LỜI NÓI ĐẦU
Để đánh giá kết quả học tập cuối khóa đào tạo hệ chính quy tại
Trường Đại học Lâm nghiệp và giúp cho sinh viên làm quen với công tác
nghiên cứu khoa học, được sự đồng ý của Nhà trường, khoa Lâm học và
bộ môn Lâm sinh tôi đã tiến hành làm khóa luận tốt nghiệp tại vườn ươm
của trung tâm Giống và công nghệ sinh học Trường Đại học Lâm nghiệp.
Sau thời gian làm việc tích cực và nghiêm túc đến nay tôi đã hoàn
thành chuyên đề với tên đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm Lâm học và Bảo
tồn loài cây Bình vôi (Stephania rotunda Lour.) trên địa bàn xã Tả
Lủng, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang”.
Nhân đây tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến thầy giáo Phạm
Thanh Hà, người trực tiếp hướng dẫn cùng toàn thể các thầy giáo, cô giáo
trong khoa quản lý bảo vệ rừng đã tạo mọi điều kiện giúp tôi hoàn thành
khóa luận.
Mặc dù bản thân đã cố gắng hết sức nhưng do trình độ và thời gian
có hạn nên bản khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất
mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy giáo, cô giáo và các bạn
đồng nghiệp.
Tôi xin trân trọng cảm ơn !
Hà Giang, tháng 9 năm 2017
Sinh viên thực hiện
Vàng Mí Sò
1
CHƯƠNG 1:
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, nhu cầu nguyên liệu cho sản xuất dược
phẩm tăng mạnh, việc khai thác nguồn tài nguyên cây thuốc một cách bừa
bãi làm cho các loài cây có giá trị dược liệu bị suy giảm nghiêm trọng,
một số loài đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng, phải đưa vào danh mục
thực vật rừng nguy cấp, quý, hiếm, nghiêm cấm khai thác sử dụng vì mục
đích thương mại (Nghị định số 32/2006/NĐ-CP ngày 30 tháng 3 năm
2006 của Chính phủ). Trước thực trạng đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 81/2009/QĐ-TTg về việc phê duyệt Quy hoạch phát
triển ngành công nghiệp hóa dược đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025.
Trong đó, ưu tiên đầu tư sản xuất nguyên liệu hóa dược để phục vụ sản
xuất thuốc thiết yếu, thuốc có thế mạnh xuất khẩu, thuốc từ dược liệu để
thay thế thuốc nhập khẩu. Ưu tiên việc tạo dựng nguồn nguyên liệu ổn
định về số lượng và chất lượng để cung cấp cho các nhà máy chiết xuất.
Theo quy hoạch, sẽ có 22 vùng nguyên liệu sản xuất thuốc được củng cố,
mở rộng nhằm phát triển các giống cây thuốc quý của Việt Nam và thế
giới.
Chi Bình vôi (Stephania) gồm nhiều loài cây thuốc quý có tác dụng
an thần, chữa ho, sốt, lỵ, dạ dày, chữa mất ngủ, chúng còn được sử dụng
để chữa bệnh ung thư một trong những căn bệnh của thế kỷ. Hiện nay các
tài liệu mô tả về các đặc điểm sinh vật học, sinh thái học của các loài Bình
vôi rất hạn chế. Trong đó loài Bình vôi (Stephania rotunda Lour.) đang bị
suy giảm nghiêm trọng trong tự nhiên. Do vậy việc hiểu biết một số đặc
điểm sinh vật học của loài cây này có ý nghĩa lớn nhằm góp phần bảo tồn
nguồn gen và phát triển loài cây thuốc quý hiếm này. Bên cạnh đó, sự hiểu
biết về tầm quan trọng, lợi ích và công tác nhân giống, đặc biệt là nhân
giống sinh dưỡng loài cây này không chỉ giúp cho công tác bảo tồn mà
còn có thể tạo ra nguồn nguyên liệu đảm bảo cả số lượng và chất lượng
2
cho việc sản xuất hóa dược với quy mô lớn. Chính vì những lý do trên
đây, tôi tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu đặc điểm Lâm học và
Bảo tồn loài cây Bình vôi (Stephania rotunda Lour.) trên địa bàn xã Tả
Lủng, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang”. nhằm cung cấp thêm những
thông tin về loài cây này nói riêng và công tác bảo tồn và phát triển cây
thuốc ở nước ta.
3
CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Trên thế giới
2.1.1. Nghiên cứu đặc điểm sinh thái học của cây rừng
Sinh thái học là một thuật ngữ đã có từ rất lâu, từ năm 1858 do H.
Thoreau đề xuất. Đến năm 1869, nhà sinh thái học người Đức E. Haeckel
đã đưa ra định nghĩa đầu tiên về sinh thái học như sau: Sinh thái học là
môn khoa học nghiên cứu mối quan hệ giữa thể hữu cơ và hoàn cảnh
xung quanh bao gồm mối quan hệ lẫn nhau giữa hoàn cảnh phi sinh vật
và hoàn cảnh sinh vật (dẫn theo Hoàng Kim Ngũ, 2005). Đây là chương
trình nghiên cứu làm tiên đề cho những nghiên cứu về sinh thái học sau
này.
Nghiên cứu đặc điểm sinh thái học của cây rừng có ý nghĩa rất lớn
trong sản xuất lâm nghiệp. Dựa vào đặc điểm sinh thái của cây rừng,
chúng ta có thể đưa cây rừng đến trồng đúng vùng sinh thái của chúng,
như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển của cây
rừng. Không những thế, khi biết đặc điểm sinh thái của các loài cây, các
nhà lâm học sẽ xác định được các biện pháp kỹ thuật lâm sinh hợp lý tác
động nhằm tạo ra những quần thể rừng phù hợp với mục đích kinh doanh.
Trong các đặc điểm sinh thái cây rừng, ánh sáng là một trong những
nhân tố quan trọng. Trong khi đó, nghiên cứu về nhu cầu dinh dưỡng của
cây cần phải nghiên cứu điều kiện thổ nhưỡng. Từ đầu thế kỷ 20, trên thế
giới đã có nhiều công trình nghiên cứu về đất. Các mối quan hệ giữa các
yếu tố sinh thái, sinh trưởng có thể định lượng được bằng phương pháp
toán học, phản ánh các đặc điểm, quy luật tương quan phức tạp trong tự
nhiên. Bên cạnh đó còn có các phương pháp thực nghiệm sinh thái học để
nghiên cứu mối quan hệ giữa các loài, phương pháp điều tra đánh giá đã
được trình bày trong “Thực nghiệm sinh thái học” của Steven,
D.Wramemand, Gary L. (1980), W.Lacher (1978) đã chỉ ra các vấn đề
4
nghiên cứu trong sinh thái thực vật như sự thích nghi ở các điều kiện dinh
dưỡng khoáng, ánh sáng, chế độ ẩm, nhịp điệu khí hậu.
Ảnh hưởng của chế độ nước đến sinh trưởng của cây đã được đề cập
ở mức độ tế bào trong nghiên cứu của Kramer (1983), Wang và cộng sự
(1988). Sands và Milligan (1990) v.v.. Về mặt hình thái, Boyer (1968) cho
rằng: sự lớn lên của lá rất nhạy cảm với chế độ nước tưới, khi thiếu nước
lá cây thường nhỏ.
