Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Lồng ghép các hiện tượng thực tiễn vào một số bài dạy hoá học lớp 12 nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.8 MB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
TRƯỜNG THPT NHƯ XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

LỒNG GHÉP CÁC HIỆN TƯỢNG THỰC TIỄN VÀO
MỘT SỐ BÀI DẠY HÓA HỌC LỚP 12 NHẰM TẠO
HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH
\

Người thực hiện: Nguyễn Thị Thúy
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc môn: Hóa học

1


MỤC LỤC
PHẦN A: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN B: PHẦN NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN
1. Cơ sở lí luận
2. Thực trạng
3. Các biện pháp và tổ chức thực hiện
4. Hiệu quả của SKKN
PHẦN C: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị


Tài liệu tham khảo

Trang
1
1
1
1
1
2
2
2
3
14
14
14
15
16

2


A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chúng ta đang sống ở đầu thế kỷ 21 là thế kỷ đi vào nền văn minh trí tuệ
với các xu thế đã rõ ràng, sự phát triển của công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ
thông tin và truyền thông, kinh tế tri thức, xã hội học tập. Sự phát triển xã hội và
đổi mới đất nước đang đòi hỏi cấp bách phải nâng cao chất lượng giáo dục để
đáp ứng được yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho công
việc đổi mới này. Cùng với những thay đổi về nội dung, sự đổi mới về nền giáo
dục cần có những đổi mới căn bản về phương pháp dạy học

Môn Hóa học ở trường THPT giữ một vai trò quan trọng trong việc hình
thành và phát triển trí dục của học sinh. Mục đích của môn học là giúp học sinh
hiểu đúng đắn và hoàn chỉnh nâng cao cho học sinh những tri thức, hiểu biết về
thế giới con người thông qua các bài học, giờ thực hành của Hóa học. Tuy nhiên,
đối với môn Hoá học: Các khái niệm, định luật, hiện tượng, bản chất Hoá học
nhiều khi rất trừu tượng, khó hiểu, khô cứng làm học sinh khó tiếp thu, dễ nhàm
chán, đặc biệt với những học sinh có tư duy không tốt sẽ có xu hướng dẫn đến sợ
bộ môn này. Xuất phát từ thực tế đó và với kinh nghiệm giảng dạy bộ môn Hoá
học, Tôi nhận thấy để nâng cao hứng thú học bộ môn Hoá của Học sinh, từ đó
dần nâng cao chất lượng bộ môn Hoá ở trường phổ thông hiện nay, người giáo
viên ngoài việc phát huy tốt các phương pháp dạy học tích cực cần khai thác
thêm các hiện tượng hoá học thực tiễn trong đời sống đưa vào bài giảng bằng
nhiều hình thức khác nhau. Có những vấn đề hoá học có thể giúp học sinh giải
thích những hiện tượng trong tự nhiên và ứng dụng trong thực tiễn đời sống
thường ngày chỉ bằng những kiến thức rất phổ thông mà không gây nhàm chán,
xa lạ, lại có tác dụng kích thích tính chủ động, sáng tạo, hứng thú trong môn học;
làm cho hoá học không khô khan, bớt đi tính đặc thù và phức tạp. Từ những lí do
đó tôi chọn đề tài “Lồng ghép các hiện tượng thực tiễn vào một số bài dạy
Hoá học lớp 12 nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh”
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lựa chọn đề tài “Lồng ghép các hiện tượng thực tiễn vào một
số bài dạy Hoá học lớp 12 nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh” và phương
pháp sử dụng chúng theo hướng dạy học tích cực nhằm phát triển năng lực nhận
thức tư duy độc lập, sáng tạo của học sinh, góp phần đổi mới phương pháp đạy
học ở trường phổ thông
3. Đối tượng nghiên cứu
Lồng ghép các hiện tượng thực tiễn vào một số bài dạy Hoá học lớp 12
nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình dạy học, dựa vào sự hướng dẫn của giáo viên học sinh

thực hiện các hoạt động chủ yếu theo một quy trình sau:
3


Thu thập thông tin: thông qua việc tự làm thí nghiệm hoặc quan sát thí
nghiệm do giáo viên biểu diễn, quan sát hiện tượng tự nhiên, đọc tài liệu, xem
tranh ảnh, ôn lại những kiến thức đã học, học sinh sẽ thu được những thông tin
cần thiết về các hiện tượng hóa học cần học.
Xử lí thông tin: thông qua một hệ thống câu hỏi, giáo viên hướng dẫn học
sinh căn cứ vào thông tin đã thu thập để rút ra những kết luận cần thiết.
B. PHẦN NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN
1. Cơ sở lí luận của vấn đề:
Đối với học sinh THPT các em chưa có nhiều định hướng nghề nghiệp
cho tương lai nên ý thức học tập các bộ môn chưa cao, các em chỉ thích môn nào
mình học có kết quả cao hoặc thích giáo viên nào thì thích học môn đó. Người
giáo viên dạy hóa học phải biết nắm tâm lý và đặc điểm lứa tuổi của học sinh,
trong đó phương pháp dạy học bằng cách lồng ghép giải thích các hiện tượng
hóa học thực tiễn trong tự nhiên và trong đời sống hàng ngày để các em thấy
môn hóa học rất gần gũi với các em.
Tuy nhiên tùy thuộc vào từng bài giảng cụ thể giáo viên có thể lồng ghép
giải thích các hiện tượng trong thực tế vào bài dạy của mình cho phù hợp.
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
a) Thuận lợi:
- Được sự quan tâm của Ban giám hiệu nhà trường.
- Đội ngũ giáo viên môn Hoá đều trẻ, nhiệt tình trong công việc.
- Đa số học sinh có ý thức học tập tốt.
b) Khó khăn:
- Bản thân kinh nghiệm giảng dạy cũng như quản lý học sinh còn nhiều hạn chế.
- Một số học sinh còn rất mơ hồ trong việc nắm bắt các kiến thức, việc nắm bắt
kiến thức bộ môn hóa học của các em chỉ ở mức độ thấp đó là nắm các khái

