Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Bài thu hoạch module quản lý bệnh viện và module kinh tế y tế y học gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.17 KB, 29 trang )

Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế

1


Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA Y

BÀI THU HOẠCH MODULE QUẢN LÝ BỆNH VIỆN
VÀ MODULE KINH TẾ Y TẾ

Y HỌC GIA ĐÌNH

KIỀU TIẾN LỰC
MSSV: 125272060

Tp. HCM, 08/2017

2


Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên em xin chân thành cảm ơn các thầy các cô trong bộ môn Quản
lý bệnh viện- Kinh tế y tế Khoa y – Đại học quốc gia TP.HCM trong thời gian qua


đã cố gắng sắp xếp công việc bận rộn của mình để dạy và hướng dẫn chúng em
trong suốt toàn bộ môn học. Các bài giảng mà các thầy cô cung cấp cho chúng em
không chỉ đơn thuần là lý thuyết mà còn là kinh nghiệm của các thầy cô trong suốt
quá trình hành nghề chỉ dạy lại cho tất cả chúng em. Các thầy cô đã chỉ ra rằng để
có một hệ thống y tế tốt thì mỗi chuyên môn của bác sỹ giỏi là chưa đủ mà xoay
quanh còn rất nhiều về vấn đề quản lý , kinh tế từ vi mô cho đến vĩ mô chúng ta
phải thực hiện tốt để có một hệ thống y tế tốt. Các thầy cô còn chỉ ra rằng chúng ta
chỉ mỗi đam mê và nhiệt huyết không là vẫn chưa đủ , chúng ta cần phải đoàn kết
một lòng cùng nhau xây dựng hệ thống y tế tốt cho nhân dân.
Tiếp theo em xin chân thành cảm ơn một người thầy đáng kính, thầy Nguyễn
Thế Dũng chủ nhiệm bộ môn tận tình, dù thầy bận rất nhiều việc cũng như tuổi đã
nhiều nhưng ngọn lửa trong thầy chưa bao giờ tắt, thầy đã không tiếc hy sinh thời
gian , giảng dạy say mê, đưa ra các vấn đề nổi cộm về y tế cho chúng em bàn luận.
Thầy là người đã liên hệ những giảng viên tốt nhất để cho chúng em được học
những người giỏi nhất, thực tế nhất về hệ thống y tế. Thầy là người đã truyền lửa
cho những bác sỹ đầu tiên của lò đào tạo Khoa y – Đại học Quốc Gia TP.HCM
Em xin chân thành cảm ơn ban Giám đốc Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới đã tạo
điều kiện môi trường cho chúng em học tập ngay tại bệnh viện giúp chúng em tiết
kiệm thời di chuyển nếu như chúng em học tại trường ở Thủ Đức.
Cuối cùng em xin cảm ơn Ban chủ nhiệm Khoa y –Đại học Quốc Gia
TP.HCM cùng ban điều phối module đã thiết kế bộ môn thiết thực này. Một bộ môn
mà nếu như ở một trường y khác có thể chúng em đã không được học. Bộ môn đã
chúng em thấy rõ được bức tranh tổng quan về hệ thống y tế cũng như những vấn
đề thực trang và giải pháp có thể của nền y tế Việt Nam.

3


Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế


Với vốn kiến thức còn hạn chế và chưa thấu hiểu thực sự sâu sắc, bài thu
hoạch không thể tránh khỏi những sai lầm và thiếu sót, rất mong thầy cô thông cảm
và đóng góp ý kiến giúp em để những bài thu hoạch sau được tốt hơn.
Trân trọng.
TP.HCM, ngày 04 tháng 08 năm 2017

4


Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế

TÓM TẮT
Trong Module vừa qua có rất nhiều vấn đề được đặt ra từ quản lý y tế cho đến kinh
tế y tế những vấn đề đều rất cấp thiết và tối quan trọng. Nhưng với thời lượng nội
dung cho phép của bài thu hoạch em xin trình bày một giải pháp quan trọng và
mang tính kinh tế cho nền y tế Việt Nam đó là giải pháp Y học gia đình. Giải pháp
này không phải mới nhưng tại Việt Nam nó cũng chưa thực sự hiệu quả như sự
mong đợi của người dân.
Bài viết này em sẽ nêu bật lên Ý nghĩa và lợi ích thực tiễn của giải pháp này cũng
như là thực trạng về y học gia đình của Việt Nam hiện nay. Bài viết sẽ đưa ra những
giải pháp phát triển cũng như tầm nhìn trong tương lai về mảng y học gia đình
trong hệ thống y tế Việt Nam.

5


Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế


MỤC LỤC
Đề mục

Trang

Lời cảm ơn

i

Tóm tắt

v

Mục lục

viii

Danh sách hình vẽ

vii

Danh sách bảng biểu
Danh sách các thuật ngữ viết tắt

ix

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU

10


CHƯƠNG 2. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT

12

I. Y học gia đình là gì
II. Hoàn cảnh ra đời

3
3

III. Y học gia đình trên thế giới

4

IV. Bác sỹ gia đình2
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG
I.
II.

Y học gia đình tại Việt Nam
Mô hình bác sĩ gia đình nào phù hợp với Việt Nam?

CHƯƠNG 4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Tài liệu tham khảo

6

21



Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế

DANH SÁCH HÌNH VẼ

Danh sách hình
Tên hình

Trang

Hình ảnh 01

Định nghĩa về y học gia đình của WONCA

17

Hình ảnh 02

Bộ y tế họp về nhân rộng mô hình bác sỹ gia đình

22

7


Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế

8



Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế

DANH SÁCH CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
AAFP : Hiệp Hội Y Học Gia Đình Hoa Kỳ
WONCA : World Organization of National Colleges, Academies and Academic
Associations of General Practitioners/Family Physicians
BSGD : Bác sỹ gia đình
BHYT : Bảo hiểm y tế

9


Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế

CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU
Bác sĩ gia đình là một thành viên của hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu nhằm ngăn
ngừa bệnh tật và duy trì sức khỏe. Bác sĩ gia đình cũng là một chuyên khoa độc lập,
như các chuyên khoa ngoại, sản, nhi khoa, tâm thần,...
Đã nhiều năm, chúng ta giương cao khẩu hiệu “đi tắt đón đầu” để mong sánh vai
cùng các cường quốc trên thế giới về mọi mặt trong một thời gian ngắn nhất. Trong
lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, chúng ta đã mua những máy móc, thiết bị y tế mới nhất,
cũng như nhận chuyển giao kỹ thuật cho những phương pháp chẩn đoán, điều trị hiện
đại. Đáng tiếc, những thành tựu nổi bật đó không che lấp được một nền y tế bất ổn
với rất nhiều những nghịch lý từ cấp cơ sở. Những vấn đề hết sức cơ bản như phân
phối nguồn lực y tế, quản lý dược, quan hệ thầy thuốc – bệnh nhân, quan hệ y tế côngtư… sau hàng chục năm vẫn không có chuyển biến gì và những căn bệnh về quá tải, y
đức, sơ sót y khoa cứ là “vũ như cẫn”.

