MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây sắn khơng chỉ cho củ mà nó cịn có khả năng sản xuất lá rất cao. Lá sắn
giàu protein, caroten, xanthophil... Do đó, có thể dùng lá sắn để sản xuất bột lá
bổ sung vào thức ăn hỗn hợp của vật nuôi. Ở nhiều nước trên thế giới, bột lá được
xem như một thành phần không thể thiếu được trong thức ăn của gia súc, gia cầm.
Ở nước ta, khoảng mười năm gần đây, người ta chủ yếu sử dụng thức ăn hỗn hợp
hồn chỉnh để ni gia súc và gia cầm, nhưng trong thức ăn đó, bột lá hầu như
khơng có. Nhiều nhà khoa học ở trên thế giới và trong nước, đã nghiên cứu và kết
luận rằng vật nuôi được ăn khẩu phần có bột lá thì khả năng sinh trưởng và sản xuất
cao hơn so với khẩu phần ăn khơng có bột lá. Ở một số nước trên thế giới việc sản
xuất bột lá thực vật đã trở thành một ngành công nghiệp chế biến như: Colombia,
Thái Lan, Ấn Độ, Philippin... Các loại thực vật thường được trồng để sản xuất bột lá
ở các châu lục như sau: Ở Châu Á (Philippin, Ấn Độ) là keo dậu; Châu Âu là cỏ
mục túc và Châu Mỹ (Braxin, Colombia) là sắn.
Việt Nam chưa có ngành cơng nghiệp sản xuất bột lá, nhưng trong tương lai
rồi sẽ phải có. Về loại thực vật có thể sử dụng để sản xuất bột lá, chúng tôi suy nghĩ
tới cây sắn. Cây sắn sau khi cắt có khả năng tái sinh cao, năng suất chất xanh lớn.
Lá sắn giàu dinh dưỡng, đặc biệt là protein; tỷ lệ protein có trung bình từ 6,597,00% trong lá sắn tươi (Nguyễn Khắc Khơi, 1982 [23]), ngồi ra nó cịn chứa một
lượng đáng kể xanthophil có tác dụng làm tăng màu lịng đỏ trứng gà. Lá sắn dễ làm
khơ (phơi nắng hoặc sấy), dễ bảo quản. Tuy nhiên trong lá sắn có chứa độc tố HCN
gây ảnh hưởng đến gia súc gia cầm. Để có cơ sở khoa học cho việc đề xuất một loại
cây trồng dùng để sản xuất bột thực vật làm thức ăn chăn nuôi trong tương lai giống
như các nước đã và đang làm, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng
của các phương thức trồng sắn, các mức phân đạm, các phương pháp chế biến lá
sắn khác nhau đến năng suất và thành phần hóa học của lá sắn tại trường Đại
học Nông lâm Thái Nguyên”.
1
2. Mục tiêu của đề tài
- Xác định năng suất, sản lượng lá, củ tươi, sản lượng dinh dưỡng (sản lượng
VCK, protein) của sắn ở các phương thức trồng sắn khác nhau (lấy củ, lấy củ-lá, lấy
lá) và phương thức trồng sắn lấy lá được bón phân đạm với các mức khác nhau.
- Xác định được ảnh hưởng của các phương pháp chế biến khác nhau, thời
gian bảo quản tới sự hao hụt các chất dinh dưỡng và khả năng loại bỏ độc tố trong
lá sắn.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp cho ngành khoa học thức ăn và dinh
dưỡng gia súc những thông tin cơ bản và hệ thống về cây sắn, bao gồm phương
thức trồng, bón phân, chế biến, thành phần hóa học của củ và lá sắn. Những thơng
tin này, có thể được sử dụng để giảng dạy và làm tài liệu tham khảo cho các đề tài
khác cùng lĩnh vực. Góp phần bổ sung thêm những kiến thức về cây sắn, với mục
đích sử dụng làm thức ăn trong chăn nuôi gia súc và gia cầm.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa thúc đẩy ngành trồng trọt sản xuất
thức ăn tại chỗ cung cấp cho ngành chăn nuôi tạo nên sự phát triển nông nghiệp bền
vững tại địa phương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Giống sắn KM94.
- Các thí nghiệm được tiến hành tại trường Đại học Nơng lâm Thái Ngun.
5. Những đóng góp mới của đề tài
Đề tài đã xác định được sản lượng lá, củ sắn tươi, VCK, protein của các
phương thức trồng sắn khác nhau (lấy củ, củ + lá, lá) và mức bón đạm thích hợp cho
trồng sắn thu lá.
Đề tài đã nghiên cứu và đề xuất được phương pháp chế biến lá sắn gây ít tồn
hại đến các chất dinh dưỡng và loại bỏ được tối đa độc tố có trong lá sắn.
