Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Sử dụng các hiện tượng vật lý trong thực tiễn cuộc sống vào dạy một số bài vật lý ở trường THPT nhằm khơi dậy tính tò mò, gây hứng thú và lòng đam mê của HS đối với môn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.33 KB, 18 trang )

SKKN: Sử dụng một số hiện tượng trong thực tiễn cuộc sống vào dạy một số bài vật lý ở trường THPT
nhằm khơi dậy tính tò mò, sự hứng thú và lòng đam mê của HS đối với môn học

MỤC LỤC

1. MỞ ĐẦU..........……………………………….…..………….………..……...….2
1.1. Lý do chọn đề tài.................................................................................................2
1.2. Mục đích nghiên cứu……………………………………………………….…..2
1.3. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………………….….2
1.4. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………….....2
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM……………………………....2
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm……………………………………....3
2.2.Thực trạng vấn đề…………………………………………………………….....4
2.3. Những giải pháp và cách tổ chức thực hiện sáng kiếm kinh nghiệm………..…5
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục, với
bản thân, đồng nghiệp và nhà trường…………………………………………..…...9
3. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT…………………………………………………….17
3.1. Kết luận……………………………………………………………………….17
3.2. Đề xuất………………………………………………………………………..17

GV: Nguyễn Xuân Tài - Trường THPT Hậu Lộc 3

Trang 1/18


SKKN: Sử dụng một số hiện tượng trong thực tiễn cuộc sống vào dạy một số bài vật lý ở trường THPT
nhằm khơi dậy tính tò mò, sự hứng thú và lòng đam mê của HS đối với môn học

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Vật lý là môn học được coi là môn khó học và khó hiểu đối với học sinh phổ


thông nói chung và học sinh THPT nói riêng, vì vậy việc để học sinh yêu thích môn
học là rất ít, chỉ có những học sinh đam mê yêu thích môn vật lý thực sự thì mới
giác ngộ hết được sự hấp dẫn của môn học. Qua nhiều năm giảng dạy tôi thấy việc
tạo một hứng thú cho học sinh để theo học môn vật lý là điều rất quan trọng. Mặt
khác trong xu thế của giáo dục hiện nay là tập trung đổi mới phương pháp dạy học,
thực hiện dạy học dựa vào hoạt động tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh với
sự tổ chức và hướng dẫn thích hợp của giáo viên, nhằm phát triển tư duy độc lập,
góp phần hình thành phương pháp và nhu cầu, khả năng tự học, tự bồi dưỡng hứng
thú học tập, tạo niềm tin và vui thích trong học tập. Từ đó tôi thấy hoạt động khởi
động trong mỗi tiết học, bài học hoặc chủ đề dạy – học của môn vật lý là cực kỳ
quan trọng, nó sẽ quyết định chất lượng của buổi học, kích thích hứng thú của học
sinh đối với môn học. Vì vậy tôi đã tìm tòi, siêu tầm các hiện tượng trong cuộc
sống có liên quan đến kiến thức vật lý để đưa vào hoạt động khởi động trong mỗi
buổi học là cho học sinh có hứng thú, có niềm tin vào khoa học và môn học, tăng
thêm sự đam mê môn học trong lòng học sinh, từ đó thu hút được nhiều học sinh
học môn vật lý hơn.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Mục đích của tôi nghiên cứu đề tài này nhằm góp phần nâng cao chất lượng
giảng dạy bộ môn Vật lý ở trường THPT, thu hút được nhiều học sinh đam mê
môn học. Để môn vật lý đi sâu vào cuộc sống, gần gủi với học sinh và cộng đồng,
nâng cao sự hiểu biết về khoa học kỹ thuật trong nhân dân.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Học sinh trung học phổ thông.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Nghiên cứu tài liệu.
- Qua các tiết thực nghiệm trên lớp
- Điều tra hiệu quả của phương pháp qua phiếu điều tra, qua chất lượng học tập
của học sinh.
2. PHẦN NỘI DUNG:
2.1. Cơ sở lý luận

Theo Nghị quyết TW khóa VIII khẳng định, đổi mới phương pháp giáo dục,
đào tạo khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện, thành lập nếp tư duy sáng
tạo của người học. Từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện
đại vào quá trình dạy học.

GV: Nguyễn Xuân Tài - Trường THPT Hậu Lộc 3

Trang 2/18


SKKN: Sử dụng một số hiện tượng trong thực tiễn cuộc sống vào dạy một số bài vật lý ở trường THPT
nhằm khơi dậy tính tò mò, sự hứng thú và lòng đam mê của HS đối với môn học

Và thông qua hoạt động khởi động trong dạy học ở trường THPT, người giáo
viên phải có kĩ năng thu thập tài liệu, kiến thức, hiện tượng trong cuộc sống hàng
ngày có liên quan đến môn học và vận dụng tốt thì chất lượng tiết dạy mới có hiệu
quả cao.
Như chúng ta đã biết, cùng với xu thế phát triển của thời đại như hiện nay,
đòi hỏi mỗi người phải có trình độ kiến thức nhất định và kỹ năng sống tổng hợp.
Do vậy, việc học tập là một trong những vấn đề mà Đảng và Nhà nước ta đặt lên
hàng đầu. Qua đó trách nhiệm của người giáo viên càng được nâng cao.
Và ta cũng thường nghe nói “Dạy học là một nghệ thuật”, đã nói là “nghệ
thuật” thì bằng mọi cách người giáo viên phải có kĩ năng vận dụng các phương
pháp để truyền đạt kiến thức cho học sinh, tùy theo nội dung của từng tiết học mà
giáo viên viên lựa chọn phương pháp phù hợp với đặc trưng của bộ môn và từng
đối tượng học sinh. Không những thế giáo viên còn rèn luyện cho học sinh kĩ năng
quan sát, nghiên cứu, phân tích, so sánh, tổng hợp và tư duy độc lập, sáng tạo…
Để đánh giá một tiết dạy có hiệu quả hay không thì việc tạo ra cho học sinh
một động lực, hứng thú tư duy, tìm tòi sáng tạo là điều hết sức quan trọng.
Theo bản thân tôi nhận thức: mục tiêu đào tạo là cái đích mà giáo dục phải

đạt đến. Xuất phát từ mục tiêu đào tạo mà định ra chương trình, nội dung giáo dục
và điều quan trọng là định ra phương pháp giáo dục. Một phương pháp giáo dục có
một sản phẩm giáo dục tương ứng. Nhiệm vụ của mỗi thầy giáo, cô giáo hôm nay
là phải làm thế nào để giúp cho học sinh nắm được kiến thức cơ bản của bộ môn
trên cơ sở hoạt động học tập của chính các em dưới sự hướng dẫn của thầy để từ đó
giáo dục cho các em tính độc lập suy nghĩ, tính sáng tạo, có đủ bản lĩnh để đi vào
các lĩnh vực của cuộc sống.
Chúng ta đã được nghe nhiều về dạy học tích cực . Vậy dạy học tích cực là
gì? Theo tôi dạy học chỉ trở thành tích cực khi người học có nhu cầu muốn hiểu
biết về một vấn đề gì đó.... và khi người học sử dụng mọi biện pháp để hiểu về vấn
đề đó, vận dụng kiến thức đó vào cuộc sống của mình có kết quả. Điều quan trọng
là ở chỗ làm thế nào để học sinh có nhu cầu hiểu biết, muốn hiểu biết và làm thế
nào để biết thì đó là công việc của mỗi một giáo viên. Vì vậy mới có câu: “Không
thầy đố mày làm nên”. Người thầy phải bằng mọi cách để cho học sinh được hoạt
động nhiều hơn, được đưa ra chính kiến của mình trong quá trình học tập.
Với phạm vi bài viết này tôi xin trao đổi với các đồng nghiệp một phần rất
nhỏ trong một bài dạy đó là hoạt động “khởi động” để tạo ra sự thoải mái, sự mâu
thuẩn, nhu cầu tìm hiểu kiến thức và đặc biệt là niêm vui sự hứng thú trước khi
bước vào bài học.

