Trình bày những luận điểm cơ bản trong giáo lí của
Đạo Phật và đánh giá của anh (chị).
BÀI TIỂU LUẬN GIỮA KÌ
MÔN: Lịch sử văn minh thế giới
Đề bài: Trình bày những luận điểm cơ bản trong giáo lí của Đạo Phật và đánh giá của
anh (chị).
BÀI LÀM
Ấn Độ là một trong những nền văn minh lớn của phương Đông cũng như của nhân loại
thời cổ đại. Văn minh Ấn Độ phát triển rực rỡ, huy hoàng trên nhiều lĩnh vực như chữ
viết, văn học, toán học, nghệ thuật,… với những đóng góp to lớn cho nền văn minh nhân
loại. Trong đó không thể không kể đến lĩnh vực tôn giáo. Dân tộc Ấn Độ là một dân tộc
mộ đạo. Nói tới văn hóa Ấn Độ, chúng ta không thể bỏ qua sự phát triển mạnh mẽ và ảnh
hưởng sâu rộng của tôn giáo tới đời sống xã hội Ấn Độ. Đất nước Ấn Độ là nơi sản sinh
ra rất nhiều tôn giáo, trong đó quan trọng nhất là Đạo Bà La Môn mà về sau này là Hinđu
Giáo và Đạo Phật. Ngoài ra còn có một số tôn giáo khác như đạo Jaina, đạo Xích. Ngày
nay, ở Ấn Độ chỉ có đạo Hinđu được coi là quốc giáo. Đạo Phật tuy không còn phát triển
mạnh ở cái nôi đã sinh ra nó nhưng lại lan tỏa rộng rãi và có ảnh hưởng tại nhiều quốc gia
trên thế giới. Đạo Phật thực sự đã trở thành một tôn giáo thế giới. Vì sao mà Đạo Phật lại
có sức ảnh hưởng mạnh mẽ, rộng rãi tới như vậy? Đó là bởi những tư tưởng giáo lí mang
đậm tính nhân đạo, nhân văn hướng con người tới những giá trị chân, thiện, mĩ đích thực
phù hợp với rất nhiều nền văn hóa của nhiều quốc gia trên thế giới. Trong khuôn khổ bài
viết này, chúng ta cùng đi tìm hiểu một vài nét cơ bản trong giáo lí Đạo Phật để hiểu rõ
hơn nguyên nhân đã làm cho nó trở nên phổ biến rộng rãi đến như vậy.
Đầu tiên, về sự ra đời và phát triển của Đạo Phật.
Phật giáo là một trường phái triết học-tôn giáo xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ VI TCN
ở miền Bắc ấn Độ, phía Nam dãy Hymalaya, vùng biên giới giữa ấn Độ với Nêpan hiện
nay. Đạo Phật ra đời trong làn sóng phản đối sự ngự trị của đạo Bàlamôn và chế độ đẳng
cấp, lý giải căn nguyên nỗi khổ và tìm con đường giải thoát con người khỏi nỗi khổ đó.
Người sáng lập Đạo Phật là Thích Ca Mâu Ni có tên thật là Siddharha(Tất Đạt Đa) họ là
Gautama(Cù Đàm), con trai đầu của vua Suddhodana(Tịnh Phạn) dòng họ Sakya, có kinh
đô là thành Kapilavatthu (Ca- tỳ- la- vệ). Ông là người rất thông minh, được hưởng một
nền giáo dục đầy đủ và trở thành một nhân tài song toàn văn võ. Mặc dù được sinh ra và
lớn lên trong một môi trường nhung lụa vương giả, được hưởng tất cả những điều kiện tốt
nhất của cuộc sống nhưng Thái tử Tất Đạt Đa vẫn trăn trở về những đau khổ của con
người trong cuộc đời bên ngoài cuộc sống giàu sang trong cung điện của mình. Năm 29
tuổi, ông từ bỏ cuộc sống vương giả đi tu luyện tìm con đường diệt trừ nỗi đau khổ của
chúng sinh. Sau 6 năm khổ luyện, ông đã "ngộ đạo", nghĩ ra được cách giải thích bản
chất của tồn tại, nguồn gốc của mọi khổ đau, do đó tìm ra con đường giải thoát chúng
sinh khỏi bể khổ cuộc đời. Từ đó, Thái tử Tất Đạt Đa được gọi là Budda, ta quen gọi là
Phật hay Bụt, nghĩa là “người đã giác ngộ”, “người đã hiểu được chân lí”. Người ta còn
gọi ông là “Sakya Muni”(Thích Ca Mầu Ni), tức là “nhà hiền triết xứ Sakya”. Về niên đại
của Phật, hiện đang có những ý kiến khác nhau. Có một số người cho rằng Phật sinh năm
563 và mất năm 483 TCN, một số khác thì cho rằng Phật sinh năm 624 và mất năm 544
TCN. Các tín đồ đã lấy năm 544 TCN làm năm mở đầu kỉ nguyên của Đạo Phật. Sau khi
đắc đạo, Phật đi truyền bá tư tưởng của mình ở khắp nơi, tập hợp những người tin theo tư
tưởng ấy hình thành nên các đoàn thể Phật giáo đầu tiên ở Ấn Độ. Như vậy có thể thấy
rằng, Thích Ca Mầu Ni là người sáng lập ra Đạo Phật nhưng để trở thành một tôn giáo
theo nghĩa đầy đủ, nó còn phụ thuộc vào những người kế tục Thích Ca và bốn cuộc đại
hội kết tập kinh điển Phật giáo ở Ấn Độ sau này.
