Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

THAM vấn tâm lý tự tử học ĐƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.79 KB, 32 trang )

Tham vấn tâm lý
Tử Tử Học Đường

Mở Đầu:

I.

Tự tử học đường không chỉ là những hiện tượng cá biệt của một cá nhân, gia
đình hay nhà trường và giờ đây đã trở thành vấn nạn của toàn xã hội. Ở các trường
học vấn đề tử tự đã không còn là vấn đề quá xa lạ, tuy ở mức độ khác nhưng cả
thành thị và nông thôn, cả đồng bằng và miền núi các vụ liên quan đến tự tử học
đường đều ở mức báo động. Trong quá trình phát triễn của mỗi con người chúng ta
thường trải qua các giai đoạn về phát triễn tâm- sinh lý, thể chất để hình thành
nhân cách và năng lực. Tuổi vị thành niên là lứa tuổi mà giai đoạn phát triễn rất cao
về thể chất và có những chuyển biến tâm sinh lý hết sức phức tạp. Chính những
yếu tố tâm lý cũng như thể chất và nhân cách chưa hoàn thiện một cách đầy đủ này
khiến cho trẻ em lứa tuổi vị thành niên hay bị khủng hoảng về tâm lý, dẫn đến
những suy nghĩ và hạnh động sai lệch gây ra những hậu quả đáng tiếc cho chính
các em cũng như gia đình, nhà trường và xã hội. Chính vì thế mà vấn đề trang bị
kiến thức về tâm- sinh lý nói chung cũng như kiến thức về vấn đề tự tử nói riêng
cần được thầy cô, nhà trường quan tâm và chú trọng hơn nữa. Lứa tuổi vị thành
niên giống như một cây cỏ non, các em dễ bị sa ngã dù chỉ là một tác động nhỏ
nhưng nếu tất cả chúng ta biết sẽ chia, lắng nghe, nâng đỡ bằng tất cả lòng yêu
thương thì tin chắc rằng các em sẽ mạnh mẽ đứng lên và vươn cao hơn nữa.
II.
1.

Nội Dung:
Lý do chọn đề tài:
1


Tự tử học đường


Trong 45 năm qua tỷ lệ tự tử đã tăng 60% trên toàn thế giới. Hàng năm, có
khoảng hơn 1 triệu người chết vì tự tử. Tự tử là nguyên nhân gây tử vong đứng
hàng thứ 13 ở mọi lứa tuổi trên thế giới và là một trong những nguyên nhân hàng
đầu gây tử vong ở lứa tuổi vị thành niên và người lớn trẻ tuổi tại các nước đang
phát triển. Các nước Đông Âu có tỷ lệ tự tử cao nhất toàn cầu (45 - 75 người/
100.000 người). Ở Mỹ, tự tử là nguyên nhân thứ 3 gây tử vong cho thanh thiếu
niên độ tuổi từ 15 - 24. Đa số các trường hợp tự tử xảy ra ở Châu Á là do dùng
thuốc bảo vệ thực vật.
Các chuyên gia đã phân tích 41 trường hợp trẻ tự tử ở Australia, Canada, Anh
và Mỹ. Trong đó có 24 trẻ gái và 17 trẻ trai có độ tuổi từ 13 - 18 tuổi. Kết quả cho
thấy, 24% thanh thiếu niên là nạn nhân của hình thức đe dọa về tình dục. Trong số
đó, một nửa đã được xác định là trẻ đồng tính và một nửa khác được xác định là dị
tính hay có sở thích tình dục không rõ. TS. John LeBlanc, thành viên nhóm nghiên
cứu cho biết: "Hăm dọa trên mạng là yếu tố gây nên một số vụ tự tử ở trẻ, nhưng
hầu như luôn có những yếu tố khác đi kèm như bệnh tâm thần hoặc đe dọa trực
tiếp. Và tình trạng hăm dọa trên mạng sẽ tác động lớn đến tâm lý sợ hãi ở trẻ nếu
thường xuyên xảy ra" .
Nghiên cứu ở các nước phát triển và các nước đang phát triển, phát hiện có các
rối loạn tâm thần ở 80 - 100% các trường hợp chết do tự sát. Người ta ước lượng
rằng nguy cơ tự sát trong cuộc đời của những người có rối loạn cảm xúc (chủ yếu
là trầm cảm) là 6 - 15%; với người nghiện rượu là 7 - 15%; và với tâm thần phân
liệt là 4 - 10% .
Tại Việt Nam, tỷ lệ thanh thiếu niên từng nghĩ đến chuyện tự tử và từng tìm
cách kết thúc cuộc sống của mình đã tăng cao hơn gấp đôi so với năm 2005 (Theo
cuộcđiều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên lần thứ 2, năm 2010). Số

2

Tự tử học đường


lượng người dân có ý nghĩ tự tử chiếm khoảng 8,9% dân số (Theo nghiên cứu của
bác sĩ Trần Thị Thanh Hương và các đồng sự, năm 2006).
Kết quả điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam năm 2008
cũng cho thấy, trong hơn 10.000 thanh thiếu niên thì trên 73% người từng có cảm
giác buồn chán, hơn 4% từng nghĩ đến chuyện tử tự. So với số liệu cuộc điều tra
trước đó vào năm 2003, các chuyên gia nhận thấy tỷ lệ thanh thiếu niên trải qua
cảm giác buồn chán đã tăng lên. Đáng chú ý, tỷ lệ nghĩ đến chuyện tự tử tăng lên
khoảng 30%
Thực trạng tự tử ở học sinh Việt Nam:
Theo số liệu của Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương, TP HCM, trong vòng một
năm (từ tháng 5/2007 - 5/2008), bệnh viện này tiếp nhận 310 ca tự tử dưới 16 tuổi,
trong đó 4 ca tử vong. Tại Bệnh viện Nhi đồng 1, TP HCM trong vòng một tháng
đã phải cấp cứu cho 4 trường hợp trẻ tự tử bằng thuốc diệt cỏ. Số liệu thống kê của
Bệnh viện Nhi đồng 2, TP HCM cũng cho thấy, có đến 47 trường hợp trẻ tìm đến
cái chết trong năm 2008. Những số liệu trên đã gióng lên hồi chuông báo động về
nạn tự tử vị thành niên .
Có thể nhận thấy, hiện tượng thanh thiếu niên tự tử cũng như học sinh tự tử ở
Việt Nam đã và đang diễn ra hết sức phức tạp. Chỉ trong 3 tháng đầu năm 2012,
theo thống kê của một số trang Internet, cả nước đã có khoảng 10 vụ học sinh tự
tử . Dưới đây là một số vụ việc điển hình:
- Ngày 13/4, một học sinh lớp 12 ở trường THPT Thanh Chương 1 (huyện Thanh
Chương, Nghệ An) đã gieo mình xuống dòng sông Lam tự vẫn.
- Ngày 31/3, người dân TP Pleiku, Gia Lai tá hỏa vì một cậu học trò lớp 8 treo
cổ tự tử vì nghi bạn gái phản bội.