niệm, định luật… một cách máy móc. Học sinh chưa biết và vận dụng… chưa đi
sâu vào quá trình giải thích, giải quyết các vấn đề nên các em hay nhàm chán.
- Môn hoá học trong trường phổ thông là một trong môn học khó, nếu không có
những bài giảng và phương pháp hợp lý phù hợp với thế hệ học trò dễ làm cho
học sinh thụ động trong việc tiếp thu, cảm nhận.
- Nhà trường chưa có phòng thực hành bộ môn nên các tiết thực hành chỉ dừng
lại ở mức độ thí nghiệm biểu diễn của giáo viên vì vậy không tạo được mục tiêu
thúc đẩy ý thức học tập cũng như sự yêu thích bộ môn cho học sinh.
- Việc đổi mới phương pháp dạy học gặp nhiều khó khăn, do đặc trưng của bộ
môn, đặc thù học sinh vùng miền.
- Phần lớn HS thiếu hụt kiến thức nền cơ bản của THCS.
Để xem Học sinh có thích học môn Hoá hay không, Tôi đặt ra câu hỏi: Em có
thích học môn Hoá không?

4


Bình
Không thích
họcTB
SL SL Điểm Rất thích
Điểm
Điểm
khá
Điểm giỏi
thường
học
học
sinh
học

dưới TB
SL
%
SL
%
SL %
sinh
SL
%
SL
%
SL
%
%
12A6
37
5
13,5
15
40,5 17SL 46,0
12A6 37
2
5,4 21
56,8 13 35,1 1
2,7
12A9
39
6
15,3
20

51,2
13
23,5
12A9 39
6
15,4 23
59,0 10 25,6
12A11 33 33 3
9,0 1830,3 54,5 1511 45,5
33,3 8 1 24,2
3,2
10
3. Các giải pháp và tổ chức thực hiện:
Trong dạy và học Hoá học, việc đưa các câu hỏi thực tiễn vào trong giờ
học sẽ giúp hoá học gần gũi với học sinh, tạo hứng thú đồng thời giúp các em
hiểu biết hơn về cuộc sống. Để thực hiện được, người giáo viên cần nghiên cứu
kỹ bài giảng, xác định được kiến thức trọng tâm, tìm hiểu, tham khảo các vấn đề
thực tế liên quan phù hợp với từng người học. Đôi lúc cần quan tâm đến tính
cách sở thích của đối tượng tiếp thu, hình thành giáo án theo hướng phát huy
tính tích cực chủ động của học sinh, phải mang tính hợp lý và hài hoà; đôi lúc có
khôi hài nhưng sâu sắc, vẫn đảm nhiệm được mục đích học môn hoá học. Tuy
nhiên, thời gian giành cho vấn đề này là không nhiều, “nó như thứ gia vị trong
đời sống không thể thay cho thức ăn nhưng thiếu nó thì kém đi hiệu quả ăn
uống”.
3.1. Các giải pháp
3.1.1. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày, thường lồng
ghép vào cuối bài học. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh căn cứ vào
những kiến thức đã học tìm cách giải thích hiện tượng ở nhà hay những lúc bắt
gặp hiện tượng đó, học sinh sẽ suy nghĩ, ấp ủ câu hỏi vì sao lại có hiện tượng
đó? Tạo tiền đề thuận lợi khi học bài học mới tiếp theo.

3.1.2. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường qua các
phương trình phản ứng hoá học cụ thể trong bài học. Cách nêu vấn đề này có thể
sẽ mang tính cập nhật, làm cho học sinh hiểu và thấy được ý nghĩa thực tiễn bài
học. Giáo viên có thể giải thích để giải tỏa tính tò mò của học sinh. Mặc dù vấn
đề được giải thích có tính chất rất phổ thông.
3.1.3. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thay
cho lời giới thiệu bài giảng mới. Cách nêu vấn đề này có thể tạo cho học sinh bất
ngờ, có thể là một câu hỏi rất khôi hài hay một vấn đề rất bình thư ờng mà hàng
ngày học sinh vẫn gặp nhưng lại tạo sự chú ý quan tâm của học sinh trong quá
trình học tập
3.1.4. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thông
qua các bài tập tính toán. Cách nêu vấn đề này có thể giúp cho học sinh trong khi
làm bài tập lại lĩnh hội được vấn đề cần truyền đạt, giải thích. Vì muốn giải được
bài toán hóa đó học sinh phải hiểu được nội dung kiến thức cần huy động, hiểu
được bài toán yêu cầu gì? Và giải quyết như thế nào?
3.1.5. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường thông
qua những câu chuyện ngắn có tính chất khôi hài, gây cười có thể xen vào bất cứ
Lớp
Lớp