2.1.2. Một số kết quả nghiên cứu về Cây bình vôi
Trên thế giới, phương pháp nhân giống bằng hom đã có những
nghiên cứu từ rất sớm và được ứng dụng ở nhiều nước, từ đó mà chất
lượng cây giống, năng suất cây trồng, trong đó có cả cây rừng hàng năm
của các nước tăng lên rất nhiều. Hiện nay, nhân giống bằng hom các loài
cây rừng trên thế giới đang được nghiên cứu và ứng dụng ở mức sâu hơn
và rộng hơn.
Năm 1883, Velenski.A.H đã công bố công trình nhân giống một số
cây lá kim và cây lá thường xanh bằng hom.
Từ năm 1961 việc nhân giống thành công Bạch đàn ( Eucalyptus
camaldulensis) bằng phương pháp giâm hom (được coi là rất khó thực
hiện trước đó) chính là bước tiến mới trong giâm hom cây giống lâm
nghiệp. Sau đó vào năm 1963, một nhà nghiên cứu người Pháp đưa ra
danh sánh gồm 58 loài Bạch đàn thử nghiệm giâm hom thành công với kết
quả khác nhau. Từ đó các công trình nghiên cứu và ứng dụng vào thực
tiễn sản xuất vẫn tiếp tục và đưa ra nhiều kết quả mới đem lại hiệu quả
trong cuộc sống. Có thể kể ra một số công trình tiêu biểu:
- Bhatragan thí nghiệm giâm hom cây Tếch (Tectona grandis) đạt tỷ
lệ ra rễ cao nhất là 65,8% năm 1972.
5
- Bhatragan và Jocky (Ấn Độ) đã tiến hành giâm hom chồi gốc Bạch
đàn Eucalyptus bằng thuốc IBA nồng độ 100ppm, thời gian xử lý 24 giờ
cho kết quả tỷ lệ ra rễ đạt 60% năm 1973.
- Martin và Quilet thử nghiệm nhân giống giâm hom đối với Bạch
đàn, kết quả chứng minh chất kích thích ra rễ làm ảnh hưởng đến tỷ lệ ra
rễ của hom, thấy IBA làm tăng tỷ lệ ra rễ của Bạch đàn tăng lên 12% 15% so với đối chứng, nhưng tỷ lệ chết vẫn còn cao (năm 1974).
- Sach (Đức) năm 1982 đã cho rằng chồi và lá có tác dụng tổng hợp
Auxin và chất kích thích ra rễ, những chất này ảnh hưởng đến sự hình
thành rễ bất định ở hom. Ngoài ra chúng còn có tác dụng tổng hợp Hydrat
cacbon rất cần thiết cho sự hình thành và phát triển cuả rễ. Vì vậy khi
giâm hom nhất thiết phải để lại một số lá cần thiết, không có lá hom
không thể ra rễ xong để lại số lá quá lớn thì hom sẽ héo và chết trước khi
ra rễ do quá trình thoát hơi nước mạnh.
- Theo nghiên cứu của Darsin năm 1983 ở Viện di truyền và chọn
giống cây gỗ Liên Xô, đã tiến hành thí nghiệm với cây Sồi ở giai đoạn 3
tuổi cho thấy kết quả là 12 cây có tỷ lệ 100% hom ra rễ, 28 cây có tỷ lệ ra
rễ là 50% và 10 cây không ra rễ. Điều này chứng tỏ rằng, Đặc điểm di
truyền của từng cá thể có ảnh hưởng rất khác nhau đến khả năng ra rễ của
hom.
2.2. Tại Việt Nam
2.2.1. Nghiên cứu đặc điểm sinh thái học của cây rừng
Cho đến nay, Việt Nam cũng có nhiều công trình nghiên cứu về sinh
thái học của loài cây, có thể kể đến một số tác giả:
Nguyễn Huy Sơn, Vương Hữu Nhi khi nghiên cứu đặc điểm lâm
học quần thể Thông nước ở Đắc Lắc đã phân loại hiện trạng rừng, cấu trúc
tổ thành loài và mật độ, cấu trúc tầng tán và độ tàn che, đã kết luận rằng:
Thông nước có thể sống hỗn loài theo đám trong rừng thông lá rộng
6
thường xanh ở vùng đầm lầy nước ngọt. Đinh Văn Tài khi nghiên cứu sử
dụng các loại cây bản địa chịu hạn phục vụ “chương trình phục hồi và
trồng rừng” chống sa mạc hóa vùng đất cát ven biển tỉnh Nam Định trên
cơ sở tuyển chọn một số loài cây bản địa có giá trị cung cấp giống cho
trồng rừng. Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu về chế độ ánh sáng,
nhiệt độ, độ ẩm trong vườn ươm, nhằm tìm ra công thức gieo ươm tốt
nhất, những nghiên cứu ánh sáng dưới tán rừng mới chỉ là những nghiên
cứu bước đầu mang tính chất thăm dò.
Ở nước ta, mối quan hệ giữa nước và thực vật cũng được nghiên
cứu (Hoàng Xuân Tý, 1998; Nguyễn Văn Vụ, 1989). Năm 1976, Nguyễn
Ngọc Tân đã nghiên cứu ảnh hưởng của độ ẩm đất đối với sinh trưởng của
cây Hồi (Illicium verum Hook). Nghiên cứu chế độ phân bón đối với các
loại cây đã được một số tác giả đề cập đến như: Nguyễn Thị Kim Hương
nghiên cứu cho một số loài cây trồng có yêu cầu về loại phân bón, nồng
độ, phương thức, tỷ lệ hỗn hợp phân bón hoàn toàn khác nhau.
Tóm lại, những công trình nghiên cứu về đặc điểm sinh thái thực
vật rừng ở Việt Nam đã bắt đầu đạt được những thành tựu ban đầu, tuy
nhiên những nghiên cứu này đối với cây cho dược liệu, đặc biệt là cây
Bình vôi còn hạn chế, thường chỉ dừng lại ở mức độ mô tả. Do vậy nghiên
cứu đặc điểm sinh vật học, sinh thái học loài cây này là rất cần thiết, từ đó
xác định được điều kiện phù hợp cho việc phát triển loài cây này.
2.2.2. Kết quả nghiên cứu lâm học.
Nghiên cứu về tạo cây Bình vôi đã được tiến hành từ những năm
cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX. Cho đến nay đã có thể sản xuất được số
lượng lớn cây hom các loài như Bạch đàn trắng, Sở, Mỡ, Thông đuôi
ngựa, Phi lao, Keo lá tràm… phục vụ công tác trồng rừng. Việc bảo tồn
thành công các loài cây phủ thuộc vào việc sử dụng các loại chất kích
thích ra rễ ở nồng độ phù hợp.
7
Từ trước tới nay, ở Việt Nam cũng như trên Thế Giới đã có rất
nhiều nghiên vứu về cây bình vôi các loài cây khác nhau, cả các loài cây
Lâm nghiệp (cây gỗ cũng như các loài lâm sản ngoài gỗ), cây ăn quả hay
các loài cây nông nghiệp. Tuy nhiên, chưa thấy có công bố cụ thể nào về
nghiên cứu cụ thể loài Bình vôi.
Đối với các dân tộc vùng Miền núi phía Bắc thì việc bảo tồn và phát
huy giá trị truyền thống của loài Bình vôi là vô cùng quan trọng, việc
nhân giống Bình vôi vẫn được đồng bào vùng này thực hiện theo phương
pháp truyền thống đó là nhân giống bằng hạt. Việc nhân giống loài này
theo phương pháp nhân giống sinh dưỡng chưa được ghi nhận. Do vậy,
đây có thể là công trình đầu tiên nghiên cứu về nhân giống loài cây này.
