Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Một số kinh nghiệm về việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử việt nam lớp 12, giai đoạn 1930 1954

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.2 KB, 15 trang )

MỘT SỐ KINH NGHIỆM VỀ VIỆC SỬ DỤNG ĐỒ
DÙNG TRỰC QUAN TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
VIỆT NAM LỚP 12 GIAI ĐOẠN 1930 – 1954
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Môn Lịch sử ở trường trung học phổ thông có vai trò rất quan trọng nhằm
giúp học sinh có được những kiến thức cơ bản, cần thiết về lịch sử Việt Nam và
lịch sử thế giới trên cơ sở đó góp phần hình thành ở học sinh thế giới quan khoa
học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, truyền thống dân tộc, bồi dưỡng các
năng lực tư duy, hành động và thái độ ứng xử đúng đắn trong cuộc sống xã hội. Vì
vậy phương pháp và hình thức dạy học môn lịch sử rất phong phú đa dạng, bao
gồm cả các phương pháp hiện đại và các phương pháp truyền thống, trong đó
phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan là một trong những phương pháp cơ bản
của lí luận dạy học. Bởi lẽ, việc nhận thức lịch sử vừa phải tuân thủ theo quy luật
nhận thức nói chung, nhưng đồng thời còn có nét đặc thù riêng, học sinh không thể
trực tiếp nhận thức các sự kiện lịch sử, vì lịch sử là những gì đã diễn ra và qua đi
con người không thể quan sát trực tiếp không thể dựng lại hoàn toàn hay thí nghiệm
như khoa học tự nhiên.
Do đó, dạy học lịch sử trước hết là một quá trình truyền thông tin, thu nhận
và xử lý thông tin giữa giáo viên và học sinh qua các phương tiện dạy học. Thông
tin về sự kiện lịch sử càng chính xác, chân thật, phong phú lời nói, hình ảnh cũng
như các loại đồ dùng trực quan ( hiện vật, tranh ảnh, bản đồ, băng đĩa, máy
chiếu…) là những phương tiện dạy học, có khả năng chứa hoặc truyền thông tin rất
đa dạng và phong phú.
Các phương tiện này đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm tính
trực quan và tạo biểu tượng lịch sử chân thật cho học sinh nhằm góp phần đạt được
mục tiêu dạy học. Tuy nhiên trên thực tế vì nhiều lí do chủ quan và khách quan vẫn
còn nhiều giáo viên chưa kết hợp phương pháp này vào dạy học, nếu có chăng
cũng chỉ minh họa qua loa, chưa phát huy tính chủ động sáng tạo tích cực của học
sinh trong việc khai thác tư liệu lịch sử ở các đồ dùng dạy học, điều này ảnh hưởng
không nhỏ đến chất lượng giáo dục bộ môn lịch sử.
Trên cơ sở thực tiễn đó , tôi chọn đề tài “Một số kinh nghiệm về việc sử


dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 12 giai đoạn 1930
-1954 ” để chia sẻ với quý thầy cô nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong việc
nâng cao chất lượng dạy học bộ môn theo xu thế đổi mới phương pháp dạy học
hiện nay.
II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI
1


1/ Cơ sở lý luận.
Trong dạy học lịch sử, phương pháp trực quan góp phần quan trọng tạo biểu
tượng cho học sinh cụ thể hóa các sự kiện và khắc phục tình trạng hiện đại hóa lịch
sử của học sinh.
Nguyên tắc trực quan là một trong những nguyên tắc cơ bản của lý luận dạy
học nhằm tạo cho học sinh những biểu tượng và hình thành các khái niệm trên cơ
sở trực tiếp quan sát hiện vật đang học hay đồ dùng trực quan minh họa sự vật.
Đồ dùng trực quan là chỗ dựa để hiểu sâu sắc bản chất của sự kiện lịch sử, là
phương tiện rất có hiệu lực để hình thành các khái niệm lịch sử quan trọng nhất,
giúp cho học sinh nắm vững các quy luật phát triển của xã hội.
Đồ dùng trực quan có vai trò rất lớn trong việc giúp học sinh nhớ lâu, hiểu
sâu những hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững
chắc trong trí nhớ chúng ta là hình ảnh chúng ta thu nhận được bằng trực quan.
Cùng với việc góp phần tạo biểu tượng và hình thành khái niệm lịch sử, đồ
dùng trực quan còn phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và ngôn
ngữ của học sinh. Nhìn vào bất cứ loại đồ dùng trực quan nào, học sinh cũng thích
nhận xét, phán đoán, hình dung quá khứ lịch sử được phản ảnh, minh họa như thế
nào? Các em suy nghĩ và tìm cách diễn đạt bằng lời nói chính xác, có hình ảnh rõ
ràng, cụ thể về bức tranh xã hội đã qua.
Ý nghĩa giáo dục tư tưởng, cảm xúc thẩm mỹ của đồ dùng trực quan cũng rất
lớn. Ngắm nhìn một bức tranh diễn tả một cuộc đấu tranh cách mạng như “Đấu
tranh trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931”, hay xem một cuốn phim