5


thời gian nào trong suốt tiết học. Hướng này có thể góp phần tạo không khí học
tập thoải mái. Đó cũng là cách kích thích niềm đam mê học hoá.
3.1.6. Tiến hành tự làm thí nghiệm qua các hiện tượng thực tiễn xung
quanh đời sống ngày thường ở địa phương, gia đình … sau khi đã học bài giảng.
Cách nêu vấn đề này có thể làm cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học
tìm cách giải thích hay tự tái tạo lại kiến thức qua các thí nghiệm hay những lúc
bắt gặp hiện tượng, tình huống đó trong cuộc sống. Giúp học sinh phát huy khả

năng ứng dụng hoá học vào đời sống thực tiễn.
3.1.7. Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường từ đó
liên hệ với nội dung bài giảng để rút ra những kết luận mang tính quy luật. Làm
cho học sinh không có cảm giác khó hiểu vì có nhiều vấn đề lý thuyết nếu đề cập
theo tính đặc thù của bộ môn thì khó tiếp thu được nhanh so với gắn nó với thực
tiễn hàng ngày.
3.2. Các biện pháp để tổ chức thực hiện
Trong quá trình thực hiện tôi đã lựa chọn những nội dung, hiện tượng
trong thực tế có liên quan đến các bài học trong chương trình hóa học 12 CB và
phân bố chúng vào cụ thể từng bài học như sau:
Bài 2 : LIPIT
Ví dụ 1: Tại sao không nên tái sử dụng dầu mỡ đã qua rán ở nhiệt độ cao hoặc
khi mỡ, dầu không còn trong, đã sử dụng nhiều lần, có màu đen, mùi khét.
Giải thích: Khi đun ở nhiệt độ
không quá 1020C, lipit không có biến đổi
đáng kể ngoài hoá lỏng. Khi đun lâu ở
nhiệt độ cao, các axit béo không no sẽ bị
oxi hoá làm mất tác dụng có ích với cơ thể.
Các liên kết kép trong cấu trúc của chúng
bị bẻ gãy tạo thành sản phẩm trung gian
như peoxit, anđehit có hại. Vì vậy, cần lưu
ý cách sử dụng sao cho an toàn và hiệu
quả, nhất là không nên sử dụng dầu chiên
đi chiên lại nhiều lần. Bên cạnh hương vị
và sự hấp dẫn tiêu chí tốt cho sức khỏe
cũng rất quan trọng.
Ví dụ 2.
a) Chất béo nào dễ bị ôi hơn: dầu thực vật hay mỡ động vật? Vì sao?
b) Các dầu thực vật bán trên thị trường không bị ôi trong thời hạn bảo quản?
Vì sao?

Giải thích: a) Chất béo lỏng (dầu thực vật ) là chất béo chứa nhiều gốc
axit không no, nên bị oxi hoá nhiều hơn do đó dễ bị ôi hơn chất béo rắn (mỡ
lợn : là chất béo chứa nhiều gốc axit béo no, rất ít gốc axit béo không no).
b) Người ta thường pha thêm vào dầu ăn những chất chống oxi hoá để chống
ôi mỡ như Ethoxyquin.
Ví dụ 3 : Dầu mỡ động - thực vật để lâu thường có mùi khó chịu, ta gọi đó là
6


hiện tượng ôi mỡ? Cho biết nguyên nhân gây nên hiện tượng ôi mỡ. Biện
pháp ngăn ngừa quá trình ôi mỡ?
Giải thích: Dầu mỡ để lâu ngày trở thành có mùi khét, khó chịu đó là sự ôi
mỡ. Có nhiều nguyên nhân gây ôi mỡ, nhưng chủ yếu nhất là do oxi không khí
cộng vào nối đôi ở gốc axit không no tạo ra peoxit, chất này bị phân huỷ thành
các anđehit có mùi khó chịu. Có thể biểu diễn bằng sơ đồ sau:
R' − CH = CH − R" + O2 → R' − CH − CH − R" →
gèc axit bÐo kh«ng no

O
O
peoxit
→ R' − CH = O + R" − CH = O

an®
ehit
Để tránh ôi mỡ cần bảo quản dầu mỡ ở nơi mát mẻ, đựng đầy, nút kín
(tránh oxi của không khí) và có thể cho vào mỡ những chất chống oxi hoá không
độc hại.
Áp dụng: Đây là những câu hỏi rất gần gũi với các em, có thể có nhiều em
biết điều này nhưng cũng có em không biết. Qua câu hỏi này giúp các em biết sử

dụng dầu mỡ đúng cách. Câu hỏi này giáo viên có thể đặt ra khi củng cố bài học.
Bài 5 : GLUCOZƠ
Ví dụ : Khi muối dưa, người ta thường chọn dưa già hoặc phơi héo và cho thêm
ít đường, nén dưa ngập trong nước. Hãy giải thích tại sao?
Giải thích: Người ta thường cho thêm đường, chọn rau già hoặc rau được
phơi héo sẽ có hàm lượng đường cao hơn, do đó quá trình làm dưa chua nhanh
hơn (đường chuyển hoá thành axit). Dưa được nén ngập trong nước vì quá trình
lên men làm chua dưa là loại vi khuẩn yếm khí.
Áp dụng : Đây là một câu hỏi có ý nghĩa thực tiễn, thấy rõ trong đời sống.
Vấn đề này giáo viên có thể xen vào sau khi dạy phần tính chất vật lý của
glucozơ.
Bài 6 : SACCAROZƠ – TINH BỘT – XENLULOZƠ
Ví dụ 1: Khi ăn sắn bị ngộ độc, người ta thường giải độc bằng nước đường.
Bằng kiến thức hoá học, hãy giải thích cách làm trên.
Giải thích : Khi ta uống nước đường (đường saccarorơ) vào dạ dày sẽ bị
thuỷ phân cho đường glucozơ. Sắn chứa axit HCN là chất gây độc. Khi HCN
gặp glucozơ sẽ có phản ứng xảy ra ở nhóm chức anđehit, sau đó tạo ra hợp chất
dễ thuỷ phân giải phóng NH3. Như vậy HCN đã chuyển sang hợp chất không
độc theo phương trình:
HOCH2 ( CHOH ) 4 CHO + HCN → HOCH2 ( CHOH ) 4 C − CN
OH
HOCH2 ( CHOH ) 4 C − CN + 2H2O → OHCH2 ( CHOH ) 5 COOH + NH3 ↑
OH

7


Áp dụng : Vấn đề này giáo viên sẽ đặt ra khi dạy xong phần saccarozơ.
Ví dụ 2: Nói về việc ăn cơm, các cụ xưa có câu: “Nhai kĩ no lâu”. Bằng những
hiểu biết của mình, em hãy giải thích câu nói trên?