2
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Nguồn gốc, đặc điểm thực vật học, thành phần hóa học của củ và lá sắn
1.1.1. Nguồn gốc và đặc điểm thực vật học
Cây sắn có tên khoa học là Manihot Esculenta Crantz, thuộc họ cây thầu dầu
Euphorbiaceae, sắn cịn có một số tên gọi khác là Casava, Manioc, tapioca,
mandioca, yuca, Manlioke, Maniva Cassave,... ở Việt Nam cây sắn được gọi là cây
khoai mì, cây củ mì, sắn tầu...
Cây sắn được bắt nguồn từ 4 trung tâm lớn, đó là: (1) Guatemala; (2) Mexico;
(3) Đơng Brazil và Bolivia; (4) Tây Bắc Argentina và dọc theo bờ biển vùng Sarana
của miền Tây Bắc Nam Mỹ (Jaladudin S, 1997) [82].
Ngày nay sắn được trồng hầu hết ở các nước có vĩ độ từ 300N đến 300S và tập
trung chủ yếu ở 106 nước thuộc Châu Mỹ, Châu Phi và Châu Á Thái Bình Dương
(P. Silvestre, 1990 [34]; Gomez G, 1979 [74]).
Ở Việt Nam, cây sắn là một cây màu truyền thống và quan trọng của nhân dân
ta, nhất là khu vực Trung du và miền núi phía Bắc.
Q trình trồng thích nghi và chọn lọc tự nhiên đã hình thành lên nhiều giống
sắn địa phương có đặc điểm hình thái, năng suất và chất lượng khác nhau, phù hợp
với từng vùng khí hậu, sinh thái khác nhau trong cả nước. Do đó các giống sắn của
ta rất đa dạng và phong phú. Hiện nay, có khoảng trên 30 giống sắn phổ biến đang
được trồng ở các vùng khác nhau trên khắp nước ta (Trần Thế Hanh,1984 [13];
Howeler, 1992 [80]; Đinh Văn Lữ, 1972 [29]).
Củ sắn (rễ sắn): Là tổ chức dự trữ dinh dưỡng chính của cây sắn. Khi trồng
bằng hạt thì cây sắn có 1 rễ cọc phát triển và cắm thẳng đứng xuống đất như cây 2
lá mầm và các rễ phụ lúc đầu phát triển ngang, sau đó phát triển theo phương thẳng
đứng thành rễ cái. Đối với sắn trồng bằng hom thì chỉ có rễ phụ mọc ra từ vết cắt
của hom và phát triển tương tự như rễ phụ của sắn trồng bằng hạt. Tất cả các loại rễ
này đều phát triển thành củ sắn (Trần Ngọc Ngoạn, 2007) [33]. Một số rễ sẽ trở nên
mỏng đi và chỉ có chức năng hút nước và chất dinh dưỡng, còn rễ phát triển thành
củ thì chức năng này khơng đáng kể.
3
Thân sắn: Là loại cây thân gỗ, hình trụ, có chia đốt và có lóng, sinh trưởng
lâu năm, cây cao từ 1-5m. Thân và cành già đã hóa gỗ có mầu trắng bạc, xám, nâu
hoặc hơi vàng. Thân được cấu tạo gồm 4 lớp (trong cùng là lớp lõi xốp, tế bào rất to;
tiếp đến là tầng gỗ; mô mềm của vỏ và cuối cùng là tầng bần).
Lá sắn: Là loại lá đơn mọc xen kẽ, thẳng hàng trên thân cây. Lá gồm 2 phần:
Cuống và phiến lá. Lá có thùy sâu, dạng chân vịt, thùy thường có cấu tạo số lẻ từ 39 thùy (cá biệt có 11 thùy) (Rogers và cs, 1973) [102]. Lá gần cụm hoa có số thùy
giảm dần và thậm chí khơng chia thùy, lá phía trên thường có biểu bì bóng như sáp.
Cuống lá dài từ 5-30cm (một số giống cuống dài 40cm) và có các mầu sắc khác
nhau phụ thuộc vào giống sắn và chủ yếu là mầu hồng, vàng, xanh vàng, đỏ tươi.
Theo Claiz, (1979); H.Herchey (1988) (Trích Phạm Sỹ Tiệp, 1999 [47]) thì một
trong những đặc điểm của cây sắn khác với cây ngũ cốc khác là cây sắn đồng thời
phát triển thân lá và tích luỹ tinh bột vào củ. Như vậy, sản phẩm quang hợp được
chia cho sự phát triển của cả lá và củ. Điều này cho thấy nếu cây có điều kiện thuận
lợi để phát triển diện tích lá tối ưu thì sự phát triển củ cũng đạt đến mức tối ưu. Nếu
bằng một trong những lý do nào đó như bón phân đạm quá nhiều hay cây bị che
tán...thì sản phẩm quang hợp được sẽ chỉ tập trung vào nuôi dưỡng giúp cho sinh
trưởng của lá dẫn đến sẽ có ít sản phẩm được dành cho củ và ngược lại.