GV: Nguyễn Xuân Tài - Trường THPT Hậu Lộc 3

Trang 3/18


SKKN: Sử dụng một số hiện tượng trong thực tiễn cuộc sống vào dạy một số bài vật lý ở trường THPT
nhằm khơi dậy tính tò mò, sự hứng thú và lòng đam mê của HS đối với môn học

2.2. Thực trạng
- Hiện nay đa phần các giáo viên vẫn dạy theo kiểu cổ điển là truyền thụ tri thức,

cũng có đổi mới nhưng chưa nhiều, vì một thực tế là học sinh học để lấy kiến thức
thi ĐH, CĐ. Bên cạnh đó đề thi vẫn nặng về kiến thức chưa có nhiều đổi mới hình
thức ra đề vì vậy việc đổi mới phương pháp cũng rất khó khăn, nếu đổi mới đúng
theo xu thể hiện tại thì kết quả học sinh thi ĐH, CĐ không đảm bảo. Do đó HS vẫn
bị động trong quá trình học tập và dẫn đến việc nhàm chán, không chủ động tìm tòi
sáng tạo làm mất hứng thú học tập cho HS.
- Để đáp ứng được xu thế phát triển của xã hội và sự đổi mới của giáo dục hiện tại
thì người giáo viên cần phải thay đổi tư duy dạy học và đặc biệt phải liên hệ được
kiến thức môn học vào thực tế để tạo niềm tin, hứng thú và đam mê cho HS đối với
môn học. Vì vậy người hướng dẫn cần phải biên soạn, tìm tòi các hiện tượng vật lý
thực tiễn cuộc sống gần gũi với học sinh và gắn liền với học sinh đưa vào bài dạy
một cách hợp lý, đặc biệt là hoạt động khởi động trước khi vào bài học để tạo niềm
tin, sự hứng thú và khơi dạy lòng đam mê của học sinh đối với bộ môn vật lý.
- Đây là phương pháp học tập mới thoải mái, vui vẻ và sáng tạo, thú vị ….
- Đây là xu thế chung của giáo dục Việt Nam nên đựơc sự ủng hộ từ các cấp, xã
hội, phụ huynh, học sinh…
- Về cơ sở vật chất đã có một số đổi mới tạo điều kiện cho hoạt động học tập:
phòng CNTT, đèn chiếu, bảng phụ…
- Xã hội hiện nay tạo điều kiện cho con người (giáo viên và học sinh) có điều kiện
tiếp cận nhiều nguồn thông tin từ nhiều phương tiện khác nhau.
- Hoạt động khởi động trong dạy bài mới, củng cố bài phù hợp tâm sinh lý lứa tuổi
học sinh, khắc phục được sự nhàm chán của phương pháp dạy học truyền thống. Vì
vậy, gây hứng thú cho người học, kích thích học sinh tư duy tích cực.
- Đòi hỏi giáo viên phải có nhiều kĩ năng khác ngoài kĩ năng sư phạm.
- Mặt khác, hạn chế của học sinh là chưa biết cách học, cách ghi kiến thức vào bộ
não mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một cách máy móc, thuộc nhưng không
nhớ được kiến thức trọng tâm, không nắm được “sự kiện nổi bật” trong bài học,
trong tài liệu tham khảo, hoặc không biết liên tưởng, liên kết các kiến thức có liên
quan với nhau.
- Với đặc thù môn học, Vật lý có nhiều nội dung kiến thức nên học sinh không

nhớ nổi toàn bộ kiến thức, phần lớn các em chỉ học thuộc lòng hay nhớ máy móc
Chính vì vậy để học sinh nắm vững nội dung bài học, giáo viên phải có kiến thức
tổng hợp, siêu tầm được nhiều tài liệu hỗ trợ trong quá trình dạy học và đặc biệt
phải gây được ấn tượng cho học sinh khi tiếp thu kiến thức mới thì học sinh mới
khắc sâu được kiến thức, hứng thú trong học tập, tò mò trong nghiên cứu tìm tòi,
góp phần nâng cao chất lượng bộ môn.

GV: Nguyễn Xuân Tài - Trường THPT Hậu Lộc 3

Trang 4/18


SKKN: Sử dụng một số hiện tượng trong thực tiễn cuộc sống vào dạy một số bài vật lý ở trường THPT
nhằm khơi dậy tính tò mò, sự hứng thú và lòng đam mê của HS đối với môn học

2.3. Giải pháp và cách tổ chức thực hiện:
Ví dụ 1. ? Vì sao dùng đòn gánh đồ vật lại đỡ tốn sức.
- Khi dùng câu hỏi này có thể khởi động vào bài học về “ Lực đàn hồi”
- Khi vận chuyển đồ vật đi xa dùng tay xách hay mang vác đều không tiết kiệm sức
bằng dùng đòn gánh. Nhất là khi dùng đòn gánh nhún lên nhún xuống, người gánh
cảm thấy thoải mái, dễ chịu. Vì sao lại như vậy?
Vốn là đòn gánh có tính đàn hồi, sau khi hai đầu vật nặng, nó hơi cong xuống dưới.
Khi người gánh di chuyển về phía trước, thân người lúc nhô cao lúc xuống thấp
đòn gánh cũng có lúc nhanh lúc thẳng. Nếu quan sát kĩ ta sẽ thấy bước đi của người
gánh và chuyển động lên xuống của đòn gánh đều có tiết tấu. Khi đòn gánh biến
thành cong thì vật nặng ở hai đầu chĩu xuống, đòn gánh ép lên vai người gánh, khi
đòn gánh trở lại thẳng vật nặng ở hai đầu nhô lên áp lực của đòn lên vai người hầu
như biến thành không. Nếu khi gánh người ta bước đi của mình sao cho khi đòn
gánh nhô lên phía trên thì người gánh cũng vừa bước về phía trước, khi đòn gánh
ép xuống dưới thì hai bàn chân người gánh cũng đồng thời tiếp xúc với đất, vật

năng không cản trở bước đi mà người vẫn có thể đỡ được vật năng. Chính điều này
làm cho người ta khi gánh đỡ tốn sức hơn nhiều.
Nếu quan sát kĩ hơn ta còn phát hiện ra rằng người gánh thường dùng hai tay kéo
vật nặng vào phía trong, đây là một cách để người gánh đỡ tốn sức. Nếu người
gánh không dùng hai tay kéo giữ thì toàn bộ trọng lực của hai vật gánh sẽ ép lên
vai, diện tích tiếp xúc giữa đòn gánh và vai sẽ rất nhỏ phần vai chịu độ nén rất lớn
trong một thời gian dài sẽ cảm thấy mệt mỏi. Nếu người gánh dùng hai tay kéo giữ
vật nặng vào phía trong, cánh tay sẽ chịu một phần trọng lực của vật gánh. Do đó
giảm bớt áp lực lên vai, người gánh cảm thầy dễ chịu hơn.
Ví dụ 2. Khi ném tạ, góc tối ưu có phải là 45 độ không?
- Khi dùng câu hỏi này có thể khởi động vào bài học về “ Chuyển động của vật
bị ném”
Thường nghe người ta nói muốn ném tạ đi được xa, góc khi quả tạ rời khỏi tay
nên tạo với mặt phẳng bằng là 45 độ thế nhưng vận động viên có kinh nghiệm lại
phát hiện góc đẩy tốt nhất phải nhỏ hơn 45 độ một chút vì sao vậy?
Sự thực có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến cự li xa gần khi đẩy tạ, ngoài việc góc
đẩy tạ khi rời khỏi tay lớn hay nhỏ còn liên quan tới tốc độ quả tạ khi rời tay, lực
cản của không khí và chiều cao của người đẩy tạ. Nói một cách chính xác phải xem
xét kĩ các nhân tố mới có thể tìm ra góc đẩy tối ưu. Nói như vậy nghĩa là mỗi người
có một góc đẩy tạ khác nhau. Qua thử nghiệm đã chứng minh được rằng thể tích
quả tạ không lớn, trọng lực lại không nhỏ nên có thể bỏ qua lực cản của không khí.
Như vậy mỗi vận động viên có thể căn cứ vào tốc độ quả tạ khi rời khỏi tay và độ
cao khi rời khỏi tay để tìm được góc đẩy tạ tối ưu.

