1
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC.................................................................................................................................1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT.....................................................................................7
MỞ ĐẦU....................................................................................................................................8
Cuốn “Chùa Việt Nam” của GS Hà Văn Tấn nghiên cứu về toàn cảnh
các ngôi chùa Việt Nam trong lịch sử và trong đời sống văn hóa dân tộc
cũng như những đặc điểm của Phật giáo và văn hóa tâm linh của dân
tộc được thể hiện ở các ngôi chùa Việt Nam. Tác giả đi vào giới thiệu
khái quát về một số ngôi chùa trên khắp mọi miền đất nước qua các
thời kỳ..........................................................................................................10
Luận án Tiến sĩ Lịch sử “Di tích chùa Thầy (Hà Tây)” của tác giả
Nguyễn Văn Tiến đã tổng thuật hơn 40 tư liệu viết về chùa Thầy cho
đến thời điểm đó (2001). Đây là ngôi chùa “tiền Phật hậu Thánh” thờ
Thiền sư Từ Đạo Hạnh nổi tiếng nhất. Trong phần Kết luận, tác giả
khẳng định: “chùa tiền Phật hậu Thánh manh nha từ thế kỷ XII, đó là
một dạng kết cấu độc đáo trong kiến trúc Việt Nam và chùa Thầy là
khởi nguồn của những ngôi chùa tiền Phật hậu Thánh này”. Tuy nhiên,
do luận án thuộc chuyên ngành Khảo cổ học nên trong phần nội dung
tác giả chủ yếu tập trung vào việc mô tả, xác định niên đại những đơn
nguyên kiến trúc và di vật hiện còn của ngôi chùa; việc nghiên cứu các
giá trị văn hóa phi vật thể của chùa Thầy không được đặt ra...............11
Luận án Tiến sĩ Văn hóa học “Những ngôi chùa “tiền Phật hậu Thánh”
ở vùng châu thổ Bắc Bộ ” (2007) của tác giả Phạm Thị Thu Hương đã
nghiên cứu, xác định các lớp văn hóa tích hợp trong thần tích của các vị
Thánh, lễ hội và các phong tục liên quan; xác định giá trị chính về kiến
trúc, nghệ thuật trang trí và điêu khắc của dạng chùa “tiền Phật hậu
2
Thánh”, qua đó góp phần tìm hiểu về sự hình thành và phát triển của
tục thờ Thánh của người Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ, trong đó có Đức
thánh Từ Đạo Hạnh...................................................................................12
Ngoài các tư liệu về ngôi chùa Việt nói chung, thì chùa Đồng Bụt nói
riêng từ lâu đã là đối tượng được một số nhà nghiên cứu quan tâm dưới
nhiều góc độ khác nhau. Qua các đề tài nghiên cứu khoa học, các bài
viết tham dự hội thảo, khóa luận tốt nghiệp cũng như các tư liệu đánh
máy, viết tay về chùa Đồng Bụt lưu tại Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội,
phòng Văn hóa Thông tin huyện Quốc Oai... Các tài liệu này đã khái
quát sơ lược giá trị văn hóa nghệ thuật của di tích cũng như ảnh hưởng
của di tích với đời sống cư dân nơi đây. Cụ thể như sau:.......................12
Cuốn “Di tích Hà Tây” (1999) do Sở Văn hóa Thông tin Hà Tây (cũ)
chủ biên, đây là công trình nghiên cứu có tính hệ thống về những di
tích tiêu biểu của tỉnh Hà Tây (cũ). Trong đó cuốn sách đã dành 03
trang để giới thiệu khái quát về di tích chùa Đồng Bụt trên các phương
diện như: niên đại của ngôi chùa, nhân vật được phụng thờ, đặc điểm
kiến trúc của chùa, những nét tiêu biểu trong lễ hội chùa Đồng Bụt....12
Cuốn “Lý lịch khoa học di tích chùa Đồng Bụt”(1995) [26, tr.1-10] do
Sở Văn hóa Thông tin Hà Tây (cũ) thực hiện. Đây là tài liệu có tính
khoa học khảo tả di tích và bước đầu đánh giá về giá trị của di tích
chùa Đồng Bụt trên các mặt như: đường đến di tích, lịch sử hình thành,
nguồn gốc và tên gọi của ngôi chùa, giá trị kiến trúc, các di vật cổ vật,
tư liệu Hán Nôm, lễ hội của chùa,... để phục vụ công tác xếp hạng và
bảo tồn di tích. Đây là nguồn tư liệu có giá trị khoa học làm tiền đề cho
các công trình nghiên cứu về di tích sau này...........................................13
Cuốn “Lịch sử cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Ngọc Liệp”
(2013), có nhắc đến chùa Đồng Bụt với niềm tự hào đây là một trong
3
những công trình kiến trúc tiêu biểu và danh thắng nổi tiếng của địa
phương trong phần giới thiệu truyền thống văn hóa của xã..................13
Cuốn “Lễ hội Việt Nam” (2005) [45, tr.574-577] do tác giả Lê Trung Vũ
– Lê Hồng Lý đồng chủ biên có ghi chép về lễ hội chùa Đồng Bụt với
các thông tin như: tên di tích, nhân vật phụng thờ, ngày tổ chức lễ hội,
diễn trình lễ hội, các trò chơi trò diễn trong lễ hội..................................13
Bài viết “Làng Đồng Bụt và Thiền sư Từ Đạo Hạnh” in trong Kỷ yếu
hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 3 – tập 4 (2008) của tác giả Đỗ
Danh Huấn đã đi tới kết luận:..................................................................13
Chùa Thiền sư là một ngôi chùa cổ kính. Tới nay, vẫn chưa thấy một
công trình nào khảo cứu về ngôi chùa này. Đặc biệt hơn, đây là một
ngôi chùa có mô hình thờ tự kiểu “tiền Phật hậu Thánh” - Đức thánh
Từ Đạo Hạnh được thờ trong chùa này. Tìm hiểu trong chính sử và một
số công trình đã xuất bản, tác giả thấy hành trạng của Từ Đạo Hạnh
vẫn cần được bổ khuyết. Do vậy, dựa vào những nguồn tư liệu chính sử
và tư liệu thực địa, bài viết muốn góp thêm ý kiến về nơi sinh của Thiền
sư Từ Đạo Hạnh và nhấn mạnh rằng làng Đồng Bụt đã bảo lưu một trữ
lượng tư liệu khá tin cậy về sự sinh thành của Đức thánh [14, tr.30-38].