2.3. Giới thiệu chung về loài cây Bình vôi.
Như trên đã đề cập, cây Bình vôi (Stephania rotunda Lour.) thuộc
chi Bình vôi (Stephania). Ở Việt Nam hiện biết gần 15 loài, trong đó có
khoảng 10 loài có rễ phình thành củ, nhìn hình thái bên ngoài chúng
tương đối giống nhau, vì vậy có tên chung gọi là “Bình vôi”, gồm các loài
S. brachyandra Diels; S. cambodia Gagnep; S. cepharantha Hayta; S.
dielsiana Y.C.Wu; S. kwangsiensis H. S. Lo; S. pierrei Dield; S. rotunda
Lour; S. venosa (Blume) Spreng v.v… tất cả đều có thể được dùng làm
thuốc.
2.3.1 Đặc điểm hình thái
Bình vôi là dây leo, sống hàng năm. Thân non nhẵn, khi già có
nhiều bì khổng, hơi hóa gỗ có khi xoắn vặn. Rễ củ to, vỏ ngoài xù xì, màu
nâu xám. Lá mọc so le, có cuống dài, đính khoảng 1/3 vào trong phiến lá;
phiến lá mỏng, gân hình tròn hoặc tam giác, gốc bằng, đầu tù, mép hơi
lượn sóng, hai mép nhẵn, gân lá xuất phát từ chỗ đính của cuống lá, tỏa ra
hình chân vịt nổi rõ ở mặt dưới.
8
Cụm hoa mọc ở kẽ lá hoặc những cành già đã rụng lá thành sim tán.
Hoa đực và hoa cái khác gốc, hoa đực có 5-6 lá đài, 3-4 cánh hoa màu
vàng cam, 3-6 nhị, thường lá 4; hoa cái có 1 lá đài, 2 cánh hoa; bầu hình
trứng.
Quả hạch, hình cầu, hơi dẹt, màu đỏ khi chín; hạt cứng, hình móng
ngựa với những hàng vân ngang dạng gai, hai mặt bên lõm, ở giữa không
có lỗ thủng.
2.3.2. Đặc điểm sinh học
Bình vôi là loại cây ưa sáng hoặc chịu bóng hoặc hơi chịu bóng.
Cây thường mọc ở các kẽ đá, leo trùm lên các loại cây khác hoặc phủ lên
đá, ở loại hình rừng ẩm trên núi đá vôi. Độ cao phân bố của loài S. sinia
Diels thường từ vài chục đến vài trăm mét và chưa phát hiện thấy ở
khoảng 100 m so với mặt biển.
Bình vôi có hiện tượng rụng lá vào mùa đông, mọc lại vào mùa
xuân và hoa xuất hiện sau khi ra lá non. Mùa hoa quả vào tháng 4-8, cá
biệt thấy quả chín vào tháng 10. Cây tái sinh tự nhiên chủ yếu từ hạt hoặc
từ các phần khác còn lại sau khi cắt. Ngoài ra, từ củ Bình vôi đem vùi 1/3
xuống đất hoặc chỉ cần đặt phần gốc tiếp xúc với đất ẩm cũng mọc thành
cây mới.
2.3.3. Đặc điểm phân bố
Thế giới: Trung Quốc, Lào.
Việt Nam: Trong các loài Bình vôi kể trên, có một số loài như S.
sinica Diels, S. kwangsiensis H. S. Lo, S. rotunda Lour thường mọc lẫn
với nhau ở rừng núi đá vôi tại các tỉnh Ninh Bình, Hà Nam, Thanh Hóa,
Quảng Bình, Hải Phòng(Cát Bà), Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tây (cũ)...
2.3.4. Bộ phận dung và công dụng
9
Bộ phận dùng: Củ thái lát phơi hay sấy khô, dùng làm thuốc theo y
học cổ truyền. Để chiết xuất hoạt tính làm thuốc thì dùng củ tươi.
Thành phần hóa học: Trong củ các loài Bình vôi nói chung thường
có một số nhóm hoạt chất, trong đó thành phần chủ yếu là các alkaloid
như: L-tetrahydropamatin, stepharin, cycleanin, tuduranin, palmatin,
dihydropalmatin, dicentrin…..
Công dụng: Trong y học cổ truyền dùng củ Bình vôi thái lát phơi
khô sắc uống có tác dụng an thần, chữa ho, sốt, lỵ, dạ dày… Liều dùng 36 g/ngày. Tuy nhiên, cách dùng này hiện nay ít được áp dụng, vì dễ bị ngộ
độc (gây nôn) do có alkaloid. Bình vôi là nguyên liệu chiết alcalid làm
thuốc an thần, chữa mất ngủ. Thuốc được làm dưới dạng viên có tên là
Rotunda, mỗi viên chứa 0,05g L-tetrahydropalmatin clohydrat. Liều dùng
mỗi viên 1-2 viên trước khi đi ngủ.
2.3.5. Giá trị kinh tế, khoa học, bảo tồn
Bình vôi là cây thuốc quý. Do nguồn nguyên liệu tương đối dồi dào
nên giá thu mua rẻ. Tại nơi khai thác, giá mua khoảng 4.000 – 4.500 đ/kg
tươi. Bởi vậy giá thành thuốc cũng rất rẻ (3.000- 3.500 đồng một vỉ 10
viên).
Tuy nhiên, do phát động khai thác ồ ạt (từ năm 1992 đến nay) nhằm
cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu nên nguồn Bình vôi ở
các tỉnh miền núi phía Bắc mau cạn kiệt. Bên cạnh đó, ở Việt Nam còn có
một số loài Bình vôi được coi là quý hiếm, như: Stephania brachyandra
Diels có hàm lượng L-tetrahydropalmatin cao nhất trong một số những
loài đã biết (khoảng 2,3-3,5%), chỉ phân bố ở một số vùng núi cao trên
1.000m. Hoặc loài Stephania cepharantha Hayta chứa hợp chất
Cepharantin, có tác dụng làm thuốc chữa ung thư, mới chỉ phát hiện ở 2
điểm tại Quảng Ninh và Hòa Bình … Những loài này đã được đưa vào
10
danh mục Sách đỏ và Danh lục đỏ cây thuốc Việt Nam để bảo vệ, do mức
đe dọa tuyệt chủng cao.
Để khai thác lâu dài nguồn Bình vôi ở Việt Nam, trước mắt nên khai
thác hạn chế, với khối lượng vừa đủ cho nhu cầu sử dụng trong nước (ước
tính 50-100 tấn/năm). Bên cạnh đó, cần hoàn tất việc nghiên cứu, phát
triển một số loài có hàm lượng cao như Stephania brachyandra Diels và
Stephania kwangsienssis H. S. Lo. tại các tỉnh phía Bắc.
2.4. Cơ sở của việc nhân giống bảo tồn
Thực vật có hai hình thức sinh sản chủ yếu, là sinh sản hữu tính và
sinh sản vô tính. Sinh sản hữu tính là hình thức sinh sản có cơ sở dựa trên
phân bào giảm nhiễm. Hợp tử hình thành do sự kết hợp giữa hai giao tử
đực và giao tử cái của hai cơ thể bố và mẹ. Do vậy trong sinh sản hữu tính
có sự phân ly và tái tổ hợp gen, nên ở cơ thể con thường không giữ được
các đặc tính di truyền của cơ thể bố mẹ một cách nguyên vẹn.
Sinh sản sinh dưỡng là hình thức sinh sản có cơ sở dựa vào phân
bào nguyên nhiễm. Tế bào mẹ sinh ra tế bào con có bộ nhiễm sắc thể
giống hệt mình. Do vậy mà thực vật sinh sản sinh dưỡng duy trì được các
đặc điểm di truyền của cơ thể mẹ và ổn định qua nhiều thế hệ.