Sau khi Phật Thích Ca nhập Niết Bàn, ở Ấn Độ đã diễn ra bốn cuộc đại hội Phật giáo.
Qua bốn cuộc đại hội này, hệ thống kinh điển của Phật giáo đã ra đời, bao gồm Kinh,
Luật và Luận. Tổ chức tôn giáo và hệ thống lễ nghi thờ cúng cũng được hình thành và
phát triển. Như vậy, Phật giáo đã trở thành một tôn giáo hoàn chỉnh. Song quá trình hình
thành này cũng kéo theo nó là sự phân hóa trong nội bộ Phật giáo thành hai phái là Đại
Thừa và Tiểu Thừa. Sau đại hội lần thứ tư, các nhà sư càng được khuyến khích truyền
đạo trong nước cũng như ra bên ngoài Ấn Độ. Do đó Đạo Phật càng được truyền bá mạnh
mẽ sang Trung Á và Trung Quốc. Những thế kỉ tiếp sau đó, Đạo Phật suy dần ở Ấn Độ
nhưng lại được phát triển ở phần lớn châu Á và đã trở thành quốc giáo của nhiều quốc gia
như Srilanka, Mianma, Thái Lan, Campuchia, Lào. Ngày nay thì Đạo Phật đã được phát
triển tới qui mô thế giới với rất nhiều nước có tín đồ theo Đạo Phật.
Những luận điểm cơ bản trong giáo lí Đạo Phật bao gồm những lí luận về nhân sinh quan
và thế giới quan.
Trước hết về nhân sinh quan-triết lí nhân sinh về con người của Đạo Phật. Đây là nội
dung bao trùm gần như toàn bộ tư tưởng Đạo Phật cả về triết học, tôn giáo học và đạo
đức học.
Đạo Phật tiếp thu tư tưởng luân hồi và nghiệp của kinh Upanisad: cho rằng mọi sự vật
mất đi ở chỗ này là để sinh ra ở chỗ khác, quá trình thác sinh luân hồi đó do nghiệp chi
phối theo luật nhân quả. Mục đích cuối cùng của Đạo Phật là tìm ra con đường giải thoát
đưa chúng sinh ra khỏi vòng luân hồi bất tận đó. Đức Phật nói: “Này các đệ tử, ta nói cho
mà biết, nước ngoài biến khơi có một vị là vị mặn, đạo của ta đây cũng chỉ có một vị là vị
giải thoát”.
Để đi tới giải thoát, Phật nêu lên “Tứ diệu đế”, hay còn gọi là “Tứ thánh đế”, nghĩa là bốn
chân lí tuyệt diệu, thiêng liêng mà mọi người đều phải nhận thức được. “Tứ diệu đế” là
cống hiến riêng của Phật Thích Ca. Đây là một trong những phần quan trọng nhất của
giáo lí Đạo Phật. “Tứ diệu đế” bao gồm: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế.
Thứ nhất là Khổ đế. Khổ đế là hòn đá tảng của “Tứ diệu đế”, lí luận cơ bản mà Phật
Thích Ca đã phát hiện. Đạo Phật cho rằng “Đời là bể khổ”. Theo quan niệm này, cái khổ
bao gồm cả cái khổ và cái vui của đời sống trần tục, vì cái vui cũng chỉ là giả tạm. Cho
nên nghĩa chung nhất của chữ khổ ở đây là vô thường. Từ đó, Đạo Phật đưa ra thuyết
“Bát khổ”, mà trên thực tế, những nỗi khổ này tác động cộng hưởng với nhau mà tạo ra
những nỗi khổ khác cho con người(khổ khổ). “Bát khổ” có:
Sinh khổ: con người sinh ra là khổ, khổ vì những ham muốn dục vọng, khổ vì phải thỏa
mãn những dục vọng đó của chính con người.
Lão khổ: con người không muốn già nua nhưng đó lại là qui luật tất yếu của tự nhiên
không thể tránh khỏi. Chính sự già nua, yếu về cả thể xác lẫn tâm lí, tinh thần trở thành
nhân tố cản trở việc thỏa mãn những nhu cầu ngày càng gia tăng của con người. Như vậy,
già lão là khổ.
Bệnh khổ: bệnh tật, đau ốm hành hạ cả thể xác và tinh thần con người. Đây là điều mà
người ta không muốn nhưng lại không thể tránh khỏi.
Tử khổ: khi chết, không chỉ có người chết đau khổ mà còn gây hệ lụy đau khổ tới những
người còn sống. Con người ta nuối tiếc vì những ham muốn chưa thực hiện được khi còn
sống.
Ái biệt li khổ: yêu thương nhau, quý mến nhau mà không được ở gần nhau, phải xa cách
nhau, như thế là khổ.
Oán tăng hội khổ: ghét bỏ nhau, thù hận nhau mà phải sống cùng với nhau, suốt ngày
thấy mặt nhau, thật là khổ.