......................................................................................................................13
Khóa luận tốt nghiệp Đại học chuyên ngành Bảo tàng học của sinh viên
Nguyễn Thị Cải với đề tài “Tìm hiểu di tích chùa Đồng Bụt (xã Ngọc
Liệp, huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội)” (2014) là công trình đầu
tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về di tích chùa Đồng Bụt. Tuy
nhiên, khóa luận mới dừng lại ở mức độ mô tả lại kiến trúc, các công
trình điêu khắc trang trí trên kiến trúc, điêu khắc tượng thờ, các di vật
cổ vật của ngôi chùa, chứ chưa đánh giá sâu về giá trị văn hóa nghệ
thuật của di tích này. Phần lễ hội được tác giả khảo tả sơ lược, lồng
4
ghép vào trong chương 1 của khóa luận [9, tr.31-34] chứ không đi sâu
vào nghiên cứu dưới góc độ một di sản văn hóa phi vật thể..................14
Từ những tập hợp và phân tích tư liệu trên đây cho thấy, việc nghiên
cứu về di tích chùa Đồng Bụt, xã Ngọc Liệp, huyện Quốc Oai, Hà Nội
đã được tiếp cận ở những góc độ, phạm vi khác nhau và đã đạt được
những kết quả nhất định. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một công
trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện, sâu sắc về giá trị văn
hóa nghệ thuật chùa Đồng Bụt dưới góc độ Văn hóa học. Các công
trình tiêu biểu của các nhà nghiên cứu về ngôi chùa Việt Nam nói
chung và những bản đánh máy, văn bản chép tay lưu tại địa phương về
ngôi chùa Đồng Bụt nói riêng, là những nguồn tư liệu cơ bản bước đầu
giúp cho tác giả tham khảo, kế thừa và tiếp thu để triển khai đề tài
nghiên cứu của mình..................................................................................14
Chương 1.................................................................................................................................18
TỔNG QUAN VỀ CHÙA ĐỒNG BỤT...............................................................................18
(XÃ NGỌC LIỆP, HUYỆN QUỐC OAI, HÀ NỘI)..........................................................18
1.1. Khái quát về xã Ngọc Liệp.................................................................18
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên......................................................................................18
1.1.2. Dân cư và truyền thống lịch sử.........................................................................................19
1.1.3. Đặc điểm kinh tế................................................................................................................24
1.1.4. Đặc điểm văn hóa..............................................................................................................27
1.2. Chùa Đồng Bụt trong diễn trình lịch sử............................................30
1.2.1. Sự tích về Từ Đạo Hạnh - vị Thánh được phối thờ trong chùa.........................................30
1.2.2. Lịch sử hình thành và tồn tại của di tích chùa Đồng Bụt..................................................36
1.2.3. Chùa Đồng Bụt trong hệ thống các di tích thờ thánh Từ Đạo Hạnh ở thành phố Hà Nội
......................................................................................................................................................37
Tiểu kết chương 1.......................................................................................43
Chương 2.................................................................................................................................44
5
GIÁ TRỊ VĂN HÓA VẬT THỂ CHÙA ĐỒNG BỤT.......................................................44
2.1. Nghệ thuật kiến trúc chùa Đồng Bụt.................................................44
2.1.1. Không gian cảnh quan và mặt bằng tổng thể...................................................................44
2.1.2. Các đơn nguyên kiến trúc..................................................................................................48
2.1.3. Giá trị kiến trúc chùa Đồng Bụt.........................................................................................55
2.2. Nghệ thuật điêu khắc trên kiến trúc..................................................56
2.2.1. Các mảng chạm khắc trang trí trên kiến trúc....................................................................56
2.2.2. Ý nghĩa và giá trị các đồ án trang trí mỹ thuật trên kiến trúc...........................................58
2.3. Các di vật tiêu biểu..............................................................................61
2.3.1. Di vật gỗ.............................................................................................................................61
2.3.2. Di vật đá.............................................................................................................................66
2.3.3. Di vật giấy...........................................................................................................................67
2.3.4. Di vật đồng.........................................................................................................................67
2.3.5. Giá trị của các di vật, cổ vật...............................................................................................69
2.4. Nghệ thuật điêu khắc tượng thờ........................................................71
2.4.1. Bài trí tượng trong chùa Đồng Bụt....................................................................................71
2.4.2. Nghệ thuật điêu khắc và ý nghĩa của các tượng thờ........................................................72
2.4.3. Giá trị của hệ thống tượng chùa Đồng Bụt.......................................................................82
2.5. Giải pháp phát huy giá trị văn hóa vật thể chùa Đồng Bụt.............84
Tiểu kết chương 2.......................................................................................86
Chương 3.................................................................................................................................88
GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHI VẬT THỂ CHÙA ĐỒNG BỤT...............................................88
3.1. Lễ hội chùa Đồng Bụt.........................................................................88
3.1.1. Thời gian và lịch lễ hội.......................................................................................................88
3.1.2. Công tác chuẩn bị lễ hội....................................................................................................90
3.1.3. Các nghi thức chính của lễ hội..........................................................................................93
3.1.4. Các trò chơi dân gian trong lễ hội.....................................................................................99
6
3.2. Vai trò của lễ hội với đời sống cộng đồng........................................103
3.2.1. Những giá trị cơ bản của lễ hội chùa Đồng Bụt..............................................................103
3.2.2. Những lớp tôn giáo - tín ngưỡng hiện hữu qua lễ hội chùa Đồng Bụt..........................109
3.3. Giải pháp bảo tồn và phát huy lễ hội chùa Đồng Bụt....................115
Tiểu kết chương 3.....................................................................................117
KẾT LUẬN...........................................................................................................................119
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................121
7
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
(â.l):
Âm lịch
ha:
hecta
Nxb:
Nhà xuất bản
PGS:
Phó giáo sư
Tp:
Thành phố
TS:
Tiến sĩ
8
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1.Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ to lớn, khó
khăn và lâu dài trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam. Nhiệm vụ đó đòi hỏi
phải phát triển nền văn hóa nước ta lên một bước mới, vừa tiếp thu các thành
tựu văn hóa – văn minh nhân loại, vừa kế thừa và phát huy các giá trị truyền
thống quý báu của dân tộc, để xây dựng nên một nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững,
những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, được xây dựng và phát
triển qua hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Bản sắc
văn hóa dân tộc được thể hiện qua rất nhiều thành tố văn hóa, bao gồm cả văn
hóa vật thể và văn hóa phi vật thể.
Ngôi chùa Phật giáo ở Việt Nam là một công trình kiến trúc chứa đựng
rất nhiều giá trị văn hóa. Phật giáo được du nhập từ nước ngoài vào Việt Nam,
nhưng ngôi chùa Phật giáo ở Việt Nam lại chứa đựng nhiều giá trị phản ánh
sâu đậm bản sắc văn hóa dân tộc truyền thống. Tìm hiểu giá trị văn hóa của di
tích chùa Phật giáo ở Việt Nam qua đó góp phần tìm hiểu bản sắc văn hóa
truyền thống dân tộc là công việc đáng quan tâm.