GV: Nguyễn Xuân Tài - Trường THPT Hậu Lộc 3

Trang 5/18


SKKN: Sử dụng một số hiện tượng trong thực tiễn cuộc sống vào dạy một số bài vật lý ở trường THPT

nhằm khơi dậy tính tò mò, sự hứng thú và lòng đam mê của HS đối với môn học

Nếu độ cao khi quả tạ rời khỏi tay bằng 0 nghĩa là quả tạ được đẩy đi từ mặt đất
vào một thời gian nhất định của tốc độ ban đầu nếu muốn quả tạ đẩy đi với cự li xa
nhất thì góc đẩy tối ưu là 45 độ loại tình huống này thường không xảy ra nhưng nó
có một tình huống giới hạn. Nói chung chiều cao của vận động viên đều khá lớn
nên phần lớn độ cao khi quả tạ rời tay đều từ 1,8-2m, sau khi tính tới độ cao với
cùng một tốc độ khi rời tay thì góc đẩy tốt nhất ở trong khoảng 40 độ-43 độ.
Ví dụ 3. Vì sao diều có thể bay trên trời?
- Khi dùng câu hỏi này có thể khởi động vào bài học về “ áp lực của chất khí”
Vào ngày thời tiết thuận tiện ta có thể thả diều. Vì sao diều có thể bay lên
được bạn đã chú ý đến điều này chưa?
Nói chung con diều phải đón gió mới có thể bay lên được và mặt diều phải nghiêng
xuống dưới hai điểm này là then chốt để diều bay lên. Vào lúc diều đưa mặt ra đón
gió, không khí thổi vào mặt diều do bị cản trở nên trong một thời gian ngắn tốc độ
đã giảm xuống rất nhiều. Vào lúc tốc độ gió bị giảm đột ngột áp lực sẽ tăng lên đột
ngột. Bởi vì mặt diều nghiêng xuống dưới nên áp lực gió vuông góc với mặt
nghiêng đó. Lực này lớn hơn trọng lực của cái diều rất nhiều nên đã đẩy cái diều
bay lên. Vào lúc gió quá nhỏ để tăng tốc độ đón gió người ta thường vừa chạy vừa
thả diều nhằm tăng thêm áp lực của gió đối với diều.
Cái diều khi bay lên trời có lúc lắc qua lắc lại và có lúc như lộn đầu xuống dưới
đất. Làm thế nào để con diều bay được ổn định. Có thể đính vào cuối diều một số
tua hay dải dây. Nhìn từ góc độ vật lí thì làm như vậy để điều chình trọng tâm của
diều hướng xuống dưới và như vậy khi cái diều nghiêng quá thì trọng lực sẽ làm nó
khôi phục lại vị trí vốn có. Ngoài ảnh hưởng của trọng tâm đối với sự cân bằng của
con diều thì hình dáng và tỉ lệ các bộ phận của nó cũng như hướng gió đều là
những nhân tố không thể xem thường.
Ví dụ 4. Vì sao đi xe đạp lại đỡ tốn sức hơn đi bộ?
- Khi dùng câu hỏi này có thể khởi động vào bài học về “ Lực ma sát”
Những người biết đi xe đạp đều có kinh nghiệm như sau: trên mặt đường thẳng

cùng thời gian như nhau đi một đoạn đường dài thì đi xe đạp đỡ tốn sức hơn đi bộ
nhiều. Vì sao vậy?
Cái gọi là đỡ tốn sức chỉ là năng lượng tiêu hao của thân người giảm nhỏ. Theo tính
toán một xe đạp tốt vận hành với tốc độ trên mặt đường phẳng bằng thì phải dùng
1N để khắc phục ma sát giữa xe và trục. Để duy trì sự chuyển động không ngừng
của bánh xe cần bỏ thêm 2N để khắc phục ma sát với mặt đất. Đi xe ngược hướng
gió cũng gặp lực cản, nếu tốc độ xe là 24km/h thì sức cản ngược hướng gió là 9N
căn cứ vào đó thì cứ 1km ta phải tiêu hao một năng lương là 12000J.
Nếu đi bộ năng lương tiêu hao còn lớn hơn theo phương pháp tương tự tính ra

GV: Nguyễn Xuân Tài - Trường THPT Hậu Lộc 3

Trang 6/18


SKKN: Sử dụng một số hiện tượng trong thực tiễn cuộc sống vào dạy một số bài vật lý ở trường THPT
nhằm khơi dậy tính tò mò, sự hứng thú và lòng đam mê của HS đối với môn học

đương khi đi bộ trọng tâm của than người không ngừng nhô lên tụt xuống, cứ đi
một bước tương đương với người nhảy cao lên với phương thẳng đứng một lần. Độ
cao đó vào khoảng 15cm. Đối với người có trọng lực 700N thì ứng với mỗi bước
lớn nhất 100J năng lượng để nhấc mình lên. Khi bàn chân chạm vào mặt đất thì
năng lượng đó một phần mất đi qua việc tạo thành âm thanh và phát nhiệt khi ma
sát với mặt đất. Nói chung cứ 1km con người mất 900 bước, năng lượng tiêu hao
lên đến 90000J chỉ riêng điều này đã khiến năng lượng đi bộ gấp 8 lần so với việc
đi xe đạp. Thế nhưng vẫn còn có sức cản của gió, khoản năng lượng tiêu hao không
đáng kể.
Hai khoản tiêu hao này cũng chưa phải là đáng kể mà còn một khoản tiêu hao tiềm
ẩn lại rất lớn. Xét về mặt vật lí thì con người cũng như là một bộ máy. Khi con
người đi lại thì các bộ phận của cỗ máy đó cũng hoạt động tương ứng với nhau. Ví

dụ như các khớp xương sẽ vận động không ngừng co vào duỗi ra, tim phổi và các
bộ phận khác cũng gia tăng hoạt động. Điều này khiến cho ma sát bên trong tăng
mạnh. Ngoài ra lượng bài tiết mồ hôi tăng thêm và nhiệt lượng bức xạ của thân
người tăng. Sự tiêu hao này không hể tính được. Nhưng ước chừng vào khoảng
260000J là lượng năng lượng con người mất đi khi con người đi được 1km. Lượng
năng lượng này gấp 20lần so với đi xe đạp. Điều này cho thấy rằng năng lượng do
ma sát là nguyên nhân chủ yếu cho thấy việc đi bộ tốn sức hơn đi xe đạp.
Ví dụ 5. Vì sao vòng xoáy của nước nói chung là xoay theo một hướng?
Đây là hiện tượng rất kì lạ, khi xả nước vào bồn tắm bạn sẽ thấy ở vùng gần nơi
nước chảy xuống, vòng xoáy của nước nói chung là xoay ngược chiều kim đồng
hồ. Nếu bạn dùng tay làm nước xoáy theo chiều kim đồng hồ một lúc, nó sẽ xoay
chậm dần một lúc sau lại xoay ngược chiều kim đồng hồ.
Chẳng lẽ nước lại có tính nết kì quặc như vậy? Không phải đâu, nói ra có thể bạn
không tin nhưng đó là do trái đất tự quay giở trò đấy. Ngay từ hơn 150 năm trước
một nhà vật lí học người Pháp tên là Coriolis đã chú ý đến hiện tượng này. Thuở ấy
ông đang dạy học ở Học viện công nghệ Pháp, một dịp ngẫu nhiên đã khiến ông bắt
đầu nghiên cứu sự chuyển động của vật thể trên bề mặt vật quay. Trái đất là một vật
quay lớn, cứ 24 giờ nó lại quay một vòng. Tại một điểm trên xích đạo, một ngày đã
chuyển động 40.000 km, tốc độ hướng về đông vào khoảng 0,46 m/s, nhưng ở Bắc
Kinh một ngày chỉ cần chuyển động 30.000 km, tốc độ hướng đông vào khoảng
0,35 m/s. Như vậy, những vật thể ở Bắc bán cầu Trái Đất nếu vị trí càng gần phía
nam thì theo sự quay của Trái Đất, tốc độ sẽ càng lớn. Nếu có một dòng nước từ
Nam chảy về Bắc, nó sẽ vì quán tính mà duy trì tốc độ hướng đông tương đối
nhanh mà lệch về phía đông, còn nếu từ Bắc chảy về Nam thì tốc độ hướng đông
vốn có tương đối nhỏ, nó sẽ lệch về phía Tây, giống như ai đó đang đẩy chúng. Khi