Giải thích: Tiêu hoá là quá trình biến đổi thức ăn từ dạng phức tạp thành
dạng đơn giản.
Cơm có thành phần chính là tinh bột, thực chất đó là một polisaccarit. Khi
ta ăn cơm, đầu tiên tinh bột sẽ bị thuỷ phân một phần bởi các enzim trong tuyến
nước bọt. Sau đó chúng lại tiếp tục bị thuỷ phân khi đi vào trong dạ dày và ruột.
Vì vậy nếu ta nhai càng lâu thì quá trình thuỷ phân bởi enzim sẽ triệt để hơn do
đó năng lượng được cung cấp nhiều hơn, vì vậy ta cảm thấy no lâu hơn.
Ví dụ 3: Tại sao những người bị đau dạ dày thường được khuyên nên ăn cháy
cơm hoặc bánh mì?
Giải thích : Trong cháy cơm và bánh mì, dưới tác dụng của nhiệt, một
phần tinh bột đã biến thành đextrin (oligosaccarit) nên khi ta ăn, chúng dễ bị
thuỷ phân thành saccarit ngay bởi các enzim trong nước bọt, nên dạ dày sẽ phải
làm việc ít hơn.
Áp dụng : Ví dụ 2,3 đây là những ví dụ được đúc rút ra từ kinh nghiệm
của ông cha ta. Giáo viên có thể đề cập vấn đề trên vấn đề trên ở phần phản ứng
thủy phân của tinh bột trong bài TINH BỘT nhằm cung cấp cho học sinh kiến
thức cơ bản của sự chuyển hóa tinh bột trong khi ăn. Học sinh cũng có thể kiểm
nghiệm được trong khi ăn.
Bài 9 : AMIN
Ví dụ: Khi nấu canh cá ta thường cho thêm các quả chua như khế chua, dọc,
sấu, me… Hãy giải thích ?
Giải thích: Trong cá có các amin
như: đimetyl amin, trimetyl amin là chất
tạo ra mùi tanh của cá. Khi cho thêm chất
chua, tức là cho thêm axit vào để chúng
tác dụng với các amin trên tạo ra muối
làm
giảm
độ
tanh

của
cá.
RNH2 + HCl → RNH3Cl
Áp dụng : Giáo viên có thể đặt câu
hỏi này ở phần củng cố bài học.

Canh chua cá lóc

Bài 11: PEPTIT VÀ PROTEIN

8


Ví dụ 1: Sữa đậu nành rất bổ dưỡng
cho sức khoẻ nhưng cũng có thể trở
nên vô dụng, thậm chí gây độc nếu
dùng không đúng cách.
Những lưu ý khi sử dụng sữa đậu
nành:
a) Trước hoặc sau khi uống sữa đậu
nành 1 giờ không nên ăn cam, quýt.
b) Không nên uống sữa đậu nành khi
đói, tốt nhất là sau bữa sáng 1-2 giờ.
Hãy giải thích tại sao lại có những lưu
ý như vậy.
Giải thích: Trước khi uống sữa đậu nành 1 giờ không nên ăn cam, quýt vì
axit và vitamin trong cam, quýt tác dụng lên protein trong sữa đậu nành kết
thành khối ở ruột non làm ảnh hưởng đến quá trình tiêu hoá gây đầy bụng, đau
bụng.
Ví dụ 2: a) Tại sao các ion kim loại nặng như Pb 2+, Hg2+… lại ảnh hưởng đến

sức khoẻ con người?
b) Khi làm việc với các hoá chất chứa kim loại nặng, người ta thường uống
sữa?
Giải thích:
a) Protit giữ nhiều chức năng quan trọng trong cơ thể. Các ion kim loại nặng
làm kết tủa và làm biến tính protit làm mất chức năng của chúng nên gây rối
loạn các hoạt động trong cơ thể.
b) Protit trong sữa giúp kết tủa các kim loại nặng ngay ở bộ máy tiêu hoá, ngăn
cản chúng thâm nhập vào các cơ quan khác.
Áp dụng : Sữa đậu nàng rất tốt cho cơ thể nên được sử dụng rộng dãi.
Chính vì thể giáo viên phải giúp các em biết sử dụng tốt nhất nguồn dinh dưỡng
trong sữa đậu nành mà không phản tác dụng. Vấn đề này giáo viên sẽ đặt ra vào
phần củng cố.
Bài 14: VẬT LIỆU POLIME
Ví dụ : a) Vì sao không ngâm lâu quần áo bằng len trong xà phòng?
b) Vì sao đồ nhựa dùng lâu ngày bị biến màu và trở nên giòn?
Giải thích:
a) Len (từ lông thú) thuộc loại polipeptit. Dung dịch xà phòng có môi
trường kiềm sẽ xúc tác cho phản ứng thuỷ phân liên kết peptit (-CONH-)
làm đứt chuỗi polipeptit, làm cho sợi len mau hỏng.
b) Dưới tác dụng của oxi không khí, của hơi ẩm,
của ánh sáng và nhiệt, polime và các phụ gia có
trong đồ nhựa có thể tham gia các phản ứng ở nhóm
chức của nó. Kết quả là: Mạch polime bị phân cắt
hoặc vẫn giữ được mạch nhưng đều làm thay đổi