1.2.Thực tế của điều kiện tự nhiên và xã hội cũng như thực tế lịch sử
dân tộc cho thấy nền văn hóa Việt Nam có nguồn gốc từ nền văn minh nông
nghiệp. Làng quê Việt luôn chứa đựng các giá trị văn hóa truyền thống. Trong
tổng thể các thành tố văn hóa làng, ngôi chùa Phật giáo ở làng có vai trò quan
trọng. Tục ngữ Việt Nam có câu “Đất vua, chùa làng” như để khẳng định tầm
quan trọng của ngôi chùa đối với mỗi người dân Việt. Tìm hiểu giá trị văn hóa
từ một ngôi chùa ở làng là một hướng nghiên cứu, qua đó giúp chúng ta tiếp
cận được văn hóa làng truyền thống của Việt Nam.
9
1.3. Phật giáo ở Việt Nam nguyên là một tôn giáo được du nhập vào
nước ta. Phật giáo ngay khi được truyền vào Việt Nam đã mang tính thích ứng
ngay với phong tục tập quán của địa phương và những yếu tố bản địa. Cũng
do thích ứng với tín ngưỡng bản địa, với việc thờ cúng tổ tiên nên trong một
số ngôi chùa Việt xuất hiện hiện tượng phối thờ các yếu tố tín ngưỡng khác
như thờ Mẫu, thờ Thánh, thờ các anh hùng dân tộc… Vì vậy, nhiều chùa thờ
Phật ở nước ta vốn trước đây chỉ thờ Phật, sau thờ thêm cả Thánh và tạo ra
loại chùa có dạng “tiền Phật, hậu Thánh”. Chùa Đồng Bụt (xã Ngọc Liệp,
huyện Quốc Oai, Tp. Hà Nội) là một trong những ngôi chùa như vậy.
Chùa Đồng Bụt (tên chữ là Thiền Sư tự) là một ngôi chùa cổ kính, nằm
trong hệ thống các di tích kiểu chùa “tiền Phật hậu Thánh” thờ Đức thánh Từ
Đạo Hạnh ở Hà Nội. Trải qua thời gian với biết bao biến cố thăng trầm của
lịch sử, ngôi chùa đã qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa song vẫn giữ lại được
dáng vẻ thâm nghiêm, thanh tịnh và những nét kiến trúc cổ xưa.
Ngôi chùa tuy không bề thế về mặt quy mô, song nó lại chứa đựng
trong mình nhiều giá trị về lịch sử, văn hóa nghệ thuật. Trong chùa hiện còn
lưu giữ nhiều hiện vật, cổ vật quý, đặc biệt là hệ thống tượng thờ với nghệ
thuật điêu khắc độc đáo. Đây là những tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo, thể hiện
trình độ điêu khắc tượng khéo léo, tinh tế, tài hoa của người thợ dân gian xưa.
Ngoài giá trị văn hóa vật thể, chùa Đồng Bụt còn mang trong mình giá
trị văn hóa phi vật thể khá đậm nét. Trước hết, chùa có một nhân vật thờ tự vô
cùng đặc biệt, mà sự xuất hiện của ngài được xem xét như một hiện tượng độc
đáo trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, đó là vị Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Chính
vì là chùa “tiền Phật hậu Thánh” nên hàng năm chùa Đồng Bụt vẫn tổ chức lễ
hội để tưởng nhớ Đức thánh Từ Đạo Hạnh.
Như vậy, chùa Đồng Bụt không chỉ là một không gian thiêng, là trung
tâm thực hành tôn giáo tín ngưỡng của nhân dân thôn Đồng Bụt và các vùng
10
lân cận mà còn là nơi bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của
dân tộc. Vì vậy, việc nghiên cứu các giá trị văn hóa của ngôi chùa là việc làm
cần thiết.
Từ những lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Giá trị văn hóa nghệ
thuật chùa Đồng Bụt (xã Ngọc Liệp, huyện Quốc Oai, Thành phố Hà
Nội)” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn hóa học, khóa 2013 – 2015 của
mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Lịch sử Phật giáo và kiến trúc chùa Phật giáo ở Việt Nam từ nhiều năm
nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu. Trong đó, các di tích lịch sử mà
điển hình là các ngôi chùa nổi tiếng đã được nhiều nhà nghiên cứu đặc biệt
quan tâm.
Các tài liệu lịch sử từ xưa như: Đại Việt sử ký toàn thư, Việt Điện u
linh của Lý Tế Xuyên, An Nam chí lược của Lê Tắc, Lĩnh Nam chích quái
của Vũ Quỳnh và Kiều Phú, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy
Chú, Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn... cũng như
các tài liệu về lịch sử Phật giáo như: Lịch sử Phật giáo ở Việt Nam của Viện
Triết học, Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang... đều có ít nhiều đề
cập tới hành trạng, và di tích thờ Từ Đạo Hạnh, đánh giá những đóng góp
của ông trong văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, không có tài liệu nào nói đến
ngôi chùa Đồng Bụt.
Nhóm tài liệu nghiên cứu về giá trị văn hóa nghệ thuật trong các ngôi
chùa ở Việt Nam nói chung đã được đề cập tới trong nhiều công trình nghiên
cứu, chúng tôi có thể giới thiệu một số tài liệu như:
Cuốn “Chùa Việt Nam” của GS Hà Văn Tấn nghiên cứu về toàn cảnh
các ngôi chùa Việt Nam trong lịch sử và trong đời sống văn hóa dân tộc cũng
11
như những đặc điểm của Phật giáo và văn hóa tâm linh của dân tộc được thể
hiện ở các ngôi chùa Việt Nam. Tác giả đi vào giới thiệu khái quát về một số
ngôi chùa trên khắp mọi miền đất nước qua các thời kỳ.
Cuốn “Chùa Việt” của Trần Lâm Biền, đã nghiên cứu tính chất văn
hóa, nghệ thuật, kiểu kiến trúc và phong cách tượng Phật giáo tại các ngôi
chùa của người Việt từ thời Lý (thế kỷ XI, XII) đến thế kỷ XIX. Ngoài ra,
tác giả Trần Lâm Biền trong một cuốn sách khác của ông là “Diễn biến kiến
trúc truyền thống Việt vùng châu thổ sông Hồng” cũng đề cập khái lược về
những bước đi của ngôi chùa Việt, từ sự phân bố, niên đại đến sự phát triển
kiến trúc của các ngôi chùa, tổ chức không gian, kiến trúc, kết cấu và chạm
khắc của ngôi chùa Việt qua các thời, từ thời Lý đến thời nhà Nguyễn.