GV: Nguyễn Xuân Tài - Trường THPT Hậu Lộc 3

Trang 7/18



SKKN: Sử dụng một số hiện tượng trong thực tiễn cuộc sống vào dạy một số bài vật lý ở trường THPT
nhằm khơi dậy tính tò mò, sự hứng thú và lòng đam mê của HS đối với môn học

nước từ bốn phía chảy tới thì nước từ nam chảy tới bắc sẽ lệch về phía đông, nước
chảy từ phía bắc chảy về phía nam sẽ lệch về hướng tây và chảy theo chiều ngược
chiều kim đồng hồ. Nhưng tình hình ở trên, ở nam bán cầu sẽ ngược lại hoàn toàn.
Coriolis đã chú ý đến hiện tượng đó trước tiên và đã tiến hành nghiên cứu một cách
hệ thống từ lí luận tới thực nghiệm, người đời sau gọi loại lực làm hình thành vòng
xoáy là lực Coriolis.
Trong bồn tắm,chậu rửa tay vòng xoáy không dễ dàng làm người ta chú ý, bạn
đừng vì thế mà cho rằng lực Coriolis ảnh hưởng đối với đời sống con người không
lớn. Ở bắc bán cầu bờ song bên phải của sông ngòi bị bào mòn tương đối lớn, đó là
vì lực Coriolis đẩy nước sông chảy theo hướng ngang. Cũng như vậy, khi xe lửa từ
hướng nam chạy tới hướng bắc nói chung cũng va đập tương đối mạnh vào mặt
phải đường sắt. Khi nghiên cứu bắn pháo và phóng vệ tinh cũng phải xem xét tới
ảnh hưởng của lực Coriolis. Lực Coriolis cũng ảnh hưởng đến sự chuyển động của
không khí trên trái đất, chính là do nó mới sinh ra dòng không khí xoáy với năng
lượng rất lớn, trong đó gió xoáy là một loại. Gió xoáy là một đại lực sĩ, nó có thể
làm đổ nhà đổ cây và còn có thể cuốn những vật ở trên bề mặt trái đất lên không
trung, mỗi năm gây tổn thất tới hàng tỷ, hàng chục tỉ đô la Mỹ. Năm 1978 gió xoáy
tập kích vào Tolago tốc độ gió đạt tới 52 m/s, tốc độ ở trung tâm vòng không khí
xoáy bằng và xấp xỉ vận tốc âm thanh. Một trong những tác dụng phá hoại của gió
xoáy là lực hút của nó, mà nguồn gốc của lực hút này là do sự chuyển động xoáy
với tốc độ cao của nó, mà hung thủ tạo thành loại chuyển động xoáy này là lực
Coriolis. Có thể thấy, nếu như lực Coriolis lúc bình thường không được người ta
chú ý, một khi nổi giận lại nguy hại rất lớn.
Ví dụ 6. Vì sao người có thể nói được?
- Khi dùng câu hỏi này có thể khởi động vào bài học về “ âm thanh”
Bạn đã thổi kèn rồi chứ? Kèn làm sao phát ra được âm thanh? Khi bạn thổi kèn thì

dòng không khí được thổi vào từ khoang miệng, rồi đi qua làm rung động trên
miệng kèn, làm cho “lam rung” rung mà phát ra âm thanh. Vì vậy nguồn âm để kèn
phát ra âm thanh là lam rung. Âm thanh mà lam rung phát ra rất nhỏ và cũng rất
đơn điệu. Để cho âm thanh to lên, phải lắp thêm một khoang cộng hưởng, đó chính
là ống kèn. Nhờ có sự giúp đỡ của ống kèn, âm thanh của kèn không những to lên
mà còn phong phú thêm ra nhiều.
Người nói cũng rất giống kèn phát ra âm thanh. Nguồn âm để người nói là một đôi
thanh đới, nó giống như hai cái quạt đặt ở họng. Khi người ta nói, khí từ phổi đi ra
qua mối nối hẹp trung gian của thanh đới, thanh đới sẽ theo dòng khí mà rung động
để phát ra âm thanh. Khi bạn nói to, nếu bạn dùng tay sờ vào cổ họng bạn sẽ cảm
thấy sự rung động của thanh đới.
Âm thanh do thanh đới phát ra tuy rõ ràng nhưng vô cùng yếu ớt và cũng rất đơn

GV: Nguyễn Xuân Tài - Trường THPT Hậu Lộc 3

Trang 8/18


SKKN: Sử dụng một số hiện tượng trong thực tiễn cuộc sống vào dạy một số bài vật lý ở trường THPT
nhằm khơi dậy tính tò mò, sự hứng thú và lòng đam mê của HS đối với môn học

điệu nên cần phải có sự giúp đỡ của khoang cộng hưởng mới có thể làm cho tiếng
nói trở nên to và phong phú.
Xung quanh thanh đới, ở phần đầu và ngực người có nhiều khoảng rỗng lớn nhỏ
như khoang yết hầu, khoang cổ họng, khoang miệng, xoang mũi, xoang đầu,
khoang ngực, v.v… Khi dòng khí kích thích thanh đới rung động thì những khoang
rỗng này cũng đồng thời rung động với độ khác nhau, chúng giống như ống kèn,
không những phóng to âm thanh lên mà còn làm âm thanh vừa có âm sắc riêng vừa
phong phú nhiều vẻ.
Nếu chỉ phát ra âm thì chưa thể hình thành lời nói. Muốn nói được phải phát ra

được từng chữ một đó là cách “phát trọng âm” thường nói. Khi phát trọng âm thì
môi trên, môi dưới, răng người ta không ngừng đóng, mở hoặc vừa đóng vừa mở,
lưỡi cũng không ngừng hoạt động co duỗi hoặc lên xuống. Sự hiệp đồng động tác
của chúng làm cho lời nói phát ra một cách thuận tiện. Những khí quản này được
gọi thống nhất là cơ quan tạo thành tiếng nói.
Trên thế giới có tới vài tỉ người, tiếng nói của mỗi người đều không ai giống ai. Âm
thanh của lời nói cũng như vân tay là tiêu chí đặc thù của mỗi người, vì thế lời nói
thường là một trong những chứng cứ quan trọng của tội phạm. Khi phân biệt tiếng
nói, trước hết phải phân tích tần số dao động của âm thanh xem xét sự tạo thành
của nó, sau đó biến tần số dao động cơ bản của âm thanh thành con số, những con
số này không chỉ là tiêu chí đặc trưng lời nói của mỗi người mà còn có thể dựa vào
tần số dao động do con số cung cấp để lại hợp thanh thành lời nói. Đó chính là sự
phân tích ngữ âm và kĩ thuật hợp thành ngữ âm hiện đại.
Hiện nay đã chế tạo được máy biết nói với tên gọi là “máy hợp thành ngữ âm
thanh”. Máy không những nói được mà còn biết nghe, biết viết, biết đọc. Lắp vào
trước cửa hoặc vào đồ dùng bằng điện, nó sẽ nhắc bạn đừng quên đóng cửa hoặc tắt
đèn. Khi có kẻ trộm vào nhà, nếu trong nhà không có người, nó sẽ báo động và kêu
cứu.
Ví dụ 7- Bằng phẳng và băng mấp mô, thứ nào trơn hơn?
- Khi dùng câu hỏi này có thể khởi động vào bài học về “ Lực ma sát”
Trên sàn nhà đánh thật bóng dễ trơn trượt hơn trên sàn nhà thường. Có lẽ trên
băng cũng giống thế mới phải, nghĩa là băng phẳng phải trơn hơn băng lồi lõm,
mấp mô. Nhưng thực tế lại trái với dự đoán đó.
Nếu có dịp kéo một xe trượt băng chở thật nặng qua mặt băng mấp mô, bạn sẽ
thấy chiếc xe nhẹ hơn đi trên mặt băng phẳng rất nhiều. Mặt băng mấp mô trơn hơn
mặt băng phẳng lỳ! Điều đó được giải thích như sau: Tính trơn của băng không phụ