Nhân giống sinh dưỡng (vegatative propagation) là kĩ thuật tạo cây
con từ một bộ phận sinh dưỡng của cây như lá, cành, củ, thân, mô phân
sinh hoặc sự tiếp hợp các bộ phận dinh dưỡng (ghép) để tạo thành cây
mới. Theo nghĩa rộng thì nhân giống sinh dưỡng bao gồm nhân giống
bằng hom, chiết cành, ghép cây và nuôi cấy mô – tế bào.
+ Phương pháp chiết là việc tạo ra rễ cho một đoạn cành (thân) trên
cây mẹ rồi mới tách cành (thân) ra khỏi thân cây mẹ để nhân giống.
Phương pháp này có ưu điểm cây chiết ra quả sớm. Tuy nhiên, hệ số nhân
giống thấp, cây chiết nhanh bị cỗi.
11
+ Phương pháp ghép là dùng bộ phân sinh dưỡng của cây mẹ định
thân giống ghép lên cây khác (gốc ghép) để tạo nên một cây hoàn chỉnh.
Phương pháp này cho hệ số nhân giống cao, cây ghép sinh trưởng tốt, tuổi
thọ cao. Nhưng phương pháp này yêu cầu ghép phức tạp, phương pháp
này đòi hỏi người có kinh nghiệm để lựa chon cành mắt chiết đạt yêu cầu
để đảm bảo chất lượng cây con tốt.
+ Phương pháp nhân giống bằng nuôi cấy mô – tế bào là phương
pháp tạo cây con từ các bộ phân rất nhỏ của cây (các cơ quan, mô, tế bào)
bằng cách nuôi chúng trong bình nuôi ở điều kiện vô trùng có môi trường
thích hợp và được kiểm sóat nghiêm ngặt. Đây là phương pháp nhân
giống vô tính mang lại hiệu quả cao nhất, chất lượng cây con tốt, đồng
đều. Tuy nhiên, việc nuôi cấy mô được thực hiện với quy trình thật
nghiêm túc và tỉ mỉ, điều kiện trang thiết bị đầy đủ và mô chỉ phát triển
trên một môi trường hoàn toàn vô trùng, do vậy việc nhân giống chỉ thực
hiện với quy mô nhỏ hoặc phục vụ cho nghiên cứu.
+ Phương pháp nhân giống bằng hom là phương pháp dùng một
phần lá, một đoạn thân, một đoạn cành hoặc đoạn rễ để tạo ra cây mới gọi
là cây hom là phương pháp nhân giống giữ nguyên được tính trạng của
cây mẹ (do có kiểu gen hoàn toàn giống cây mẹ ban đầu), đơn giản có hệ
số nhân lớn, tương đối rẻ tiền nên ngày càng được sử dụng rộng rãi trong
nhân giống cây rừng, cây ăn quả, cây cảnh…
Tuỳ thuộc vào loại hom được sử dụng mà các bộ phận còn thiếu đó
có sự khác nhau nhưng nhìn chung các bộ phận còn thiếu là rễ cây(phần
dưới mặt đất) và các bộ phận trên mặt đất như thân, cành, lá… Khả năng
ra rễ có ỹ nghĩa quyết định thành bại trong giâm hom, tuy nhiên sự hình
thành rễ lại phụ thuộc vào các đặc điểm di truyền của loài cây, bộ phận
lấy làm giống và dòng cây mẹ, chất điều hoà sinh trưởng, điều kiện giâm
hom, giá thể… Do đó người ta phải tạo điều kiện thuận lợi nhất cho hom
ra rễ.
12
2.5. Điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội khu vực nghiên cứu
2.5.1. Đặc điểm tự nhiên
2.5.1.1. Vị trí địa lý
Xã Tả Lủng thuộc vùng nội địa huyện Đồng Văn có diện tích tự nhiên
2.868,53 ha. Có ranh giới hành chính như sau:
- Phía Bắc giáp: TT Đồng Văn, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang.
- Phía Đông giáp: Huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang.
- Phía Tây giáp: Xã Tả Phìn ,huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang..
- Phía Nam giáp: huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang..
2.5.1.2. Địa hình, địa mạo
Địa hình xã Tả Lủng nhìn chung rất phức tạp, chủ yếu là núi đá vôi địa
hình chia cắt mạnh, độ cao bình quân 1.400 m so với mặt nước biển, độ dốc lớn
có nhiều đỉnh núi đá cao phổ biến từ trên 1.000 m đến 1.330 m, cấu tạo địa chất
chủ yếu là đá vôi, Karst phát triển mạnh, phần lớn diện tích đất đai của xã là
núi đá vôi. Diện tích đất bằng thung lũng và núi đất pha đá chiếm tỷ lệ ít, bao
gồm các thung lũng chân núi đá, đối tượng này đã được đưa vào khai thác sử
dụng trồng cây nông nghiệp hàng năm
2.5.1.3. Khí hậu
Theo số liệu thống kê hàng năm, cho thấy xã Tả Lủng nằm trong vùng
khí hậu nhiệt đới gió mùa mang tính lục địa khá rõ rệt, lượng mưa trung bình
năm từ 1760 đến 2000 mm, tập trung từ tháng 5 đến tháng 8, lượng bốc hơi
trung bình 730 mm. Tuy nhiên do nằm trên cao nguyên đá vôi, khả năng giữ
nước kém nên tình trạng thiếu nước khá nghiêm trọng về mùa khô. Do vậy
ảnh hưởng rất lớn đến cây trồng và vật nuôi.
Nhiệt độ trung bình năm 15,7oc, tháng trung bình cao nhất là 19,7 oc và
thấp nhất 12,9oc. Về mùa Đông thường có sương mù, nhiệt độ thấp nhất tuyệt
đối có khi xuống tới -5,6oc (tháng 12 dương lịch). Tần suất xuất hiện sương
muối trung bình 7 ngày/năm, thỉnh thoảng có năm gặp mưa tuyết. Khí hậu
thích hợp với các loài cây ăn quả có nguồn gốc ôn đới.
2.5.1.4. Thuỷ văn
Nhìn chung nguồn nước mặt cũng như nước ngầm rất khan hiếm điều
đó ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và đời sống sinh hoạt của người dân địa
phương.
Hệ thủy văn trong xã phụ thuộc theo mùa, mùa mưa ít nước, mùa khô
không có nước.
Tả Lủng có hệ thống thủy văn nghèo nàn, nguồn nước chính tưới cho
đồng ruộng phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên. Nước sinh hoạt chủ yếu là
nước mưa tự, một số ít nước sinh hoạt, sản xuất của nhân dân trong xã còn bị
13
ô nhiễm không đảm bảo cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân trên địa bàn
xã.
2.5.1.5. Thổ nhưỡng
- Nhóm đất đỏ vàng: Đây là nhóm đất chiếm tỷ lệ lớn nhất, phát triển
tại chỗ với quá trình hình thành đặc trưng của vùng nhiệt đới ẩm - quá trình
feralit. Do địa hình dốc nên quá trình này diễn ra trong điều kiện các silicat bị
rửa trôi và các hợp chất sắt, nhôm được tích luỹ. Vỏ phong hoá giầu ôxit và
hydroxit sắt hình thành các loại đất có màu đỏ vàng.