Sở cầu bất đắc khổ: những mong muốn, ươc mơ của con người, cầu mong nhưng lại
không đạt được, không thỏa mãn được ham muốn của con người, vậy là khổ.
Ngũ uẩn xí thịnh khổ: khổ vì có sự tồn tại thân xác. Theo Đạo Phật, thân xác con người
do ngũ uẩn(Sắc, Thụ, Tưởng, Hành, Thức) kết hợp tao thành. Có thân xác tồn tại nên con
người luôn phải cố gắng để thỏa mãn những nhu cầu, ham muốn của nó. Vì có cái thân
xác đó tồn tại nên con người phải khổ.
Tám cái khổ trên thuộc về quy luật sinh tồn của tự nhiên và những quan hệ hiện thực của
con người. Con người muốn thoát khỏi cái khổ, theo Đạo Phật phải thoát khỏi quy luật
sinh tồn và hiện thực quan hệ của họ. Thích Ca Mầu Ni cho rằng: “Nước mắt chúng sinh
còn nhiều hơn nước biển”. Cái khổ phát sinh do vô thường, chuyển biến, hoại khổ. Hạnh
phúc, khoái lạc sớm muộn rồi cũng thay đổi. Khi thay đổi, nó phát sinh khổ hạnh. Khổ vì
những hoàn cảnh giới hạnh sinh tử trong ngũ uẩn, ngũ uẩn vô thường, mà bất cứ cái gì vô
thường đều là khổ.
Tập đế(hay còn gọi là Nhân đế): Từ chỗ khẳng định “Đời là bể khổ”, Đạo Phật đã đi tìm
những nguyên nhân dẫn con người tới cái khổ. Khổ là do con người không nhận thức
được mọi hữu vi pháp là vô thường, khổ là do Dục vọng, lòng ham muốn của con người.
Ý chí, dục vọng, lòng ham muốn, khát khao tồn tại, tiếp tục tăng trưởng, không mất đi,
dừng lại cùng cái chết của thân xác mà tiếp tục biểu hiện trong một hình thức khác, phát
khởi sự tái sinh gọi là luân hồi. Còn lòng dục vọng thì vòng luân hồi còn tiếp tục.
Nếu những nỗi khổ của con người xuất phát từ trong đời sống hiên thực thì Đạo Phật
cũng đã đi tìm những nguyên nhân dẫn tới khổ cũng chính từ trong cuộc sống hiện thực
đó. Đạo Phật đã chỉ ra mười nguyên nhân sau của cái khổ: thứ nhất là tham lam, thứ hai
là giận dữ, thứ ba là si mê, thứ tư là khiêu mạn, thứ năm là nghi ngờ, thứ sáu là biên
kiến(dao động, không có chính kiến), thứ bảy là tà kiến(những ý nghĩ xấu xa), thứ tám là
thủ kiến(bảo thủ), thứ chín là thân kiến(sự ích kỉ, chủ quan), thứ mười là giới cấm. Trong
mười nguyên nhân trên, có những nguyên nhân thuộc về quan hệ hiện thực, có những
nguyên nhân thuộc về nhận thức, và có nguyên nhân thuộc về giới luật. Như vậy mầm
mống của cái khổ xuất phát từ chính trong bản thân cái khổ chứ không phải từ bên ngoài.
Bởi bất cứ cái gì thuộc bản chất của sinh cũng đều thuộc bản chất của diệt. Cái khổ có ở
trong bản chất của sự phát sinh ra nó và cũng có luôn trong bản chất của sự chấm dứt nó.
Tất cả mọi cái đều có nguyên nhân sâu xa của nó. Và giáo lí Đạo Phật cũng đã đưa ra
mười hai nhân duyên, còn gọi là thập nhị nhân duyên. Mọi sự vật đều do nhân duyên hòa
hợp, do sự so sánh chủ quan của nhận thức, sự phân biệt chủ quan của ý thức gán lên sự
vật mà thành:
Đầu tiên là Vô minh: Vô minh tức là không sáng suốt, ngu dốt, không nhận thức được
thế giới, sự vật, hiện tượng đều là giả tạo. Từ đó dẫn đến sai lầm.
Duyên Hành: Hành ở đây là hoạt động của ý thức, sự dao động của tâm, đã có manh nha
của nghiệp.
Duyên Thức: Tâm thức từ chỗ trong sáng cân bằng trở nên ô nhiễm, vấy bẩn, mất cân
bằng. Tâm thức đó tùy theo nghiệp lực mà tìn đến các nhaab duyên khác để hiện hình,
thành ra một đời khác.
Duyên Danh-Sắc: là sự hội tụ của các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra Lục căn(mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý thức).
Duyên Lục nhập: là quá trình tiếp xúc với thế giới khách quan. Lục căn tiếp xúc với Lục
trần(sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).
Duyên Xúc: là sự phối hợp, tiếp xúc của Lục căn, Lục trần và Thức.
Duyên Thụ: Thụ là cảm giác. Do tiếp xúc mà nảy sinh yêu, ghét, buồn, vui,…
Duyên Ái: Ái là yêu thích, ở đây chỉ sự nảy sinh dục vọng.
Duyên Thủ: có Ái rồi tất có Thủ, tức là yêu thích rồi thì muốn giữ lấy, chiếm lấy.