Cuốn “Sáng giá chùa xưa – mỹ thuật Phật giáo” và “Kiến trúc dân gian
truyền thống Việt Nam” của Chu Quang Trứ nghiên cứu kiến trúc các ngôi chùa ở
Việt Nam với nền văn hóa dân tộc cổ truyền. Trong đó, tác giả giới thiệu về một
số ngôi chùa và các di vật đặc sắc trong các ngôi chùa ở Việt Nam.
Trong nhóm tài liệu này có thể thấy các tác giả có cái nhìn khái quát về lịch
sử kiến trúc, giá trị nghệ thuật của ngôi chùa Việt Nam. Các tác giả có lấy ví dụ
minh họa từ một số ngôi chùa cụ thể nhưng không đề cập tới chùa Đồng Bụt.
Nghiên cứu về loại hình chùa “tiền Phật hậu Thánh” gần đây có một số
công trình khác, chúng tôi giới thiệu tài liệu sau:
Luận án Tiến sĩ Lịch sử “Di tích chùa Thầy (Hà Tây)” của tác giả
Nguyễn Văn Tiến đã tổng thuật hơn 40 tư liệu viết về chùa Thầy cho đến thời
điểm đó (2001). Đây là ngôi chùa “tiền Phật hậu Thánh” thờ Thiền sư Từ
Đạo Hạnh nổi tiếng nhất. Trong phần Kết luận, tác giả khẳng định: “chùa tiền
Phật hậu Thánh manh nha từ thế kỷ XII, đó là một dạng kết cấu độc đáo trong
kiến trúc Việt Nam và chùa Thầy là khởi nguồn của những ngôi chùa tiền Phật
12
hậu Thánh này”. Tuy nhiên, do luận án thuộc chuyên ngành Khảo cổ học nên
trong phần nội dung tác giả chủ yếu tập trung vào việc mô tả, xác định niên
đại những đơn nguyên kiến trúc và di vật hiện còn của ngôi chùa; việc nghiên
cứu các giá trị văn hóa phi vật thể của chùa Thầy không được đặt ra.
Luận án Tiến sĩ Văn hóa học “Những ngôi chùa “tiền Phật hậu
Thánh” ở vùng châu thổ Bắc Bộ ” (2007) của tác giả Phạm Thị Thu Hương
đã nghiên cứu, xác định các lớp văn hóa tích hợp trong thần tích của các vị
Thánh, lễ hội và các phong tục liên quan; xác định giá trị chính về kiến trúc,
nghệ thuật trang trí và điêu khắc của dạng chùa “tiền Phật hậu Thánh”, qua đó
góp phần tìm hiểu về sự hình thành và phát triển của tục thờ Thánh của người
Việt ở vùng châu thổ Bắc Bộ, trong đó có Đức thánh Từ Đạo Hạnh.
Ngoài các tư liệu về ngôi chùa Việt nói chung, thì chùa Đồng Bụt nói
riêng từ lâu đã là đối tượng được một số nhà nghiên cứu quan tâm dưới nhiều
góc độ khác nhau. Qua các đề tài nghiên cứu khoa học, các bài viết tham dự
hội thảo, khóa luận tốt nghiệp cũng như các tư liệu đánh máy, viết tay về chùa
Đồng Bụt lưu tại Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội, phòng Văn hóa Thông tin
huyện Quốc Oai... Các tài liệu này đã khái quát sơ lược giá trị văn hóa nghệ
thuật của di tích cũng như ảnh hưởng của di tích với đời sống cư dân nơi đây.
Cụ thể như sau:
Cuốn “Di tích Hà Tây” (1999) do Sở Văn hóa Thông tin Hà Tây (cũ)
chủ biên, đây là công trình nghiên cứu có tính hệ thống về những di tích tiêu
biểu của tỉnh Hà Tây (cũ). Trong đó cuốn sách đã dành 03 trang để giới thiệu
khái quát về di tích chùa Đồng Bụt trên các phương diện như: niên đại của
ngôi chùa, nhân vật được phụng thờ, đặc điểm kiến trúc của chùa, những nét
tiêu biểu trong lễ hội chùa Đồng Bụt.
13
Cuốn “Lý lịch khoa học di tích chùa Đồng Bụt”(1995) [26, tr.1-10] do
Sở Văn hóa Thông tin Hà Tây (cũ) thực hiện. Đây là tài liệu có tính khoa học
khảo tả di tích và bước đầu đánh giá về giá trị của di tích chùa Đồng Bụt trên
các mặt như: đường đến di tích, lịch sử hình thành, nguồn gốc và tên gọi của
ngôi chùa, giá trị kiến trúc, các di vật cổ vật, tư liệu Hán Nôm, lễ hội của chùa,...
để phục vụ công tác xếp hạng và bảo tồn di tích. Đây là nguồn tư liệu có giá trị
khoa học làm tiền đề cho các công trình nghiên cứu về di tích sau này.
Cuốn “Lịch sử cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Ngọc Liệp”
(2013), có nhắc đến chùa Đồng Bụt với niềm tự hào đây là một trong những
công trình kiến trúc tiêu biểu và danh thắng nổi tiếng của địa phương trong
phần giới thiệu truyền thống văn hóa của xã.
Cuốn “Lễ hội Việt Nam” (2005) [45, tr.574-577] do tác giả Lê Trung
Vũ – Lê Hồng Lý đồng chủ biên có ghi chép về lễ hội chùa Đồng Bụt với các
thông tin như: tên di tích, nhân vật phụng thờ, ngày tổ chức lễ hội, diễn trình
lễ hội, các trò chơi trò diễn trong lễ hội...
Bài viết “Làng Đồng Bụt và Thiền sư Từ Đạo Hạnh” in trong Kỷ yếu
hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ 3 – tập 4 (2008) của tác giả Đỗ Danh
Huấn đã đi tới kết luận:
Chùa Thiền sư là một ngôi chùa cổ kính. Tới nay, vẫn chưa thấy
một công trình nào khảo cứu về ngôi chùa này. Đặc biệt hơn, đây là
một ngôi chùa có mô hình thờ tự kiểu “tiền Phật hậu Thánh” - Đức
thánh Từ Đạo Hạnh được thờ trong chùa này. Tìm hiểu trong chính
sử và một số công trình đã xuất bản, tác giả thấy hành trạng của Từ
Đạo Hạnh vẫn cần được bổ khuyết. Do vậy, dựa vào những nguồn
tư liệu chính sử và tư liệu thực địa, bài viết muốn góp thêm ý kiến
về nơi sinh của Thiền sư Từ Đạo Hạnh và nhấn mạnh rằng làng
14
Đồng Bụt đã bảo lưu một trữ lượng tư liệu khá tin cậy về sự sinh
thành của Đức thánh [14, tr.30-38].