GV: Nguyễn Xuân Tài - Trường THPT Hậu Lộc 3

Trang 9/18



SKKN: Sử dụng một số hiện tượng trong thực tiễn cuộc sống vào dạy một số bài vật lý ở trường THPT
nhằm khơi dậy tính tò mò, sự hứng thú và lòng đam mê của HS đối với môn học

thuộc vào sự bằng phẳng, mà hoàn toàn do một nguyên nhân khác. Đó là điểm
nóng chảy của băng giảm đi khi tăng áp suất.
Ta hãy phân tích xem có điều gì xảy ra khi trượt băng trên giày trượt hoặc
bằng xe trượt. Đứng trên giày trượt, chúng ta tựa trên một diện tích rất nhỏ, tổng
cộng chỉ độ mấy milimét vuông. Trọng lượng toàn thân ta nén cả trên cái diện tích
bé nhỏ ấy, tạo ra một lực rất lớn. Dưới áp suất lớn, băng tan ở nhiệt độ thấp. Lúc ấy,
giữa đế giày trượt và băng có một lớp nước mỏng. Thế là người trượt băng đi được.
Và khi chân anh ta vừa di chuyển đến nơi khác, thì lập tức ở đó lại xảy ra hiện
tượng giống như trên, nghĩa là băng dưới chân anh ta biến thành một lớp nước
mỏng. Trong tất cả các vật tồn tại trong thiên nhiên, chỉ một mình băng có tính chất
ấy. Một nhà vật lý Xô Viết đã gọi nó là "vật trơn duy nhất trong thiên nhiên".
Những vật khác tuy bằng phẳng nhưng không trơn.
Bây giờ, ta trở lại vấn đề băng bằng phẳng và băng mấp mô, thứ nào trơn hơn.
Theo lý thuyết, cùng một vật đè nặng lên diện tích càng nhỏ, thì áp suất nó gây ra
càng mạnh. Vậy thì, người trượt băng sẽ tác dụng lên trên đế tựa một áp suất lớn
hơn khi đứng trên băng phẳng lỳ hay khi đứng trên băng mấp mô? Rõ ràng là khi
đứng trên băng mấp mô. Bởi vì ở đây, họ chỉ đè lên một diện tích rất nhỏ chỗ nhô
lên hay lồi ra của mặt băng mà thôi. Mà áp suất trên băng càng lớn, thì băng tan
càng nhanh, và do đó băng càng trơn (nếu đế giày đủ rộng).
Nếu đế hẹp thì những điều giải thích trên không thích hợp nữa. Vì trong trường hợp
đó, đế tựa sẽ khía sâu vào những chỗ băng nhô ra, và lúc này, năng lượng chuyển
động đã bị tiêu hao vào việc khía băng.
Ví dụ 8. Ánh sáng đom đóm có từ đâu?
- Khi dùng câu hỏi này có thể khởi động vào bài học về “ Ánh sáng”
Thử di nát trên đất một con đom đóm phát sáng, bạn sẽ thấy để lại trên mặt đất

là một vệt dài, vẫn tiếp tục nhấp nháy, sau đó mới mờ dần rồi mất hẳn. Như vậy,
ánh sáng do đom đóm phát ra là sản phẩm của một quá trình hoá học, chứ không
phải là quá trình sinh học.
Bởi vì, sau khi côn trùng đã chết mà ánh sáng vẫn còn, thì rõ ràng con vật chỉ làm
nhiệm vụ liên tục sinh ra loại chất phát sáng mà thôi.
Đom đóm có hai nhóm là đom đóm bay và đom đóm bò dưới đất. Cả hai nhóm này
đều có thể phát ra cùng một thứ ánh sáng lạnh đặc biệt, không toả nhiệt như ánh
sáng nhân tạo. Đó là vì trong quá trình phát sáng, hầu như toàn bộ năng lượng được
sinh vật chuyển thành quang năng, chứ không tiêu hao thành nhiệt như ở những
nguồn sáng nhân tạo khác.
Ánh sáng của đom đóm được phát ra từ một vài đốt cuối bụng. Ban ngày, các đốt
này chỉ có màu trắng xám, về đêm mới phát ra ánh sáng huyền ảo qua lớp da trong
suốt. Bên trong lớp da bụng là dãy các tế bào phát quang, trong cùng là lớp tế bào
phản quang, có chức năng như mặt gương giúp phản chiếu ánh sáng ra ngoài.

GV: Nguyễn Xuân Tài - Trường THPT Hậu Lộc 3

Trang 10/18


SKKN: Sử dụng một số hiện tượng trong thực tiễn cuộc sống vào dạy một số bài vật lý ở trường THPT
nhằm khơi dậy tính tò mò, sự hứng thú và lòng đam mê của HS đối với môn học

Các tế bào phát quang có chứa hai loại chất là luciferin và luciferaza. Khi tách rời
nhau, chúng chỉ là những hoá chất bình thường, không có khả năng phát sáng.
Nhưng khi ở cạnh nhau, men luciferaza sẽ xúc tác, thúc đẩy quá trình oxy hoá
luciferin (quá trình dùng ôxy đốt cháy luciferin). Quá trình oxy hoá này tạo ra
quang năng.
Đom đóm chỉ có thể phát sáng lập loè mà không liên tục, bởi vì chúng tự khống chế
việc cung cấp ôxy, sao cho phản ứng phát sáng thực hiện được lâu dài.

Ví dụ 9. Người nhảy dù rơi như thế nào?
- Khi dùng câu hỏi này có thể khởi động vào bài học về “ cân bằng lực”
Nhiều người thường nghĩ rằng, khi “rơi như hòn đá” mà không mở dù, thì
người sẽ bay xuống dưới với vận tốc tăng lên mãi, và thời gian của cú nhảy đường
dài sẽ ngắn hơn nhiều. Song, thực tế không phải như vậy.
Sức cản của không khí đã không cho vận tốc tăng mãi lên. Vận tốc của người nhảy
dù chỉ tăng lên trong vòng 10 giây đầu tiên, trên quãng đường mấy trăm mét đầu
tiên. Sức cản không khí tăng khi vận tốc tăng, mà lại tăng nhanh đến nỗi chẳng mấy
chốc vận tốc đã không thể tăng hơn được nữa. Chuyển động nhanh dần trở thành
chuyển động đều.
Tính toán cho thấy, sự rơi nhanh dần của người nhảy dù (khi không mở dù) chỉ kéo
dài trong 12 giây đầu tiên hay ít hơn một chút, tùy theo trọng lượng của họ. Trong
khoảng 10 giây đó, họ rơi được chừng 400-500 mét và đạt được vận tốc khoảng 50
mét/giây. Và vận tốc này duy trì cho tới khi dù được mở.
Những giọt nước mưa cũng rơi tương tự như thế. Chỉ có khác là, thời kỳ rơi đầu
tiên của giọt nước mưa (tức là thời kỳ vận tốc còn tăng) kéo dài chừng một phút,
thậm chí ít hơn nữa.
Ví dụ 10. Vò đất sét làm mát nước như thế nào?
- Khi dùng câu hỏi này có thể khởi động vào bài học về “ liên quan đến độ ẩm,
nhiệt độ các vật”
Loại vò làm bằng đất sét không nung có khả năng làm cho nước ở bên trong
trở nên mát hơn. Loại vò này rất thông dụng ở các nước Trung Á và có nhiều tên
gọi: ở Tây Ban Nha gọi là "Alicaratxa", ở Ai Cập gọi là "Gâula"...
Bí mật về tác dụng làm lạnh của những vò này rất đơn giản: nước đựng trong vò
thấm qua thành đất sét ra ngoài và từ từ bốc hơi, khi bốc hơi nó sẽ lấy một phần
nhiệt từ vò và từ nước đựng trong vò.
Tuy nhiên, tác dụng làm lạnh ở đây không lớn lắm. Nó phụ thuộc rất nhiều điều
kiện. Không khí càng nóng, nước thấm ra ngoài bình bốc hơi càng nhanh, càng
nhiều, làm cho nước ở trong vò càng lạnh đi. Sự lạnh đi còn phụ thuộc vào độ ẩm
của không khí xung quanh: nếu không khí có nhiều hơi ẩm thì quá trình bốc hơi

xảy ra rất chậm và nước lạnh đi không nhiều lắm. Ngược lại, trong không khí khô
ráo thì sự bay hơi xảy ra rất nhanh, khiến cho nước lạnh đi rõ rệt. Gió càng thổi