9


cấu tạo của chúng dẫn tới làm thay đổi màu sắc và tính chất. Hiện tượng đó gọi

là sự lão hoá polime.
Áp dụng : việc ngâm quần áo bằng len trong xà phòng làm quần áo nhanh
hỏng không phải ai cũng biết điều này. Với câu hỏi thực tế này sẽ làm cho các
em biết cách gìn giữ quần áo với chất liệu bằng len được tốt hơn. Câu hỏi này
giáo viên có thể đặt khi học xong phần tơ.
Bài 18: TÍNH CHẤT CỦA KIM LOẠI - DÃY ĐIỆN HÓA KIM LOẠI
Ví dụ 1 : Tại sao nhôm lại được dùng làm dây dẫn điện cao thế ? Còn dây đồng
lại được dùng làm dây dẫn điện trong nhà.
Giải thích: Tuy đồng dẫn điện tốt hơn nhôm nhưng nhôm (khối lượng
riêng của nhôm là 2,70g/cm3) nhẹ hơn đồng (khối lượng riêng của đồng là 9,1).
Do đó, nếu như dùng dây đồng làm dây dẫn điện cao thế thì phải tính đến việc
xây các cột điện sao cho chịu được trọng lực của dây điện. Việc làm đó không có
lợi về mặt kinh tế. Còn trong nhà việc chịu trọng lực của dây dẫn điện không ảnh
hưởng lớn lắm. Vì vậy, ở trong nhà thì ta dùng dây dẫn điện bằng đồng.
Áp dụng : Giải quyết những thắc mắc cho nhiểu em học sinh. Giáo viên có
thể đặt ra khi củng cố bài học.
Bài 20: ĂN MÒN KIM LOẠI
Ví dụ : Giải thích tại sao các cơ sở đóng tàu thường gắn một miếng kim loại
bằng Zn ở phía sau đuôi tàu ?
Giải thích: Thân tàu biển được chế tạo bằng gang, thép. Gang thép là hợp
kim của sắt, cacbon và một số nguyên tố khác. Đi lại trên biển thân tàu tiếp xúc
thường xuyên với nước biển và dung dịch chất điện ly nên sắt bị ăn mòn và bị hư
hỏng.
Để bảo vệ thân tàu thường áp dụng biện pháp là sơn để ngăn không cho
thân tàu tiếp xúc trực tiếp với nước biển. Nhưng ở phía đuôi tàu do tác động của
chân vịt nước bị khuấy động mãnh liệt nên biện pháp sơn là chưa đủ. Do đó phải
gắn tấm kẽm vào đuôi tàu.
Khi đó sẽ xảy ra quá trình ăn mòn điện hóa, kẽm là kim loại hoạt động sẽ
bị ăn mòn, lúc này sắt được bảo vệ.
Sau một thời gian miếng kẽm bị ăn mòn thì sẽ được thay thế theo định kỳ.

Việc này đỡ tốn kém hơn nhiều việc sủa chữa thân tàu.
Áp dụng : Sự ăn mòn kim loại đặc biệt là ăn mòn điện hóa, hằng năm đã
gây tổn thất nghiệm trọng cho nền kinh tế quốc dân. Con người luôn cố gắng tìm
ra những biện pháp chống ăn mòn kim loại. Phương pháp điện hóa ( dùng Zn) để
bảo vệ vỏ tàu biển như trên rất hiệu quả và được ứng dụng rộng rãi. Giáo viên có
thể nêu vấn đề sau khi học xong bài “ ĂN MÒN KIM LOẠI ” ..để cho học sinh
giải thích nhằm giúp các em biết cách vận dụng kiến thức đã học giải thích các
hiện tượng trong cuộc sống.
Bài 25: KIM LOẠI KIỀM VÀ HỢP CHẤT QUAN TRỌNG CỦA KIM
LOẠI KIỀM
Ví dụ 1: Vì sao muối NaHCO3 được dùng để chế thuốc đau dạ dày ?

10


Giải thích: Trong dạ dày, có chứa dung dịch HCl. Người bị đau dạ dày là
người có nồng độ dung dịch HCl cao làm dạ dày bị bào mòn. NaHCO 3 dùng để
chế thuốc đau dạ dày vì nó làm giảm hàm lượng dung dịch HCl có trong dạ dày
nhờ phản ứng :
NaHCO3 + HCl → NaCl + CO2 + H2O
Áp dụng : Nhu cầu ngày càng tăng cao của con người kéo theo nhu cầu ăn
uống ngày càng đa dạng, phong phú. Đây chính là một trong những nguyên nhân
làm tổn thương dạ dầy. Một trong những giải pháp làm giảm tình trạng đau dạ
dầy chính là sủ dụng natrihiddrocacbonat (NaHCO3 )còn có tên là thuốc muối
hoặc natribicacbonat có bán ngoài hiệu thuốc tây y giá thành lại rất rẻ. Giáo viên
sẽ đưa vấn đề này khi dạy phần natri hiđrocacbonat ở bài “ Một số hợp chất quan
trọng của kim loại kiềm”.
Ví dụ 2 : Vì sao khi nấu, xào thịt, đậu phụ không nên cho muối ăn vào quá sớm?
Giải thích: Trong thịt có protein vốn có tính keo khi gặp những chất điện
ly mạnh thì sẽ ngưng tụ thành “óc đậu” khi nấu nếu cho NaCl vào quá sớm sẽ

gây khó khăn cho việc thẩm thấu vào đậu thịt và bị đông cứng lại không tốt cho
đường tiêu hóa.
Áp dụng: Ví dụ 2 và ví dụ 3 có thể có học sinh biết nhưng có học sinh
không để ý và nếu được biết đến thì các em có thể tiến hành thí nghiệm ngay
trong mỗi buổi nấu ăn, góp phần tạo thêm kinh nghiệm cho học sinh, rất thiết
thực. Có thể đưa hiện tượng sau khi hoc xong bài nhưng hợp chất quan trọng của
natri.
Bài 26: KIM LOẠI KIỀM THỔ VÀ HỢP CHẤT QUAN TRỌNG CỦA
KIM LOẠI KIỀM THỔ
Ví dụ 1 : Vì sao khi bôi vôi vào chỗ ong, kiến đốt sẽ đỡ đau ?
Giải thích : Do trong nọc ong, kiến, nhện có axit hữu cơ tên là axit fomic
(HCOOH). Vôi là chất bazo nên trung hòa axit làm ta đỡ đau.
2HCOOH + Ca(OH)2 → (HCOO)2Ca + 2H2O
Áp dụng :Câu hỏi này giáo viên sẽ hỏi sau khi học xong phần
canxihiđroxit
Ví dụ 2 : Hiện tượng tạo hang động và thạch nhũ ở vườn quốc gia Phong Nha Kẽ Bàng với những hình dạng phong phú đa dạng được hình thành như thế nào?