3
Tự tử học đường



- Ngày 17/3, 3 nữ sinh THCS Phan Chu Trinh (xã Đắk Sắk, Đắk Mil, Đắk Nông)
uống thuốc độc tự tử vì sợ cô giáo mắng.
- Ngày 11/3, em Lầu Thị Dế, học sinh lớp 11, Trường Dân tộc nội trú huyện Điện
Biên Đông đã ăn lá ngón để tự vẫn vì cô đã làm hỏng chiếc điện thoại di động bố
cho.
- Ngày 28/2, bị nghi ngờ ăn trộm đồ đạc, nữ sinh M.T lớp 12 Anh THPT chuyên
Lê Hồng Phong (Nam Định) thắt cổ tự tử trong kí túc xá.
- Trước đó, ngày 10/2/2012, cháu Lương Thị H, sinh năm 1997, học sinh một
trường cấp 2 tại Hải Dương đã tự tử vì bị cho rằng ăn trộm quần áo tại một cửa
hàng.
- Tháng 1/2012, bị cô giáo bắt chép lại bài kiểm tra, nữ sinh K.O lớp 12 của
trường THPT tư thục Đông Quan (huyện Đông Hưng, Thái Bình) đã nhảy từ tầng 2
xuống đất tự tử.
Trước đây một vài năm, cũng xuất hiện một số những vụ việc thương tâm
do các em cùng nhau tự tử tập thể :
- Chiều 24/5/2006, 5 học sinh nữ sinh năm 1993, học lớp 7 trường THCS Phượng
Hoàng, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương rủ nhau trầm mình tập thể tại đoạn sông
Hương chảy qua địa phận xã. Các em dùng khăn buộc tay nhau nhảy xuống sông,
để lại 5 bức thư gửi cho gia đình và nhà trường cùng một nội dung xin vĩnh biệt
thầy giáo, bạn bè vì bị gia đình mắng mỏ và bị phân biệt đối xử nam nữ. Trước đó,
các em đã từng "ăn thề", kết nghĩa chị em và từng định bỏ nhà đi nhưng không
thành.
- Ngày 24/5/2006: Bị gia đình ngăn cản vì yêu đương quá sớm, chểnh mảng việc
học hành, “cặp tình nhân” là học sinh cấp 2 đã rủ nhau uống thuốc ngủ tự tử ngay
4
Tự tử học đường



tại nhà cô bé. Khoảng 20h, bố của Đ.T.T.T. (sinh năm 1990) ở quận Long Biên Hà Nội đi làm về, phát hiện con gái cùng bạn trai là Đ.X.T. (sinh năm 1991) đã
uống thuốc ngủ tự tử tại gia đình. Được phát hiện sớm và đưa đi cấp cứu kịp thời, 2
em đã được các bác sỹ cứu sống.
- Ngày 16/2/2006, 9 HS nữ đều 14 tuổi và đang học tại Trường THCS Cổ Nhuế A
Từ Liêm - Hà Nội, sau khi pha 100 viên thuốc ngủ vào cà phê đã uống và hậu quả
là 5 em phải nhập viện do hôn mê sâu. Ở trong lớp các em là nhóm bạn chơi rất
thân với nhau. Học kỳ I, một số bạn trong nhóm có kết quả học tập kém, bị gia
đình trách móc, làm các em rất chán nản.
- Ngày 7/10/2005: Sợ bị mắng, 3 HS 12 tuổi, trường Trường THCS thị xã Bến Tre
(tỉnh Bến Tre) uống thuốc ngủ, được nhà trường cùng gia đình lập tức đưa đi cấp
cứu tại bệnh viện tỉnh. Ba HS được giáo viên chủ nhiệm yêu cầu làm bản tự kiểm
điểm về kết quả học tập không tốt và buộc phải đưa cho phụ huynh ký tên vào. Các
em không dám mang về cho bố mẹ xem nên rủ nhau uống thuốc tự tử.
Ở Việt Nam, hiện tượng học sinh tự tử là vấn đề chưa nhận được sự quan
tâm thỏa đáng, vẫn chưa có một thống kê cụ thể nào về vấn đề này. Những vụ việc
được báo đài đưa tin chỉ là những vụ việc điển hình, trên thực tế còn không ít
những vụ việc học sinh tự tử mà dư luận xã hội chưa được biết đến. Theo thống kê
của Trung tâm phòng chống khủng khoảng tâm lý (PCP), ở Việt Nam thanh niên từ
15 - 24 tuổi là nhóm lứa tuổi có ý định tự tử cao nhất, trong đó tỷ lệ nữ cao gấp hai
lần so với nam. Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt Nam (năm
2010) đối với hơn 10.000 người trong nhóm tuổi này cho thấy, 4,1% người nghĩ
đến chuyện tự tử, 25% đã tìm cách kết thúc cuộc sống .
Theo bác sĩ Phạm Anh Tuấn, Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương, hiện tình
trạng trẻ vị thành niên tìm đến tự tử ngày càng trở nên bức xúc. Việt Nam là một
5
Tự tử học đường


trong các nước có tỷ lệ bệnh nhân tự tử cao nhất trong các trường hợp nhiễm độc
cấp, trong đó lứa tuổi tự tử nhiều nhất là thanh thiếu niên dưới 25 tuổi (chiếm

59,7%). Điều đáng lưu ý là phần lớn bệnh nhân tự tử đều có triệu chứng trầm cảm
(khoảng 57,1% số bệnh nhân). Theo bác sĩ Tuấn, nguyên nhân dẫn đến hành vi tự
tử thường là do bệnh nhân gặp phải những biến cố về tình cảm (61,6%). Ngoài ra
còn vì lý do tiền bạc (14,8%); bệnh tật (7,4%) và áp lực học hành thi cử (chiếm
3,5%). Phương thức tự tử phổ biến của các bệnh nhân là uống thuốc độc hay uống
các loại hoá chất (chiếm tới 97,7%), thông dụng nhất là các loại phục vụ cho nông
nghiệp như thuốc diệt sâu rầy có hay không có phốt pho hữu cơ, thuốc diệt cỏ .
Theo một cuộc khảo sát của TS. Ngô Thanh Hồi - Giám đốc Bệnh viện Tâm
thần ban ngày Mai Hương, có đến 19,46 % học sinh trong độ tuổi từ 10 -16 gặp
khó khăn về sức khỏe tâm thần. Trong khi đó, hiểu biết của xã hội, thậm chí ngay
trong ngành y tế về chăm sóc sức khỏe tinh thần cho học sinh còn rất nghèo nàn.
Thực tế những năm gần đây, rất nhiều vấn đề liên quan đến sức khỏe tinh thần
đang nổi lên như stress, lo âu, ám ảnh, trầm cảm, tự sát của học sinh, các biểu hiện
suy nhược và rối loạn cơ thể,...
TS Ngô Thanh Hồi cho biết, trẻ em vô tình bị đẩy vào những tình huống buộc
phải tự lập cũng như phải đối mặt với quá nhiều tác động có hại do mặt trái của
nền kinh tế thị trường, trong khi các em không có cơ hội được trang bị đầy đủ kiến
thức cần thiết về tâm lý. Hiện nay, trong nhà trường luôn luôn có một tỉ lệ học sinh
có vấn đề về sức khỏe tinh thần. Theo đó, có 15,94% học sinh có rối nhiễu về tâm
lý trong tổng số học sinh các cấp học, việc lạm dụng chất gây nghiện đang tăng lên
nhanh chóng trong cộng đồng thanh thiếu niên. Trong số các vụ tự sát, thì 10% ở
độ tuổi từ 10 - 17.
Theo nghiên cứu 21.960 thanh thiếu niên Hà Nội phát hiện 3,7% em có rối loạn
hành vi. Khảo sát sức khỏe tinh thần học sinh trường học thành phố Hà Nội bằng
6
Tự tử học đường