Duyên Hữu: tiến tới xác định chủ thể chiếm hữu(cái ta) thì phải tồn tại, tức đã có hành
động tạo nghiệp.
Duyên Sinh: đã có tạo nghiệp(Hữu) tức là có nghiệp nhân thì ắt có nghiệp quả là sinh ra
ta.
Duyên Lão-Tử: có sinh ra thì phải có già và chết đi.
Sinh-Lão-Tử là kết thúc một quá trình nhưng đồng thời cùng là nguyên nhân của một
vòng luân hồi mới, từ vô sinh của một cuộc đời khác… Thập nhị nhân duyên là một phần
của Nhân đế không chỉ nói về nguyên nhân của khổ mà còn nói về sự sinh thành, vòng
luân hồi của nhiều sự vật, hiện tượng khác. Nói chung, nguyên nhân khổ là do Dục, là do
nội nhân con người, là do mâu thuẫn giữa mong muốn của con người với thực tế xã hội
và là sự vô minh.
Diệt đế: Từ việc chỉ ra những nguyên nhân dẫn con người tới cái khổ, Đạo Phật đã khẳng
định rằng cái khổ là có thể diệt trừ được bằng cách diệt trừ nguyên nhân của nó. Những
nguyên nhân dẫn dắt con người tới cái khổ là do chính con người tạo ra, vì thế chính con
người cũng là chủ thể của sự diệt khổ. Ở khía cạnh này, Đạo Phật đã đề cao con người
trong việc quyết định số phận của mình. Song cũng cho rằng cái khổ của con người kiếp
này là do nghiệp của kiếp trước gây nên, đó là luân hồi. Muốn diệt khổ thì phải chấm dứt
luân hồi, muốn chấm dứt được luân hồi thì phải chấm dứt nghiệp. Đó là một món nợ
truyền kiếp từ kiếp này sang kiếp khác do lòng ham muốn tạo nên. Điều này chứng tỏ
tính chất duy tâm tôn giáo của giáo lí Đạo Phật. Vì Đạo Phật cho rằng thế giới con người
là thế giới của đau khổ, con người luôn chìm đắm trong dục vọng, bị ràng buộc bởi vô
minh, vì thế phải thoát khổ bằng cách diệt trừ Dục, diệt vô minh.
Đạo đế: Do quan niệm có thể diệt được cái khổ, Đạo Phật đã chỉ ra con đường thoát khổ.
Đây là con đường trung đạo, vì nó tránh ra hai thái cực chạy theo khoái lạc tầm thường
và khổ hạnh ép xác. Con đường thứ nhất thấp kém tầm thường, không lợi ích, là con
đường của những kẻ tầm thường. Con đường thứ hai là khổ nhọc không đáng có và cũng
không lợi ích. Vậy theo giáo lí của Đạo Phật thì con đường thoát khổ là như thế nào? Nếu
xem xét con đường thoát khổ từ hai phái của Đạo Phật là Tiểu Thừa và Đại Thừa thì có
con đường lớn và con đường nhỏ của sự thoát khổ. Nếu xem xét từ nguyên nhân dẫn tới
cái khổ thì có con đường của hoạt động hiện thực, con đường của nhận thức và con
đường của việc thực hành các giới luật. Nếu xem xét con đường thoát khổ từ mối quan hệ
giữa con người với các vị Phật(với tư cách là đấng siêu nhiên thần thánh) thì có con
đường của sự tự lực(ở đây Phật chỉ là phương tiện) và con đường của tha lực(ở đây Phật
là thần thánh có thể trợ giúp con người trong việc thoát khổ). Nhìn chung, giáo lí Đạo đế
đưa ra con đường để thoát khổ như sau:
Thứ nhất: thực hành tam học Giới, Định, Tuệ
Giới: tuân theo những điều răn kiêng, cấm kị như không sát sinh, không trộm cắp, không
tà dâm, không ác khẩu, không tham lam, không giận dữ, không si mê…
Định: tập trung tư tưởng cao độ, không để tâm bị chi phối, ràng buộc bởi những dục
vọng, ham muốn, bị ảnh hưởng bởi những tác động của thế giới bên ngoài.
Tuệ: khai thông trí tuệ. Nguyên nhân dẫn đến đau khổ là do vô minh, vì thể để diệt khổ
phải diệt được vô minh, tức khai thông trí tuệ, chịu khó tu luyện, mở mang trí thức, tránh
sự lầm lẫn do vô minh gây ra.
Và sự cụ thể hóa của tam học đã được cụ thể bằng việc chỉ ra “Bát chánh đạo”(tám con
đường chân chính)
Chính kiến: phải hiểu biết, nhìn nhận đúng đắn, phù hợp với đạo.
Chính tư duy: suy nghĩ đúng đắn, không thái quá, không bất cập.
Chính ngữ: giữ lời nói chân chính, không ác khẩu, bịa đặt gây mất hòa khí.
Chính mệnh: tự mình phải rèn mình, tiết dục, làm nhiều việc thiện để tạo chính nghiệp.
Chính nghiệp: nghiệp có tà nghiệp và chính nghiệp. Nếu là tà nghiệp thì phải tu sửa, cải
tạo; nếu là chính nghiệp thì phải giữ lấy, không để nghiệp xấu chi phối.
Chính niệm: luôn luôn hằng nhớ, ghi nhớ những điều Phật dạy và tâm niệm những điều
đó.