Nhóm đất này có các loại đất chính sau: Đất đỏ vàng trên đá sét và biến
chất (Fs), đất đỏ vàng trên đá macma axit (Fa), đất vàng nhạt trên đá cát (Fq),
đất mùn nâu vàng trên đá vôi (Fv).
Nhóm đất này thích hợp với nhiều loại cây như cây lương thực và màu,
cây công nghiệp, cây ăn quả.
- Nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi: Nhóm đất này cũng phát triển tại
chỗ. Trên đất nương rẫy, nhóm đất này có các loại đất chính sau: Đất mùn
vàng đỏ trên đá sét và biến chất (Hs), đất mùn vàng nhạt trên đá cát (Hq), đất
mùn vàng đỏ trên đá macma axit (Ha),.
Đây cũng là nhóm đất thích hợp với hầu hết các loại cây trồng cũng
như cây lương thực, cây công nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả và cây lâm
nghiệp.
2.5.2. Các điều kiện tự nhiên khác
2.5.2.1. Tài nguyên nước
Xã Tả Lủng nằm trên vùng núi cao, địa hình chia cắt mạnh, có độ dốc
lớn, độ che phủ của rừng còn thấp nên lượng nước phụ thuộc theo mùa, mùa
mưa ít nước mùa khô khan hiếm nước. Nhìn chung nguồn nước mặt rất khan
hiếm, nguồn nước ngầm rất khó khai thác điều đó ảnh hưởng rất lớn đến sản
xuất và đời sống sinh hoạt của người dân địa phương.
2.5.2.2. Rừng
Tổng số đất lâm nghiệp của xã hiện có: 1.420,80 ha. Trong đó:
Đất rừng phòng hộ:
1.383 ha;
Đất rừng rừng sản xuất:
37,80 ha;
2.5.2.3. Thực trạng môi trường
Là xã nơi cực bắc của tổ quốc, xã Tả Lủng có những cảnh quan núi đá
hùng vĩ, nằm trong công viên địa chất toàn cầu. Do chịu ảnh hưởng của nhiều
luồng thực vật nhiệt đới và Á nhiệt đới đã tạo nên sự đa dạng của thực vật
rừng. Trong đó có các loài thực vật đặc biệt quý hiếm được ghi trong sách đỏ
thế giới cần được giữ gìn bảo tồn.
14
Trong quá trình khai thác sử dụng đất đai, tài nguyên thiên nhiên và tập
quán sinh hoạt của người dân chưa hợp lý đã ảnh hưởng đến môi trường sinh
thái. Việc bảo vệ, khoanh nuôi, phục hồi rừng và trồng mới rừng đã được Nhà
nước quan tâm. Song do ý thức của nhân dân trong công tác bảo vệ, khoanh
nuôi và trồng rừng mới còn hạn chế dẫn đến kết quả thực hiện chưa cao. Cân
bằng sinh thái bị phá vỡ, đất đai bị xói mòn, rửa trôi. Tuy nhiên, về cơ bản
môi trường tự nhiên của xã Tả Lủng còn giữ được sắc thái tự nhiên, địa hình
đôì núi trùng điệp có khả năng xây dựng phát triển du lịch.
Để đạt được sự phát triển bền vững trong tương lai, cần tiếp tục đẩy
mạnh các biện pháp bảo vệ môi trường. Chú trọng phát triển nông lâm
nghiệp. Có chính sách đầu tư và khuyến khích nhân dân trồng rừng và thay
đổi nếp sống, sinh hoạt. Cải tạo chỗ ở tại khu dân cư, giữ gìn môi trường vệ
sinh xanh - sạch - đẹp trong từng thôn.
2.5.2.4. Vấn đề thiên tai
Là một xã miền núi với địa hình dốc, hàng năm trên địa bàn xã thường
xẩy ra mưa lớn gây sói mòi, sạp lở thiệt hại về hoa màu và đất đai sản xuất của
nhân dân.
2.5.3. Hiện trạng kinh tế - xã hội
2.5.3.1. Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội
2.5.3.1.1. Dân số
Xã có 13 thôn với tổng dân số toàn xã là 682 hộ, 3.875 nhân khẩu, chủ
yếu là dân tộc Mông, dân số phân bố tương đối đồng đều giữa các thôn.
Những năm gần đây do làm tốt công tác kế hoạch hoá gia đình nên tỷ lệ tăng
dân số giảm dần. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,70%.
2.5.3.1.2. Lao động
Theo thống kê, đến nay xã có 1.838 lao động, trong đó lao động nông
nghiệp có 1.838 người, chiếm 100% tổng số lao động của toàn xã; Những lao
động phổ thông không có tay nghề chiếm tỷ trọng khá lớn còn lao động qua
đào tạo chiếm tỷ trọng nhỏ. Tình trạng thiếu việc làm, nhất là lực lượng lao
động nông nhàn là vấn đề bức xúc cần giải quyết trong thời gian tới.
Hiện nay, việc làm cho người lao động đang là vấn đề được chính
quyền cũng như nhân dân rất quan tâm, đặc biệt là lao động nông nhàn lúc kết
thúc mùa vụ. Để giải quyết việc làm cho người lao động cần phải kết hợp
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển các ngành nghề sử dụng nhiều lao động
phổ thông, gắn mục tiêu giải quyết việc làm với chiến lược phát triển kinh tế,
ổn định đời sống nhân dân và trật tự, an toàn xã hội.
2.5.3.1.3. Thu nhập
Thu nhập của nhân dân trên địa bàn xã chủ yếu vẫn từ sản xuất nông
nghiệp, năm 2016 có cơ cấu thu nhập tỷ lệ như sau:
15
- Cơ cấu kinh tế: Nông lâm nghiêp: 95%; Dịch vụ - thương mại: 3,0%;
tiểu thủ công nghiệp, xây dựng 2,0 %.
- Lương thực bình quân đầu người: 380 kg/người/năm.
- Thu nhập bình quân đầu người năm 2016 đạt 4,5
triệu
đồng/người/năm, bằng 0,55 lần thu nhập bình quân toàn tỉnh khu vực nông
thôn (7,50 triệu đồng/người/năm);
2.5.3.1.4. Hộ nghèo
Hộ không nghèo 46 hộ chiếm 6,74%, hộ cận nghèo 38 hộ chiếm 5,57 %,
số hộ nghèo theo chuẩn mới là 566 hộ chiếm 82,89 %.
2.5.3.1.5. Tỷ lệ người dân tham gia các hình thức bảo hiểm y tế:
Số người tham gia Bảo hiểm y tế đạt 100% dân số, tham gia bảo
hiểm y tế bắt buộc là 100%. Trạm y tế xã đã đạt chuẩn Quốc gia theo tiêu
trí của Bộ Y tế.
- Số lượng y tế xã đã đạt theo tiêu chí.
Đánh giá: Đạt tiêu chí về tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế, đạt
chuẩn về cơ sở vật chất.
2.5.3.1.6. Tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp THCS tiếp tục học THPT, TH
bổ túc và học nghề:
Giai đoạn 2015 - 2017 xã đã đạt chuẩn về phổ cập Tiểu học Đúng độ
tuổi, đạt phổ cập bậc THCS, được duy trì đến nay. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp
THCS tiếp tục theo học THPT còn thấp.
2.5.3.1.7. Văn hóa
Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống mới trong các khu dân
cư và bài trừ các tệ nạn xã hội đã được nhân dân đồng tình ủng hộ và thực
hiện một cách nghiêm túc, phong trào xây dựng “Nếp sống văn minh, gia đình
văn hoá”.