tài liệu “ Chiến thắng Điện Biên Phủ” hoặc “ vài hình ảnh về cuộc đời hoạt
động của chủ tịch Hồ Chí Minh” … học sinh có những tình cảm mạnh mẽ về lòng
yêu mến lãnh tụ, chiến sĩ cách mạng, lòng quý trọng lao động và nhân dân lao
động, lòng căm thù bọn xâm lược và chiến tranh……
Với tất cả ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục và phát triển nêu trên, đồ dùng trực
quan góp phần to lớn nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, gây hứng thú học tập
cho học sinh, nó là chiếc cầu nối giữa hiện thực quá khứ khách quan với đời sống
hiện tại.
2/ Cơ sở thực tiễn:
Đã nhiều lần chúng ta bàn đến việc sử dụng các phương tiện trực quan trong
dạy học lịch sử, coi đó là nguyên tắc trong dạy học, một phương pháp không thể
thiếu được trong quá trình giảng dạy lịch sử ở trường phổ thông. Tuy nhiên sử dụng
như thế nào để có hiệu quả dạy học nói chung, phát huy tính tích cực hoạt động độc
lập của học sinh nói riêng trong dạy học lịch sử thì không đơn giản, chưa có sự
thống nhất, mỗi người sử dụng một cách.
Tình trạng sử dụng các phương tiện dạy học còn mang tính hình thức chưa
phát huy được những ưu thế của các đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử.
Trong bài viết này, tôi không trình bày lại phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan
2


trọng dạy học lịch sử nói chung mà chủ yếu đề xuất một số kinh nghiệm sử dụng
nhằm phát huy năng lực trí tuệ và tính độc lập sáng tạo của học sinh
Trước tiên khẳng định hiệu quả của việc sử dụng phương pháp trực quan
trong dạy học lịch sử do nhiều yếu tố quyết định: như chất lượng đồ dùng trực
quan, hiện vật, bản đồ, tranh ảnh lịch sử … Phương pháp sử dụng, kỹ năng, năng
lực sư phạm của giáo viên và đặc biệt là trình độ nhận thức của học sinh. Đồ dùng
trực quan được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác quan, sẽ
kết hợp được hai hệ thống tín hiệu trong quá trình nhận thức “ Tai nghe - Mắt thấy”
tạo điều kiện cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu, phát huy ở học sinh năng lực chú ý,