Chính tinh tiến: có ý chí, khát vọng vươn lên chính đáng, hăng hái học tập và truyền bá
những giáo lí Phật pháp.
Chính định: tập trung tư tưởng cao độ, kiên trì theo đuổi mục đích chính đáng tới cùng.
Khi con người theo giáo lí Phật đi ccon đường “Bát chánh đạo” tức là đã đi theo con
đường để thoat khỏi bể khổ cuộc đời, từ đó để được giải thoát và tới được cõi Niết Bàn.
Niết Bàncũng là một trong những nội dung cơ bản của giáo lí Đạo Phật. Theo tiếng Phạn
Niết Bàn là Nirvana. Các nhà Phật học giải thích Nir là phủ định, chẳng; Vana là phun ra
ngọn lửa tam độc; Nirvana là trạng thái chẳng còn ngọn lửa tam độc, tức tham, sân, si.
Niết Bàn được Đạo Phật coi là một trạng thái vắng lặng, tịch diệt. Nếu con người đạt
được tới thì sẽ sống an nhiên tự tại, vô ngã vị tha. Đây là một trạng thái lí tưởng. Cơ bản
có hai cách giải thích về sự tồn tại của Niết Bàn:
Cách thứ nhất cho rằng Niết Bàn tồn tại ở nơi mà con người sau khi chết, nếu tu hành đắc
đạo thì linh hồn sẽ được siêu thoat về thế giới Niết Bàn. Niết Bàn ở đây cũng có nhiều
cấp độ khác nhau. Theo cách hiểu thông thường của các tín đồ Đạo Phật ở Việt Nam thì
đây chính là Tây Phương cực lạc quốc.
Cách hiểu thứ hai cho rằng Niết Bàn có thể tồn tại ngay trong đời sống hiện thực trần
tục(sinh tử là Niết Bàn, Niết Bàn là sinh tử), con người có thể đạt được tới trạng thái này
khi con người đã loại bỏ được tam độc “tham, sân, si”, khi con người đã thoát khỏi vô
minh va sống an nhiên tự tại.
Như vậy cách hiểu thứ nhất hướng con người đến thế giới siêu nhiên ảo tưởng, cách thứ
hai thì chủ yếu hướng con người vào đời sống trần thế thực tại trên quan niệm Đạo Phật.
Đối lập với Niết Bàn là Địa Ngục. Việc giải thich về sự tồn tại của Địa Ngục cũng giống
như sự giải thích về Niết Bàn. Vậy xét tới cùng thì chẳng hề tồn tại Niết Bàn hay Địa
Ngục, lí thuyết về vấn đề này chủ yếu là có giá trị về mặt hướng thiện.
Về thế giới quan, quan niệm của Đạo Phật cũng như của nhiều các trào lưu triết học
khác là chủ yếu lí giải về thế giới, sự tồn tại của các sự vật trong thế giới. Nội dung cơ
bản của Đạo Phật trong vấn đề này là đưa ra Duyên khởi, mọi vật đều do nhân duyên hội
tụ mà thành. Tâm là nguồn gốc của duyên khởi nên cũng là nguồn gốc của vạn vật. Do
quan niệm duyên khởi sinh ra vạn vật nên Thế giới quan Đạo Phật chủ trương tập trung
giải thích ở bốn luận điểm là vô tạo giả, vô ngã, vô thường và nhân quả.
Vô tạo giả: Đạo Phật quan niệm thế giới vạn vật không do ai, do lực lượng nào sinh ra và
chi phối mà là do chính tự bản thân nó, vô thủy vô chung, tự thân vận động. Rõ ràng quan
niệm về thế giới của Đạo Phật về cơ bản đối lập với tư tưởng cho rằng Brahman sáng tạo
ra thế giới của kinh Veda-kho tàng văn hóa, triết học đồ sộ của văn minh Ấn Độ. Tuy
nhiên, giáo lí Đạo Phật lại cho rằng thế giới mà con người nhận biết chỉ là ảo, là giả tạo
chứ nó không tồn tại , không đúng với thế giới tồn tại ấy. Bởi cái thế giới vạn vật ấy luôn
luôn vận động, biến đổi, phát triển không ngừng, không có gì là trường tồn bất biến, nó
chỉ là nó trong từng satna(đơn vị thời gian rất nhỏ). Con người chỉ nhận biết được nó
trong từng satna. Nó chính là kết quả từ sự vô minh của con người, không nhận ra nó
luôn luôn biến đổi.