công cụ SDQ của Tổ chức Y tế Thế giới chuẩn hóa Việt Nam cho thấy trên mẫu
nghiên cứu gồm 1.202 học sinh tiểu học và trung học cơ sở trong độ tuổi 10 - 16

tuổi, tỷ lệ học sinh có vấn đề về sức khỏe tinh thần chung là 19,46 %. Tỷ lệ này đối
với nam, nữ, tiểu học, trung học cơ sở, nội thành, ngoại thành không có gì khác
biệt.
Những khó khăn về ứng xử của học sinh trong nghiên cứu của Bệnh viện Mai
Hương chiếm 9,23%. Lứa tuổi từ 10 - 11 có tỷ lệ 42 - 46% gặp khó khăn về ứng
xử. Đặc biệt có sự chênh lệch rất lớn về khó khăn trong ứng xử giữa học sinh nam
(84.60%) và học sinh nữ (15,40%). TS Hồi cũng lưu ý, trong lĩnh vực tâm lý trẻ
em, những phân biệt đối xử của ông bà, cha mẹ thậm chí định kiến bất bình đẳng
về giới cũng có tác động đến ứng xử của trẻ.
Các vấn đề liên quan đến phát triển trí tuệ, rối loạn nhân cách hành vi như rối
loạn cảm xúc, rối loạn tăng động, rối loạn ứng xử, xung động bạo lực, nghiện rượu
và ma túy, rối loạn ăn uống dẫn tới béo phì, đều là các rối loạn báo hiệu sức khỏe
tinh thần gặp khó khăn và nó hoàn toàn có thể là nguy cơ của hiện tượng học sinh
tự sát.
Nhìn chung, các vụ việc học sinh tự tử ở Việt Nam thường xuất phát từ một
số các nguyên nhân sau: Không đạt được kết quả mong muốn trong học tập như:
thi rớt, bị điểm kém…; Bị mất danh dự, bị sỉ nhục trước trường, trước tập thể lớp;
Bị người thân xúc phạm, vu oan, hiểu lầm; Bị áp lực do gia đình, nhà trường kỳ
vọng ở các em quá cao trong học tập; Gia đình có nhiều xung đột không thể giải
quyết: cha mẹ thường cãi vã nhau, anh em hiềm khích…; Bị ngăn cấm trong tình
yêu, tình bạn; Bị gia đình người thân ruồng bỏ; Phải chịu những đợt khủng hoảng
kéo dài, có cảm giác cô đơn không còn ai để tâm sự, chia sẻ; Mặc cảm với tội lỗi
như bị cưỡng hiếp, quay cóp bị phát hiện được…; Sụp đổ khi đang thần tượng một
ai đó; Tử tự cũng là một cách chứng minh rằng các em vô tội; Tử tự cũng là một
7
Tự tử học đường


cách trả thù; Do không dám đương đầu với những hoàn cảnh khó khăn, bế tắc
trong cuộc sống; Do các em không tìm thấy được ý nghĩa của cuộc sống.

Trong các vụ việc học sinh tự tử được đưa tin trên các kênh thông tin truyền
thông, phương thức mà các em sử dụng chủ yếu là nhảy cầu, uống thuốc độc, cắt
mạch máu, nhảy lầu hoặc treo cổ tự vẫn.
Hiện tượng học sinh tự tử ở Việt Nam là một vấn đề cần nhận được sự quan
tâm thỏa đáng của các nhà quản lý giáo dục, của mỗi gia đình và toàn xã hội. Hậu
quả sẽ là rất đau đớn khi hiện tượng này vẫn diễn ra. Bản thân những học sinh tự tử
sẽ vĩnh viễn mất đi cơ hội được sống, được học tập và phấn đấu, gia đình và nhà
trường có học sinh tự tử sẽ phải gánh chịu một vết thương tinh thần vô cùng to lớn,
xã hội sẽ mất đi những chủ nhân tương lai.

2.
2.1

Cơ sở lí thuyết:
Khái niệm về tự tử :
8

Tự tử học đường


Hành vi tự tử (suicidal behaviour) theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới bao
gồm 3 thành phần: ý tưởng tự sát (chỉ thể hiện trong ý nghĩ); mưu toan tự sát (có
hành vi để tự tử, nhưng không thành công); tự sát (có hành vi tự tử đi đến tử vong).
Dự báo của Tổ chức Y tế thế giới, thì đến năm 2020 tự tử sẽ là nguyên nhân tử
vong hàng đầu ở các nước phát triển và hàng thứ 2 ở các nước đang phát triển.
2.2

Biểu hiện:

- Trẻ nói (hoặc đùa) về tự tử (vd:” thà chết còn hơn”; “ước là có thể biến mất

mãi mãi”, “hết đường rồi”, “nếu em chết mọi người sẽ yêu em hơn”, “sống để làm
gì”,...)
- Thực hiện các hành vi liều lĩnh hoặc có rất nhiều lần bị tai nạn dẫn đến thương
thích, tự làm đau bản thân( tự cứa tay, cắt tay,..)
- Dọa tự tử trực tiếp hoặc gián tiếp
- Trẻ không muốn gặp ai, ngồi một mình trong phòng, ngại đến trường và
những nơi đông người.
- Trẻ có thái độ tần ngần, ủ rũ, buồn chán, tức tối… không thích nói chuyện với
ai (kể cả người thân). Trẻ sẽ lấy cớ bận việc gì đó để tránh giao tiếp với mọi người.
- Có những thay đổi trong hành vi, diện mạo, suy nghĩ hoặc cảm xúc( chẳng hạn
trẻ tỏ ra vâng lời một cách bất thường, người lớn bảo sao làm vậy mà không phản
ứng gì hoặc dễ dàng cho đi những món quà, những tài sản riêng quý giá của mình)
- Có thể trẻ bị rối loạn giấc ngủ, ăn uống không ngon miệng, bỏ qua các thói
quen luyện tập thể dục thể thao trước đây.
- Trẻ nói những chuyện xa xăm mang tính tiêu cực kiểu như “sau này không có
con thì cha mẹ sẽ thế nào” hoặc “nếu con phải đi xa đâu đó một thời gian thì…”.
Nếu để ý có thể trẻ sẽ nói cả về vấn đề tự tử và những câu nhắn nhủ cuối cùng
9
Tự tử học đường