quan sát, hứng thú, đặc biệt là tính tích cực hoạt động độc lập. Ngược lại nếu không
sử dụng đúng mức mà bị lạm dụng thì dễ làm cho học sinh phân tán xử lý, không
tập trung vào các dấu hiệu cơ bản chủ yếu, thậm chí hạn chế phát triển năng lực tư
duy trừu tượng của học sinh.
Thực tế giảng dạy ở trường phổ thông đã cho thấy: không ít giáo viên đã coi
nhẹ việc sử dụng đồ dùng trực quan. Nếu có chăng phải sử dụng thì chủ yếu là
minh hoạ một cách qua loa mang tính hình thức, chứ không dùng trong khi giảng
dạy. Lý luận dạy học chỉ ra cho chúng ta thấy cần phải tăng cường sử dụng đồ dùng
trực quan trong giảng dạy và học tập.
Để đáp ứng yêu cầu này cũng như khắc phục tình trạng trước đây, chúng ta
cần phải biết kết hợp hài hoà giữa lời dạy và hình ảnh cụ thể qua đồ dùng trực
quan. Tuy nhiên đối với mỗi loại, chúng ta cần có những phương pháp sử dụng
riêng phù hợp với nội dung từng loại bài.
3. Nội dung nghiên cứu
Đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử có nhiều loại, mỗi loại có cách sử
dụng riêng. Sau đây, tôi xin giới thiệu một số cách sử dụng cơ bản đồ dùng trực
quan trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 12 giai đoạn 1930 -1954
a/ Phương pháp sử dụng hình vẽ, tranh ảnh trong SGK:
Tranh ảnh trong sách giáo khoa là một phương tiện trực quan tạo hình có tác
dụng rất lớn trong dạy học lịch sử. Nó cung cấp cho học sinh hình ảnh về quá khứ
một cách cụ thể, sinh động và khá xác thực. Chẳng hạn như bức ảnh của Nguyễn
Ái Quốc tại đại hội của Đảng xã hội Pháp họp ở Tua (hình 27- trang 81 ), Đấu
tranh trong phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh ( Hình 32 – trang 93) Lễ thành lập Đội
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ( hình 39- Trang 111 ) v.v….Những hình
ảnh lịch sử này có giá trị như một tư liệu lịch sử quý giá, giúp học sinh hiểu sâu sắc
tính chất sự kiện lịch sử và tạo cho học sinh những ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc.
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên kết hợp hướng dẫn các em quan sát các
tranh ảnh in trong sách giáo khoa. Học sinh thích xem tranh ảnh lịch sử nhưng ít
biết khai thác nội dung của tranh ảnh để phục vụ bài học. Vì thế để sử dụng có hiệu
quả, giáo viên hướng dẫn gợi mở giúp học sinh tự tìm ra nội dung tranh ảnh. Sau

3


đó giáo viên bổ sung, để các em hiểu bức ảnh một cách đầy đủ, toàn diện sâu sắc
hơn.
Ví dụ : khi sử dụng bức ảnh “Lễ thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân” ( hình 39- trang 111 ) trong bài 16 “ Phong trào giải phóng dân tộc và
tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1939-1945. Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ra
đời ”

Giáo viên phải gợi mở để học sinh quan sát: Ai là người ra chỉ thị thành lập
đội VNTTGPQ ? Lá cờ biểu hiện điều gì? Ai là người chỉ huy trực tiếp đội Việt
Nam tuyên truyền giải phóng quân khi mới thành lập? Đội bao nhiêu người ?
Trang bị lúc đầu như thế nào? Tất cả những điều này cuối cùng giúp học sinh nắm
được Đảng ta đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành lập và lãnh đạo lực lượng
vũ trang đầu tiên của cách mạng. Họ là những người du kích trong đội “Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân ” và “ Cứu quốc quân ” (5/1945). Tuy số lượng còn ít
ỏi ( chỉ có 34 người ) vũ khí trang bị còn thô sơ nhưng đã tích cực hoạt động góp
phần rất quan trọng vào thắng lợi của các mạng. Đồng thời đây là mầm mống đầu
tiên của lực lượng vũ trang Việt Nam sau này.
Hình vẽ, tranh ảnh trong SGK là một phần của đồ dùng trực quan trong quá
trình dạy học. Nó có ý nghĩa hết sức to lớn, không chỉ là nguồn kiến thức có tác
dụng giáo dục tính cách, mà còn phát triển tư duy học sinh, sử dụng tốt loại phương
tiện trực quan này sẽ phát huy được tính tích cực của học sinh, tạo ra sự hứng thú
trong quá trình nhận thức.
Từ việc quan sát, học sinh sẽ đi tới tư duy trừu tượng. Bản thân tranh ảnh
không thể tạo ra sự quan sát tích cực của học sinh nếu như nó không được quan sát
trong tình huống có vấn đề. Mặt khác thông qua quan sát, miêu tả tranh ảnh học
sinh được rèn luyện khả năng sử dụng ngôn ngữ của các em ngày càng phong phú
4