GV: Nguyễn Xuân Tài - Trường THPT Hậu Lộc 3

Trang 11/18


SKKN: Sử dụng một số hiện tượng trong thực tiễn cuộc sống vào dạy một số bài vật lý ở trường THPT
nhằm khơi dậy tính tò mò, sự hứng thú và lòng đam mê của HS đối với môn học

nhanh, quá trình bay hơi càng mạnh và do đó tăng cường tác dụng làm lạnh (tác
dụng của gió cũng có thể thấy khi ta mặc áo ướt trong những ngày nóng bức. Khi
có gió, ta sẽ thấy mát mẻ, dễ chịu).
Sự giảm nhiệt độ trong các vò ướp mát thường không quá 5 độ C. Trong những
ngày nóng bức ở Trung Á, khi nhiệt kế chỉ 33 độ C thì nước ở trong vò thường chỉ
28 độ C. Như vậy, tác dụng làm lạnh của loại vò này chẳng có lợi là bao. Nhưng
loại vò này giữ nước lạnh rất tốt và người ta dùng chúng chủ yếu là nhằm vào mục
đích đó.
Chúng ta có thể thử tính xem nước trong vò "alicaratxa" lạnh đến mức độ nào. Thí
dụ, ta có một vò đựng được 5 lít nước. Giả sử rằng nước ở trong vò đã bay hơi mất
1/10 lít. Trong những ngày nóng 33 độ C, muốn làm bay hơi 1 lít nước (1kg) phải
mất chừng 580 calo, nước ở trong vò đã bay hơi mất 1/10kg thành ra cần phải có 58
calo. Nếu như toàn bộ 58 calo này là do nước trong vò cung cấp thì nhiệt độ nước ở
trong vò sẽ giảm đi 58/5, tức là xấp xỉ 12 độ. Nhưng đa số nhiệt cần thiết cho sự
bay hơi lại được lấy từ thành vò; mặt khác, nước ở trong vò vừa đồng thời lạnh đi
lại vừa bị không khí nóng tiếp giáp với thành vò làm nóng lên. Do đó, nước ở trong
vò chỉ lạnh đi chừng nửa con số tìm được ở trên mà thôi.
Khó mà nói được, ở đâu vò lạnh đi nhiều hơn - để ra ngoài hay trong bóng mát. Ở
ngoài nắng thì nước bay hơi nhanh hơn, nhưng đồng thời nhiệt đi vào trong vò

cũng nhiều hơn. Nhưng chắc chắn nhất là để vò ở trong bóng râm, hơi có gió.
Ví dụ 11. Tại sao khi quạt lại thấy mát?
- Khi dùng câu hỏi này có thể khởi động vào bài học về “
Khi phe phẩy quạt, chúng ta đã xua đuổi lớp không khí nóng ở mặt đi và thay
thế nó bằng lớp không khí lạnh. Tới lúc lớp khí mới này nóng lên thì nó lại được
thay thế bằng một lớp không khí chưa nóng khác... Chính vì thế, ta luôn cảm thấy
dễ chịu.
Thực tế, sau khi lớp không khí trực tiếp dính sát vào mặt ta nóng lên thì nó trở
thành cái chụp không khí vô hình úp vào mặt chúng ta, "ủ nóng" mặt chúng ta,
nghĩa là làm trì hoãn sự tiếp tục mất nhiệt ở đó. Nếu lớp không khí này không lưu
động thì nó chỉ bị không khí lạnh ở xung quanh (và nặng hơn) đẩy lên trên một
cách hết sức chậm chạp.
Nhưng khi chúng ta lấy quạt xua "cái chụp" ấy đi thì mặt chúng ta sẽ luôn tiếp xúc
với những lớp không khí mới chưa nóng lên, và truyền nhiệt sang các lớp không
khí ấy. Từ đó, thân thể chúng ta lạnh đi và cảm thấy mát mẻ dễ chịu.
Điều đó cũng có nghĩa là, trong một căn phòng có đông người, việc phe phẩy quạt
giúp ta cảm thấy mát mẻ, bằng cách lấy đi không khí lạnh xung quanh những người
khác, và đẩy không khí nóng về phía họ.
Ví dụ 12. Con mực bơi như thế nào?
- Khi dùng câu hỏi này có thể khởi động vào bài học về “ chuyển động bằng
phản lực”

GV: Nguyễn Xuân Tài - Trường THPT Hậu Lộc 3

Trang 12/18


SKKN: Sử dụng một số hiện tượng trong thực tiễn cuộc sống vào dạy một số bài vật lý ở trường THPT
nhằm khơi dậy tính tò mò, sự hứng thú và lòng đam mê của HS đối với môn học


Hẳn bạn sẽ vô cùng ngạc nhiên khi nghe nói: Với nhiều sinh vật thì phương
pháp hoang đường “tự túm tóc để nâng mình lên trên” lại chính là cách di chuyển
thông thường của chúng ở trong nước. Mực cũng thế.
Con mực và nói chung đa số các động vật nhuyễn thể lớp đầu túc đều di
chuyển trong nước theo cách: lấy nước vào lỗ máng qua khe hở bên và cái phễu đặc
biệt ở đằng trước thân, sau đó chúng dùng sức tống tia nước qua cái phễu đó. Như
thế, theo định luật phản tác dụng, chúng nhận được một sức đẩy ngược lại đủ để
thân chúng bơi khá nhanh về phía trước. Ngoài ra con mực còn có thể xoay ống
phễu về một bên hoặc về đằng sau và khi ép mình để đẩy nước ra khỏi phễu thì nó
có thể chuyển động theo bất kỳ hướng nào cũng được.
Chuyển động của con sứa cũng tương tự như thế: nó co các cơ lại để đẩy
nước từ dưới cái thân hình chuông của nó ra và như thế nó bị đẩy về phía ngược lại.
Chuyển động của bọ nước, của các ấu trùng chuồn chuồn và nhiều loài động vật
dưới nước khác cũng theo phương pháp tương tự.
Ví dụ 13. Làm thế nào để bảo vệ mình giữa cơn dông?
- Khi dùng câu hỏi này có thể khởi động vào bài học về “ Sự phóng điện trong
không khí, sấm, sét”
Trong cơn dông, đáng sợ nhất không phải là bầu trời đen kịt, gió rít ào ào, sấm
giật hay màn nước táp xiên vào mặt, mà là những cú sét chết người đánh xuống đất.
Dưới đây là lời khuyên của các chuyên gia nếu bạn chỉ có một mình trong cơn
dông.
Trên các cánh đồng. Trước tiên, để không bị đe dọa bởi nguy cơ cái cây đổ
xuống đúng đầu, bạn hãy tránh xa các gốc cây, đặc biệt là những cây đứng riêng lẻ.
Thực tế là những ngọn gió mạnh trong suốt cơn mưa khiến cho khả năng che mưa
của cây không còn, nhất là khi trời mưa như trút nước. Sau nữa, với độ cao của nó,
cái cây sẽ thu hút sét . Và vì khung xương của người có điện trở nhỏ hơn gỗ, nên
chúng ta sẽ là một phương tiện tốt hơn cho sét tiếp đất. Khi bạn đứng cách xa cây,
thậm chí khi đứng thẳng, cũng giảm nguy cơ thu hút sét hơn 50 lần.
Thế nhưng nguy hiểm vẫn còn. Người nông dân, với các dụng cụ bằng sắt trên tay,
cũng vô tình biến mình thành mục tiêu của sét. Vì vậy, cách tốt nhất khi gặp dông

tố ở nơi trống trải như cánh đồng là quỳ xuống đất. Dù có hơi bẩn, nhưng bạn ít có
nguy cơ chạm trán Thiên Lôi.
Còn nếu đang bơi . Một tình huống nguy hiểm! Sét không cần đánh trực tiếp
lên một người đang bơi vẫn có thể biến anh ta trở thành nạn nhân. Vì thực tế dòng
điện từ trên trời không biến mất ngay khi nó đánh xuống đất, mà chỉ yếu dần trong
môi trường đất. Bởi vì nước là một chất dẫn điện tốt. Do vậy, khi đánh xuống nước,
hoặc xuống mặt đất ở gần đó, dòng điện sẽ rất dễ dàng chạy tới người. Vì vậy,
không nên bơi khi trời nổi dông.
Trong xe hơi. Chiếc xe là một nơi ẩn nấp an toàn trong cơn dông. Ở đây, nó