Trong tháng 3, Bộ Y tế đã triển khai kế hoạch nhân rộng và phát triển mô hình Bác sĩ
gia đình giai đoạn 2016 – 2020 trong quy mô toàn quốc, xem là một biện pháp quan
trọng để giải quyết vấn đề quá tải và nâng cao chất lượng khám chữa bệnh ở các bệnh
viện lớn. Trên thực tế, đây là một vấn đề không dễ dàng và chúng tôi xin mạn phép
đưa ra 4 câu hỏi để có một lời giải đáp thỏa đáng.
Các Bác sĩ gia đình cũng được hiểu như Bác sĩ tổng quát (GP=General practice, khác
với nội tổng quát, IM=Internal medicine) vì họ chăm sóc cho cá nhân và gia đình-mọi
giới, mọi tuổi, mọi loại bệnh trên mọi bộ phận cơ thể. Ngược lại, các Bác sĩ chuyên
khoa là những người học chuyên sâu vào một lĩnh vực nào đó về bệnh và cách điều trị
của một bộ phận cơ thể con người, ví dụ: hệ tim mạch, mắt, tai mũi họng, hô hấp v.v…
Các Bác sĩ chuyên khoa sâu thì học thêm về những phần rất đặc thù trong chuyên khoa
mình. Ví dụ về tim mạch có thể là phẫu thuật tim mạch (mổ tim hở), X quang can
thiệp tim mạch (thông tim), hoặc điện sinh lý tim (chuyên trị các rối loạn nhịp).
Về mặt đào tạo, chuyên khoa Bác sĩ gia đình ở Mỹ cũng theo công thức 4-4-3, bao
gồm 4 năm khoa học cơ bản, 4 năm y khoa và 3 năm nội trú bệnh viện. Trong 3 năm
nội trú, họ cần đi qua các chuyên khoa nội, ngoại, sản, nhi, tâm thần, lão khoa, cấp
cứu- có thể nói gần như chương trình đào tạo đa khoa 6 năm ở Việt Nam. Các Bác sĩ
chuyên khoa khác thường cần thêm thời gian, tùy theo nhóm mà có thể thêm từ 2-4
năm.
Về mặt thực hành, các Bác sĩ gia đình hoàn toàn làm việc ở phòng khám của mình và
nhận một số bệnh nhân nhất định để theo dõi và quản lý. Các Bác sĩ chuyên khoa hoặc
làm ở bệnh viện hoặc có phòng khám riêng và nhận tư vấn cho bệnh nhân từ các
phòng khám gia đình.
Các bệnh nhân đến phòng khám gia đình để được khám định kỳ hàng năm. Các vấn đề
về chuyên khoa được phát hiện sẽ được gửi đến các Bác sĩ chuyên khoa thăm khám,
cho ý kiến hoặc nhận điều trị chuyên khoa. Khi cần can thiệp thì bệnh nhân mới phải
vào bệnh viện. Như vậy, mỗi bệnh nhân có 1 Bác sĩ gia đình nhưng có thể có nhiều
10



Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế
Bác sĩ chuyên khoa. Việc chọn lựa Bác sĩ gia đình và đi khám Bác sĩ chuyên khoa
được quy định bởi các công ty bảo hiểm.
Không thể nói là Bác sĩ chuyên khoa là giỏi còn Bác sĩ gia đình là dở. Sự so sánh như
thế có phần khập khiểng vì bản thân hai công việc đã rất khác nhau và sự phân công
trong ngành Y xuất phát từ các đặc thù của sự phát triển bệnh tật và công tác chăm sóc
sức khỏe.
Cụ thể, các công việc chủ yếu của một Bác sĩ gia đình bao gồm:

Theo dõi tình trạng sức khỏe của mỗi bệnh nhân. Ở trẻ em thì thực hiện
chủng ngừa. Ở người lớn thì điều chỉnh các bệnh mãn tính như tăng mỡ máu,
loãng xương, cao huyết áp…

Phát hiện sớm bệnh, đặc biệt là các ung thư. Bác sĩ gia đình thường theo
hướng dẫn của các hiệp hội chuyên ngành trong vấn đề tầm soát ung thư định kỳ ở
nam và nữ. Do đó, chỉ định tầm soát ở những thời điểm phù hợp, ví dụ như nhũ
ảnh mỗi năm, soi đại tràng mỗi 5 năm,…

Phối hợp với các Bác sĩ chuyên khoa để có chế độ điều trị tốt nhất cho từng
bệnh nhân.
Các Bác sĩ gia đình được xã hội Mỹ tôn trọng vì họ giải quyết phần lớn nhu cầu chăm
sóc sức khỏe. Cần chú ý là người dân chỉ có thể mua tự do một vài loại thuốc hông
thường để giảm đau, chống dị ứng hay đau bao tử, táo bón, tiêu chảy… Phần lớn thuốc
trị bệnh đặc hiệu (kháng sinh, kháng viêm, corticoid, an thần …) đều cần toa. Với
khoảng ¼ tổng số cuộc khám, các Bác sĩ gia đình là người kê toa chủ yếu trong hệ
thống y tế của Mỹ.

Y học gia đình tập trung vào 6 nguyên lý cơ bản sau đây :
- Liên tục

- Toàn diện
- Phối hợp
- Cộng đồng
- Phòng bệnh
- Gia đình ( 1 )
1. Liên tục chǎm sóc
Việc chǎm sóc liên tục đòi hỏi mộtbác sĩ gặp gỡ bệnh nhân (và lý tưởng là cả gia
đình bệnh nhân nữa) trong nhiều lần ốm và trong những lần thǎm nom thân tình. Cùng
với việc liên tục chǎm sóc, mối quan hệ lâu dài và tin cậy lẫn nhau sẽ nảy sinh giữa
bác sĩ và bệnh nhân. Nếu bệnh nhân không tin bác sĩ thì những cơ hội để chǎm sóc có
hiệu quả sẽ bị hạn chế rất nhiều. Tính liên tục có thể là nguyên tắc quan trọng nhất của
y học gia đình.
Cần thận trọng đề không lẫn lộn việc liên tục chữa bệnh với việc liên tục chǎm sóc
bệnh nhân. Trong y học gia đình đối tượng được chǎm sóc liên tục là bệnh nhân, mỗi
đợt ốm là một bệnh. Trong các chuyên khoa khác đối tượng theo dõi là bệnh và mỗi
đợt là một bệnh nhân. Các thầy thuốc gia đình được ủy thác việc chǎm sóc bệnh nhân
11


Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế
và gia đình họ trong thời gian dài. Các thầy thuốc gia đình sử dụng thời gian như một
công cụ chẩn đoán và điều trị và cam kết tiếp xúc với bệnh nhân để chǎm sóc lâu dài.
Người thầy thuốc hành nghề liên tục nhận biết được và chấp nhận sự cam kết đối với
tương lai của bệnh nhân.
Sự liên tục cũng cho phép người thầy thuốc sử dụng cá nhân mình như một phương
tiện điều trị. ý tưởng sử dụng bản thân mình như một công cụ điều trị là do Michael
Balint dựa trên nghiên cứu của ông về các thầy thuốc thực hành Anh.
Bác sĩ Balint phát hiện thấy là phương tiện điều trị được sử dụng phổ biến nhất để giúp
các bệnh nhân trong việc điều trị chung ở Anh là bản thân người thầy thuốc.

Các hành vi để tìm kiếm và những câu hỏi để biết liệu việc liên tục chǎm sóc có được
thực hiện không là:
- Người thầy thuốc có biết rõ tiền sử của bệnh nhân trước khi có một quyết định
không?
- Người thầy thuốc có giải thích cho bệnh nhân về sự quan trọng của việc theo dõi
không?
- Người thầy thuốc có bàn bạc với bệnh nhân về các mục đích sức khỏe lâu dài cũng
như chữa một bệnh cấp tính không?
- Có sự tin cậy giữa bác sĩ và bệnh nhân không?
- Nếu chúng ta xem xét sổ sách ghi chép liệu có thấy bệnh nhân được người thầy
thuốc đó thǎm khám nhiều không? Điều này đặc biệt quan trọng đối với các bệnh mạn
tính.
2. Tính toàn diện
Tính toàn diện ngụ ý rằng không chỉ xem xét bệnh nhân dưới góc độ sinh học mà còn
phải xem xét cả về mặt xã hội và tâm lý nữa. Như vậy người thầy thuốc gia đình xem xét
tổng thể các cá nhân trong khuôn khổ các nhu cầu tổng thể của họ. Người thầy thuốc gia
đình xem xét tất cả các yếu tố này khi lập kế hoạch chẩn đoán hoặc điều trị. Những người
chǎm sóc sức khỏe khác cũng tham gia vào việc chǎm sóc bệnh nhân, nhưng thầy thuốc
gia đình làm cho bệnh nhân tiếp cận được với chǎm sóc.
Điều này không có nghĩa là thầy thuốc gia đình là tất cả đối với mọi người. Người thầy
thuốc gia đình có thể chǎm sóc cho 90 đến 95% các bệnh tật mà người ta tìm đến để
chữa. Trong một tổng kết về việc chǎm sóc bệnh nhân ở Hoa Kỳ và Anh, Ken White đã
thấy trong một tháng cứ 1000 người lớn sống trong cộng đồng thì có 750 người cho biết
bị ốm hoặc bị thương tích, trong số này có 500 người tự chữa, không cần đến thầy thuốc.
Trong số 250 người đến thầy thuốc có 235 người được chǎm sóc ngay tại nơi làm việc
của thầy thuốc chǎm sóc sức khỏe ban đầu, 9 người được đưa vào bệnh viện, 5 người cần
thầy thuốc chuyên khoa và một người được chuyển lên trung tâm y tế của một trường đại
học (3). Như vậy thầy thuốc chǎm sóc sức khỏe ban đầu (thường là thầy thuốc gia đình)
cung ứng phần lớn sự chǎm sóc và phục vụ phần mở đầu của hệ thống chǎm sóc sức
khỏe.

Đánh giá sự toàn diện của chǎm sóc. Nếu chúng ta muốn thấy sự toàn diện có được thực
hiện hay không, chúng ta có thể nhìn vào phác đồ điều trị và sẽ thấy danh mục các vấn đề
và danh mục thuốc có được liệt kê không. Thông tin y học ghi nhận được có dễ tiếp cận
12


Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế
để sử dụng được không? Có bằng chứng nào chứng tỏ thấy thuốc hiểu được một lời phàn
nàn nào đó có nghĩa là gì đối với bệnh nhân không? Mc Whinney đã phân biệt một cách
rất hùng biện kiểu chǎm sóc bệnh nhân này và gọi là "chǎm sóc lấy bệnh nhân là trung
tâm" (4). Nếu việc chǎm sóc lấy bệnh nhân là trung tâm đang được thực hiện thì cũng sẽ
có sự thừa nhận rằng thầy thuốc và bệnh nhân có thể có thời gian biểu riêng. Thí dụ, các
bệnh nhân thường đến với những điều hoang tưởng mà ta phải loại trừ trước khi có thể
thực hiện việc chǎm sóc toàn diện. Nhiều khi khó mà biết được thời gian biểu của bệnh
nhân nếu bác sĩ không cố gắng phát hiện.
Ngoài việc xem xét tất cả các vấn đề sinh học còn cần phải xem xét cả những vấn đề tâm
lý và pháp lý nữa:
- Bác sĩ có hiểu biết về khả nǎng bệnh nhân trả tiền cho các loại thuốc hay các xét nghiệm
chẩn đoán được chỉ định không?
- Bác sĩ có chứng minh được sự hiểu biết về những vấn đề tâm lý xã hội trong việc chǎm
sóc bệnh nhân này không?
- Được biết rõ ràng 50-60% số bệnh nhân bị suy sụp. Vậy chúng ta hỏi về tình trạng này
bao nhiêu lần?
- Chúng ta có biết những triệu chứng suy sụp ở các bệnh nhân có những bệnh đã rõ ràng
không? Thậm chí điều còn quan trọng hơn là chúng ta có thường luôn biết đến các lời
phàn nàn có tính chất tâm - thể ấy không? Thí dụ, chúng ta biết rằng đau ngực trong điều
kiện chǎm sóc ban đầu thường không phải do bệnh tim gây ra (ngược lại với điều xảy ra
ở phòng khám của bác sĩ tim mạch). Thật vậy, một bệnh nhân đau ngực cấp tính đến chỗ
bác sĩ gia đình thì chẩn đoán thường là rối loạn do hoảng sợ hơn là do bệnh động mạch