- Có hành vi chuẩn bị cho cái chết( chẳng hạn như viết di chúc, cho đi những tài
sản có giá trị,..)
- Bị ám ảnh về cái chết.
Một số dấu hiệu nhận biết có thể được chia thành:
a. Nhận biết dấu hiệu tinh thần và cảm xúc:
Nhận biết loại suy nghĩ tự tử tiềm năng. Những người có ý định tự sát
thường biểu hiện một số suy nghĩ đặc trưng. Nếu ai đó cho hay họ đang gặp một
hoặc nhiều vấn đề dưới đây, bạn cần hết sức lưu ý. Ví dụ như:







Suy nghĩ ám ảnh thường xuyên xuất hiện trong đầu.
Không còn một chút hy vọng nào, và cách duy nhất để giải quyết nỗi đau đó
là tự kết liễu đời mình.
Cảm thấy cuộc sống trở nên vô nghĩa, hoặc không thể kiểm soát chúng.
Bộ não thường hay mơ hồ, hoặc không thể tập trung được.
Nhận biết trạng thái cảm xúc muốn tự sát. Những người có ý định tự tử
thường hay trải qua những giai đoạn cảm xúc khiến họ phải hành động quyết



liệt. Ví dụ như:
Tâm trạng đột ngột thay đổi.
Thường hay bực bội, giận dữ cực độ, hoặc có ý định báo thù.
Thường xuyên căng thẳng lo âu cùng cực.Ngoài ra họ rất dễ cáu kỉnh.
Có cảm giác tội lỗi hay xấu hổ, hoặc cảm thấy bản thân trở thành gánh nặng



cho người khác.
Thường hay cảm thấy cô đơn hay biệt lập, thậm chí là đang ở xung quanh






nhiều người, kèm theo cảm giác xấu hổ hay bị nhục mạ.
b. Nhận biết dấu hiệu muốn tự sát thông qua lời nói:
Những người đang trải qua cảm giác đau khổ thường hay có những câu nói
không bình thường và có ý định kết thúc cuộc đời của mình. Ví dụ như nếu một
người đề cập nhiều đến sự chết chóc, thì đây là một dấu hiệu rõ ràng vì người bình
10
Tự tử học đường


thường không bao giờ làm như vậy. Nếu một người phát ngôn những câu dưới đây,
bạn cần hết sức thận trọng:
kêu cứu, chào hỏi, tạm biệt mọi người để đi xa hay nói lời vĩnh biệt. Ngoài ra,
các em có xu hướng nói những lời như:
“tôi chán rồi, không muốn sống nữa, không thiết gì cả”.
“Điều này không tốt một chút nào,”
“Cuộc đời này không đáng sống,” hay “Nó không còn quan trọng nữa rồi.”
“Họ sẽ không thể nào làm tổn thương tôi được nữa.”
“Họ sẽ nhớ về tôi khi tôi ra đi,” hoặc “Bạn sẽ thương0 tiếc khi tôi ra đi.”
“Tôi không thể chịu đựng nỗi đau này được nữa,” hoặc “Tôi không thể giải
quyết hết mọi chuyện. Cuộc sống quá khó khăn đối với tôi.”
“Tôi cảm thấy cô đơn đến nỗi chỉ muốn chết đi.”
“Bạn/gia đình/bạn bè/bạn gái hoặc bạn trai tôi sẽ sống tốt hơn nếu không có
tôi.”
“Lần sau tôi sẽ dùng nhiều thuốc để giải quyết vấn đề.”
c. Nhận biết dấu hiệu hành vi:
Tìm dấu hiệu "giải quyết mọi vấn đề " Những người có ý định tự tử thường
hay cố gắng giải quyết mọi vấn đề trước khi hành động. Đây là dấu hiệu cảnh báo
nghiêm trọng vì một người đang ra sức giải quyết vấn đề thường đã lên kế hoạch tự
sát. Một người muốn tự tử có thể làm những điều sau đây:




Cho đi tài sản có giá trị.
Sắp xếp tài chính, chẳng hạn như bất ngờ viết di chúc.

11
Tự tử học đường




Nói lời tạm biệt với những người thân yêu. Một người đang có kế hoạch tự
vẫn thường đột nhiên chào tạm biệt một cách xúc động tại nhiều thời điểm
khác nhau.

- Các hành vi nguy hiểm và liều lĩnh:
Vì người có ý định tự tử không tìm thấy lý do để tiếp tục cuộc sống, họ thường
hay thực hiện những hành vi gây nguy hiểm đến tính mạng, chẳng hạn như lái xe
liều lĩnh. Dưới đây là một số dấu hiệu cảnh báo mà bạn cần lưu ý:
+ Sử dụng ma túy (hợp pháp hoặc bất hợp pháp) và rượu bia quá liều.
+ Lái xe không cẩn thận, chẳng hạn như lái quá nhanh hoặc điều khiển phương
tiện trong lúc say rượu.
+ Quan hệ tình dục không an toàn, thường là với nhiều bạn tình.
- Quan sát cách thức tự tử:
Bạn nên lưu ý khi một người vừa mới mua súng, hoặc tích trữ thuốc hợp pháp
hoặc bất hợp pháp. Nếu một người đang tích trữ thuốc hoặc mua vũ khí một cách
bất ngờ, bạn cần hành động nhanh chóng. Sau khi kế hoạch hoàn tất, họ có thể tự
tử bất cứ lúc nào.
- Lưu ý sự thiếu hụt đời sống xã hội:
Những người có ý định tự tử thường hay tránh né bạn bè, gia đình, hoặc đồng

nghiệp nhằm rút khỏi sự tiếp xúc với xã hội một cách âm thầm lặng lẽ.
Nên hành động thay vì chỉ ngồi đó và lắng nghe một người nói rằng "Tôi chỉ muốn
ở một mình."
Lưu ý thay đổi cực đoan trong thói quen thường ngày. Nếu một người đột
nhiên ngừng chơi bóng rổ hàng tuần hay chơi trò chơi ưa thích hàng đêm, đây có
12
Tự tử học đường


thể là dấu hiệu cảnh báo. Việc ngừng tham gia vào các hoạt động giải trí hàng ngày
có thể là dấu hiệu cảnh báo người này đang cảm thấy không vui, trầm cảm, hoặc có
thể đang có ý định tự tử.
Lưu ý hành vi suy giảm bất thường. Những người có ý định tự tử, trầm cảm
thường trông thiếu sức sống cho các hoạt động tinh thần lẫn thể chất. Đặc biệt, bạn
nên xem chừng những hành vi sau:




Khó đưa ra quyết định đơn giản một cách bất thường.
Không có hứng thú với tình dục.
Thiếu hụt năng lượng, hành vi chẳng hạn như nằm trên giường cả ngày
Lưu ý dấu hiệu cảnh báo ở thanh thiếu niên. Nếu đối tượng là trẻ vị thành

niên, bạn cần quan sát các dấu hiệu cảnh báo phổ biến và tác nhân kích thích ở
nhóm này, ví dụ như:



Gặp rắc rối về gia đình hoặc pháp luật.