và trong sáng hơn. Vì vậy trong dạy học lịch sử chúng ta cần phải khai thác triệt để
nội dung lịch sử được biểu hiện qua tranh ảnh, hình vẽ trong SGK. Đồng thời khi
sử dụng cần kết hợp sử dụng câu hỏi, miêu tả hoặc tường thuật kiến thức lịch sử
biểu hiện trong đồ dùng trực quan. Sau khi quan sát, học sinh cần nêu lên suy nghĩ
của mình, phát biểu của các em dù đúng, sai, nông cạn hay sâu sắc đều là cơ sở để
giáo viên đánh giá trình độ của học sinh để uốn nắn, hướng dẫn nhận thức của các
em.
Trong những điều kiện có thể cần gợi ý, tạo ra các cuộc thảo luận, tranh luận
của các em khi quan sát một bức tranh hay một hình vẽ nào đó.
Sách giáo khoa hiện nay kênh hình tương đối đầy đủ và phong phú, do vậy
việc sử dụng hình vẽ tranh ảnh để giới thiệu khắc sâu bài học lịch sử cho học sinh
nhằm phát huy tính tích cực sáng tạo của học sinh hiệu quả nhất.
b/ Sử dụng ảnh chân dung của các nhân vật lịch sử
Chân dung các nhân vật lịch sử có tác dụng tạo biểu tượng về đặc điểm
các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, của các nhà cách mạng v.v…giáo viên sử dụng
để giảng dạy nhằm tăng cường, cụ thể hóa về hình ảnh cũng như đặc điểm tính
cách tài đức của các nhân vật lịch sử. Khi sử dụng, giáo viên không nên miêu tả quá
nhiều về hình dáng bên ngoài của nhân vật mà chủ yếu là làm nổi bật những nét tính
cách, tài đức, lập trường, quan điểm và nội tâm của nhân vật để cho học sinh hiểu
nhân vật một cách trọn vẹn, sâu sắc. Chẳng hạn như khi dạy về Hội nghị Ban chấp
hành trung ương Đảng tháng 10/1930, học sinh không thể không biết đến Trần Phú Tổng bí thư đầu tiên của Đảng- người cộng sản trung kiên đã khởi thảo ra bản Luận
cương của Đảng. Để học sinh hiểu rõ về Trần Phú

Trần Phú ( 1904-1931 )
5


Trước hết, giáo viên yêu cầu học sinh quan sát chân dung ( hình 33 – Trang

94 ), và trình bày những hiểu biết của mình về Trần Phú, sau đó giáo viên chốt lại
những nét tiêu biểu nhằm giúp học sinh có ấn tượng sâu sắc về nhà cách mạng trẻ
tuổi này.
Giáo viên có thể dựa vào đoạn tư liệu sau: “Trần Phú sinh ngày 1/5/1904 tại
Quảng Ngãi ( nguyên quán ở huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh ). Ngay từ thuở thơ ấu Trần
Phú đã sống trong cảnh côi cút tha phương cầu thực vô cùng cực khổ, vì cha mẹ mất
sớm. Trước cuộc sống quá khó khăn, anh em Trần Phú phải về Quảng Trị tìm họ
hàng nương tựa, nhờ bà con giúp đỡ, Trần Phú vào học ở trường Quốc học Huế.
Ông học rất giỏi và nuôi trong lòng một hoài bão lớn, rồi sau đó Trần Phú đi theo
cách mạng, trở thành người chiến sĩ trung kiên chiến đấu vì độc lập tự do. Tháng
10/1930 Ông tham gia Hội nghị Ban chấp hành trung ương lâm thời và được cử
làm Tổng bí thư. Trần Phú được cử thảo ra Luận cương chính trị, để viết luận
cương, Ông đã dựa vào Chính cương, điều lệ vắn tắt của Nguyễn Ái Quốc; đi vào
tìm hiểu thực tế phong trào công nhân ở Hải Phòng, lên Hà Nội dựa vào anh em bồi
bếp làm cho tên công chức cao cấp thực dân Pháp ở số nhà 90 Phố Thợ Nhuộm. Tại
đây Trần Phú đã bí mật thảo Luận cương chính trị của Đảng ngay dưới tầng hầm
của ngôi nhà.
Sau một thời gian hoạt động, vì sự phản bội của Ngô Đức Trì, ngày
19/4/1931 Trần Phú bị bắt tại số nhà 66, đường Săm bơ nhơ (Sài Gòn). Những tên
mật thám khét tiếng đã điên cuồng tra tấn Trần Phú ( bắt ngồi vào thùng nước bẩn
rồi cho dòng điện chạy qua, đến thủ đoạn treo ngược lên xà nhà, cắt gân bàn chân
rồi cho xăng đốt ). Cuối cùng, chúng phải lắc đầu trước tinh thần gang thép của
người chiến sĩ trẻ tuổi. Trước khi chết, Trần Phú đã nhắn lại các đồng chí của mình
“Hãy giữ vững chí khí chiến đấu”. Câu nói của Ông đã trở thành vũ khí chiến đấu
của mỗi người Việt Nam đi vào trận đánh. Trần Phú hy sinh giữa lúc 27 tuổi đời,
tuổi thanh niên rất tươi đẹp”. Cách giới thiệu bức chân dung kết hợp với một vài
nét chấm phá về tiểu sử nhân vật sẽ khắc vào trái tim các em lòng yêu mến, kính
phục người chiến sĩ cách mạng đã hi sinh vì độc lập tự do của tổ quốc.
Nói tóm lại, sử dụng tốt kênh hình đã in sẵn trong sách giáo khoa có tác dụng
rất lớn trong việc nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử. Bởi vì, hình ảnh rõ ràng, cụ thể