11


( Hang động và thạch nhũ ở phong nha kẻ bàng)
Giải thích: Ở các vùng núi đá vôi, thành phần chủ yếu là CaCO 3. Khi trời
mưa trong không khí có CO 2 tạo thành môi trường axit nên làm tan được đá vôi.
Những giọt mưa rơi xuống sẽ bào mòn đá thành những hình dạng đa dạng:
CaCO3 + CO2 + H2O <-> Ca(HCO3)2
Theo thời gian tạo thành các hang động. Khi nước có chứa Ca(HCO 3)2 ở đá thay
đổi về nhiệt độ và áp suất nên khi giọt nước nhỏ từ từ có cân bằng:
Ca(HCO3)2 <-> CaCO3 + CO2 + H2O
Như vậy lớp CaCO3 dần dần lưu lại ngày càng nhiều, dày tạo thành những hình
thù đa dạng.

Áp dụng: Đây là một hiện tượng thường gặp trong các hang động núi đá,
cụ thể là Phong Nha Kẽ Bàng ( Quảng Bình). Học sinh sẽ biết được quá trình
hình thành các hang động với những hình dạng phong phú là do thiên nhiên kiến
tạo dựa trên các quá trình biến đổi hóa học. Giáo viên đưa vào phần củng cố tính
chất muối canxi cacbonat.
Bài 27 : NHÔM VÀ HƠP CHẤT CỦA NHÔM
Ví dụ 1 : Tại sao không nên sử dụng đồ dùng bằng nhôm để đựng thức ăn ?
Giải thích: Nhôm là kim loại có hại cho cơ thể nhất là đối với người già.
Bệnh lú lẫn và các bệnh khác của người già, ngoài nguyên nhân do cơ thể bị lão
hóa còn có thể do sự đầu độc vô tình của các đồ nấu ăn, đồ dựng bằng nhôm. Tế
bào thần kinh trong não người già mắc bệnh nào có chứa rất nhiều ion nhôm
Al3+, nếu dùng đồ nhôm trong một thời gian dài sẽ làm tăng cơ hội ion nhôm
xâm nhập vào cơ thể, làm nguy cơ đến toàn bộ hệ thống thần kinh não.
Áp dụng: Sử dụng đồ nhôm phải biết cách bảo quản, không nên đựng thức
ăn bằng đồ nhôm hoặc không nên ăn thức ăn để trong đồ nhôm qua đêm, không
nên dùng đồ nhôm để đựng rau trộn trứng gà và giấm…Vấn đề này giáo viên sẽ
đặt ra khi củng cố bài học phần nhôm.
Ví dụ 2 : Vì sao phèn chua có thể làm trong nước ?
Giải thích : Phèn chua là muối sunfat kép của nhôm và kali ở dạng tinh
thể ngậm nước : K2SO4.Al2(SO4)3.24H2O

12


Phèn chua không độc, có vị chua, ít tan trong nước lạnh nhưng tan nhiều
trong nước nóng. Khi tan trong nước, phèn chua sẽ bị thủy phân và tạo thành
Al(OH)3 ở dạng kết tủa keo lơ lửng trong nước :
Al2(SO4)3 → 2Al3+ + 3SO42Al3+ + H2O →AlOH2+ + H+
AlOH2+ + H2O →Al(OH)2+ + H+
Al(OH)2+ + H2O →Al(OH)3 + H+

Al2(SO4)3 + 3H2O → 2Al(OH)3 + 3H2SO4
Chính những hạt Al(OH)3 kết tủa dạng keo lơ lửng ở trong nước này đã
kết dính với các hạt bụi bẩn, các hạt đất nhỏ để trở thành hạt đất to hơn, nặng
hơn và lắng xuống. Vì vậy, mà nước trở nên trong hơn.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên khi dạy phần ứng dụng của
“Muối nhôm” (Tiết 51-52 lớp 12).Đây là một ứng dụng thông dụng của phèn
trong cuộc sống. Và cũng là câu trả lời cho câu ca dao
“Anh đứng bắc cầu làm cao
Phèn chua em đánh nước nào cũng trong”.
Bài 32 : HỢP CHẤT CỦA SẮT
Ví dụ : Tại sao những đồ dùng bằng sắt thường bị gỉ tạo thành gỉ sắt và dần dần
đồ vật không dùng được ?