vành.
3. Phối hợp trong chǎm sóc.
Người thầy thuốc gia đình giống như một nhạc trưởng trong việc chǎm sóc cho từng bệnh
nhân. Người thầy thuốc gia đình còn xác định những người cung ứng và các nguồn chǎm
sóc sức khỏe khác cần thiết để hỗ trợ cho việc chǎm sóc chung cho bệnh nhân. Những
nguồn này bao gồm các chuyên gia bên ngoài cũng như những cán bộ chuyên môn y tế
khác bên trong phòng khám của thầy thuốc gia đình. Hướng dẫn bệnh nhân tiếp cận với
hệ thống chǎm sóc sức khỏe là trách nhiệm của thầy thuốc gia đình. Các bác sĩ gia đình
hành động như các luật sư của bệnh nhân. Tôi thường nói với các bệnh nhân của tôi là
"Tốt hơn là ông/bà thông qua tôi để đến với cố vấn của mình. Sau đó cố vấn của ông/bà
sẽ không những làm ông/bà thỏa mãn mà còn làm cho tôi thỏa mãn nữa".
Hành vi tìm kiếm và những câu hỏi để xác định xem việc phối hợp có được thực hiện
không:
- Bác sĩ có bàn bạc với các chuyên gia về việc chǎm sóc bệnh nhân qua điện thoại hoặc
trực tiếp không?
- Thỉnh thoảng bác sĩ có đi cùng với bệnh nhân đến chỗ các chuyên gia không?
- Bác sĩ có kế hoạch chǎm sóc bệnh nhân khi vắng mặt họ không?
- Bác sĩ có huấn luyện những người trong phòng khám cách hỗ trợ cho việc phối hợp
chǎm sóc không?
- Khi có nhiều người tham gia trong nhóm nhân viên y tế thì ai sẽ nói với bệnh nhân về
13


Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế
kết quả chẩn đoán?
4. Cộng đồng
Nghệ nghiệp, vǎn hóa và môi trường là những khía cạnh của cộng đồng tác động đến việc
chǎm sóc bệnh nhân. Sự hiểu biết về những bệnh nào hoặc những vấn đề sức khỏe nào có
tỷ lệ mắc cao nhất trong cộng đồng sẽ ảnh hưởng đến những chẩn đoán của các bác sĩ gia

đình và giúp họ đưa ra những quyết đinh về việc giáo dục cộng đồng và cung ứng dịch
vụ. Ngoài vai trò là công cụ chẩn đoán, cộng đồng còn là tác nhân trị liệu. Trong cộng
đồng có nhiều nguồn mà bác sĩ gia đình có thể sử dụng để cung ứng chǎm sóc tối ưu cho
bệnh nhân.
Các hành vi tìm kiếm và các câu hỏi để xác định xem có sự định hướng vào cộng đồng
không:
- Có phải là bác sĩ không những chỉ biết bệnh nhân làm việc gì mà còn biết cả về nơi làm
việc, có thể là quan trọng trong việc điều trị bệnh nhân và nguyên nhân cǎn bệnh mà anh
ta mắc phải?
- Bác sĩ có sử dụng các nguồn lực của cộng đồng không?
- Bác sĩ có sử dụng sự hiểu biết về tần suất bệnh tật trong cộng đồng khi chẩn đoán
không?
- Bác sĩ có là một thành viên tích cực trong cộng đồng tại đó họ hành nghề không?
- Các chẩn đoán và điều trị được thực hiện (thí dụ như điều chỉnh liều lượng insulin) trên
cơ sở lối sống của bệnh nhân bên ngoài công sở hoặc bệnh viện hơn là trên cơ sở hành vi
ở trong bệnh viện?
5. Phòng bệnh
Phòng bệnh bao gồm nhiều khía cạnh, đó là nhận biết được những yếu tố nguy cơ mắc
bệnh, làm chậm lại các hậu quả của bệnh tật và khuyến khích lối sống lành mạnh. Dự
phòng cũng có nghĩa là dự đoán trước các vấn đề sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe nội tâm của
bệnh nhân và gia đình. Một ví dụ là sự "phản ứng kỷ niệm" hay sự mất mát một người
thân. Bác sĩ gia đình thường xuyên thấy trước và khuyên nhủ từng người và các gia đình
trong những trường hợp đó.
Phòng bệnh không chỉ giới hạn vào việc bảo mọi người không hút thuốc lá, phải tập thể
dục và ǎn uống đúng cách mà còn là việc nhận ra các yếu tố nguy cơ đối với việc mắc
bệnh (thí dụ như lịch sử gia đình) và sử dụng các phương tiện sàng lọc để phát hiện bệnh
ngay từ các giai đoạn đầu. Nhớ rằng bạn có thể ngǎn chặn sự phát triển tiếp tục của một
bệnh như bệnh tắc phổi mạn tính hay bệnh tim bằng cách giảm các yếu tố nguy cơ.
Các hành vi tìm kiếm và câu hỏi để xác định xem việc dự phòng có được thực hiện
không:

- Các yếu tố nguy cơ đối với bệnh nhân có được xác định và thể hiện trong các sổ sách,
bệnh án không?
- Một số nhà lâm sàng cho rằng thông tin phòng bệnh quan trọng đến mức cần được đưa
vào danh mục các bệnh. Có tài liệu nào cho thấy có sự thoả thuận với bệnh nhân về việc
có thể cần thay đổi hành vi để dự phòng không?
- Quan trọng nhất là có bằng chứng nào cho thấy rằng bác sĩ dự đoán được những khủng
hoảng có tính chất qui luật sẽ xảy ra trong cuộc sống của gia đình không? Thí dụ có
14


Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế
những vấn đề nhất định sẽ xảy ra trong những nǎm đầu của hôn nhân. Điều rõ ràng là
người ta thường ít luyện tập hơn và ǎn uống khác đi sau khi lấy vợ lấy chồng. Phát hiện
ra những khủng hoảng xảy ra khi thêm hoặc bớt đi một đứa trẻ và "hội chứng tổ ấm bị
trống trải" cũng quan trọng. Các bác sĩ quan tâm đến những khủng hoảng có tính chất qui
luật đi kèm theo các nguy cơ khác là thực hiện nguyên tắc dự phòng.
6. Gia đình
Các bác sĩ gia đình coi bệnh nhân như những thành viên chưa các hệ thống gia đình và
thừa nhận ảnh hưởng của bệnh tật đến gia đình cũng như ảnh hưởng của gia đình đến
bệnh tật. Chúng ta được đào tạo để làm việc với các gia đình vì họ cần thích ứng với
những giai đoạn chuyển tiếp có thể dự đoán trước của cuộc sống và với các bệnh tật bất
ngờ. Các bác sĩ gia đình hiểu sự khác nhau giữa gia đình hoạt động bình thường và không
bình thường và sử dụng sự hiểu biết này trong cả hai việc chẩn đoán và điều trị bệnh
nhân.
Chúng ta đang nói về một hệ thống hỗ trợ bệnh nhân khi định nghĩa các gia đình. Bệnh
nhân không cần là một bộ phận của một gia đình truyền thống mà thường là còn có sự hỗ
trợ nào đó, dù hôn nhân có tồn tại hay không. Một gia đình được định nghĩa rộng rãi như
là những cá nhân mà bệnh nhân trông mong ở họ sự hỗ trợ với nhận thức rằng sự hô trợ
này có cả quá khứ và tương lai.