của kênh hình không những giúp học sinh hiểu sâu sắc kiến thức mà còn nảy sinh
những cảm xúc lịch sử trong tâm hồn các em.
c/ Phương pháp sử dụng bản đồ, lược đồ, bảng biểu, sơ đồ.
c1. Sử dụng lược đồ
Bản đồ, lược đồ, bảng biểu là những đồ dùng trực quan quy ước không thể
thiếu được trong dạy học lịch sử. Nhờ có bản đồ, lược đồ lịch sử mà học sinh có
biểu tượng đúng đắn về hình ảnh địa lý, địa điểm xảy ra sự kiện lịch sử. Chúng ta
đều biết rằng mỗi một sự kiện lịch sử bao giờ cũng gắn liền với một không gian và
thời gian nhất định. Tách sự kiện khỏi không gian và thời gian, chúng ta sẽ không
6


hiểu được nội dung ý nghĩa của sự kiện đó. Nắm được địa điểm xảy ra sự kiện lịch
sử sẽ không phải chỉ là biết tên địa điểm xảy ra sự kiện mà quan trọng hơn gắn liền
với mỗi địa danh đó là các yếu tố, địa hình phạm vi không gian cũng như đặc điểm
điều kiện tự nhiện của địa điểm đó.
Trong khi sử dụng bản đồ, lược đồ giáo viên luôn chú ý đến sự thu nhận của
học sinh, giúp học sinh phân tích, nêu kết luận khái quát về sự kiện được phản ánh
trên bản đồ, lược đồ chứ không nên cho học sinh tiếp thu một cách thụ động. Ví
như: khi giảng về “ Chương trình khai thác thuộc địa lần 2 của thực dân Pháp ”
trong bài 12 “Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ 1919 đến 1925 ”, giáo viên
sử dụng lược đồ của trường, nếu không có thì giáo viên tự vẽ hoặc cho học sinh vẽ.

Lược đồ Nguồn lợi của tư bản Pháp trong cuộc khai thác thuộc đại lần thứ hai
7


Tác dụng của việc sử dụng lược đồ này là nhằm cụ thể hóa kiến thức giúp
học sinh thấy rõ mục đích, quy mô của cuộc khai thác cũng như hậu quả của cuôc
khai thác đối với Việt Nam, qua đó các em hiểu sâu hơn bản chất và những thủ

đoạn tàn bạo trắng trợn của thực dân Pháp. Sau khi đã chuẩn bị lược đồ trong tiến
trình giảng dạy giáo viên thực hiện các bước sau:
Sau khi đã phân tích rõ nguyên nhân mục đích của cuộc khai thác thuộc địa
lần hai của thực dân Pháp. Giáo viên treo lược đồ lên bảng để lần lượt trình bày
quá trình khai thác của thực dân Pháp về mục đích, quy mô, hậu quả v.v… kết hợp
với lời giảng, giáo viên chỉ rõ cho các em những vị trí, địa điểm mà thực dân Pháp
khai thác, khai thác những nguồn lợi gì, ở đâu? Tại sao lại khai thác những nguồn
lợi này? Nó có tác dụng gì? v.v... sau đó yêu cầu các em nhận xét và rút ra kết luận
khái quát.
Việc giảng dạy kết hợp với việc sử dụng lược đồ, bảng biểu thực tế đã cho
những kết quả tốt, hầu hết các em đã chăm chú lắng nghe, dễ hiểu và nắm được bài
học ngay trên lớp. Không những thế còn làm nảy sinh những xúc cảm lịch sử của
các em. Đó là thái độ căm phẫn trước những hành động vơ vét tàn bạo của thực dân
Pháp, là lòng xót xa, sự uất ức đối với người dân Việt Nam sống trong cảnh nước
mất nhà tan.
C2. Sử dụng bảng biểu
Ví dụ: khi dạy về bài “ Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời,” giáo viên có thể
hướng dẫn học sinh xây dựng và sử dụng bảng so sánh: Cương lĩnh chính trị
( tháng 2 năm 1930) của Nguyễn Ái Quốc với luận cương chính trị của Trần Phú
( tháng 10/1930 ) để giúp các em rút ra những mặt hạn chế của luận cương chính trị
tháng 10/1930