Số thôn đạt tiêu chuẩn thôn Văn hóa 9/13, đạt 69,23 %; Tổng số hộ gia
đình đạt gia đình văn hoá 255 hộ/682 hộ, đạt 37,3%
2.5.4. Kinh tế
2.5.4.1. Hình thức tổ chức sản xuất
Hình thức tổ chức sản xuất trên địa bàn xã: Trên đại bàn xã chưa có doanh
nghiệp sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế xã hội chủ yếu là kinh tế hộ; chỉ
có 01 HTX nông - lâm nghiệp, hoạt động theo Luật HTX năm 2012,
- Tỷ lệ hộ gia đình của xã đầu tư thâm canh lúa ngô theo quy trình kỹ
thuật: 59,50%
- Tỷ lệ số hộ sản xuất nông nghiệp của xã có từ 2 con trâu bò trở lên:
68,76%
16
2.5.4.2. Tình hình sản xuất
a, Trồng trọt
Sản xuất cây lương thực: Tổng số diện tích lúa cả năm 3,2 ha, năng
suất bình quân đạt 52 tạ/ha. Tổng số diện tích ngô cả năm 354 ha, năng suất
bình quân đạt 34,87 tạ/ha; đậu các loại 75 ha, năng suất 6,90 tạ/ha, cây ăn
quả 6,5 ha....
b, Lâm nghiệp
Tổng số đất lâm nghiệp của xã hiện có: 1.420,80 ha. Trong đó:
Đất rừng phòng hộ:
483 ha;
Đất rừng rừng sản xuất:
937,80 ha;
c, Chăn nuôi
Gia súc, gia cầm: Tổng đàn trâu bò có 680 con; lợn có 1.018 con; gia
cầm có 10.767 con;
d, Thuỷ sản
Thuỷ sản: trên địa bàn xã không có ao hồ nuôi trồng thủy sản trong khu dân
cư.
e, Dịch vụ - thương mại
Trên địa bàn xã dịch vụ thương mại chưa phát triển, mới có một số hộ
chủ yếu kinh doanh dịch vụ nhỏ lẻ; dịch vụ vật tư nông lâm nghiệp, dich vụ
đời sống...
Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp chưa phát triển, hiện nay trên địa bàn
xã chỉ có các điểm dịch vụ do nhân dân tự xây dựng và hoạt động còn nhỏ lẻ,
chưa có quy hoạch khu dịch vụ tiểu thủ công nghiệp.
2.5.5. Đánh giá thực trạng các chương trình, dự án đã và đang triển
khai trên địa bàn.
- Đối với các dự án đang đầu tư xây dựng hoặc chuẩn bị đầu tư xây
dựng và các chương trình đang thực hiện đều rất thiết thực, phù hợp với quy
hoạch; kết quả thực hiện của các dự án đầu tư và các chương trình đang thực
hiện sẽ đóng góp đáng kể vào việc hoàn thành kết quả của từng chỉ tiêu xây
dựng nông thôn mới trên địa bàn xã.
2.5.6. Đánh giá hiện trạng về nhà ở, công trình công cộng, hạ tầng
kỹ thuật, di tích, danh thắng du lịch và môi trường
2.5.6.1. Hiện trạng về dân cư nhà ở
Tổng số nhà ở của dân cư trong xã có 682 nhà. Trong đó: nhà ở bán kiên cố
650 nhà, chiếm 95,3% (trong đó 100% nhà chưa đạt chuẩn); Nhà tạm, nhà dột nát:
32 nhà, chiếm 5,70% cần được nâng cấp xây dựng lại nhà bán kiên cố để đạt tiêu
chuẩn nhà ở của Bộ xây dựng.
17
Nhà ở dân cư tự phát chưa có quy hoạch, chủ yếu là nhà ở nông thôn
truyền thống, bán kiên cố, mái lợp tấm lợp, chủ yếu là nền nhà đất không hợp
vệ sinh trên qui mô diện tích đất từ 200 m 2 đến 300 m2. Đa số chưa bố trí phù
hợp trong khuôn viên của gia đình về nhà tắm, chuồng trại chăn nuôi gia súc
và công trình vệ sinh; hàng rào cây xanh từ đường ngõ vào nhà chưa hợp lý.
+ Nhà ở thuộc khu trung tâm cụm xã và ven các trục đường chính diện
tích từ 100 - 200 m2 /hộ, một số hộ có kết hợp kinh doanh dịch vụ.
+ Nhà ở theo mô hình kinh tế vườn rải rác ở các thôn trong xã, diện tích đất
phổ biến từ 500 - 800 m2, diện tích xây dựng < 400 m2/hộ, phát triển kinh tế nông
nghiệp theo mô hình canh tác vườn đồi (vườn + chuồng + ruộng + trồng rừng).
+ Nhà ở của hộ nghèo cần hỗ trợ sửa sang, nâng cấp là đại đa số khung
nhà bằng gỗ tạp nhỏ, hoặc bằng tre, mái lợp ngói không có chống nóng; nhà
thấp, cửa thấp và nhỏ, do vậy kém lưu thông về không khí thường bị ẩm mốc
ảnh hưởng đến sức khoẻ của người dân.
2.5.6.2. Công trình công cộng
2.5.6.2.1. Trụ sở xã
Diện tích đất 0,19 ha, gồm 2 dãy nhà cấp 4 chật chội chưa đáp ứng đủ
nhu cầu làm việc và phục vụ nhân dân.
2.5.6.2.2. Trường học
- Trường mầm non:
Trường Mầm non trung tâm có diện tích 1500 m 2, Trường có 14 lớp
học, 4 phòng học với 14 giáo viên và 246 học sinh, chưa có phòng học chức
năng, chưa đạt chuẩn quốc gia. Các lớp học của điểm trường mầm non và nhà
trẻ tại các thôn chủ yếu học nhờ tại nhà văn hoá các thôn, nhìn chung không
đảm bảo tiêu chuẩn cho việc dạy và học.
- Trường tiểu học:
Trường có diện tích 1200 m 2, hiện có 24 phòng học, 28 lớp, 2 phòng
học chức năng, 39 giáo viên và có 416 học sinh. Trường chưa đạt trường
chuẩn Quốc gia. Cơ sở hạ tầng còn thiếu. Hiện nay ở các điểm trường học
nhờ nhà văn hoá các thôn.
- Trường trung học cơ sở:
Trường có tổng diện tích là 800 m 2, hiện có 8 phòng học, có 9 lớp,
172 học sinh với 16 giáo viên học tập và giảng dạy, chưa có phòng học
chức năng.
2.5.6.2.3. Y tế
Xã Tả Lủng có 01 trạm y tế, diện tích 240 m 2, Về trang thiết bị y tế còn
thiếu và lạc hậu xuống cấp, chưa có máy móc chuyên dùng hiện đại. Trình độ
của đội ngũ y tế xã chưa được thường xuyên tập huấn nâng cao trình độ
18
chuyên môn, nghiệp vụ đã ảnh hưởng đến công tác khám chữa bệnh cho
người dân.
Hiện nay cơ sở vật chất của trạm đã dần xuống cấp, cần được đầu tư
nâng cấp để đảm bảo cho việc khám và chữa bệnh ban đầu cho nhân dân.
2.5.6.2.4. Chợ
Xã chưa có chợ, hiện có 1 chợ tạm họp không thường xuyên, chưa được
đầu tư xây dựng, chưa có sản phẩm để giao thương xuất nhập lớn, cần được
xây mới để phục vụ việc trao đổi hành hóa cho nhân dân.
2.5.6.2.5. Nhà văn hoá
- Nhà văn hóa xã: xã chưa có nhà văn hóa xã do vậy việc hội họp, sinh
hoạt văn hóa văn nghệ chủ yếu tại hội trường ủy ban nhân dân xã.