(Vật dụng bằng sắt bị gỉ)
Giải thích: Trong không khí có oxi, hơi nước và các chất khác. Do tác
dụng nhiệt độ cao của ánh nắng mặt trời, hơi nước, oxi và nước mưa (thường
hòa tan khí CO2 tạo môi trường axit yếu) có phản ứng với sắt tạo thành một số
hợp chất của sắt gọi là gỉ sắt. Gỉ sắt không còn tính cứng, ánh kim, dẻo của sắt
mà xốp, giòn nên làm đồ vật bị hỏng. Do đó để bảo vệ đồ dùng bằng sắt, người
13


ta thường phủ lên đồ vật bằng sắt một lớp sơn, kim loại khác để ngăn không cho
sắt tiếp xúc với nước, oxi không khí và một số chất khác trong môi trường.
Áp dụng : Giáo viên dùng câu hỏi trên để đặt vấn đề vào bài “ Sắt và hợp
chất của sắt”.
Bài 33 : HỢP KIM CỦA SẮT
Ví dụ : Chảo , môi, dao đều được làm từ sắt. Vì sao chảo lại giòn? môi lại dẻo?
còn dao lại sắc ?
Giải thích: Chảo xào rau, môi và dao đều làm từ sắt. Thế nhưng loại sắt để

chế tạo chúng lại không giống nhau.
Sắt dùng để làm chảo là “gang”. Gang có tính chất là rất giòn. Trong công
nghiệp, người ta nấu chảy lỏng gang để đổ vào khuôn, gọi là “đúc gang”
Môi múc canh được chế tạo bằng “thép non”. Thép non không giòn như
gang. Người ta thường dùng búa để rèn, biến thép thành các đồ vật có hình dạng
khác nhau.
Dao thái rau không chế tạo từ thép non mà bằng “thép”. Thép vừa dẻo vừa
dát mỏng được, có thể rèn, cắt gọt nên rất sắc.
Áp dụng: Vấn đề từ sắt có thể điều chế những vật dụng có chức năng khác
nhau được sử dụng rất rộng rãi trong cuộc sống. Giải thích được điều này đòi hỏi
học sinh phải biết được tính chất của sắt cũng như hợp kim của nó. Giáo viên có
thể đề cập trong bài “Hợp kim của sắt” ( Tiết 55 lớp 12).
Bài 34: CRÔM VÀ HỢP CHẤT CỦA CRÔM
Ví dụ : Tại sao các dụng cụ phân tích rượu có thể phát hiện các lái xe đã uống
rượu?

( Kiểm soát lái xe sử dụng rượu bia)

14


Giải thích : Thành phần chính của các loại nước uống có cồn là rượu
etylic. Đặc tính của rượu etylic là dề bị oxi hóa có rất nhiều chất oxi hóa có thể
tác dụng được với rươu etylic nhưng người ta chọn một chất oxi hóa là crom
(VI) oxit CrO3 . Đây là một chất oxi hóa mạnh, là chất dễ dàng kết tinh thành
tinh thể màu vàng da cam. Bột CrO3 khi gặp rượu etylic dễ dàng bị oxi hóa thành
Cr2O3 là một chất có màu xanh thẫm.
Cảnh sát giao thông dùng dụng cụ phân tích rượu etylic có chứa CrO 3, khi tài xế
hà hơi thở vào dụng cụ phân tích trên nếu trong hơi thở có chứa hơi rượu thì
rượu sẽ tác dụng với CrO3 để tạo thành Cr2O3 có màu xanh đen. Dựa vào sự biến

đổi màu sắc của dụng cụ phân tích mà cảnh sát có thể thông báo cho tài xế biết
mức độ uống rượu của minh.
Áp dụng: Tai nạn giao thông luôn là nỗi ám ảnh của mọi người. Một trong
những nguyên nhân gây ra tai nạn chính là rượu. Nhằm giúp học sinh hiểu biết
về cách nhận biết rượu trong cơ thể một cách nhanh và chính xác của cảnh sát
giao thông, giáo viên nên đưa vấn đề này sau khi học xong phần “crom VI oxit”.
Bài 45: HÓA HỌC VÀ VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG
Ví dụ 1 : Theo em tình trạng sử dụng túi nilon của chúng ta hiện nay như thế
nào ? Nếu sử dụng không hợp lý thì chúng có tác hại gì? chúng ta phải làm gì
để giảm tác hại của nó?

(Ô nhiễm môi trường do rác thải túi nilon gây ra)
Giải thích: Túi nilon gây tác hại ngay từ khâu sản xuất bởi vì việc sản
xuất túi nilon phải sử dụng nguyên liệu đầu vào là dầu mỏ và khí đốt, và các chất
phụ gia chủ yếu được sử dụng là chất hoá dẻo, kim loại nặng, phẩm màu… là
những chất cực kỳ nguy hiểm tới sức khoẻ và môi trường sống của con người,
do đó trong quá trình sản xuất nó sẽ tạo ra khí CO2 làm tăng hiệu ứng nhà kính,
thúc đẩy biến đổi khí hậu toàn cầu.
Theo các nhà khoa học, túi nilon được làm từ những chất liệu khó phân
hủy, khi thải ra môi trường phải mất hàng trăm năm đến hàng nghìn năm mới có
thể phân hoàn toàn. Sự tồn tại của nó trong môi trường sẽ ảnh hưởng nghiêm
15


trọng tới đất và nước bởi túi nilon lẫn vào trong đất sẽ ngăn cản oxi đi qua đất,
gây xói mòn đất, làm cho đất bạc màu, không tơi xốp, kém chất dinh dưỡng, từ
đó làm cho cây trồng chậm tăng trưởng. Nghiêm trọng hơn các nhà khoa học còn
phát hiện ra rằng từ đất và nước bị ô nhiễm bởi túi nilon sẽ ảnh hưởng trực tiếp
và gián tiếp tới sức khỏe con người. Thực tế nhiều loại túi nilon được làm từ dầu
mỏ nguyên chất khi chôn lấp chúng dưới đất sẽ ảnh hưởng tới môi trường đất và