GV: Nguyễn Xuân Tài - Trường THPT Hậu Lộc 3

Trang 13/18


SKKN: Sử dụng một số hiện tượng trong thực tiễn cuộc sống vào dạy một số bài vật lý ở trường THPT
nhằm khơi dậy tính tò mò, sự hứng thú và lòng đam mê của HS đối với môn học

đóng vai trò tương tự như một “chiếc lồng Faraday” (tên của nhà khoa học đầu tiên
đã chứng minh rằng việc ẩn mình phía trong một cấu trúc bằng kim loại là biện
pháp tốt nhất để tránh sét). Nếu sét đánh trúng xe thì điện sẽ dẫn truyền trên vỏ xe
mà không xuyên vào phía trong trước khi tiếp xúc với mặt đất. Do vỏ xe bằng kim
loại dẫn điện tốt hơn nhiều so với không khí trong xe, nên dòng điện cực mạnh của
sét sẽ được truyền nhanh chóng xuống mặt đất. Tuy nhiên, trong tình huống này,
những người ngồi trong xe tuyệt đối không được sờ vào máy thu thanh hay bất kỳ
một bộ phận kim loại nào khác của xe. Và nhất là không được bỏ mui.
Ví dụ 14- Tại sao con cù quay không đổ?
- Khi dùng câu hỏi này có thể khởi động vào bài học về “ Quán tính”
Rất nhiều khí cụ hồi chuyển khác nhau được chế tạo dựa trên tính chất của
con cù.

Trong số hàng nghìn người từng chơi cù hồi thơ ấu chắc chẳng mấy ai trả lời được
câu hỏi đó. Con cù dù có quay thẳng đứng hay quay nghiêng cũng vẫn không đổ
như ta tưởng. Lực nào giữ nó lại trong tình trạng không vững vàng ấy?
Lý thuyết về con cù khá phức tạp, và ta sẽ không đi sâu vào vấn đề ấy. Ở
đây ta chỉ nói tới nguyên nhân chủ yếu khiến cho con cù đang quay không bị đổ.
Hình trên vẽ một con cù quay theo chiều mũi tên. Bạn hãy chú ý tới phần A
của mép con cù, và phần B đối xứng của A. Phần A có xu hướng chuyển động dời
xa bạn, còn phần B thì tiến lại gần hơn. Bây giờ bạn hãy theo dõi xem rằng khi
nghiêng trục của con cù về phía mình thì hai phần ấy chuyển động như thế nào.
Bằng một cái va chạm như thế bạn đã bắt buộc phần A chuyển động lên
trên, và phần B đi xuống dưới. Cả hai phần đều nhận một va chạm hướng vuông
góc đối với chuyển động riêng của chúng. Nhưng vì lúc con cù quay nhanh, các
phần của vành đĩa có vận tốc quay rất lớn. Do đó, vận tốc không đáng kể do bạn
truyền cho sẽ hợp với cái vận tốc rất lớn của một điểm ở vành đĩa, tạo thành một
vận tốc tổng hợp rất gần bằng vận tốc quay ấy. Vì vậy, chuyển động của con cù hầu
như không thay đổi. Đó là lý do vì sao mà con cù hình như lúc nào cũng chống lại
khuynh hướng làm cho nó đổ. Con cù càng nặng và quay càng nhanh thì khả năng
đó càng lớn.
Ví dụ 15- Lực hấp dẫn - dây cáp vô hình siêu khỏe
Bạn hãy thử tưởng tượng, không biết vì cớ gì lực hút của mặt trời bỗng nhiên
biến mất. Và trái đất, thay vì quay trên quỹ đạo, lại có nguy cơ trôi dạt vào vũ trụ
mênh mông. Lúc đó, các kỹ sư quyết định dùng những dây thép nối mặt trời với
hành tinh của chúng ta. Sản phẩm tạo ra là một rừng cột thép...
Cái gì có thể bền hơn thép - loại vật liệu có khả năng chịu được sức căng
1000N/mm2? Vật liệu tốt nhất để giữ chặt trái đất chạy xung quanh mặt trời ắt phải
là những dây thép.
Bạn hãy hình dung ra một cột thép khổng lồ đường kính là 5 mét. Tiết diện ngang
của nó tính tròn là 20 000 000 mm2, do đó cột này chỉ có thể bị kéo đứt bởi một vật

GV: Nguyễn Xuân Tài - Trường THPT Hậu Lộc 3


Trang 14/18


SKKN: Sử dụng một số hiện tượng trong thực tiễn cuộc sống vào dạy một số bài vật lý ở trường THPT
nhằm khơi dậy tính tò mò, sự hứng thú và lòng đam mê của HS đối với môn học

nặng 20 000 000 000N.
Bạn hãy tưởng tượng thêm rằng cột thép đó nối liền trái đất với mặt trời. Bạn có
biết là phải dùng bao nhiêu cột thép rắn chắc như thế mới giữ cho trái đất chuyển
động theo quỹ đạo của nó không. Phải hàng triệu triệu cột. Để hình dung được cụ
thể cái “rừng” cột thép căng chi chít ở các lục địa và đại dương, xin nói thêm rằng
nếu phân bố đều các cột thép đó trên khoảng một nửa địa cầu hướng về phía mặt
trời, thì khoảng cách giữa chúng chỉ hơi rộng hơn đường kính của cột một ít.
Bạn hãy hình dung ra cái lực cần thiết để làm đứt cả một “rừng” thép khổng
lồ này, và bạn sẽ quan niệm được sự vĩ đại của lực hấp dẫn vô hình giữa trái đất và
mặt trời.
Thế mà toàn bộ lực vĩ đại đó lại chỉ biểu lộ ra ở chỗ, khi nó làm cong đường
đi của trái đất, thì mỗi giây nó bắt trái đất phải lệch khỏi tiếp tuyến của mình một
khoảng 3 mm. Nhờ đó mà quỹ đạo của hành tinh chúng ta trở thành một đường
cong kín, hình bầu dục.
Liệu như thế không lạ hay sao: muốn cho trái đất mỗi giây lệch đi 3 mm mà
phải cần tới một lực khổng lồ đến thế! Điều đó chỉ chứng tỏ rằng, khối lượng của
quả địa cầu to lớn đến nhường nào, vì ngay cả một lực khổng lồ như vậy mà cũng
chỉ làm nó chuyển dời một khoảng cách nhỏ bé không đáng kể.
Ví dụ 16- Tại sao tên lửa bay được?
- Khi dùng câu hỏi này có thể khởi động vào bài học về “ chuyển động bằng
phản lực”
Trong vấn đề này, ngay cả một số người từng học vật lý cũng giải thích nhầm
lẫn. Họ cho rằng tên lửa bay được là do nó đẩy vào không khí cái chất khí mà thuốc

nổ tạo ra khi cháy. Song thực tế, nguyên nhân khiến tên lửa bay lên lại hoàn toàn
khác.
Bởi vì, nếu phóng tên lửa trong khoảng không gian không có không khí, nó
còn bay nhanh hơn là trong khoảng không có không khí. Như vậy, không khí không
phải là điểm tựa để tên lửa bay lên.
Nhà cách mạng Kibanchich đã trình bày nguyên nhân này một cách đơn giản
và dễ hiểu trong bút tích của mình viết trước khi chết vì chiếc tên lửa quân sự do
ông chế ra như sau:
“Lấy thuốc nổ nén lại thành một hình trụ, có một cái rãnh rộng nằm dọc theo
trục, rồi đặt cục thuốc nổ này vào một ống sắt tây (có một đầu bịt kín và một đầu để
hở). Thuốc nổ bắt đầu cháy từ bề mặt của rãnh này và dần dần trong một khoảng
thời gian nhất định lan tới mặt ngoài của thuốc nổ. Các chất khí tạo ra khi thuốc nổ
cháy sẽ gây nên một sức ép vào mọi phía, nhưng các áp suất bên của chất khí thì
cân bằng nhau, còn áp suất vào đáy hở của ống sắt tây thì không bị áp suất ngược
lại cân bằng (bởi vì về phía này các chất khí có lối thoát ra tự do), cho nên nó đẩy