Khóa luận tốt nghiệp Đại học chuyên ngành Bảo tàng học của sinh viên
Nguyễn Thị Cải với đề tài “Tìm hiểu di tích chùa Đồng Bụt (xã Ngọc Liệp,
huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội)” (2014) là công trình đầu tiên nghiên cứu
một cách có hệ thống về di tích chùa Đồng Bụt. Tuy nhiên, khóa luận mới dừng
lại ở mức độ mô tả lại kiến trúc, các công trình điêu khắc trang trí trên kiến trúc,
điêu khắc tượng thờ, các di vật cổ vật của ngôi chùa, chứ chưa đánh giá sâu về
giá trị văn hóa nghệ thuật của di tích này. Phần lễ hội được tác giả khảo tả sơ
lược, lồng ghép vào trong chương 1 của khóa luận [9, tr.31-34] chứ không đi sâu
vào nghiên cứu dưới góc độ một di sản văn hóa phi vật thể.
Từ những tập hợp và phân tích tư liệu trên đây cho thấy, việc nghiên
cứu về di tích chùa Đồng Bụt, xã Ngọc Liệp, huyện Quốc Oai, Hà Nội đã
được tiếp cận ở những góc độ, phạm vi khác nhau và đã đạt được những kết
quả nhất định. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu
một cách đầy đủ, toàn diện, sâu sắc về giá trị văn hóa nghệ thuật chùa Đồng
Bụt dưới góc độ Văn hóa học. Các công trình tiêu biểu của các nhà nghiên
cứu về ngôi chùa Việt Nam nói chung và những bản đánh máy, văn bản chép
tay lưu tại địa phương về ngôi chùa Đồng Bụt nói riêng, là những nguồn tư
liệu cơ bản bước đầu giúp cho tác giả tham khảo, kế thừa và tiếp thu để triển
khai đề tài nghiên cứu của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu làm nổi bật giá trị văn hóa vật thể và phi
vật thể của di tích chùa Đồng Bụt.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
15
Luận văn tập trung làm rõ những vấn đề sau:
- Hệ thống hóa các nguồn tư liệu từ trước đến nay viết về chùa Đồng Bụt.
- Nghiên cứu tổng quan về vùng đất, con người xã Ngọc Liệp làm cơ sở
cho việc nghiên cứu giá trị văn hóa nghệ thuật của di tích chùa Đồng Bụt.
- Xác định niên đại xây dựng của chùa và những lần trùng tu, sửa chữa.
Vai trò của ngôi chùa trong đời sống văn hóa địa phương.
- Tìm hiểu về Thiền sư Từ Đạo Hạnh - nhân vật được phối thờ trong chùa qua
truyền thuyết, thần tích và các nguồn tư liệu hiện có.
- Nghiên cứu, đánh giá các giá trị văn hóa vật thể chùa Đồng Bụt, bao
gồm: kiến trúc, điêu khắc, hệ thống tượng thờ và các di vật tiêu biểu.
- Nghiên cứu, đánh giá các giá trị văn hóa phi vật thể chùa Đồng Bụt
như: lễ hội, vai trò của lễ hội đối với đời sống cộng đồng.
- Đề xuất các giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa vật thể
và phi vật thể của chùa Đồng Bụt.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về chùa Đồng Bụt dưới góc độ một di tích
văn hóa nghệ thuật và lễ hội chùa Đồng Bụt với đời sống cư dân địa phương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian nghiên cứu của đề tài là: thôn Đồng Bụt, xã Ngọc
Liệp, huyện Quốc Oai, Hà Nội - nơi ngôi chùa tồn tại.
Phạm vi thời gian nghiên cứu là chùa Đồng Bụt từ khi xây dựng đến
nay. Nghiên cứu thời điểm diễn ra lễ hội chùa Đồng Bụt.
5. Phương pháp nghiên cứu
16
- Phương pháp nghiên cứu phân tích - tổng hợp: dựa trên những thông tin
đã có qua phân tích tài liệu, thần tích, thư tịch lưu giữ tại địa phương để có cái
nhìn tổng thể về di tích, kết hợp với những tài liệu lí luận về chùa, kiến trúc chùa
Việt Nam, lễ hội cổ truyền để đưa ra những so sánh, đối chiếu, phân tích từ đó
rút ra những kết luận phù hợp với mục đích nghiên cứu của luận văn.
- Phương pháp khảo sát điền dã tại di tích với các kỹ năng như: quan
sát, mô tả, chụp ảnh, ghi hình, phỏng vấn trực tiếp... nhằm kiểm tra, đánh
giá chính xác những nguồn thông tin mà tác giả thu thập được.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Văn hóa học, Bảo tàng học, Mỹ
thuật học, Xã hội học, Khảo cổ học, Văn bản học... Những phương pháp này
giúp tác giả có những tiếp cận, nghiên cứu và đánh giá về các hiện tượng, các
vấn đề văn hóa một cách khoa học, khách quan.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu mang tính hệ thống và toàn diện
trong việc nghiên cứu các giá trị văn hóa, nghệ thuật của chùa Đồng Bụt.
- Đánh giá vai trò vị trí của di tích và lễ hội chùa Đồng Bụt trong đời
sống cộng đồng.
- Đề xuất các giải pháp góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di tích và
lễ hội chùa Đồng Bụt hiện nay.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
phần nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về chùa Đồng Bụt (xã Ngọc Liệp, huyện Quốc
Oai, Hà Nội)
Chương 2: Giá trị văn hóa vật thể chùa Đồng Bụt
17
Chương 3: Giá trị văn hóa phi vật thể chùa Đồng Bụt
18
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ CHÙA ĐỒNG BỤT
(XÃ NGỌC LIỆP, HUYỆN QUỐC OAI, HÀ NỘI)
1.1. Khái quát về xã Ngọc Liệp
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Xã Ngọc Liệp là một trong 21 xã, thị trấn của huyện Quốc Oai, thành
phố Hà Nội. Trung tâm xã cách trung tâm huyện Quốc Oai 4,5km về phía Tây
Bắc, cách trung tâm Thủ đô Hà Nội 25 km về phía Tây. Xã có vị trí địa lý:
phía Đông giáp xã Ngọc Mỹ; phía Tây giáp xã Đồng Trúc (huyện Thạch
Thất); phía Nam giáp xã Liệp Tuyết, xã Tuyết Nghĩa; phía Bắc giáp xã Cần
Kiệm và xã Bình Phú (huyện Thạch Thất). Vị trí như trên cho thấy Ngọc Liệp
là xã giáp ranh giữa vùng đồng bằng và vùng bán sơn địa của huyện Quốc Oai
trên con đường cửa ngõ phía Tây của Thủ đô Hà Nội.