Vô ngã: đây là điểm được rút ra từ luận điểm vô tạo giả. Đạo Phật cho rằng tất cả mọi sự
vật, hiện tượng xung quanh ta cũng như chính ta là không phải thực, chỉ là ảo giả, do vô
minh đem lại. Thế giới, nhất là thế giới con người hữu tình, được cấu tạo do sự hội tụ của
các yếu tố vật chất(Danh) và tinh thần(Sắc). Danh và Sắc được chia thành năm yếu tố gọi
là Ngũ uẩn bao gồm: Sắc(vật chất), Thụ(cảm giác), Tưởng(ấn tượng), Hành(tư duy nói
chung), Thức(ý thức). Cũng có thuyết cho rằng con người là do Lục đại(sáu yếu tố) cấu
tạo nên: Địa(đất, các chất khoáng), Thủy(nước, các chất lỏng), Hỏa(lửa, nhiệt),
Phong(gió, không khí thở), Không(khoảng trống), Thức(ý thức). Tóm lại Đạo Phật cho
rằng thế giới vạn vật không có cái tôi cá nhân, không có gì là bản ngã. Bởi Danh và Sắc
chỉ hội tụ với nhau trong một thời gian rất ngắn rồi lại chuyển sang trạng thái khác, do
vậy không hề có cái tôi cá nhân(vô ngã). Con người có cái tâm thường trụ, bất biến và
bao hàm vũ trụ. Tâm của chúng sinh do bị Vô minh che lấp nên chỉ là cái tâm mê loạn, vì
vô minh nên không thấy được chân lí của vũ trụ là “chư hành vô thường, chư pháp vô
ngã”; vì vô minh nên chúng sinh tưởng lầm mọi cái , kể cả xác thân ta là có thật. Mọi sự
vật, kể cả con người đều chỉ là giả tưởng, không có thật. Để khắc phục vô minh cần diệt
trừ cái sai lầm của Chấp ngã(chấp có ta). Khi thân xác chết đi(chấp đoạn), linh hồn sẽ
được đầu thai vào kiếp khác(chấp trường). Cứ như vậy luân hồi sinh tử không dứt. Và
bản chất của thế giới là một dòng biến chuyển không ngừng, liên tục, không thể tìm ra
nguyên nhân đầu tiên. Thế nên lại có quan niệm về vô thường.
Vô thường: Thế giới sự vật và hiện tượng luôn luôn biến đổi theo chu trình vòng luân
hồi: sinh- trụ- dị- diệt. Diệt theo quan niệm của Đạo Phật không phải chỉ là sự mất đi, kết
thúc trạng thái của sự vật, chấm dứt vòng luân hồi mà còn đồng thời là khởi đầu cho một
trạng thái, một vòng luân hồi mới. quá trình này diễn ra theo luật nhân- quả và tùy theo
duyên. Đạo Phật tiếp thu tư tưởng này của kinh Veda, giải thích sự tồn tại của vạn vật là
tồn tại trong mối liên hệ nhân- quả chặt chẽ. Thuyết Nhân- Qủa: “Không có sự vật, hiện
tượng nào mà lại không do đâu sinh ra, nó sinh ra tất có nguyên nhân của nó, tới lượt nó
thì lại là nguyên nhân để sinh ra những kết quả khác”. Trong quá trình liên tục đó thì
duyên đóng vai trò là điều kiện để nguyên nhân sinh ra kết quả. Như vậy thế giới luôn
biến đổi vô thủy vô chung, không có bắt đầu cũng không có kết thúc. Thế giới sự vật biến
đổi không phải do thần thánh, mà là do tự thân nó vận động(tự kỉ nhân quả). Sự vật, hiện
tượng do con người nhận biết qua thần sắc, hình tướng chỉ là giả tạm. Do đó thế giới
khách quan đang tồn tại chỉ là hư ảo, không có thực, là vô thường.
Về mặt xã hội, những tư tưởng của Đạo Phật không quan tâm tới chế độ đẳng cấp, vì Đạo
Phật cho rằng nguồn gốc xuất thân của mỗi người không phải là điều kiện để được cứu
vớt, giải thoát. Mọi chúng sinh đều bình đẳng như nhau trước giáo lí Đạo Phật, nếu một
khi đã tu hành theo Phật thì đều được giải thoát như nhau. Đồng thời Đạo Phật cũng
mong muốn một xã hội trong đó vua thì phải có đạo đức, dựa vào pháp luật để trị nước,
không chuyên quyền, còn nhân dân thì an cư lạc nghiệp, sống hòa bình, đại đồng trên
toàn thế gian. Nhưng nhìn chung giáo lí cơ bản của Đạo Phật nguyên thủy thì chủ trương
xuất thế, tránh xa các vấn đề chính trị.
Như vậy, từ việc nêu ra những luận điểm cơ bản trong giáo lí của Đạo Phật, chúng ta có
thể đánh giá được những luận điểm trên qua những vấn đề chính sau:
Về mặt Triết học: Đạo Phật vừa là một trào lưu triết học vừa là một tôn giáo, trong đó tư
tưởng triết học là cơ sở cho những giáo lí tôn giáo của Đạo Phật.