Hoa sắn: Hoa thuộc loại hoa chùm, đơn tính có cuống dài mọc ra từ chỗ phân
cành, ngọn thân. Những cụm hoa gồm một trục dài 2-10cm và nhiều trục bên hợp
thành nên gọi là chùy. Hoa cái thường nở trước hoa đực từ 5-7 ngày.
Quả sắn: Có kích thước từ 1-1,5cm, 1 quả thường có 3 hạt. Mầu quả đa dạng
phụ thuộc vào giống. Hạt sắn hình trứng tiết diện hơi giống hình tam giác. Quả sắn
thành thục sau khi thụ phấn 75-90 ngày. Hạt sắn nặng từ 95-136 mg, màu nâu đen,
trơn nhẵn, có đường gân mầu nâu. Hạt sắn nẩy mầm ngay sau khi được thu hoạch,
quá trình này mầm mất khoảng 16 ngày (Ghosh và cs, 1988) [72].
1.1.2. Các giai đoạn sinh trưởng và phát triển
1.1.2.1. Giai đoạn mọc mầm và ra rễ
Giai đoạn này tính từ khi trồng đến sau trồng khoảng 2 tháng. Giai đoạn này cây
chủ yếu chuyển hóa các chất dinh dưỡng từ hom trồng để hình thành mầm và rễ. Vì
vậy, tốc độ mọc mầm và ra rễ phụ thuộc vào khí hậu và chất lượng hom giống.
4
Nhiệt độ tối thích cho sắn mọc mầm là từ 25-300C, còn nhiệt độ cao hơn hoặc
thấp hơn so với nhiệt độ tối thích khơng nhiều thì sắn mọc mầm với tốc độ chậm,
nhưng ở nhiệt độ cao trên 370C và dưới 170C thì sắn khơng mọc mầm.
Sau khi trồng 10-12 ngày, những lá đầu tiên đã bắt đầu hình thành (Conceicão,
1979 [69]). Sau 30 ngày thì lá thật mới hình thành và mới có thể tự quang hợp giúp
cây sinh trưởng, bắt đầu hình thành các rễ đâm sâu xuống đất 40-50cm để hút dinh
dưỡng và nước. Một số rễ bắt đầu phát triển thành củ ở giai đoạn 60-90 ngày sau
trồng (Cock và CS, 1979) [67].
1.1.2.2. Giai đoạn sinh trưởng của thân và lá
Sự tăng trưởng của chiều cao và bề ngang cây được quyết định bằng sự sinh
trưởng của mô phân sinh thượng tầng và mô phân sinh đỉnh.
Sau khi trồng từ 4-6 tháng thì chỉ số diện tích lá đạt được cao nhất. Tuy
nhiên, chỉ số này phụ thuộc vào nhịp độ xuất hiện lá mới, tuổi thọ trung bình của lá,
điều kiện mơi trường và giống sắn. Theo Hozyo (1984); Wargiono, (1986) (trích
Wargiono, 2002 [112]) thì lá và thân sắn sinh trưởng mạnh nhất vào giai đoạn này,
tất cả các chất dinh dưỡng cây nhận được từ môi trường đều được tổng hợp cho
phát triển thân và lá nên dinh dưỡng của các phần trên mặt đất lúc này là cao nhất.
Theo Sudaryanto (1992) [103] thì từ tháng thứ 3-7, cứ 2 ngày sẽ xuất hiện một lá
mới để thay thế các lá già vì vậy có thể thu cắt hàng tuần là 4 lá khơng ảnh hưởng gì
tới năng suất cây trồng.
Khoảng nhiệt độ tối thích cho sắn sinh trưởng từ 20-300C. Trong khoảng
nhiệt độ này thì thời gian để hình thành một lá đầy đủ chỉ kéo dài 2 tuần. Ở nhiệt độ
cao hơn và thấp hơn thì thời gian hình thành kéo dài hơn.
Sau khi lá xuất hiện và dài khoảng 1cm, dưới điều kiện bình thường chúng sẽ
đạt được kích thước tối đa sau 10-12 ngày. Kích thước của lá tăng dần theo tuổi của
cây đến khoảng 4 tháng tuổi và sau đó giảm dần. Tuổi thọ của lá phụ thuộc vào đất
trồng, mức độ bị che bóng, nước và nhiệt độ... (Cock và CS, 1979 [67]). Tuổi thọ
của lá kéo dài từ 40 đến 120 ngày nhưng thông thường từ 60-120 ngày.