Nguồn nước ở Ngọc Liệp khá phong phú và dồi dào với hệ thống sông,
đầm, ao, kênh, mương và nguồn nước ngầm. Trong đó, lưu lượng nước của
dòng sông Tích là nguồn cung cấp nước lớn có ý nghĩa quan trọng cho sản xuất
nông nghiệp. Sông Tích chảy từ Bắc xuống Nam ở giữa xã nên địa hình của xã
Ngọc Liệp từ xưa đã chia thành hai vùng tự nhiên rõ rệt: phía Tây là vùng nửa đồi
núi với những gò đống mấp mô, đất đai cằn cỗi, quanh năm “đồng khô cỏ cháy”;
phía Đông bên những đồi gò là những cánh đồng chiêm trũng. Với địa hình như
trên, người dân Ngọc Liệp luôn phải sống trong cảnh ngập nước, khó khăn.
Tổng diện tích đất tự nhiên của xã Ngọc Liệp là 611,4 ha, trong đó, đất
sản xuất nông nghiệp chiếm 306,6 ha; đất phi nông nghiệp chiếm 291,54 ha
(đất ở nông thôn là 46,57 ha và đất chuyên dùng là 200,96 ha,…); đất chưa sử
dụng chiếm 13,25 ha. Thành phần đất chủ yếu là đất nâu vàng trên phù sa cổ
[41, tr.17].
19
Khí hậu xã Ngọc Liệp có tính chất nhiệt đới gió mùa, có 4 mùa rõ rệt:
mùa Xuân khí hậu ấm, mùa Hạ có khí hậu nóng, mùa Thu tương đối mát mẻ,
mùa Đông khí hậu lạnh và khô. Nhiệt độ cao nhất trong năm khoảng trên 30
độ (vào tháng 6 - 7), thấp nhất khoảng từ 8 đến 10 độ (vào tháng 1 - 2).
Lượng mưa trung bình năm là 1.500 đến 1.700 mm. Tuy nhiên trong những
năm gần đây, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, tình hình khí hậu nước ta
nói chung và đồng bằng Bắc Bộ nói riêng có nhiều thay đổi bất thường, gây
nhiều khó khăn cho sản xuất và đời sống của nhân dân trong xã. Có thể nói,
đặc trưng về thời tiết và khí hậu đã ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống sản xuất
và sinh hoạt văn hóa của cộng đồng cư dân nông nghiệp nơi đây [41, tr.33].
Về giao thông, xã có trục đường Đại lộ Thăng Long chạy qua với tổng
chiều dài 4,2km và hệ thống đê tả sông Tích dài 1,5km đã được bê tông hóa.
Đường liên xã Ngọc Liệp - Liệp Tuyết và đường trục xã dài 5,262km, trục
đường liên thôn và đường ngõ xóm dài 10,98km.
Có thể thấy, với vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên như trên, xã Ngọc
Liệp có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn trong việc phát triển
kinh tế xã hội. Từ thực tế địa phương, Ngọc Liệp từ lâu đã được nhân dân địa
phương đấu tranh khai thác qua nhiều thế hệ để xây dựng địa phương thành một
làng quê nông nghiệp trù phú và chứa đựng nhiều giá trị văn hóa truyền thống.
1.1.2. Dân cư và truyền thống lịch sử
Ngọc Liệp là vùng đất cổ, là nơi sớm có cư dân sinh sống, nằm trong
địa bàn cư trú của người Việt cổ. Qua các thời kỳ lịch sử, Ngọc Liệp có nhiều
sự thay đổi về địa dư hành chính cũng như địa danh.
Thời Văn lang, Âu Lạc, nơi đây thuộc về bộ Chu Diên. Thời Bắc thuộc,
người Hán chia nước ta thành các quận huyện, bộ Chu Diên bị đổi thành
huyện Chu Diên, sau đó đổi tên thành huyện Câu Lậu, huyện Long Bình rồi
20
huyện Thái Bình thuộc châu Quốc Oai, phủ Đại Thông. Đời Lý, địa bàn Ngọc
Liệp đã hình thành hai trại là Cổ Sư trại và Liệp Hạ trại) thuộc huyện Ninh
Sơn, lộ Quốc Oai. Sang đời Trần, nơi đây hình thành bốn trang là Cổ Sư
trang, Ngọc Bài trang, Ngọc Phúc trang và Đồng Bụt trang [41, tr.797]. Năm
1466, vua Lê Thánh Tông cho cải cách hành chính, trấn Quốc Oai đổi thành
Thừa tuyên Quốc Oai. Từ đời Mạc (1527 đến 1592) trở về sau, trải qua các
triều Lê Trung Hưng, Tây Sơn và Nguyễn, thôn Đồng Bụt thuộc về huyện
Yên Sơn, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây [24, tr.1433].
Cuộc cải cách hành chính của Minh Mạng năm 1831 cho ra đời đơn vị
hành chính cấp huyện, Đồng Bụt thuộc về xã Phục Lạp, tổng Lạp Thượng,
huyện Yên Sơn, phủ Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây. Sách Các tổng trấn xã danh bị
lãm và Đồng Khánh địa dư chí soạn năm 1888 cho biết như vậy [20, tr.805]
Sang đầu thế kỷ XX, sách Tên làng xã và địa dư các tỉnh Bắc Kỳ soạn năm
1908 cho biết nơi đây là xã Phục Lạp, tổng Lạp Mai. Đến năm 1941, sách
Sơn Tây tỉnh chí cho biết làng Đồng Bụt thuộc xã Phục Liệp, tổng Liệp Mai.
Sách này cũng là tài liệu đầu tiên nhắc đến cái tên Đồng Bụt [20, tr.683].
Năm 1946, bản Hiến pháp của nước Việt Nam bãi bỏ đơn vị hành chính
cấp tổng và phủ, xã Phục Liệp cùng với các xã Ngọc Bài và Liệp Mai hợp
nhất thành xã Ngọc Liệp thuộc huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây. Từ đây, địa dư
của thôn Đồng Bụt không thay đổi ở cấp xã và huyện. Từ tháng 7 năm 1965,
tỉnh Sơn Tây hợp nhất với tỉnh Hà Đông thành tỉnh Hà Tây đến năm 1976 lại
thành tỉnh Hà Sơn Bình (sau khi Hà Tây hợp nhất với tỉnh Hòa Bình), thôn
Đồng Bụt thuộc về các tỉnh này. Tháng 8 năm 1991, tỉnh Hà Sơn Bình lại tách
thành Hà Tây và Hòa Bình như cũ [41, tr.98].