Nội dung
so sánh

Mục tiêu

Giai cấp
lãnh đạo


Chính cương vắn tắt,
Luận cương chính trị
sách lược vắn tắt
( 10/1930 )
( 2/1930 )
Đánh đổ Đế quốc, phong kiến, Đánh đổ phong kiến, cách bóc lột tiền tư
tư sản phản cách mạng
bản, thực hiện cách mạng thổ địa triệt để

Giai cấp Vô sản (Nhân tố quyết Giai cấp Vô sản (Nhân tố quyết đinh
đinh thắng lợi cách mạng là sự thắng lợi cách mạng là sự lãnh đạo của
lãnh đạo của Đảng cộng sản Đảng cộng sản Đông Dương )
Việt Nam )

8


Nhiệm
vụ

Lực
lượng
CM

Tịch thu tài sản ruộng đất của Đánh đổ Đế quốc Pháp, lật đổ phong
Đế quốc và bọn phản cách kiến
mạng chia cho dân cày

Liên minh công-nông chặt chẽ, Liên minh công-nông chặt chẽ
bên cạnh đó phải biết đoàn kết

với tư sản dân tộc, tiểu tư sản
trí thức, thành phần trung nông
Cách mạng Việt Nam là một bộ Cách mạng Đông Dương là một bộ phận
phận của cách mạng Thế giới
của cách mạng Thế giới

Vị trí

Ví dụ trong bài 20 “ Cuộc kháng chiến chống thực Pháp kết thúc 1953 –
1954 ” giáo viên kết hợp sử dụng lược đồ, bảng biểu trống, trình bày diễn biến
chiến cuộc Đông Xuân 1953 – 1954, sau đó hướng dẫn các em lập bảng biểu hoàn
chỉnh. Từ đó hình thành cho học sinh nhận thức về sự phối hợp lien quân Việt lào.
Các cuộc tiến công chiến lược của ta đã làm cho kế hoạch Na Va của pháp phá sản
ntn…
Thời gian

Sự kiện lịch sử

12/1953

Bộ đội chủ lực của ta tấn công Thị xã Lai Châu

Đầu tháng 12/1953

Liên quân Lào – Việt tấn công địch ở Trung Lào

Tháng 1/1954

Liên quân Lào – Việt tấn công địch ở Thượng Lào


Tháng 2/1954

Quân ta tấn công địch ở Bắc Tây Nguyên

Sau khi học xong bài 20 cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc 1953 -1954 ,
giáo viên hướng dẫn học sinh về nhà xây dựng bảng niên biểu tổng hợp những sự
kiện lớn trong tiến trình phát triển lịch sử Việt Nam từ 1930-1954 như sau:

9


THỜI GIAN

SỰ KIỆN CHÍNH

1930
1930-1931

Đảng cộng sản Việt Nam ra đời
Cao trào cách mạng 1930-1931 và sự thành lập Xô Viết Nghệ- Tĩnh

1936

Thành lập mặt trận dân chủ Đông Dương

1941

Bác Hồ về nước và chủ trì Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 8
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời

Tổng tuyển cử bầu quốc hội; Toàn quốc kháng chiến chống thực
dân Pháp xâm lược

1945
1946
1951
1954

Đại hội lần thứ II của Đảng- Đại hội kháng chiến thắng lợi
Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ; Hội nghị Giơnevơ về việc lập lại
hòa bình ở Đông Dương. Miền Bắc xây dựng CNXH, miền Nam
tiếp tục cách mạng DTDCND