Các hành vi tìm kiếm và câu hỏi để xác định xem việc chǎm sóc dựa vào gia đình có
được thực hiện không:
- Các số liệu y học có bao gồm bản đồ gen, sơ đồ gia đình, thang điểm Apgar của gia đình
và có nhắc đến tình trạng hiện nay trong sơ đồ gia đình không?
Sơ đồ gia đình được sử dụng trong những tình huống đặc biệt, nhưng bản đồ gen và tình
trạng gia đình là cần thiết trong tất cả các phác đồ điều trị bệnh nhân.
- Hệ thống hỗ trợ bệnh nhân có được ghi chép không?
- Có bằng chứng nào cho thấy bác sĩ đang đánh giá ảnh hưởng của bệnh tật đến các thành
viên trong gia đình và ảnh hưởng của gia đình đến bệnh tật không?
Bản đồ gen là sự mô tả sinh học về gia đình và sơ đồ gia đình là một thang điểm mô tả
nội tâm của gia đình (điều này sẽ được trình bày chi tiết hơn ở chương 3). Apgar cung
cấp cho chúng ta điểm số đánh giá mức độ không hoạt động bình thường của gia đình và
vòng đời giúp cho bác sĩ hiểu biết những khủng hoảng dự kiến có thể xảy ra trong một
gia đình. Nếu bác sĩ có những công cụ nói trên và ghi chép lại việc sử dụng các công cụ
này thì rõ ràng là ông ta (bà. ta) đang sử dụng thông tin để chǎm sóc bệnh nhân.

Y học gia đình làm cho mối quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh nhân trở nên gần gũi
và dễ tiếp cận , trong tâm thế luôn sẵn sàng là tuyến đầu tiên khi bệnh nhân đến với
hệ thống y tế. Là tuyến đầu tiên trong xử trí cấp cứu ban đầu, làm đa chuyên khoa
và đáp ứng đa số các tình huống của người bệnh. Y học gia đình phải tự đào tạo
liên tục theo đòi hỏi và có thể làm việc ,thực hành trong những môi trường khác
nhau với sự hạn chế của trang thiết bị y tế. Y học gia đình là y học của sự chăm
sóc toàn diện . Chăm sóc lấy bệnh nhân làm trung tâm , chăm sóc sinh học – tâm
lý- xã hội , tiếp cận hướng bệnh nhân trong gia đình và môi trường của họ . Y học
15


Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế


gia đình phải xử lý đồng thời tất cả các vấn đề sức khỏe của bệnh nhân và lượng
giá những nguyên nhân và hậu quả tâm lý , xã hội.
Y học gia đình là một chuyên khoa chăm sóc liên tục con người từ khi sinh ra
đến khi qua đời , là quá trình chăm sóc thường xuyên nắm rõ bệnh sử liên tục về
bệnh lý của bệnh nhân, là người theo dõi lâu dài các bệnh lý mãn tính , là người
đồng hành cùng bệnh nhân và mỗi bệnh nhân có một hồ sơ bệnh án Y học gia
đình
Y học gia đình phải phối hợp chăm sóc y tế từ tư vấn cho bệnh nhân đến tổng
hợp thông tin ở mức độ cá nhân và cộng đồng. Bác sỹ y học gia đình không thể
hoạt động riêng lẻ mà cần làm việc theo nhóm để điều phối những thành phần
khác trong chăm sóc y tế cho bệnh nhân tạo nên mạng lưới chăm sóc và thông
tin liên lạc toàn diện.
Hoạt động y học gia đình phải là một hoạt động của y tế cộng đồng bao gồm :
Quản lý chăm sóc người lành, dự phòng, giáo dục sức khỏe, tầm soát, nghiên
cứu lâm sàng, dịch tể học, lượng giá, quản lý chất lượng và nêu bật tầm quan
trọng của kinh tế y tế.
Tóm lại hoạt động của y học gia đình là hoạt động chăm sóc sức khỏe toàn diện
và liên tục

16


Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế

Hình ảnh 1.
CHƯƠNG II: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
I.

Y học gia đình là gì?


Theo định nghĩa của Hiệp Hội Y Học Gia Đình Hoa Kỳ (AAFP): Y học gia đình
(tiếng Anh: Family medicine (FM), ở châu Âu: general practice (GP) (y học tổng
quát)) là một ngành y học cung cấp dịch vụ y tế cho mọi người và mọi lứa tuổi.[1]
Đây là một ngành của nền y tế căn bản cung cấp dịch vụ y tế liên tục và tổng quát
cho các cá nhân, gia đình đủ mọi lứa tuổi, giới tính, bệnh tật và các bộ phận của cơ
thể. Dịch vụ này tập trung vào thông tin về bệnh nhân dựa vào bối cảnh trong gia
đình và xã hội, với mục đích ngăn ngừa dịch bệnh và nâng cao sức khỏe.
Hoàn cảnh ra đời:
Tại các quốc gia đã phát triển, hầu hết việc chăm sóc sức khỏe các bệnh
17


Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế

mạn tính như: tiểu đường, cao huyết áp, hen suyễn,… đã chuyễn từ phòng bệnh
nội trú ra phòng bệnh ngoại trú với các phác đồ điều trị được xây dựng phân cấp
các bước điều trị rõ ràng với sự cộng tác của các chuyên khoa liên quan. Do đó
bác sĩ gia đình sẽ là người phụ trách và giải quyết vấn đề quản lý theo dõi bệnh
mạn tính tại phòng khám ngoại trú một cách hiệu quả nhất. Nói cách khác, hoạt
động bác sĩ gia đình sẽ trực tiếp giảm bớt gánh nặng thời gian và công việc cho
các bác sĩ chuyên khoa liên quan đồng thời tiết kiệm được kinh phí nằm viện vô
ích cho bệnh nhân và bảo hiễm y tế (khoa bệnh nội trú chỉ dành cho các bệnh lý
thật sự nặng cần chăm sóc tích cực với sự hỗ trợ các bác sĩ chuyên khoa sâu)
- Hậu quả trực tiếp của việc chuyển dịch này có liên quan trực tiếp đến đào
tạo, các sinh viên, bác sĩ theo học các chương trình đào tạo đại học và sau
đại học đã không có dịp quan sát và thực tập nhiều bệnh lý mạn tính,
thông thường trong phòng bệnh nội trú như trước đây nữa trong các đợt
luân khoa do các đợt cấp của các bệnh mạn tính này đã được quản lý hiệu