Tháng 8 năm 2008 khi toàn tỉnh Hà Tây sáp nhập với Hà Nội, thôn Đồng
Bụt trở thành một làng ngoại thành Hà Nội. Đến nay xã Ngọc Liệp ổn định về
địa giới hành chính với bốn làng Đồng Bụt, Liệp Mai, Ngọc Phúc, Ngọc Bài.
21
Riêng đối với làng Đồng Bụt, theo các cụ cao niên trong làng, trước
đây làng được chia thành 02 xóm: xóm Trong và xóm Trại. Trải qua thời gian,
hiện nay làng được chia thành 04 xóm: xóm Trong, xóm Trại, xóm Sậy, xóm
Chín Sào. Chùa Đồng Bụt hiện thuộc địa giới xóm Trong. Theo khu vực địa
hình, trước đây làng được chia thành 04 Giáp sau đó thành 8 Giáp. Tuy nhiên,
ngày nay đơn vị Giáp không còn tồn tại.
Những thay đổi về đơn vị hành chính của xã Ngọc Liệp trong suốt
chiều dài lịch sử đất nước khá đa dạng, bao gồm sự thay đổi về quy mô, địa
bàn và tên gọi. Đó là nét đặc thù không chỉ riêng ở xã Ngọc Liệp mà còn ở
nhiều địa phương khác. Mặc dù vậy, nhân dân xã Ngọc Liệp vẫn gắn bó với
mảnh đất quê hương, khai thác các điều kiện tự nhiên thuận lợi và tạo lập cho
mảnh đất này một nền văn hóa phong phú, đa dạng, giàu lòng nhân ái trong
tình làng nghĩa xóm, mang đậm bản sắc riêng.
Về mặt dân cư, trước Cách mạng tháng Tám, xã có trên 2.000 người;
đến năm 1985 xã có 4.782 nhân khẩu; theo số liệu thống kê báo cáo dân số
xã năm 2010, xã có 8.150 người. Trong đó, số người trong độ tuổi lao động
là 4.368 người [41, tr.55]. Các cụ cao niên trong làng Đồng Bụt cho biết,
trước đây làng có 12 dòng họ, hiện nay dân cư Đồng Bụt có khoảng 20
dòng họ, trong đó lớn nhất là họ Đỗ (chiếm hơn một nửa dân số trong
làng); họ Đinh, họ Nguyễn Doãn… Các dòng họ sống đan xen với nhau, có
mối quan hệ hòa thuận gắn bó với nhau. Trong giai đoạn đổi mới hiện nay,
đặc biệt là từ sau năm 2008, nền kinh tế nơi đây đã có bước phát triển rõ
rệt, ảnh hưởng lớn đến tình hình dân cư địa phương. Thành phần cư dân
trong làng, xã đa dạng và phức tạp hơn, không còn thuần nông như trước.
Tất cả những yếu tố này đã ảnh hưởng trực tiếp đến nếp sống, sinh hoạt,
mối quan hệ của cộng đồng làng xã.
22
Nhân dân xã Ngọc Liệp có lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời, có
truyền thống đấu tranh rất đáng tự hào… Trước hết là truyền thống đấu tranh
chống lại thiên tai trong sản xuất để duy trì và phát triển cuộc sống. Trải qua
bao đời nối tiếp, ông cha ta đã mất bao mồ hôi, nước mắt và cả máu để tạo
nên những làng xóm trù phú. Ngọc Liệp là một địa phương giàu tiềm năng đất
đai và con người, nhưng cũng không ít khó khăn về thiên nhiên. Song cũng
chính những khó khăn đó mà từ xưa nhân dân Ngọc Liệp đã có ý thức cố kết
cộng đồng, quyết tâm vượt khó, giúp đỡ nhau trong sản xuất đời sống, đoàn
kết trong đấu tranh chống thiên tai và giặc ngoại xâm…
Đáng tự hào hơn cả là người dân nơi đây có một truyền thống yêu nước
nồng nàn, một tinh thần bất khuất chống giặc ngoại xâm. Mang trong mình
tinh thần yêu nước, người dân Ngọc Liệp đã tạo nên một truyền thống lịch sử
hào hùng. Theo truyền thuyết và thần phả ở địa phương, thời Hùng Vương thứ
18, con rể của vua là Nguyễn Tuấn (thần núi Tản Viên) dẫn quân đi đánh giặc,
qua đất Mão Sơn bên bờ sông Tích (nay là gò Miễu, thôn Ngọc Bài), quân
tướng nghỉ lại qua đêm, được nhân dân giúp đỡ và thổ thần báo mộng tiếp
binh ứng khí thắng trận. Khi thắng trận trở về, ông đã sắc phong và cho làng
lập đền thờ ông.
Trong suốt thời kỳ dài Bắc thuộc, khi các cuộc khởi nghĩa của Hai Bà
Trưng, Lý Bí, Phùng Hưng nổ ra, người dân Ngọc Liệp đều tích cực hưởng
ứng. Sang thời phong kiến độc lập, trong các cuộc kháng chiến chống ngoại
xâm, xã Ngọc Liệp cũng như huyện Quốc Oai là phên giậu phía Tây để bảo
vệ kinh thành Thăng Long, cũng như là địa bàn chiến lược để từ đây các cánh
quân tiến về giải phóng kinh đô.
Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhân dân Ngọc
Liệp lại nêu cao truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, tích cực tham gia
nghĩa quân do Nguyễn Văn Giáp chỉ huy. Năm 1907, các nhà Nho và tu sĩ
23
Phật giáo tại địa phương đã lập hội từ thiện tuyên truyền vận động tư tưởng
yêu nước trong nhân dân. Cùng với cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lược,
nhân dân còn có tinh thần đấu tranh chống áp bức bóc lột của địa chủ cùng
bọn cường hào gian ác địa phương.
Sang thời kỳ đấu tranh cách mạng, xuất phát từ lòng yêu nước, nhân
dân Ngọc Liệp đã kiên trì tập hợp lực lượng quần chúng thành tổ chức đấu
tranh từ nhỏ tới lớn, từ thấp tới cao, từ bất hợp pháp đến hợp pháp, dũng cảm
kiên cường chống mọi mưu mô, thủ đoạn, khủng bố bắn giết của giặc, giành
được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Vào những ngày Tháng Tám năm
1945, tại Ngọc Liệp nhân dân đã giải tán chính quyền cũ và thành lập chính
quyền cách mạng lâm thời.