GV: Nguyễn Xuân Tài - Trường THPT Hậu Lộc 3

Trang 15/18


SKKN: Sử dụng một số hiện tượng trong thực tiễn cuộc sống vào dạy một số bài vật lý ở trường THPT
nhằm khơi dậy tính tò mò, sự hứng thú và lòng đam mê của HS đối với môn học

tên lửa tới trước”.
Ở đây, hiện tượng cũng xảy ra y như khi bắn súng đại bác. Khi quả đạn lao
về phía trước thì thân khẩu súng giật lùi về phía sau. Hẳn bạn còn nhớ “sự giật” của
súng trường hay nói chung của bất kỳ một loại súng nào khác. Nếu một khẩu đại
bác được treo lơ lửng trong không khí mà không tỳ vào đâu cả, thì sau khi bắn một
phát đạn, nó sẽ bị đẩy lùi về phía sau với một vận tốc nào đó. Khẩu súng nặng hơn

viên đạn bao nhiêu lần thì vận tốc của nó cũng bé hơn vận tốc của đạn bấy nhiêu
lần.
Tên lửa cũng là một loại đại bác, có điều nó không nhả đạn mà lại phun ra
các chất khí thuốc nổ. Chính thuốc nổ khi bị đốt cháy đã sinh ra áp suất, đẩy tên lửa
bay ngược chiều với chiều phụt của khí nén. Ở đây, chiều ngược này là hướng lên
bầu trời.
Ví dụ 17: Khi gặp sét, nên đứng hay nên ngồi?
- Khi dùng câu hỏi này có thể khởi động vào bài học về “ sự phóng điện trong
không khí”
Nếu gặp mưa hoặc cơn dông trong khi đang ở giữa một khu vực rộng và trống
trải, tư thế tốt nhất cho bạn là quỳ xuống, hai đầu gối đặt sát nhau, đồng thời hai tay
đặt lên đầu gối và người nghiêng về phía trước. Trong lúc này, nếu khoác thêm một
chiếc áo mưa, bạn đã có "vỏ bọc" tránh thiên lôi rất hiệu quả...
Nguyên tắc cơ bản để có tư thế tránh sét tốt nhất là hạ người càng thấp càng
tốt, tránh bị sét đánh trực tiếp và giảm tối đa diện tích tiếp xúc giữa cơ thể và mặt
đất.
Tuyệt đối tránh chui vào những hang hốc vì đất là một môi trường dẫn điện
cực tốt. Nếu có điều kiện, nên dùng vải hoặc quần áo cuộn chặt lại thành một cuộn
có độ dày khoảng 10 cm rồi quỳ lên đó để cách ly hoàn toàn sự tiếp xúc của cơ thể
với mặt đất. Nếu bạn đang đi theo một nhóm thì phải nhanh chóng tách ra, không
nên tập trung cùng một chỗ. Với những người đang điều khiển ôtô, nếu không tìm
được chỗ trú thực sự an toàn thì nên ngồi yên trong xe.
Những vị trí sau đây không được trú nếu muốn tránh sét: cây lớn đứng một
mình giữa một khu vực trống (đặc biệt những cây cành thấp và vươn xa thân cây),
khu vực gần đường dây điện, cột ăng ten, đường ray tàu hỏa, hàng rào sắt, hồ nước,
bể bơi, bãi tắm rộng, ngồi trên xe đạp, đứng cạnh ôtô hay chui xuống gầm xe.

GV: Nguyễn Xuân Tài - Trường THPT Hậu Lộc 3

Trang 16/18



SKKN: Sử dụng một số hiện tượng trong thực tiễn cuộc sống vào dạy một số bài vật lý ở trường THPT
nhằm khơi dậy tính tò mò, sự hứng thú và lòng đam mê của HS đối với môn học

2.4 . Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.
*.Trước khi áp dụng phương pháp:
Kết quả khảo sát bài kiểm tra lần I
Tổng
Giỏi
Khá
Trung bình
Yếu
Kém
số
Lớp
học SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%)
sinh
10B1
43
2
4,7% 6 14%
25 58%
10 23%
0
0
10B2
42
1
2,4% 5 12%

27 64%
9 21%
0
0
11C3
45
2
4,4% 6 13,3% 28 62%
9 20%
0
0
*.Sau khi áp dụng phương pháp:
Kết quả khảo sát bài kiểm tra lần II
Tổng
Giỏi
Khá
số
Lớp
học SL TL(%) SL TL(%)
sinh
10B1
43
5 11,7% 12 28%
10B2
42
3
7,1% 13 31%
11C3
45
4

8,9% 14 31%

Trung bình

Yếu

Kém

SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%)
22 51%
23 54,8%
24 53%

4
3
3

9%
7%
6.7%

0
0
0

0
0
0

* Nhận xét:

Sau thời gian áp dụng phương pháp mới, kết quả đạt được như sau:
- Tỉ lệ học sinh giỏi và khá tăng lên rõ rệt
- Tỉ lệ học sinh trung bình và yếu giảm xuống.
- Tỉ lệ học sinh yêu thích bộ môn tăng lên
III. Phần kết luận, kiến nghị
- Thông qua nhiều năm giảng dạy môn Vật lý tôi thấy việc học sinh hiểu được bản
chất môn học là rất khó, dẫn đến không yêu thích môn học và việc tiếp cận môn
học không được nhiệt tình và tâm huyết. Vì vậy việc nâng cao sự nhiệt tình, hứng
thú của học sinh để lôi kéo được nhiều học sinh yêu thích môn học là cực kỳ quan
trọng. Do đó người giáo viên cần trang bị cho mình thật nhiều kiến thức liên quan
đến các hiện tượng thực tế đời sống để làm sống động bài học, dẫn đến học sinh
hứng thú và yêu thích môn học hơn. Trên đây là ý tưởng của cá nhân tôi để cải
thiện vị trí của môn học trong nhà trường THPT tuy nhiên các hiện tượng chưa
trang bị được nhiều rất mong được đồng nghiệp đóng góp thêm để tôi hoàn thiện
hơn được bài viết của mình.
- Công tác nghiên cứu khoa học ở các cấp cần được phát huy hơn nữa, để công tác
dạy và học ngày càng đạt hiệu quả cao. Để có những bài giảng hay, sáng kiến đổi

GV: Nguyễn Xuân Tài - Trường THPT Hậu Lộc 3

Trang 17/18


SKKN: Sử dụng một số hiện tượng trong thực tiễn cuộc sống vào dạy một số bài vật lý ở trường THPT
nhằm khơi dậy tính tò mò, sự hứng thú và lòng đam mê của HS đối với môn học

mới trong giảng dạy bộ môn Vật Lý nói riêng, góp phần nâng cao chất lượng dạy
và học, phù hợp với sự phát triển của Đất nước.
- Cần tăng cường công tác sinh hoạt Tổ nhóm chuyên môn để trao đổi về chuyên
môn, xây dựng các tiết dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh, phải xem sinh

hoạt Tổ nhóm chuyên môn là công việc để trau dồi về chuyên môn, tự học tập lẫn
nhau giúp nhau cùng tiến bộ.
- Đề tài đã được các đồng nghiệp góp ý chân thành. Để đề tài thực hiện tốt thì
cần có những buổi sinh hoạt, xêmina về Vật Lý để các em học sinh bày tỏ quan
điểm của mình cũng như tự giúp các em phát hiện ra sai lầm của nhau thông qua
các bài giải.
- Đề tài chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót và để hoàn thiện hơn nữa tác
giả rất mong được sự bổ sung và góp ý chân thành của các đồng nghiệp.
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ

Hậu Lộc, ngày 25 tháng 05 năm 2016.
Tôi xin cam đoan SKKN trên là do tôi viết,
không sao chép nội dung của người khác.
NGƯỜI THỰC HIỆN

Nguyễn Xuân Tài.

GV: Nguyễn Xuân Tài - Trường THPT Hậu Lộc 3

Trang 18/18



×