quả tại các phòng khám ngoại trú với các phác đồ phân cấp rõ ràng mà
không cần phải nhập viện. Ngoài ra các học viên nêu trên lại có ít cơ hội
để quan sát và thực hành quan hệ giữa thầy thuốc và bệnh nhân, đặc biệt
là việc chăm sóc liên tục vốn được chuyển sang phòng khám ngoại trú từ
lâu.
- Nhiều vấn đề quan trọng và mới như dự phòng, thăm khám bệnh ngoại
trú, quản lý phòng khám, vai trò của môi trường và gia đình trong bệnh
tật, vai trò của nguồn tài nguyên cộng đồng trong chăm sóc sức khỏe và
áp dụng các nguyên lý thực hành cải thiện chất lượng liên tục chưa được
chú trọng giảng dạy trong các chương trình đào tạo truyền thống.
Để khắc phục khoảng trống nêu trên: việc ra đời của chuyên khoa Y học
gia đình và người bác sĩ gia đình là cần thiết. Bên cạnh đó, việc áp dụng mô
hình tâm sinh lý xã hội (biopshychosocial model) trong quá khứ và hiện nay là
mô hình chăm sóc lấy bệnh nhân làm trung tâm (patient - centered care) đã cung
cấp cho người bác sĩ gia đình một cách nhìn đa tuyến khi chăm sóc bệnh nhân
18


Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế

của họ trong khi đó các bác sĩ chuyên khoa khác thường có cách nhìn đơn tuyến
khi cùng chăm sóc một bệnh nhân. Trong thế kỷ 21, việc chăm sóc bệnh nhân
mạn tính đã là nhu cầu lớn trong đó việc kết hợp các chuyên ngành dưới sự điều
động của nhạc trưởng bác sĩ gia đình theo nguyên lý “ chăm sóc lấy quan hệ làm
trung tâm“ (relationship- center care) để đạt hiệu quả cao nhất về điều trị cũng
như kinh tế cho bệnh nhân và gia đình.
II.

Y học gia đình trên thế giới:


III.1 Lịch sử chuyên ngành y học gia đình:
- YHGĐ được bắt nguồn từ thực hành đa khoa trong những năm 60- đó là thời kỳ
chiến tranh Việt Nam- thời kỳ có phong trào đấu tranh cho quyền công dân và còn
có sự bất ổn xã hội trong nhiều lĩnh vực của thế giới. Những sự kiện đó trùng hợp
với sự suy thoái của CSSK đa khoa đã xảy ra ở Mỹ với nhiều lý do: những người
tốt nghiệp ngành y phục vụ cho yêu cầu bảo vệ sức khoẻ của người dân Mỹ bị tụt
giảm nhiều, xu hướng chuyên khoa hoá bắt đầu nảy sinh từ chiến tranh thế giới lần
thứ hai và việc đào tạo bác sỹ đa khoa đã tỏ ra không thích hợp với hệ thống CSSK
hoàn chỉnh ngày càng tăng. Đồng thời, công chúng Mỹ và các nhà hoạch định
chính sách về chăm sóc y tế có tầm nhìn xa đã chê trách trong sự chắp vá trong nền
y tế Mỹ và đề xướng việc đào tạo thầy thuốc chuyên về chăm sóc y tế cá nhân- đó
là thầy thuốc gia đình. Được sự hổ trợ của Viện hàn lâm thực hành đa khoa và bác
sỹ đa khoa Mỹ, năm 1969 YHGĐ đã trở thành chuyên khoa y học thứ 20 ở Mỹ.
Đến 7/1969 chỉ có 15 bác sĩ thực hành y học gia đình được công nhận ở Hoa Kỳ,
sau đó Y học gia đình được chấp nhận và phát triển nhanh chóng đến 7/1979 đã có
6531 bác sĩ thực hành y học gia đình được chấp nhận. Y học gia đình đã góp
phần thay đổi thực hành y khoa tại Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ 10 và đầu thế kỷ 21.
Hiện nay Y học gia đình đã phát triển mạnh thành Hội BSGĐ các cấp quốc gia,
khu vực, thế giới. WONCA là từ viết tắt của World Organization of National
Colleges, Academies and Academic Associations of General Practitioners/Family
Physicians, là tổ chức hàn lâm thực hành y học gia đình bắt đầu từ 1972 với 18
thành viên và hiện nay đã có 97 thành viên từ 79 quốc gia trong đó có Việt nam
(từ 2003) với hơn 200.000 hội viên. Trang web của WONCA là:
www.globalfamilydoctor.com

19


Khoa Y – ĐHQG TP.HCM

Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế

WONCA có nhiệm vụ cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân trên toàn
thế giới thông qua định nghĩa và cổ súy cho các giá trị của nó cũng như bởi việc
nuôi dưỡng và duy trì các chuẩn mực cao về chăm sóc thực hành y học gia đình
thông qua việc cổ súy chăm sóc cá nhân, liên tục, dễ tiếp cận trong khung
cảnh gia đình và cộng đồng.
III. 2. Y học gia đình là một chuyên khoa
Mặc dù mới được phát triển từ khoảng thập niên 60 thế kỷ trước nhưng y học
gia đình đã có đầy đủ các yếu tố cấu thành một chuyên khoa như các chuyên
khoa khác trong đại gia đình Y Khoa:
- Triết lý: cung cấp dịch vụ y tế chất lượng cao một cách toàn diện, liên tục
có chú trọng đến nguồn tài nguyên tại chỗ cho người dân trong cộng đồng
không kể đến tuổi, giới, tín ngưỡng, và tình trạng kinh tế.
- Thực hành: bằng cách lồng ghép lối tiếp cận sinh học, lâm sàng và khoa
học hành vi trong cung cấp dịch vụ sức khỏe.
- Tổ chức: đã hình thành các hiệp hội bác sĩ gia đình cấp quốc gia (51 quốc
gia), khu vực, thế giới (WONCA) để hỗ trợ và chia sẻ kinh nghiệm trong
đào tạo và thực hành bác sĩ gia đình thông qua nhiều hình thức như hội
thảo, tài liệu, webác sĩite ..được cập nhât liên tục.
Y học gia đình là một chuyên khoa vì:
- Có triết lý đào tạo: chăm sóc và bảo vệ sức khỏe người dân theo hướng
dự phòng trên cơ sở hai mô hình: hướng về bệnh nhân và tâm sinh xã hội.
- Đối tượng phục vụ là toàn thể người bệnh trong khung cảnh gia đình và
cộng đồng mà họ sinh sống chứ không phải là hệ thống cơ quan hay một
số các bệnh lý đặc hiệu như ở các chuyên khoa khác. Nói cách khác, dân
số bệnh nhân là các cá thể trong một cộng đồng gia đình bao gồm người
lớn và trẻ em, chứ không phải là các cá thể riêng lẻ ở từng chuyên khoa vì
dựa trên quan niệm bệnh tật cùng cách xử lý có quan hệ chặt với môi
trường sống mà gần nhất là gia đình.