Ngay sau đó, cả nước Việt Nam đứng trước một cuộc chiến tranh xâm
lược của thực dân Pháp. Là một xã có vị trí quan trọng nằm ở cửa ngõ phía
Tây của Hà Nội, Ngọc Liệp là một trong những xã địch chiếm đóng làm vành
đai bảo vệ của chúng. Đến tháng 4 năm 1949, vùng Ngọc Liệp hoàn toàn bị
Pháp chiếm, chúng cho lập một bốt quân sự tại Ngọc Bài. Nhân dân địa
phương đã gấp rút chuẩn bị mọi mặt, xây dựng và phát triển lực lượng chiến
đấu. Xã đã tiến hành vận động thanh niên vào đội tự vệ dưới sự chỉ huy của
Uỷ ban bảo vệ xã… Đêm 25 tháng 02 năm 1950, nhân dân địa phương đã
phối hợp với bộ đội địa phương Tỉnh tổ chức đánh và tiêu diệt bốt Ngọc Bài.
Đó là một chiến thắng quan trọng diễn ra tại địa phương [40, tr.798].
Với lòng dũng cảm quyết tâm đánh giặc trong kháng chiến, nhiều cán
bộ, nhân dân bị địch bắt, bị tra tấn rất dã man nhưng vẫn kiên cường đấu tranh
chống lại kẻ thù. Ngoài ra, còn có rất nhiều tấm gương đã anh dũng hy sinh
khi đang làm nhiệm vụ. Công lao trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp của nhân dân Ngọc Liệp là hết sức to lớn, đó là truyền thống tốt đẹp và
vô cùng quý báu của địa phương.
24
Sau ngày miền Bắc được giải phóng, thời gian yên bình để bắt tay vào
công cuộc xây dựng lại địa phương không được bao lâu, ngày 05/8/1964, Mỹ
bắt đầu cho máy bay bắn phá miền Bắc. Nhân dân Ngọc Liệp đã sẵn sàng
chuẩn bị cho cuộc chiến đấu mới. Với tinh thần “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để
đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, nhân dân Ngọc Liệp đã tiễn đưa hàng trăm cán
bộ, Đảng viên và thanh niên ra mặt trận. Với khẩu hiệu “thóc không thiếu một
cân, quân không thiếu một người”, nhân dân Ngọc Liệp ngày đêm dốc sức chi
viện cho cách mạng miền Nam. Tính đến cuối tháng 4 năm 1975, hàng trăm
thanh niên địa phương đã lên đường đánh Mỹ. Nhiều người con quê hương đã
ngã xuống để lại phần xương máu của mình trên chiến trường. Những người
con ưu tú đó là niềm tự hào, tiêu biểu cho ý chí quật cường, lòng dũng cảm,
truyền thống yêu nước của nhân dân Ngọc Liệp có từ hàng ngàn năm nay.
Hoà bình lập lại, biết bao khó khăn do thiên tai và hậu quả của chiến
tranh để lại, nhân dân Ngọc Liệp đã không quản gian lao vất vả, đem hết tinh
thần và nghị lực để khôi phục hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng cuộc
sống mới, xã hội mới, quan hệ sản xuất mới, phát triển kinh tế và sự nghiệp
văn hoá giáo dục, cải thiện đời sống nhân dân. Đồng thời, người dân Ngọc
Liệp còn tích cực tham gia công tác giữ gìn trật tự, bảo vệ an ninh Tổ quốc.
Với truyền thống lịch sử được tạo dựng qua hàng ngàn năm chiến đấu
và lao động, người dân Ngọc Liệp đã nuôi dưỡng cho mình ý thức yêu quê
hương, yêu đất nước, gắn bó với cộng đồng. Những truyền thống đó góp phần
tạo nên những giá trị văn hóa tinh thần vô cùng to lớn, qua đó hun đúc ý thức
tự hào về quá khứ oanh liệt, bảo vệ các giá trị vốn có của quê hương.
1.1.3. Đặc điểm kinh tế
Từ bao đời nay, Ngọc Liệp là một vùng quê nông nghiệp. Sản xuất
nông nghiệp luôn là ngành kinh tế quan trọng đem lại nhiều thu nhập cho
người dân. Phần lớn đất đai có thể canh tác được ở địa phương đều được sử
25
dụng cho sản xuất nông nghiệp. Hầu hết lao động chính tại đây cũng đều tham
gia hoạt động nông nghiệp. Trong tổng số 306,6 ha đất nông nghiệp ở địa
phương, có tới 301,5 ha là đất trồng lúa, chỉ có 5,1 ha là hồ đầm nuôi trồng
thủy sản [41, tr.799].
Vốn là cái rốn nước, trước kia, tuyệt đại bộ phận đất nông nghiệp địa
phương chỉ cấy được một vụ lúa chiêm. Cũng vì ngập lụt thường xuyên mà
đường làng, ngõ xóm nơi đây quanh năm bùn lầy, nước đọng, các gia đình ở
Ngọc Liệp đều có thuyền thúng, từ cụ già đến trẻ em đều biết chèo lái giỏi...
Người dân Ngọc Liệp phải sống trong cảnh nghèo đói mỗi mùa nước dâng
ngập xóm làng, đồng ruộng. Từ xa xưa, nơi đây có câu ca dao phần nào cho
thấy những nét khó khăn trong cuộc sống, lao động sản xuất:
“Quê em đồng trắng nước trong
Thóc gạo thì ít, rêu phong thì nhiều”
Ngày nay, bằng sự cần cù chịu khó, người dân nơi đây đã quy hoạch và
xây dựng công trình thủy lợi khá vững chắc, phần lớn chủ động được tưới,
tiêu, sản xuất được cải thiện, đời sống nhân dân từng bước được ổn định. Cơ
cấu mùa vụ, cơ cấu cây trồng vật nuôi được chuyển đổi hợp lý, áp dụng khoa
học kỹ thuật đồng bộ nhằm giảm sức lao động cho nông dân, nâng cao hiệu
quả sản xuất, Hợp tác xã được củng cố và kiện toàn đóng vai trò chủ đạo đối
với các dự án phát triển nông nghiệp tại địa phương. Tháng 4 năm 1976 tổ
chức được Hợp tác xã có quy mô toàn xã, chủ động kế hoạch gieo cấy đảm
bảo đúng thời vụ, chủ động phòng chống thiên tai, đầu tư nâng cấp, tu sửa cầu
cống, nạo vét kênh mương. Bước vào thời kỳ đổi mới, với chính sách phát
triển nông nghiệp mới, cách thức sản xuất mới thay thế cho phương thức làm
ăn cũ đã kích thích sự phát triển ở địa phương, đời sống nhân dân được cải
thiện, bộ mặt nông thôn qua đó cũng được đổi mới.