- Nhà văn hoá thôn: có 6/13 thôn có nhà văn hóa nhưng chưa đạt chuẩn
về cơ sở vật chất cần nâng cấp để đạt chuẩn; 7/13 thôn chưa có nhà văn hoá
thôn cần được xây dựng và đầu tư trang thiết bị như bàn, ghế, hệ thống âm
thanh, ánh sáng.
2.5.6.2.6. Khu thể thao
- Sân thể thao xã : Xã chưa có sân thể thao phục vụ cho việc luyện tập
thể dục thể thao và thi đấu thể thao trong các dịp lễ tết.
- Sân thể thao thôn: các thôn chưa có khu thể thao thôn, cần được xây
dựng mới để đáp ứng được hoạt động thể thao của nhân dân trong các thôn.
2.5.6.2.7. Bưu điện
Xã chưa có điểm bưu điện - văn hoá tại trung tâm xã phục vụ việc thư,
tín, sách, báo, chưa có điểm dịch vụ, mới phục vụ cho các cơ quan, đơn vị
mạng Internet là Đảng uỷ, Uỷ ban nhân dân xã. Hiện nay chưa có mạng
internet đến các thôn.
2.5.6.3. Hạ tầng kỹ thuật và môi trường
2.5.6.3.1. Giao thông
- Hiện nay trên địa bàn xã có 19 km đường ô tô liên xã, liên thôn, chiều
rộng mặt đường bình quân 4m, số thôn có đường ô tô liên thôn đến trung tâm
thôn là 7/13 thôn. Về chất lượng đường ô tô là đường đất đã xuống cấp nghiêm
trọng, việc đi lại và vận chuyển rất khó khăn, nhất là trong mùa mưa, có nhiều
đoạn thường xuyên bị tắc do xạt lở xói mòn rãnh.
- Đường liên thôn có 34,50 km là đường đất. Hiện trạng 95 ->100% là
đường đá mặt đường xấu và nhỏ hẹp cần nâng cấp để đạt chuẩn.
Với thực trạng đường giao thông của xã như hiện nay ảnh hưởng lớn đến
việc đi lại, vận chuyển, lưu thông hàng hóa và phát triển kinh tế xã hội của xã.
Toàn bộ hệ thống đường giao thông cần được mở rộng và nâng cấp tạo điều
19
kiện thuận lợi cho việc đi lại và vận chuyển hàng hóa trong xã lưu thông với
bên ngoài.
2.5.6.3.2. Thuỷ lợi
2.2.1. Hệ thống công trình thuỷ lợi đầu mối.
Hệ thống công trình thủy lợi tưới tiêu phục vụ sản xuất hiện nay toàn xã
chưa có công trình nào.
2.2.2. Hệ thống kênh mương.
Hệ thống công trình thủy lợi tưới tiêu phục vụ sản xuất hiện nay toàn xã
Tả Lủng không có tuyến kênh mương nào, việc tưới tiêu phụ thuộc vào nguồn
nước tự chảy và từ nước mưa là chủ yếu.
2.5.6.3.3. Điện
*. Trạm biến áp.
Trên địa bàn xã có 03 trạm biến áp tổng công suất 100 KVA.
- Số trạm đạt yêu cầu: 0 trạm.
*. Đường dây hạ thế tải điện
Tổng số đường dây hạ thế trên địa bàn xã có 5 tuyến tổng chiều dài khoảng 6
km.
*. Hộ sử dụng điện: Tổng số hộ được sử dụng điện thường xuyên 636
hộ/682 hộ đạt 93,2 %, số hộ được sử dụng điện thường xuyên an toàn 292
hộ/484 hộ đạt 60,33 %.
*. Hệ thống cấp nước
Hệ thống nước sinh hoạt:
Toàn xã có 1 thôn với 47 hộ sử dụng nước sinh hoạt từ 01 điểm cấp nước
sinh hoạt tập trung. Nước sinh hoạt của các hộ gia đình chủ yếu lấy từ các bể
chứa nước gia đình, dung tích nhỏ không đủ dùng quanh năm.
Toàn xã có 1 hồ treo và 568 bể ở 13 thôn trong đó có 1 bể công cộng và
567 bể của hộ gia đình, chưa hộ dân nào được sử dụng nước sạch.
*. Hệ thống thoát nước
Chưa có hệ thống thoát nước, hệ thống thoát nước tại các cụm dân cư
các thôn bản chưa có, tự thấm, thoát theo suối hoặc ra ruộng và các khe trũng
dễ gây xói lở hai ven bờ.
*. Nghĩa trang, nghĩa địa
Xã chưa có khu nghĩa được quy hoạch tập trung. Chủ yếu là là các
nghĩa địa phân tán của các dòng họ có từ lâu đời, các khu nghĩa địa này chưa
được quy hoạch, xây dựng theo tiêu chuẩn.
*. Vệ sinh môi trường
20
- Số hộ sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh là 47 hộ, đạt 7,77 %
- Số hộ có nhà tắm đạt chuẩn 10 hộ, đạt 1,46%.
- Số hộ có nhà tiêu hợp vệ sinh 0 hộ, đạt 0%.
- Số hộ có chuồng trại chăn nuôi hợp vệ sinh 0 hộ đạt 0 %.
- Xử lý chất thải: Chưa có hoạt động tổ chức thu gom rác thải, việc thu
gom rác thải được thực hiện tại hộ gia đình 100%, xã chưa có bãi rác tập trung
xa khu dân cư.
2.5.6.4. Phân tích, đánh giá hiện trạng sử dụng đất
2.5.6.4.1. Đánh giá hiện trạng sử dụng đất năm 2015.
Tổng diện tích đất tự nhiên của xã là: 2.868,53 ha, chia ra các loại
đất:
1. Nhóm đất nông nghiệp là: 2.445,36 ha, chiếm 85,25% tổng
diện tích tự nhiên trong đó:
a) Đất sản xuất nông nghiệp: 1.024,56 ha, chiếm 41,90 % diện tích đất
nông nghiệp
- Đất trồng lúa: 3,2 ha, chiếm 0,27 % diện tích đất sản xuất nông nghiệp.
- Đất trồng cỏ: 17,70 ha, chiếm 0,72 % diện tích đất sản xuất nông nghiệp.
- Đất trồng cây hàng năm khác: 941,22 ha, chiếm 43,92 % diện tích
đất sản xuất nông nghiệp.
- Đất trồng câu lâu năm: 59,14 ha, chiếm 2,42 % diện tích đất sản xuất
nông nghiệp.
b) Đất lâm nghiệp:1.420,80 ha, chiếm 58,10 % diện tích đất nông
nghiệp.
- Đất rừng phòng hộ: 483 ha, chiếm 34 % diện tích đất lâm nghiệp.
- Đất rừng sản xuất: 937,80 ha, chiếm 66 % diện tích đất lâm
nghiệp.
2. Nhóm đất phi nông nghiệp là: 48,52 ha, chiếm 1,69 % tổng
diện tích tự nhiên trong đó:
- Đất ở tại nông thôn: 17,96 ha.
- Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp: 0,19 ha, chiếm 0,39%
đất PNN.
- Đất nghĩa trang, nghĩa địa: 1 ha, chiếm 2,06% đất PNN.
- Đất có mặt nước chuyên dùng: 0,99 ha, chiếm 2,04% đất PNN.
- Đất có mục đích công cộng: 28,28 ha, chiếm 58,29 % đất PNN.