- Thực hành: chăm sóc ban đầu ở phòng khám ngoại trú của các bệnh viện
20


Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế

từ trung ương đến địa phương.
- Chương trình đào tạo: Đã đào tạo sau đại học với các cấp độ residency
(tương đương chuyên khoa cấp I), fellow (tương đương chuyên khoa cấp II)
và đang triển khai vào chương trình đại học ở mức học phần tự chọn ở một
số quốc gia. Bằng chuyên khoa bác sĩ gia đình được các quốc gia công
nhận có giá trị hành nghề như các chuyên khoa khác. Có chương trình đào
tạo Y khoa liên tục (Continous Medical Education C.M.E) có giá trị bổ
sung hành nghề.
III. 3 Vai trò y học gia đình
Kinh nghiệm của các nước, khi triển khai thành công hoạt động BSGĐ sẽ mang lại
hiệu quả:
- Giảm chi phí y tế, tăng tuổi thọ người dân, giảm tỉ lệ bệnh nặng, tăng sự hài lòng
của người dân về các dịch vụ y tế.
- Công bằng trong chăm sóc y tế
- Giảm nghèo
Bác sĩ gia đình
BS gia đình được huấn luyện để quản lý một lượng rất lớn các ốm đau và chất
lượng như nhau cho các thành viên trong gia đình không kể tuổi, giới, tín ngưỡng.
Như vậy giá trị của BS gia đình thể hiện ở chổ:
1. Người giúp được bệnh nhân và gia đình họ giải quyết 80% các vấn đề sức khỏe
thông thường cùng các bệnh lý cấp hay mạn chưa có biến chứng cũng như chưa
cần chuyển khám chuyên khoa. Các giải pháp đề ra luôn chú ý đến nguồn tài
nguyên của gia đình hay nói khác đi làm sau cho bệnh nhân mua được thuốc trong

khả năng kinh tế của gia đinh, bệnh nhân không phải đi xa, giảm chi phí và tăng
hiệu quả điều trị do áp dụng các biện pháp tăng cường sức khoẻ song song với các
liệu pháp dùng thuốc và được các cá thể thành viên trong gia đình hưởng ứng.
2. Người được bệnh nhân đặt lòng tin để thổ lộ các vấn đề cá nhân cũng như của
gia đình, giúp nhiều thông tin trong chẩn đoán các bệnh có liên quan đến tiền sử
gia đình.
3. Người có kỹ năng phối hợp các chuyên gia trong chăm sóc các bệnh mạn tính và
chăm sóc cuối đời.
4. Người được đào tạo giúp cộng đồng phát hiện sớm nguy cơ bệnh tật để phòng
ngừa, tầm soát định kỳ các bệnh lý có nguy cơ cao theo nhóm tuổi, theo cộng đồng
dân cư.
5. Khám sức khỏe định kỳ...
Để được như thế người BS gia đình có các khả năng:
III.

21


Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế

1. Chăm sóc các bệnh cấp tính và dự phòng nó: suyễn, suy dinh dưỡng, nhiễm
trùng tiểu, viêm hô hấp trên, bệnh nhiễm trùng, chảy máu cam..
2. Kiểm soát các bệnh mạn tính: đái tháo đường, béo phì, tăng HA, bệnh gan, bệnh
thận mạn, bệnh phổi mạn tính.
3. Chăm sóc dự phòng tất cả các cấp cho cộng đồng: tầm soát, giáo dục y khoa
phòng ngừa, tiêm chủng, dự phòng biến chứng..
4. Chăm sóc sức khỏe tâm thần.
5. Nghiên cứu khoa học
6. Tự đào tạo thông qua CME đào tạo y khoa liên tục, Y học chứng cớ EBM.

7. Kỹ năng ra quyết định thích hợp bao gồm lựa chọn các chuyên khoa sâu cho
bệnh nhân nếu cần.
Hiệu quả của Y học gia đình trong chăm sức sức khỏe người dân:
Ở Anh cứ mỗi một BS chăm sóc sức khoẻ ban đầu thêm cho 10.000 dân ( tăng
khoảng 20%) sẽ phối hợp với giảm tỷ suất tử vong khoảng 5% đã hiệu chỉnh với
các bệnh mạn tính và các đặc trưng về dân số học và kinh tế xã hội khác nhau.
Nội dung huấn luyện bao gồm:
- Sản phụ khoa, chăm sóc trẻ, chăm sóc người lớn, ngoại khoa, y học cấp
cứu, y học thể thao và chỉnh hình, tâm thần, lão khoa, bệnh lý da, y học dự
phòng và y tế công cộng.
- Thực hành Y học gia đình tại các tuyến: bác sĩ gia đình là người thực hành
chăm sóc ban đầu cho bệnh nhân ở các tuyến với:
Lối tiếp cận Y học gia đình: chú ý đến chứng (Illness) hơn thực thể
(disease) trong hoàn cảnh chăm sóc ban đầu và gia đình trong chẩn
đoán, điều trị, tham vấn cho bệnh nhân. Tập trung vào chăm sóc ban
đầu trong khung cảnh gia đình có nghĩa là ưu tiên hướng đến các
bệnh thông thường, quan trọng theo số liệu dịch tễ vùng, miền, và
quốc gia theo hướng dự phòng liên tục toàn diện.
Chăm sóc ban đầu dựa trên chăm sóc hướng về bệnh nhân kết hợp
với khoa học hành vi và y học chứng cớ.
Các khái niệm thường dùng trong Y học gia đình:
- Chăm sóc ban đầu (Primary care): Là sự lồng ghép có chiến lược các
dịch vụ chăm sóc sức khỏe tiếp cận được do bác sĩ thực hiện, họ là người
22


Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế

quan tâm đến đa số nhu cầu chăm sóc sức khỏe cá nhân, phát triển mối quan

hệ lâu dài với bệnh nhân và thực hành chúng trong khung cảnh gia đình và
cộng đồng.
Vì sao chuyển đổi từ “Chăm sóc sức khỏe ban đầu “ (Primary Health care)
sang “Chăm sóc ban đầu” (Primary care): Từ đầu những năm 50 của thế kỷ
20, Tổ Chức Y tế thế giới đã cổ súy các chương trình hướng đến chăm sóc
sức khỏe ban đầu trên toàn thế giới, đến 1978 với tuyên ngôn Alma Ata
truyền bá mục tiêu thiên niên kỷ thì TCYTTG đã cố gắng cải thiện chăm sóc
sức khỏe tại các quốc gia đang phát triển thông qua các chương trình dọc vốn
tập trung vào bệnh như ARI, CDD… Nhưng sau nhiều năm thực hiện thì các
chương trình này vẫn chưa đạt được kỳ vọng mong muốn. Có nhiều chứng cớ
cho thấy rằng chăm sóc sức khỏe mong đợi thông qua “ Chăm sóc ban đầu”
theo hàng ngang và hướng về chứng hơn là bệnh có nhiều hứa hẹn cải thiện
sức khỏe người dân tốt hơn “ Chăm sóc sức khỏe ban đầu” và bác sĩ gia đình
là một giải pháp hứa hẹn cho việc lồng ghép các chương trình và thành quả
vốn có ở chiều dọc sang thành chiều ngang ( chứng và thực hành bệnh ngoại
trú).[6,7]
- Quan điểm tiếp cận hướng về bệnh nhân bao gồm 4 thành tố:
Kết cuộc lâm sàng: cải thiện triệu chứng lâm sàng.
Kết cuộc chức năng: đảm bảo ăn, ngủ, làm việc, sinh hoạt bình thường.
Sự hài lòng của bệnh nhân: cảm giác thoải mái khi điều trị.
Giá thành điều trị: chấp nhận được.
- Khoa học hành vi: chăm sóc sức khỏe tâm lý của người bệnh trong khung
cảnh sức khỏe gia đình. Nghiên cứu hành vi con người để có biện pháp
phòng ngừa các thói quen xấu như nghiện hút….
- Sức khỏe gia đình: kết hợp y học hiện đại, y học cổ truyền, và sức khỏe
cộng đồng thông qua mô hình tâm sinh xã hội (biopsychosocialspiritual
model).
- Mô hình sức khỏe gia đình: mô hình tâm sinh xã hội
23



Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế

(biopsychosocialspiritual) là sự hợp nhất và áp dụng những khái niệm về
mặt sinh lý, tâm lý xã hội, và tinh thần vào trong hành vi của con người.
- Y học chứng cớ (Evidence Based Medicine - EBM) là một phương pháp
tiếp cận chăm sóc bệnh nhân bao gồm việc sử dụng một cách rõ ràng và
sáng suốt y văn tra cứu được, kết hợp với sự hiểu biết về sinh lý bệnh,
kinh nghiệm của bác sĩ lâm sàng và quan tâm ưu tiên đến lợi ích bệnh
nhân nhằm giúp cho việc ra quyết định lâm sàng. Chính phương pháp tiếp
cận rõ ràng và có lý lẽ nêu trên trong chăm sóc bệnh nhân sẽ giúp các bác
sĩ cải thiện được các quyết định lâm sàng do:
Kết hợp được y văn có tính khoa học tốt nhất có sẵn.
Giảm được sai lệch thường có khi bác sĩ ra quyết định lâm sàng cho các bệnh
nhân.
Cân nhắc một cách rõ ràng giữa nguy cơ và lợi ích của quyết định lâm sàng.
Kết hợp ưu tiên hướng về bệnh nhân trong việc đánh giá nguy cơ và lợi ích.
- Tiếp cận được sự chăm sóc (Acess to care) : làm thế nào bệnh nhân sử dụng
được các dịch vụ trong hệ thống chăm sóc sức khỏe? Cũng như các yếu tố góp
phần vào việc lựa chọn các dịch vụ sức khỏe của họ. Bao gồm chăm sóc sau giờ
hành chánh, chăm sóc tại nhà, điều dưỡng tại nhà…
- Chăm sóc liên tục (Continuing care) hướng đến xây dựng mối quan hệ thầy
thuốc bệnh nhân suốt đời bền vững, chăm sóc liên tục theo thời gian, không gian
và liên ngành.
- Chăm sóc toàn diện (Comprehensive care) cung cấp đầy đủ các dịch vụ và
thủ thuật lâm sàng cho các vấn đề sức khỏe thông thường của cộng đồng các lứa
tuổi và cả hai giới tại phòng khám, bệnh viện và cộng đồng theo hướng chăm
sóc ban đầu.
- Chăm sóc kết hợp (Coordination of Care) kết hợp các dịch vụ cổ súy cho

sức khỏe và dự phòng bao gồm tầm soát bệnh và chủng ngừa, tổ chức được
nhóm chăm sóc sức khỏe cho người dân như chăm sóc bệnh mãn tính, chăm sóc
bệnh người già…, kết hợp chuyển bệnh đúng và hiệu quả theo chuyên khoa.
24


Khoa Y – ĐHQG TP.HCM
Bài thu hoạch Module Quản lý bệnh viện & Kinh tế y tế

- Chăm sóc theo hoàn cảnh (Contextual Care): chăm sóc người bệnh trong
khung cảnh tâm sinh xã hội của từng người kết hợp với gia đình, chính điều này
giúp BS gia đình xác định được ý nghĩa của các vấn đề sức khỏe và chứng trong
lúc họ sinh sống và từ đó giúp xây dựng mối quan hệ bác sĩ-bệnh nhân ngày
càng bền vững. [5,6,7]

THỰC TRẠNG
I. Y học gia đình tại Việt Nam
Bác sỹ gia đình ở việt nam đang trở thành xu thế phát triển và tương lại để giảm tại
cho hệ thống bệnh viện công. Hiện tại đa số các trường đại học y cả nước đều đào
tạo bác sỹ gia đình,điển hình tại phía nam có đại học y dược thành phố hồ chí
minh, đại học y khoa phạm ngọc thạch, đại học y dược cần thơ, . Phía bắc có đại
học y hà nội , miền trung có đại học y dược huế. Hiện tại bác sỹ gia đình tại việt
nam đã có mã chuyên khoa , chuyên khoa 1 và chuyên khoa 2. Sự đầu tư vào nền
tảng y học gia đình đang được bộ y tế hết sức quan tâm
Từ tháng 3/2002 Bộ Y Tế chấp thuận cho ĐH Y Dược TP HCM thành lập Trung
Tâm
Đào Tạo BS Gia Đình với 12 thành viên, cùng 4 đơn vị thực hành.
5/2002: ĐH Y Dược TP HCM tuyển sinh khoá đầu tiên với 18 học viên
7/2004 : tốt nghiệp khoá CKI Y học gia đình đầu tiên.
Hổ trợ ĐH Y Cần thơ đào tạo khoá CKI Y học gia đình đầu tiên.

Thành lập Hội BS Gia đình Việt Nam.
11/2008 Hội thảo WONCA-ASIA PACIFIC về chủ đề sức khoẻ toàn cầu tại
25


×