Hoàn cảnh sống như là mới chia tay người yêu, không được vào đại học, hay



mất bạn thân.
Không có bạn bè, gặp vấn đề trong các hoàn cảnh xã hội, hoặc tránh xa bạn



bè thân thiết.
Vấn đề cá nhân, chẳng hạn như thiếu ăn hoặc ăn nhiều, ít vệ sinh thân thể,
hoặc không quan tâm đến ngoại hình (ví dụ như một đứa trẻ vị thành niên




đột nhiên ngưng trau chuốt ngoại hình).
Phác họa khung cảnh chết chóc.
Chuyển đổi hành vi thông thường một cách bất ngờ, chẳng hạn như điểm số
tụt dốc, thay đổi tính cách, hoặc có hành vi nổi loạn cũng là những dấu hiệu



cảnh báo.
Các vấn đề rối loạn ăn uống chẳng hạn như chán ăn hoặc ăn uống vô độ
cũng dẫn đến trầm cảm, lo âu, và thậm chí là ý định tự tử. Thanh thiếu niên
bị bắt nạt hoặc đi bắt nạt người khác cũng có nguy cơ cao muốn tự sát.

13
Tự tử học đường



- Xác định các yếu tố nguy cơ dẫn đến tự tử:
Xem xét lịch sử ra đời và hoàn cảnh hiện tại. Trải nghiệm cá nhân gần đây
hoặc đã lâu cũng có thể khiến họ hình thành ý nghĩ tự sát. Một người có thể bị kích
thích tự tử và có nguy cơ cao khi gặp phải những trường hợp như người thân yêu
qua đời, mất việc, bị bệnh nặng (đặc biệt bao gồm đau mạn tính), ngược đãi, và
những điều trong cuộc sống gây căng thẳng.
Lưu ý đặc biệt khi một người đã từng có ý định tự sát. Những người này
thường sẽ thử lại một lần nữa. Trên thực tế, một phần năm số người chết do tự sát
thường có ý định từ trước.
Tình trạng bị lạm dụng về thể chất hoặc tình dục trong quá khứ cũng có thể
khiến một người gặp phải nguy cơ tự tử cao.
Lưu ý sức khỏe tâm thần của một người. Một số vấn đề sức khỏe tinh thần
chẳng hạn như rối loạn lưỡng cực, trầm cảm, hoặc tâm thần phân liệt, hay có tiền
sử mắc các bệnh trên cũng góp phần rủi ro cao. Trên thực tế, 90% các vụ tự sát
thường liên quan đến trầm cảm hoặc một số bệnh tâm thần khác, và 66% những
người có ý định tự tử cũng bị rối loạn tâm thần.
Rối loạn do căng thẳng lo âu (ví dụ như rối loạn căng thẳng sau chấn thương)
và thiếu kiểm soát tính cách bốc đồng (chẳng hạn như rối loạn lưỡng cực, rối loạn
hành vi, rối loạn chất) cũng là những tác nhân dẫn đến ý định tự sát.
Triệu chứng bệnh tâm thần làm gia tăng nguy cơ tự tử bao gồm căng thẳng
cực độ, hoảng loạn, tuyệt vọng, mất hy vọng, cảm thấy mình là gánh nặng, mất
hứng thú và niềm vui, và suy nghĩ ảo tưởng.
Mặc dù vẫn chưa có mối liên hệ chính xác giữa tự tử và trầm cảm, nhưng hầu
hết những người chết do tự sát đều bị trầm cảm nặng. Người mắc nhiều bệnh tâm
14
Tự tử học đường



thần cùng lúc thường dễ có ý định tự sát. Việc mắc hai bệnh tâm thần làm gia tăng
nguy cơ tự tử lên gấp đôi, và ba bệnh cùng lúc sẽ làm tăng gấp ba khi so sánh với
bệnh nhân chỉ mắc phải một tình trạng rối loạn tâm thần.
Điều tra tiền sử tự sát của gia đình. Các nhà khoa học vẫn chưa kết luận chính
xác liệu nguyên nhân chính có phải do môi trường, di truyền, hoặc cả hai, nhưng
việc tự sát thường xảy ra trong một gia đình.
Một số nghiên cứu cho hay nguyên nhân gây nên tự sát có liên quan đến gen
di truyền, vì thế nếu một người là con nuôi của gia đình, đây có thể là yếu tố nguy
cơ.Ảnh hưởng môi trường sống gia đình cũng có thể là một tác nhân.
Xem xét số liệu thống kê tự sát. Bất kỳ ai cũng có thể có ý định tự sát về mặt
thống kê, nhưng một số nhóm người thường có tỷ lệ tự sát cao hơn nhóm khác.
Nếu biết một người có nguy cơ, bạn cần lưu ý những điều sau:


Nam giới thường hay có nguy cơ tự tử. Đối với mọi lứa tuổi và chủng tộc, tỷ
lệ tự sát ở nam giới cao gấp bốn lần so với nữ giới. Trên thực tế, 79% các vụ



tự sát thường xảy ra ở nam giới.
Bất kể giới tính thông thường, cộng đồng LGBT (đồng tính nữ, đồng tính



nam, lưỡng tính, và chuyển giới) thường có nguy cơ tư sát cao gấp bốn lần.
Người lớn tuổi thường có nguy cơ tự tử cao hơn so với nhóm trẻ. Những
người ở độ tuổi từ 45 đến 59 có tỷ lệ tự sát cao nhất, và người trên 74 tuổi có




nguy cơ cao thứ hai.
Người Mỹ bản địa và Da trắng cũng được thống kê là có rủi ro tự sát cao
hơn chủng tộc khác.
Các số liệu thống kê này không có nghĩa là bạn không cần phải lưu ý những

người không nằm trong các nhóm nêu trên. Nếu người mà bạn quan tâm có những
biểu hiện tự tử, cho dù là nam hay nữ, ở độ tuổi nào, thì bạn cũng nên hết sức cẩn

15
Tự tử học đường


trọng. Tuy nhiên, nếu người đó thuộc một trong các nhóm trên, họ sẽ gặp nguy cơ
cao hơn.
2.3

Nguyên nhân:

Điều đầu tiên, cha mẹ cần suy xét lại mình đã thực sự quan tâm đến trẻ và hiểu
trẻ chưa, nguyên nhân nào đã dẫn trẻ đến hành động tự vẫn. Các bậc phụ huynh
cần hiểu rõ, khi trẻ đã đi đến quyết định tự vẫn, tức là bản thân trẻ đã rơi vào trạng
thái bế tắc cùng cực, khi trẻ tự tử chính là lúc các em đang kêu cứu. Qua hành động
này, trẻ muốn nói với chúng ta rằng: con không muốn chết mà vì không ai quan
tâm tới con, hoặc mọi người đã hiểu sai con; con chỉ muốn được nhìn nhận, được
yêu thương.
Việc trẻ chọn lựa hành vi tự tử có liên quan đến nhiều vấn đề. Ngoại trừ vấn đề
bệnh lý tâm thần do bất thường của hoạt động não, đa số yếu tố ảnh hưởng đến
việc tự tử ở học sinh là những vấn đề xã hội, nhà trường và gia đình. Các nhà
nghiên cứu tâm lý - tâm thần - xã hội học đã ghi nhận tình trạng bắt chước, “lây
bệnh” từ những chương trình truyền hình, phim ảnh, các thông tin xã hội về tình

trạng tự tử. Theo nhà nghiên cứu Gould (1990), tỷ lệ trẻ tự tử ở Mỹ càng lúc càng
tăng thêm theo từng đợt xuất hiện các bộ phim liên quan đến những hành vi tự tử.
Tác giả Brent (1994) và Gould (1996) nhận thấy tự tử có liên quan đến những bất
đồng giữa trẻ và phụ huynh, tình trạng bất ổn trong sinh hoạt gia đình. Sự bất đồng
này thường xuất phát từ việc giao tiếp kém giữa phụ huynh và trẻ.
Những căng thẳng trong gia đình, như: bất hòa giữa cha - mẹ, cha mẹ ly hôn, sự
thiếu quan tâm của cha mẹ về tâm lý, sự độc tài, sự áp đặt, sự buông lỏng, thờ ơ
của cha mẹ, kinh tế gia đình khó khăn, tình trạng trầm cảm - lo âu của cha mẹ,
bệnh lý của cha mẹ hoặc của trẻ… là những yếu tố rất thường gặp trong những
trường hợp tự tử tuổi vị thành niên.
16
Tự tử học đường


Những yếu tố gia đình còn có thể xem là yếu tố quan trọng nhất đối với tự tử ở lứa
tuổi nhỏ hơn, bên cạnh yếu tố bất an, căng thẳng trong trường học, trong giao tiếp
với bạn bè. Ở độ tuổi này, mối quan hệ với trường học và bạn bè là mối quan hệ
ngoài gia đình duy nhất của trẻ, có tính nâng đỡ và xây dựng nhân cách của trẻ.
Khi có những khó khăn trong mối quan hệ này, cộng với những khó khăn xuất phát
từ gia đình, trẻ sẽ mất nguồn lực, mất đi sự động viên và giúp đỡ trong khi tình
trạng căng thẳng nội tại cũng vừa xuất hiện và mạnh mẽ dần. Chính vì vậy, việc trẻ
thu mình, tự kỷ, trầm cảm và nặng nhất là tự tử là điều rất dễ xẩy ra.
Đứng trước những vụ việc học sinh tự tử, chúng ta thường cho rằng đó là những
hành động “dại dột, bồng bột” của các em. Nhưng thực chất nó là kết quả của sự
cộng hưởng giữa 3 cái thiếu: Thiếu cân bằng trong tâm sinh lý lứa tuổi - thiếu kỹ
năng ứng phó - thiếu chỗ dựa từ thầy cô, cha mẹ.

Dưới góc độ sinh lý, chúng ta đều biết ở độ tuổi thanh thiếu niên, hưng phấn trong
thần kinh rất mạnh, do đó các em dễ mất kiểm soát và có hành động bất ngờ.
17

Tự tử học đường


Dưới góc độ tâm lý, tuổi mới lớn đang gặp nhiều trục trặc trong thời điểm dậy thì,
tính tự ái cực kỳ cao, dễ thổi phồng mọi việc, lại gặp những vấp váp đầu đời trong
khi chưa có kinh nghiệm sống, chưa có kỹ năng ứng phó.
Dưới góc độ quan hệ xã hội, đây là lúc mà vị thế của người lớn giảm một bậc trong
mắt trẻ và các em tự nâng vị thế của mình lên một bậc, cho mình nhiều quyền
quyết định hơn - thậm chí quyết định cả mạng sống của mình, giữa các em và
người lớn đang có một “dấu cách” nhất định, gia đình ít gần gũi và ít sát sao các
em hơn so với lúc trước.
Tất cả ba yếu tố sinh lý - tâm lý - quan hệ xã hội đó cùng lúc đã đẩy nhiều bạn trẻ
vào sự chông chênh trong cảm xúc, sự bế tắc trong suy nghĩ và bộc phát trong hành
động. Trong khi đó, rõ ràng điểm kém, một lần thi trượt, vài trăm ngàn đồng, một
lời trách oan của cô giáo… đều là những sự việc các em hoàn toàn có thể vượt qua,
hoàn toàn giải quyết được. Tuy nhiên, không ai chỉ bảo cho các em kỹ năng ứng
phó với những chuyện đời thường này cả.
Trẻ đến trường với hơn 10 môn học, các em ở với gia đình hơn 8 tiếng mỗi ngày,
qua đó chúng ta đã dạy các em rất nhiều kiến thức nhưng cách ứng phó với các vấn
đề mâu thuẫn thường ngày thì dường như các em phải tự học. Khi các em đi đến
quyết định tự kết thúc cuộc đời mình, lỗi không hoàn là ở các em, mà chủ yếu là do
chúng ta đã dạy các em chưa đầy đủ.

18
Tự tử học đường


- Tuổi thiếu niên và những khó khăn để thích ứng với xã hội
Tuổi vị thành niên là một giai đoạn có sự thay đổi về thể chất, tâm sinh lý, xã
hội với sự thay đổi về sự bài tiết các hormon dẫn đến sự thay đổi rất nhanh chóng

về cảm xúc, có thể từ một trạng thái ức chế chuyển sang hưng phấn chỉ trong thời
gian rất ngắn. Lứa tuổi thiếu niên là lứa tuổi mà kinh nghiệm ứng phó với những
sự kiện stress trong cuộc sống còn rất kém và chính sự thiếu kinh nghiệm trong
cuộc sống này dẫn đến những hành vi có tính chất xung đột hoặc có những quyết
định mang tính chất bột phát, thiếu suy nghĩ.
Trẻ vị thành niên có nhiều thay đổi về các đặc điểm tâm, sinh lý.Có những vấn
đề về sức khỏe tâm thần: đặc biệt là trầm cảm, rối loạn cảm xúc lưỡng cực, sử
dụng rượu hoặc những chất kích thích, những trẻ có sự thay đổi lớn trong cuộc
sống hằng ngày ví dụ bố mẹ ly dị, có sự suy sụp về tài chính trong gia đình, xa bố
mẹ, gia đình có mâu thuẫn…, tỉ lệ nhóm này chiếm tới 95% các trường hợp tự sát.
19
Tự tử học đường


Tiền sử gia đình có người tự sát hoặc trầm cảm. Những trẻ có tiền sử bị lạm dụng
về thể chất hoặc bị lạm dụng về tình dục. Những trẻ không có sự nâng đỡ của xã
hội, không được sự chăm sóc của cha mẹ, người thân, bạn bè, cảm thấy cô đơn.
Trầm cảm là một nguyên nhân chính dẫn đến tự sát ở lứa tuổi thiếu niên, những
trẻ trầm cảm thường có những biểu hiện sau: buồn chán, thể hiện sự mất hết hy
vọng. Những trẻ bị trầm cảm thường hay gặp phải những vấn đề phức tạp ở trường
học như không tập trung chú ý, đạt điểm kém, trẻ có thể biểu hiện bỏ nhà đi, sử
dụng các chất gây nghiện, dùng rượu hoặc nghiện chơi điện tử, thậm chí có thể
cónhững

II.4

hành

vi


mang

tính

Hậu quả:

20
Tự tử học đường

chất

bạo

lực,

kích

động.