Tư tưởng triết học của Đạo Phật là một hệ thống phức tạp đề cập tới nhiều vấn đề về tự
nhiên và xã hội con người. Nó chứa đựng cả những quan niệm duy vật và quan niệm duy
tâm. Những quan niệm duy vật được thể hiện rõ ràng trong các học thuyết về thế giới
quan như vô tạo giả, vô thường, vô ngã,… Qua những quan điểm này, giáo lí Đạo Phật đã
phủ nhận vai trò sáng tạo và chi phối thế giới vật chất của các lực lượng thấn thánh, đồng
thời cũng công nhận sự vận động liên tục, biến đổi liên tục của thế giới các sự vật và tính
đa dạng của thế giới. Nhưng việc cho rằng thế giới hiện thực chỉ là ảo giác, không giải
thích cặn kẽ nguyên nhân của vận động và xây dựng ra thế giới Niết Bàn đã dần kéo
những tư tưởng này về dần với chủ nghĩa duy tâm. Đặc biệt, giáo lí cơ bản của Đạo Phật
đã xây dựng được phương pháp biện chứng hết sức sâu sắc. Theo đánh giá của F. Engel:
tư duy biện chứng duy vật có sớm nhất ở các nhà triết học duy vật cổ đại Hy Lạp và ở các
tín đồ Đạo Phật sơ kì. Tư tưởng biện chứng được nêu ra khi Đạo Phật đưa ra thuyết
Nhân- Qủa và mối quan hệ biện chứng giữa thập nhị nhân duyên. Nhưng nhìn chung, nếu
xét về khía cạnh giải quyết vấn đề cơ bản thứ nhất của triết học thì hệ thống quan điểm
triết học của giáo lí Đạo Phật mang khuynh hướng duy tâm khách quan, mặc dù có tính
biện chứng duy vật. Nhưng dù sao thì những tư tưởng triết học trong giáo lí Đạo Phật
cũng đã đóng góp một phần lớn vào hệ thống những tư tưởng triết học cổ đại của Ấn Độ
cũng như của nhân loại, nhất là về việc xây dựng được phương pháp biện chứng duy vật.
Về khía cạnh tôn giáo: nếu coi Đạo Phật là một tôn giáo giải thoát và việc giải thoát gắn
với vai trò của con người thì Đạo Phật đã thực hiện hoàn chỉnh chức năng của một tôn
giáo thực sự. Đạo Phật đã từng bước chỉ ra trước hết là mọi đau khổ của con người, sau
đó đi dần từng bước tới tìm hiểu, giải thích nguyên nhân của những đau khổ đó. Điều này
có vai trò tác động tới niềm tin của tín đồ, bởi sẽ không có ai tin vào những gì mà quá ảo
tưởng. Qúa trình lần lượt giải thích những quan điểm của mình trong lí luận đã khiến các
tín đồ của Đạo Phật đặt niềm tin hơn vào lựa chọn của mình, bởi họ đã nhìn thấy một sự
giải thích rõ ràng, đầy đủ và gắn sát với cuộc sống của mình chứ không phải là những tư
tưởng quá trừu tượng và xa vời. Qủa thực là vậy, bởi những giáo lí về Tứ diệu đế hoàn
toàn được lập luận xuất phát từ cuộc sống thực tại xã hội. Giáo lí Đạo Phật cũng khẳng
định là hoàn toàn có thể diệt trừ cái khổ và đưa ra những con đường để hướng tới tiêu
diệt cái khổ. Các tín đồ tin rằng khi mình đi theo những con đường này thì ắt hẳn sẽ thoát
được những khổ đau của cuộc sống và được đến tới một nơi mà Đạo Phật gọi là Niết
Bàn. Khi xây dựng lên thế giới Niết Bàn, Đạo Phật đã hoàn thành được vai trò bù đắp hư
ảo của mình. Con người trong cuộc sống đau khổ nên họ luôn mơ tưởng tới hạnh phúc,
sung sướng. Hệ tư tưởng Đạo Phật đã nêu ra và đi tìm con đường để chúng sinh đi tới cái
thế giới không còn khổ đau, chỉ có hạnh phúc ấy. Có thể cái thế giới Niết Bàn, Cực Lạc
quốc ấy chỉ là hư ảo nhưng trong những hoàn cảnh đau khổ thì nó cũng giúp con người
giảm bớt được gánh nặng lo âu. Khi đến với Đạo Phật, con người ta dường như được
thông cảm, thấu hiểu với nỗi khổ của mình, từ đó họ được xoa dịu nỗi đau. Rồi họ được
an ủi, động viên sống tốt hơn để hướng tới tương lai tươi đẹp hơn sau khi chết đi, đó là
cõi Niết Bàn xa xôi nào đó. Với cõi Niết Bàn hư vô ấy, con người đang gần như tuyệt
vọng trong đau khổ lại dường như tìm thấy một chút ánh sáng le lói, họ dường như lại tìm
thấy được một mục đích đáng để họ sống hơn. Và họ sống trong những ảo tưởng về thế
giới Niết Bàn kia. Điều đáng nói nhất ở đây là trong những hoàn cảnh khổ đau tuyệt vọng
thì những giáo lí của Đạo Phật đã an ủi, giúp xoa dịu bớt nỗi đau cho các tín đồ để họ có
niềm tin hơn vào cuộc sống. Nhưng mặt trái của nó lại là sự ru ngủ ý thức đấu tranh, làm
cho các tín đồ chỉ mê mải chạy theo cái thế giới xa xôi nào đó mà quên đi thế giới thực
tại mình đang sống. Điều này cũng là vấn đề chung của mọi tôn giáo chứ không riêng gì
Đạo Phật.
Về giá trị nhân văn của Đạo Phật: ra đời trong bối cảnh một xã hội Ấn Độ với chế độ
phân biệt đẳng cấp hà khắc và mâu thuẫn gay gắt giữa các đẳng cấp, nội dung giáo lí của
Đạo Phật càng thể hiện rõ tính chất nhân văn, nhân đạo của mình.