Khi tiến hành tổng kết bài, giáo viên dựa vào bảng niên biểu để dạy, yêu cầu
học sinh cùng xây dựng bảng niên biểu, trên cơ sở đó mà bổ sung, sửa chữa những
điều chưa chính xác trong bảng niên biểu của các em.
C3. Sử dụng sơ đồ.
Mục đích sử dụng sơ đồ trong dạy học lịch sử nhằm phát huy khả năng suy
luận logic của học sinh khi diễn tả tổ chức một cơ cấu xã hội, một chế độ chính trị,
mối quan hệ giữa các sự kiện lịch sử...... Như vậy, khi dựa vào vào sơ đồ học sinh
có thể phân tích, giải thích, suy luận các sự kiện lịch sử có quan hệ ràng buộc lẫn
nhau một cách chính xác, khoa học. Từ đó tư duy học sinh phát triển cao hơn và
chất lượng dạy học sẽ được nâng lên
Ví dụ: Khi dạy bài 20: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân pháp kết thúc (
1953 – 1954 ) để cụ thể hóa nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống
Pháp giáo viên hướng dẫn học sinh xây dựng sơ đồ sau :

10



Do có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh
Nguyên
nhân
thắng
lợi của
cuộc
kháng
chiến
chống
Pháp

Chủ
quan

Nhân dân ta yêu nước, đoàn kết, chiến
đấu dũng cảm
Xây dựng lực vũ trang lớn mạnh,hậu phư
hậu phương vững chắc
Sự phối hợp chiến đấu và đoàn kết của ba
nước Đông Dương.

Khách
quan

Sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước, nhất là
của Liên Xô, Trung Quốc và các nước
XHCN
Sự giúp đỡ của các lực lượng dân chủ tiến
bộ, yêu chuộng hoà bình trên thế giới


Như vậy với việc sử dụng bản đồ, lược đồ, sơ đồ, bảng biểu trong quá trình
giảng dạy làm cho tiết học trở nên sôi nổi, gây được sự chú ý tập trung của học
sinh, phát huy khả năng độc lập tư duy cũng như khả năng khái quát tổng kết kiến
thức lịch sử của học sinh. Chính vì lẽ đó, trong các giờ dạy lịch sử nếu có điều kiện
cho phép, giáo viên nên tích cực sử dụng có hiệu quả các loại đồ dùng trực quan
này.
Tóm lại: sử dụng hình vẽ, tranh ảnh trong sách giáo khoa, cũng như sử dụng
các đồ dùng trực quan do giáo viên và học sinh tự sưu tầm, tự làm, bổ sung cho
sách giáo khoa là một điều hết sức cần thiết có tác dụng lớn lao trong dạy học lịch
sử. Đây là phương tiện quan trọng tạo nên hình ảnh lịch sử. Song khi sử dụng giáo
viên cần chú ý đến các yêu cầu của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học
lịch sử

11


Trong những năm vừa qua tôi đã sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch
sử theo những kinh nghiệm đã đúc kết ở nội dung trên, đây không phải là phương
pháp mới, có thể cũng đã được thầy cô ở nhiều trường áp dụng. Tuy vậy với bản
thân phần nào cũng đạt được một số kết quả nhất định.
Vì vậy có thể khẳng định thấy được tính khả thi của việc áp dụng đồ dùng
trực quan trong dạy học lịch sử đã phát huy tính tích cực hoạt động độc lập của học
sinh.
III : MỘT SỐ NGUYÊN TẮC KHI SỬ DỤNG ĐỒ DÙNG TRỰC
QUAN
Khi sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử cần chú ý các nguyên
tắc sau:
- Phải căn cứ vào nội dung, yêu cầu giáo dục của bài học để lựa chọn đồ
dùng trực quan tương ứng thích hợp. Vì vậy cần xây dựng một hệ thống đồ dùng