Tự tử học đường để lại hậu quả khôn lường không chỉ với cá nhân học sinh có tử
tự mà còn tác động xấu tới gia đình, nhà trường và xã hội.
Chúng ta thường mặc định gắn hành vi tự tử với cái chết. Tuy nhiên, đó không
phải là kết quả đơn nhất mà hành vi tự tử gây cho nạn nhân. Tuy nhiên hành vi tự
tử có thể có nhiều hậu quả khác nhau:
- Đầu tiên, một kết quả tất yếu khi đi đến tự tử là các em sẽ không còn tồn tại trên
cõi đời này nữa, nói cách khác là các em đã chết. Đây là kết quả mong muốn có
được của các em khi thực hiện hành vi này – được giải thoát. Nhưng các em đã
từng một lần nghĩ cho những người thân yêu của mình chưa? Họ sẽ đau khổ ra sao
khi người con, người em, người yêu,…của mình không còn trên đời nữa; ai có thể

bù đắp chỗ trống bạn để lại trong lòng họ; ai sẽ thay bạn hoàn thành trách nhiệm
đối với gia đình, nhà trường và xã hội. Gia đình mất đi một thành viên , nhà trường
mất đi một học sinh, xã hội mất đi một công dân tương lai. Và một hậu quả đáng
buồn nữa sau đó là một tâm lý lo lắng, một nỗi sợ sẽ luôn hiện hữu trong tâm trí
của tất cả mọi người khi nghĩ đến điều đó, đó chính là ẩn thân của một trong những
yếu tố làm cho một cá nhân tiếp theo trong một phút giây suy nghĩ lệch lac, sa ngã
giữa dòng đời có những hành động đáng tiếc xảy ra.
- Cuối cùng, do các điều kiện chủ quan và khách quan khác nhau mà hành vi tự tử
không dẫn đến cái chết. Cá nhân học sinh sẽ phải chịu đau đớn về thể xác, thậm chí
là những di chứng, biến chứng, ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe, cũng như tâm
lý,các em còn phải đối mặt với sự chất vấn, những cái nhìn soi mói từ xã hội vì
hành vi của mình. Dù rằng sau đó, tuy rằng gia đình , những người thân của em sẽ
bên cạnh chăm lo và an ủi các em nhưng đâu đó trong suy nhĩ, trong lòng các em
sẽ cảm thấy mình có lỗi thật nhiều, sẽ mất rất nhiều thời gian để có thể chữa lành
vết thương trong lòng các em, để các em có thể trở lại và vui vẻ bình thường như
xưa.
21
Tự tử học đường


3.

Cơ sở thực tiễn:

Theo số liệu của Tổ chức Y tế thế giới, trung bình hiện nay trên thế giới có
khoảng 3000 người trẻ tuổi chết vì tự tử mỗi ngày. Con số này còn chưa kể đến
những trường hợp tự tử không thành. Những người có ý định tự tử nhiều hơn
khoảng 20 lần số người tử vong vì tự tìm đến cái chết. Tỷ lệ tự tử cao nhất thuộc về
các nước Trung - Đông Âu và châu Á.
Hàn Quốc: Tỷ lệ ngày càng tăng cao

Tại Hàn Quốc, 14.160 người đã tìm đến cái chết vào năm 2012, tương đương,
trung bình có 39 người/ngày, tăng 219% so với năm 2000 (với 6.444 trường hợp).
Tỷ lệ này ở giới trẻ Hàn Quốc đặc biệt đáng báo động vì từ năm 2001 - 2011, số vụ
đã tăng 57%, tăng cao hơn hẳn so với tỷ lệ này ở nhóm tuổi trưởng thành. Trong
năm 2009, 9% nhóm trẻ tuổi học đường (bao gồm cả bậc tiểu học và trung học)
thừa thận đã nghĩ đến chuyện quyên sinh.
Nhật Bản: Vấn nạn chưa có lời giải, theo báo cáo của Cục cảnh sát quốc gia, số
học sinh sinh viên tự tử vì các vấn đề ở trường học tăng 20 em mỗi năm và tăng lên
mức kỷ lục 91 em vào năm 2006, mức tăng cao nhất từ năm 1998. Theo thống kê,
năm 2014, số lượng học sinh sinh viên tự tử ở đất nước mặt trời mọc là 874 người,
chiếm 3,4% tổng số trường hợp tìm đến cái chết.
Hàn Quốc, Nhật Bản là những quốc gia có tỷ lệ trẻ tự tử cao
Trung Quốc: Nguyên nhân chủ yếu là áp lực học đường, theo báo cáo của chính
phủ hồi tháng 5/2014, có 79 trường hợp sinh viên Trung Quốc tự tử năm 2013,
90% vì không chịu nổi áp lực học tập. Sức ép quá lớn từ việc học tập ở trường và
tìm việc làm là những lý do chính đằng sau tỷ lệ tự tử cao ở thanh niên Trung
Quốc. Số liệu thống kê gần đây của hội sức khỏe tâm thần Trung Quốc cho biết, tự
tử chiếm hơn 26% số trường hợp tử vong trong nhóm tuổi từ 15-34 tuổi.
22
Tự tử học đường


Giới trẻ suy nghĩ và tinh thần chưa ổn định nên dễ suy nghĩ tiêu cực
Mỹ: 16% thanh thiếu niên suy nghĩ nghiêm túc về tự tử. Tại Mỹ, tình trạng giới
trẻ tự tìm đến cái chết cũng khá cao. Nhiều trường hợp tìm đến tự tử hơn một lần
khi lần trước không thành. Một cuộc khảo sát quốc gia năm 2011 ở nhóm tuổi từ
lớp 9-12 tại các trường công lập và dân lập tại Mỹ cho thấy, 16% học sinh có suy
nghĩ nghiêm túc về chuyện tự tử, 13% cho biết đã lập 1 kế hoạch cho việc này. Mỗi
năm Mỹ có khoảng 157.000 thanh thiếu niên được điều trị y tế đối với những tổn
thương do tự trẻ gây ra.