Đầu tiên phải kể đến tiếng nói chống lại chế độ phân biệt đẳng cấp. Mặc dù được sinh ra
từ một đẳng cấp cao trong xã hội nhưng Thích Ca Mầu ni lại lên tiếng không ủng hộ việc
phân biệt đẳng cấp này. Ngài đã từng nói: “Tình thương là sợi dây liên lạc giữa người với
người, không có đẳng cấp trong dòng máu đỏ như nhau, không có đẳng cấp trong giọt
nước mắt cùng mặn. Một người sinh ra không ai mang sẵn trong thai vòng daayowr cổ
tay hay dấu tica trên trán”. Chính sau khi tuyên bố như thế, Ngài đã nhận lấy và uống bát
sữa từ tay một cô bé chăn bò- một điều không tưởng trong cái xã hội Ấn Độ thời đó. Giáo
lí Đạo Phật chủ trương xóa bỏ chế độ đẳng cấp, coi các chúng sinh ai cũng bình đẳng như
ai, mọi người không phân biệt đẳng cấp nếu đến với Đạo Phật thì đều được giác ngộ, giải
thoát như nhau. Và giới cấm sát sinh của Đạo Phật khuyên các tín đồ không nên giết hại
các sinh vật cho dù là người hay các loài vật khác. Từ đó thể hiện đức hiếu sinh và sự tôn
trọng tính mệnh chúng sinh của Đức Phật.
Giáo lí Đạo Phật là tình thương bao la đối với các chúng sinh, bởi các luận điểm chủ yếu
đề cập tới việc lí giải các vấn đề khổ đau của chúng sinh và vẽ ra con đường chân chính
để chúng sinh đi tới sự giải thoát khỏi những khổ đau ấy. Với việc đề cao vai trò tự giải
thoát của con người, giáo lí Đạo Phật kêu gọi con người không chỉ tu hành để tự giải
thoát cho mình mà còn để giải thoat cho những người khác. Đây là sự đề cao giá trị của
con người, tính đại đồng, bao dung của Đạo Phật.
Tuy có xu hướng xuất thế, không tham gia vào các hoạt động mang tính chính trị nhưng
các giáo lí Đạo Phật vẫn hướng tới môt xã hội mà vua thì biết yêu dân, còn nhân dân thì
yên ổn làm ăn, an cư lạc nghiệp. Tinh thần nhân văn, nhân đạo to lớn bao trùm lên toàn
bộ giáo lí của Đạo Phật. Đây là một điều không thể phủ nhận. Hơn thế, những con đương
mà giáo lí Đạo Phật chỉ ra không chỉ là con đường giải thoat cho con người mà còn là con
đường hướng con người tới những điều thiện trong cuộc sống. Đạo Phật luôn khuyên con
người ta làm nhiều việc thiện, tránh xa những việc ác gây hại cho chính mình cũng như
cho đồng loại hay toàn thể chúng sinh. Điều này kêu gọi tính thiện vốn có trong mỗi con
người, dạy con người ta sống khong vì bản thân mình mà phải vì đồng loại, góp phần xây
dựng một thế gian ít những đau khổ, sầu bi hơn. Ngày nay, những giá trị tốt đẹp của đạo
đức Phật giáo đã và đang được gìn giữ, phát huy nhằm xây dựng một xã hội mới tốt đẹp
hơn, không còn những áp bức bất công giữa người với người.
Ngoài những giá trị trên, những giáo lí của Đạo Phật cũng đã góp phần tạo nên những giá
trị văn hóa của nhân loại. Nhiều công trình văn hóa, tác phẩm nghệ thuật được xây dựng,
sáng tạo nên nhờ dựa vào cảm hứng bất tận từ những triết lí sâu xa mang đậm tính nhân
văn của Đạo Phật. Từ đó cũng đóng góp một phần lớn lao vào kho tàng văn hóa của nhân
loại.
Nhìn chung, sau gần hai thế kỉ rưỡi, cho đến ngày nay những luận điểm trong giáo lí của
Đạo Phật vẫn còn chứng minh được sức sống mãnh liệt với thời gian và còn đang lan tỏa
rộng rãi trên phạm vi toàn cầu. Kể từ khi ra đời đến nay, Đạo Phật đã tồn tại và phát triển
cùng với lịch sử dân tộc Ấn Độ nói riêng và lịch sử nhân loại nói chung, đã đóng góp vai
trò to lớn của minh trong nền văn minh Ấn Độ hùng vĩ, kì bí và làm phong phú thêm cho
kho tàng văn minh, văn hóa nhân loại trên nhiều lĩnh vực. Đặc biệt ngày nay, trong xu thế
hội nhập toàn cầu, Đạo Phật càng có khả năng lan tỏa, truyền bá tới nhiều quốc gia, vùng
lãnh thổ trên thế giới. Đó cũng được coi như một phương tiện truyền tải văn hóa, sự giao
lưu hợp tác của các quốc gia. Và tư tưởng hòa bình cùng giá trị nhân văn lớn lao của giáo
lí Đạo Phật cũng sẽ chung tay góp phần vào việc xây dựng một thế giới đại đồng không
còn nhiều khổ đau và chiến tranh. Nhờ những thế mạnh đó mà chắc chắn những tư tưởng,
giáo lí của Đạo Phật sẽ còn trường tồn mãi mãi với thời gian và lan tỏa tới khắp mọi nơi
bất kể không gian.