trực quan phong phú, phù hợp với từng loại bài lịch sử.
- Có phương pháp thích hợp đối với việc sử dụng mỗi loại đồ dùng trực
quan.
- Phải đảm bảo được sự quan sát đầy đủ đồ dùng tực quan của học sinh.
- Phát huy tính tích cực của học sinh khi sử dụng đồ dùng trực quan.
- Đảm bảo kết hợp lời nói và việc trình bày các đồ dùng trực quan, đồng thời
rèn luyện khả năng thực hành của học sinh khi sử dụng đồ dùng trực quan
- Tùy theo yêu cầu của bài học và loại hình đồ dùng trực quan mà có cách sử
dụng khác nhau. Loại đồ dùng trực quan treo tường được sử dụng nhiều nhất trong
dạy học lịch sử hiện nay là lược đồ, sơ đồ, bảng biểu, trước khi sử dụng chúng cần
chuẩn bị thật kĩ (nắm chắc nội dung, ý nghĩa của từng loại, phục vụ cho nội dung
nào của giờ học.......). Trong khi giảng cần xác định đúng thời điểm để treo bản
đồ... không nên treo trên bảng đen vì còn dùng bảng để viết mà treo cao ở góc bên
phải của bảng, nơi có ánh sáng cho tất cả học sinh nhìn thấy rõ, giáo viên cần đứng
bên phải đồ dùng, dùng que chỉ vị trí thật chính xác.
- Loại đồ dùng trực quan cỡ nhỏ được sử dụng riêng cho từng học sinh trong
giờ học, trong việc tự học ở nhà, giáo viên phải hướng dẫn học sinh sử dụng tốt loại
đồ dùng trực quan này, quan sát kĩ, tìm hiểu sâu sắc nội dung, hoàn thành các bài
tập, tập vẽ bản đồ, chứ không phải “can” theo sách.
- Tổ chuyên môn cần tăng cường tổ chức các giờ hoạt động ngoại khóa, các
chuyên đề lịch sử như các cuộc thi đố vui, các trò chơi lịch sử sẽ tăng cường bổ
sung tính hình ảnh thông qua các đồ dùng trực quan phục vụ cho bài học trên lớp.
IV: KẾT LUẬN
Công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đòi hỏi giáo dục phổ thông phải đào
tạo những con người phát triển toàn diện, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Mỗi môn học ở nhà trường phổ thông với đặc trưng của mình đều
12


phải góp phần đào tạo thế hệ trẻ, trong đó có lịch sử. Bộ môn lịch sử ở trường phổ

thông có chức năng, nhiệm vụ to lớn trong việc đào tạo con người Việt Nam vừa có
trình độ năng lực khoa học vừa thấm nhuần truyền thống dân tộc, có năng lực tư
duy sáng tạo để hội nhập với thế giới và khu vực. Để đáp ứng được yêu cầu trên,
cần phải có sự đổi mới về phương pháp dạy học môn Lịch sử mà trong đó phương
pháp sử dụng đồ dùng trực quan có hiệu quả là một trong những nhân tố góp phần
to lớn để đạt được mục tiêu giáo dục trong dạy học lịch sử cả về mặt giáo dưỡng,
giáo dục và phát triển nhân cách cho học sinh.
Biển học là vô bờ. Tôi nghĩ rằng mỗi thầy cô giáo đều có những biện pháp riêng để
nâng cao chất lượng dạy học lịch sử. Trong phạm vi hạn hẹp của đề tài, tôi chỉ mạn phép
nêu lên “Một số kinh nghiệm về việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học
lịch sử việt Nam lớp 12 giai đoạn 1930 – 1954 ” mà bản thân đã thực hiện trong quá
trình giảng dạy và đạt được một số hiệu quả nhất định. Thiết nghĩ rằng, những kinh
nghiệm trên ít nhiều có thể giúp quý thầy cô tham khảo, bổ sung và ứng dụng trong quá
trình giảng dạy của mình nhằm nâng cao chất lượng dạy học lịch sử. Những thiếu sót
trong quá trình viết đề tài là điều không thể tránh khỏi, rất mong được sự góp ý chân
thành của quý thầy cô.
Xác nhận của BGH

Thanh hóa 01/06/2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác
Người viết

Nguyễn Văn Thắng

13


14



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. SGK lịch sử 12 – Phan Ngọc Liên – Chủ biên – NXB giáo dục 2009
2. SGV lịch sử 12 – Phan Ngọc Liên – Chủ biên – NXB giáo dục 2009
3. Đổi mới nội dung và phương pháp dạy học lịch sử ở trường THPT- Phan
Ngọc Liên- chủ biên-NXB Đại học sư phạm.
4. Tài liệu hội nghị - Bộ giáo dục và đào tạo vụ trung học phổ thông
5. Các con đường biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ
thông – Nguyễn Thị Côi- NXB Đại học sư phạm năm 2006
6. Kênh hình trong dạy học lịch sử ở trường THPT – Nguyễn Thị Côi – NXB
Đại học quốc gia Hà Nội

15



×