pháp luật sang cơ quan điều tra khi phát
hiện có dấu hiệu của tội phạm, đồng thời thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm
sát cùng cấp biết.
- Trưởng đoàn thanh tra do Thanh tra tỉnh tiến hành có các quyền sau:
+ Tổ chức, chỉ đạo các thành viên Đoàn thanh tra thực hiện đúng nội dung
quyết định thanh tra;
+ Kiến nghị với người ra quyết định thanh tra áp dụng biện pháp thuộc
nhiệm vụ, quyền hạn của người ra quyết định thanh tra quy định tại Điều 48 của
Luật này để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ được giao;
+ Yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu, báo cáo bằng
văn bản, giải trình về vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra; khi cần thiết có
thể tiến hành kiểm kê tài sản liên quan đến nội dung thanh tra của đối tượng
thanh tra;
+ Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thông tin, tài liệu liên quan đến
nội dung thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu đó;
+ Yêu cầu người có thẩm quyền tạm giữ tiền, đồ vật, giấy phép sử dụng
trái pháp luật khi xét thấy cần ngăn chặn ngay việc vi phạm pháp luật hoặc để
xác minh tình tiết làm chứng cứ cho việc kết luận, xử lý;
+ Yêu cầu tổ chức tín dụng nơi đối tượng thanh tra có tài khoản phong tỏa
tài khoản đó để phục vụ việc thanh tra khi có căn cứ cho rằng đối tượng thanh
tra có hành vi tẩu tán tài sản;
25