Canada: tỷ lệ tử tự ở nữ giới tằng vọt. Trong năm 1980, nữ giới ở độ tuổi 10-14
có khoảng 600/100.000 trường hợp tử tự, nhưng đến năm 2008 con số này đã tăng
đến 900 trường hợp. Còn ở độ tuổi 15-19, số trường hợp tự tử cũng tăng cao từ
3.700 lên 6.200 vụ. Nhìn chung, tự tử là nguyên nhân thứ hai gây ra tình trạng tử
vong ở nữ giới có độ tuổi 10-19 tại Canada.
Việt Nam: theo số liệu thống kê xu hướng tự tử học đường 2011- 2015 do bộ y
tế và bộ giáo dục công bố thì trong 5 em học sinh sẽ có 1 em có ý định tử tự ,
trong một năm bệnh viên nhi đồng tiếp nhận 20 ca học sinh uống thuốc độc tự tử.
Tại Việt Nam tự tử là nguyên nhân thứ hai gây tự vong ở người trẻ tuổi xếp sau tai
nạn giao thông.
4.

Giải pháp:
Việc đầu tiên khi biết trẻ có ý định tự tử đó là chúng ta phải giữ bình tĩnh, hỏi

trực tiếp trẻ có nghĩ về việc tử tự không. Nhấn mạnh rằng chúng ta quan tâm đến
sự khỏe mạnh của trẻ và tránh buộc tội, phán xét trẻ. Lắng nghe trẻ, trấn an trẻ có
thể tiềm được sự giúp đỡ và trẻ sẽ không phải chịu những cảm xúc như vậy mãi
mãi. Giám sát trẻ thường xuyên không để trẻ một mình, phải đưa trẻ vào môi
trường an toàn: tránh xa các vật dụng có thể tự sát (dao, kéo, vật nhọn, dây, vải,
23
Tự tử học đường


súng, vật cứng…), có thể quan sát trẻ 24/24 (tốt nhất là nhập viện). Điều quan
trọng là khi giúp trẻ có thể nói về vấn đề tự tử: ý định tự tử, cách thức thực hiện
mong muốn, nguyên nhân dẫn đến ý định tự tử. Trẻ sẽ cảm nhận đó là sự quan tâm
cần thiết mà trẻ đang thực sự thiếu thốn trong giai đoạn này. Việc nói lên ý định tự
tử giúp trẻ dễ dàng bộc lộ những cảm xúc bị kềm nén, những lo âu do stress, những
căng thẳng khi quyết định tự tử… cũng như giúp phụ huynh có thể cho trẻ thấy sự

quan tâm, yêu thương của người thân dành cho trẻ.
Thông báo và sự tham gia của phụ huynh:


Phụ huynh cần được thông báo và chủ động tham gia vào các quyết định liên
quan đến an sinh con cái của họ( thậm chí, ngay khi một đứa trẻ được xem ít



có nguy cơ tự tử)
Nhà trường cũng nên yêu cầu phụ huynh ký vào mẫu đơn Thông Báo Họp
khẩn để chứng tỏ đã cung cấp những thông tin liên quan cho phụ huynh.



Những thông báo này phải được lập hồ sơ lưu trữ
Phụ huynh là thành viên cốt yếu trong việc đánh giá nguy cơ tự tử vì họ
thường có những thông tin mang tính quyết định để đánh giá thích đáng các
nguy cơ, bao gồm tiền sử bệnh tâm thần, tương quan của các thành viên
trong gia đình, những biến cố chấn thương tâm lý gần đây, và những hành vi
tự tử trước đó.

Phụ huynh phải:


Tiếp tục xem những lời đe dọa tử tự của trẻ là nghiêm trọng: thực hiện trọn
vẹn những điều cần phải làm là điều đặc biệt quan trọng, thậm chí sau khi trẻ
đã trầm tĩnh và nói với bố mẹ rằng:”con không có ý tự tử”. Tránh quy kết




hành vi của trẻ là để được người khác chủ ý
Sử dụng sử hổ trợ của nhà trường: nếu phụ huynh cảm thấy không thoải mái
với những cơ sở được giới thiệu, họ có thể cho phép nhà tâm lý học đường
24

Tự tử học đường


liên lạc với cơ sở ấy, cung cấp thông tin của trẻ, và theo dõi việc lấy hẹn điều


trị.
Duy trì liên lạc với nhà trường, sau can thiệp trên, nhà trườn sẽ cung cấp các
dịch vụ hỗ trợ tiếp theo. Việc liên lạc của phụ huynh mang tính chủ yếu
trong việc đảm bảo nhà trường là nơi an toàn và thoải mái nhất cho con họ.

Thường các vấn đề của giới trẻ không phải là chuyện bế tắc, không thể giải
quyết như bệnh ung thư, ly hôn, mất sạch tài sản, mà thường là những chuyện có
thể “gỡ rối” được tức thì, nhưng các em lại không có người lắng nghe và gỡ rối kịp
thời. Cha mẹ, bạn bè, thầy cô giáo, người trẻ tin tưởng, nhà tâm lý… chính là
những nguồn lực có thể hỗ trợ trẻ trong lúc này.
Tuy vậy, cách giải quyết trên chỉ có tính tạm thời. Thói quen giao tiếp, cách
giao tiếp trong gia đình lại là yếu tố có tính trọng yếu hơn trong việc ngăn chặn trẻ
có ý nghĩ tự tử. Việc giao tiếp tốt trong gia đình giúp trẻ dung hòa được những
căng thẳng nội tại của bản thân, ảnh hưởng lớn đến sự thích ứng của trẻ trong việc
tiếp xúc với những yếu tố từ môi trường xã hội. Việc tạo lập mối quan hệ công
bằng giữa cha mẹ và trẻ, giúp trẻ có thể dễ dàng bộc lộ những cảm xúc, những
căng thẳng tâm lý dù nhỏ nhất có thể xuất hiện nhanh chóng trong giai đoạn phát
triển tâm lý tuổi vị thành niên.

Tạo lập mối quan hệ này thật sự không dễ dàng khi phụ huynh luôn có thói
quen nghĩ rằng con cái chúng ta là người trẻ, thiếu chín chắn và bốc đồng. Phụ
huynh cho rằng quyết định của bố mẹ là đúng đắn và tốt nhất đối với chính cuộc
sống tình cảm của trẻ. Vì vậy, chúng ta sẽ ít lắng nghe trẻ nói. Cách suy nghĩ và
thói quen này có thể làm cho trẻ trở nên câm lặng và bí hiểm với chính cha mẹ của
chúng. Phụ huynh nghĩ rằng việc chăm sóc về sức khỏe và vật chất sẽ chứng tỏ
được tình yêu của mình với con cái, nhưng rõ ràng chúng ta chỉ đang chú ý trẻ như
một đồ vật, hơn là một con người có tình cảm và suy nghĩ.
25
Tự tử học đường


×