nước, còn đốt chúng sẽ tạo ra khí thải có chất độc đioxin và Fura gây ngộ độc,
ảnh hưởng tới tuyến nội tiết, gây ung thư, giảm khả năng miễn dịch, rối loan
chức năng tiêu hóa và các dị tật bẩm sinh ở trẻ nhỏ....Và đặc biệt trong một số
loại túi nilon có lẫn lưu huỳnh, dầu hỏa nguyên chất khi đốt cháy gặp hơi nước
sẽ tạo thành axitsunfuric dưới dạng các cơn mưa axit rất có hại cho phổi....
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt vấn đề này ra cho học sinh thảo luận nhóm
và tìm cách giải quyết vấn đề. sau đó giáo viên cung cấp các thông tin về tác hại
mà túi nilon đem lại, từ đó các em có ý thức bảo vệ môi trường và sử dụng túi
nilon một cách hợp lý.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Khi chưa áp dụng đề tài này thì tỉ lệ học sinh yêu thích học môn Hoá rất ít,
từ đó dẫn đến kết quả học tập của học sinh rất thấp. Sau khi tôi áp dụng phương
pháp dạy học tích cực lồng ghép các hiện tượng thực tiễn vào bài giảng thì tỉ lệ
học sinh thích học môn Hoá tăng lên rõ rệt. Ở các tiết học rất sôi nổi, học sinh
hăng hái phát biểu và khắc sâu kiến thức hơn. Từ đó các em tự biết ứng dụng
vào đời sống hàng ngày. Kết quả cụ thể được thể hiện ở bảng số liệu:
Lớp
SL
Điểm
Điểm TB Bình
Điểm khá Không
Điểm giỏi
thích
Rất thích học
SL dưới TB
học
thường
học
Lớp
sinhhọc sinh

SL SL
%
SL% % SLSL %% SLSL % %
12A6
35,1 121 46,0
2,7
12A6 37 37 2
75,4 2113,5 56,8 1815 40,5
12A9
25,6 9 1 23,5
2,56
12A9 39 39 3
87,74 2515,3 64,1 2210 51,2
12A11
3,0 1930,3 57,5 1511 45,5
33,3 6 2 24,2
6,1
12A11 33 33 1
12
So
sánh giữa hai kết quả này ta thấy số lượng học sinh thích học bộ môn tăng và
chất lượng học sinh cũng tăng lên. Như vậy, khi đưa hiện tượng thực tế vào bài
dạy khả năng tiếp thu và nhớ bài học của học sinh lâu hơn. Chất lượng một tiết
dạy được nâng lên, học sinh hứng thú hơn, việc vận dụng kiến thức vào để giải
các bài tập trở nên dễ dàng hơn.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Như vậy đổi mới phương pháp dạy và học hiện nay là hướng tới học tập
chủ động, tích cực tự tìm tòi, chống thói quen học tập thụ động. Các phương
pháp tích cực hướng tới việc hoạt động hoá, tích cực hoá, hoạt động nhận thức

của người học phải gắn liền với giá trị thực tiễn của nội dung bài học. Đó là nhu
cầu cũng là xu hướng của giáo dục thời hội nhập để rèn luyện cho học sinh khả
năng tự lực, nhạy bén trong cuộc sống bao gồm các kĩ năng đặc trưng chung là
16


Khả năng liên hệ thực tế các vấn đề học tập vào cuộc sống
Khả năng tự học
Khả năng tổ chức các hoạt động học tập của học sinh
Tăng cường học tập cá nhân phối hợp với học tập hợp tác
Áp dụng các hiện tượng thực tiễn phải biết lựa chọn đúng nội dung bài,
thời gian hợp lí trong giờ học mới cuốn hút sự chú ý, tập trung của học sinh tạo
không khí thoải mái trong tiết học, mới tạo được ý thức học tập và yêu thích bộ
môn.
2. Kiến nghị
Do đặc điểm của học sinh ở miền núi đa phần các em đều nhút nhát, ngại
nói ra ý kiến của mình nên các em ngày càng thụ động, giáo viên buộc phải làm
việc quá nhiều. Vì vậy trước hết giáo viên phải tạo được tâm lý thoải mái cho
học sinh, làm cho các em bước vào mỗi tiết học cảm thấy nhẹ nhàng, các em
cảm thấy việc tự mình làm chủ, lĩnh hội kiến thức là việc rất tự nhiên thì khi đó
bài học mới có hiệu quả.
Để có những tiết học đạt hiệu quả cao nhất luôn là niềm trăn trở, suy nghĩ
là mục đích hướng tới của từng giáo viên. Trên đây mới chỉ là một số vấn đề
trong muôn vàn vấn đề của hóa học liên quan đến thực tế, cuộc sống hàng ngày
của chúng ta. Nhưng vì thời gian có hạn tôi mới chỉ đưa ra một số vấn đề để giúp
cho trong mỗi bài giảng có sự lôi cuốn thu hút, tạo hứng thú cho học sinh khi
học môn hóa học. Rất mong sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
ĐƠN VỊ


Thanh Hóa,ngày 30 tháng 3 năm 2016
Tôi xin cam đoan đây là SKKN do mình
viết, không sao chép của người khác.
Người viết

Nguyễn Thị Thúy

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. sách giáo khoa Hoá học 12, Nhà xuất bản Giáo Dục.
2. sách giáo viên hoá học 12, Nhà xuất bản Giáo dục.
3. Nguyễn Xuân Trường, 2006, 385 câu hỏi và đáp về hoá học với đời
sống, Nhà xuất bản giáo dục, 136 trang.
4. Từ Văn Mặc, Từ Thu Hằng, 2001, Bộ sách tri thức tuổi hoa niên thế
kỉ XXI hoá học, Nhà xuất bản văn hoá thông tin, 200 trang
5. Từ Văn Mặc, Trần Thị Ái, 2002, Chìa khóa vàng hoá học, Nhà xuất
bản Đại học Quốc Gia Hà Nội, 196 trang.
6. Vũ Bội Tuyền, 2001, Hoá học thật diệu kỳ, Nhà xuất bản thanh niên,
121 trang.

18


19




×