21
3. Nhóm đất chưa sử dụng là: 374,65 ha chiếm 13,06 % diện tích tự
nhiên toàn bộ là núi đá.
2.3.6.4.2. Đánh giá tình hình quản lý, sử dụng đất của các cơ quan, tổ
chức
- Tổng số tổ chức đóng trên địa phương: 2 tổ chức quản lý, sử
dụng
- Phân tích tình hình quản lý, sử dụng đất của các tổ chức:
+ Về ranh giới và diện tích được giao: Sử dụng đúng ranh giới
được giao.
+ Tình trạng tranh chấp với các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
khác ở xung quanh: Không có tranh chấp
+ Các tổ chức sử dụng đất hợp lý về diện tích đất so với nhu cầu và
sử dụng có hiệu quả.
2.5.6.4.3. Đánh giá chung tình hình quản lý, sử dụng đất
Xã Tả Lủng là một xã dân số chủ yếu sống là sản xuất nông, lâm
nghiệp, việc quản lý bảo vệ, sử dụng đất sản xuất nông nghiệp đất lâm
nghiệp là mục tiêu sống còn của mỗi người dân sử dụng đất. Do đó:
- Về diện tích đất rừng sản xuất: Người sử dụng đất được giao đất sử
dụng ổn định, đã an tâm đầu tư vào trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi
trọc, đã từng bước đưa diện tích đất đồi núi chưa sử dụng vào trồng rừng,
nâng cao độ che phủ của rừng.
Đề xuất các giải pháp sử dụng đất hiệu quả:
+ Lập quy hoạch sử dụng đất chi tiết từ năm 2010 đến năm 2020 và
định hướng dài hạn đến năm 2030
+ Giao đất sử dụng ổn định, lâu dài, cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất
+ Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc quản lý và
sử dụng đất.
+ Tuyên truyền pháp luật về quản lý đất đai và bảo vệ và phát triển
rừng.
+ Bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người sử dụng đất.
Đánh giá chung
*. Những thuận lợi
- Nguồn lao động dồi dào, cần cù, chịu khó, nhận thức về pháp luật, về
tiến bộ khoa học kỹ thuật của người dân trong thời gian qua đã được nâng lên
thông qua các chương trình đào tạo, tập huấn.
22
- Sản xuất nông lâm nghiệp có bước chuyển khá, thực hiện có hiệu quả việc
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi; ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất.
* . Những khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi, xã Tả Lủng còn nhiều khó khăn trong xây
dựng xã nông thôn mới.
- Xã Tả Lủng là xã vùng cao núi đá, vùng xa, kinh tế, văn hóa dịch vụ
du lịch, thương mại, chậm phát triển. Xa các cơ quan hành chính của huyện,
chưa hội nhập kinh tế giữa các vùng, miền. Dịch vụ, du lịch, thương mại, nhà
hàng khách sạn không có.
- Khả năng khai thác tiềm năng đất, đặc biệt là đất sản xuất nông
nghiệp còn hạn chế, chưa quy hoạch thành các vùng sản xuất hàng hóa tập
trung, giá trị sản phẩm/1ha đất sản xuất còn thấp so với tiềm năng. Chưa khai
thác được lợi thế của xã về du lịch.
- Hệ thống đường giao thông còn nhiều tuyến chưa đáp ứng được nhu
cầu đi lại của nhân dân; đường giao thông nông thôn phần lớn chưa được
cứng hoá, do đó hạn chế đến việc phát triển kinh tế, sản xuất và sinh hoạt của
nhân dân trong xã.
- Cơ sở vật chất văn hoá thể thao của xã, thôn bản và trang thiết bị phục
vụ cho hoạt động văn nghệ, văn hoá, thể dục, thể thao còn yếu và thiếu. Cơ sở
vật chất của trường học các cấp còn thiếu.
- Các cơ sở vật chất khác như: trụ sở xã, điểm bưu điện văn hoá xã, trụ
sở và điểm kinh doanh của Hợp tác xã ... còn thiếu và đã xuống cấp.
- Còn thiếu vốn để triển khai xây dựng các dự án đầu tư về hạ tầng kỹ thuật,
thiếu vốn trong đầu tư sản xuất kinh doanh, trong cải tạo và xây dựng nhà ở nông
thôn ...
- Cảnh quan và vệ sinh môi trường của khu trung tâm xã, các khu dân
cư nông thôn chưa phù hợp và chưa được bảo đảm.
- Cơ sở vật chất nhà văn hoá, khu thể thao chưa đạt chuẩn,.
- Cơ sở vật chất của trường học các cấp chưa đạt chuẩn Quốc gia.
Hộ có 3 công trình hợp vệ sinh đạt tiêu chuẩn còn thấp
- Tỷ lệ hộ nghèo còn ở mức khá cao so với tiêu chuẩn xã nông thôn mới
(91,98%).
- Chất lượng nguồn lao động thấp, số lao động chưa có việc làm trong
lúc nông nhàn còn cao.
23
CHƯƠNG 3
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định được một số đặc điểm Lâm học loài cây Bình vôi.
- Bước đầu xây dựng được quy trình bảo tồn cây Bình.
3.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cây Bình vôi (Stephania
rotunda Lour.)
- Vật liệu nghiên cứu: Củ và thân cây Bình vôi.
- Phạm vi nghiên cứu: Một số vùng núi đá vôi tại xã Tả Lủng,
huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang nơi có loài Bình vôi này phân bố tự
nhiên.
3.3. Nội dung nghiên cứu
3.3.1. Nghiên cứu đặc điểm sinh vật học cây Bình vôi
3.3.1.1. Nghiên cứu đặc điểm hình thái
- Hình thái Lá.
- Hình thái Thân.
- Hình thái Củ.
- Hình thái Hoa.
- Hình thái Quả.
3.3.1.2. Nghiên cứu đặc điểm sinh thái
- Đặc điểm địa hình, đất đai, khu vực có loài phân bố.
- Đặc điểm khí hậu, thủy văn khu vực có loài cây phân bố.
24
- Đặc điểm quần xã thực vật rừng khu vực có loài phân bố (tầng cây
cao, cây bụi, thảm tươi…).
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp kế thừa tài liệu
- Kế thừa tài liệu về nghiên cứu Bình vôi của các tác giả trước đây.
- Kế thừa tài liệu cơ sở vật chất tại nơi làm thí nghiệm, điều kiện
khu vực nghiên cứu.
3.4.2. Phương pháp ngoại nghiệp
3.4.2.1. Phương pháp thu thập số liệu về đặc điểm sinh vật học loài Bình
vôi
a. Điều tra đặc điểm lâm học
* Điều tra cơ bản: Thu thập tài liệu thứ cấp
+ Điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội
+ Kết quả nghiên cứu có liên quan
+ Tài liệu cây thuốc đã được công bố
* Điều tra đặc điểm hình thái loài: Tiến hành đo đếm 20 cây trưởng thành
mỗi loài về chỉ tiêu sau:
- Hình thái lá cây: Trên 20 cây tiêu chuẩn tiến hành lựa chọn các lá
đại diện để đo đếm. Dùng thước kẻ có khắc cm để đo chiều dài, chiều
rộng của lá. Mô tả hình dạng, màu sắc, gân, mép, cuống theo sách phân
loại thực vật rừng.
Mẫu biểu 01: mô tả đặc điểm lá cây
Thứ
tự
cây
Đặc điểm từng loại lá
Lá non
Chiều Chiều
Lá bánh tẻ
Mô tả Chiều
25
Chiều
Lá già
Mô tả
Chiều
Chiều
Mô tả