Sắn cũng có khả năng phân cành như các cây thân gỗ khác. Thơng thường
sau trồng 3 tháng thì cây bắt đầu phân cành. Tùy vào giống khác nhau mà khả năng
5
phân cành là khác nhau, thường cây sắn có thể phân từ 1-4 cấp cành khác nhau. Ở
giai đoạn 120 đến 150 ngày sau trồng, lá bị chắn sáng bởi các tán cây nên kích
thước tán và lượng vật chất khô (VCK) ở lá và thân là đạt tối đa (Howele và cs,
1983 [79]; Távora và cs, 1995 [105]).
1.1.2.3. Giai đoạn hình thành và phát triển của củ
Sau 28 ngày trồng thì các hạt tinh bột đã bắt đầu hình thành ở nhu mô rễ củ,
nhưng không xác định được rõ là rễ sẽ hình thành củ hay rễ thơng thường. Sau 42
ngày thì bắt đầu phân biệt được rễ củ, sau 60-90 ngày thì xác định được số lượng củ
sẽ hình thành sau này. Sau 90-120 ngày thì xác định được số lượng và kích thước
chiều dài của củ sau này.
Kích thước củ được hình thành, lượng vật chất khơ tích lũy lớn nhất và phát
triển nhanh nhất ở giai đoạn từ 6-9 tháng, sau đó tăng chậm và ổn định (Távora và
cs, 1995 [105]; Poressin và cs, 1998 [96]) cho biết từ tháng thứ 7 sau trồng trở đi thì
dinh dưỡng chỉ tập trung vào phát triển củ. Nếu nhiệt độ nhỏ hơn 170C thì cây, củ,
lá sẽ ngừng sinh trưởng, riêng lá thì có khả năng rụng dần nhưng chúng sẽ phát triển
trở lại khi đầu xuân trời bắt đầu ấm lên. Thân cây ở giai đoạn này bắt đầu bị lignin
hóa (Conceicão, 1979 [69]).
Sau giai đoạn từ 300-360 ngày thì lá bắt đầu giảm dần, tất cả lá sẽ rụng hết,
cành non không phát triển nữa chỉ có q trình tập trung tinh bột về củ và lượng vật
chất khô sẽ đạt được cao nhất ở củ vào giai đoạn này. Khi cây tròn 12 tháng là kết
thúc một chu kỳ sống nhưng nó có thể phát triển ở chu kỳ tiếp theo và tiếp tục sinh
trưởng thân, cành, lá và củ.
1.1.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới sinh trưởng của cây sắn
Ảnh hưởng của nhiệt độ:
Nhiệt độ thích hợp cho sắn mọc mầm và ra rễ từ 20-270C. Nếu nhiệt độ nhỏ
hơn 160C sắn sẽ không mọc mầm. Cây vẫn mọc mầm và ra rễ tốt khi nhiệt độ lên
tới 300C và sau đó giảm dần khi nhiệt độ tăng đến 390C. Nếu nhiệt độ tiếp tục tăng
cao hay giảm thấp quá cây bắt đầu ngừng sinh trưởng và có thể chết.
Nhiệt độ thích hợp cho cây sinh trưởng thân lá là từ 24-290C (Conceicão,
1979) [69], sắn cũng có thể chịu đựng được ở nhiệt độ từ 16 đến 380C (Cock, 1984)
6
[68]. Ở phạm vi nhiệt độ từ 20-240C thì tuổi thọ của lá giảm nhưng lại làm tăng số
lá mới hình thành. Ở nhiệt độ dưới 160C thì khả năng ra lá, tỷ lệ lá, lượng VCK tích
tụ vào củ giảm (Cock và cs, 1975) [66].
Nhiệt độ thích hợp để tích lũy dinh dưỡng vào củ tùy thuộc vào nhiệt độ
ngày và đêm. Thơng thường nhiệt độ 290C là thích hợp cho sắn tích lũy dinh dưỡng
vào củ, nhưng ở nhiệt độ này vào ban ngày thường làm tăng cường độ hơ hấp nên
chỉ cịn lại một tỷ lệ nhỏ dinh dưỡng được tích lũy vào củ.
Ẩm độ:
Cây sắn có thể sống được cả ở những nơi có lượng mưa dao động từ 500-5000
mm và ở những nơi có mùa khô từ 4-6 tháng .
Ở giai đoạn cây mọc mầm và ra rễ địi hỏi phải có độ ẩm từ 65 đến 75%. Còn ở
giai đoạn sinh trưởng của thân và lá thì cũng yêu cầu về độ ẩm cao nhưng khi bị hạn
kéo dài thì diện tích lá giảm, năng suất thân lá giảm 38%, năng suất củ giảm 14%.
Trong điều kiện khô hạn kéo dài, thiếu nước sẽ làm tăng lượng HCN trong cây. Ngược
lại lượng mưa cao có tác dụng làm giảm HCN (Trần Ngọc Ngoạn, 2007) [33].
Ánh sáng:
Trong điều kiện ngày dài, thân sắn sẽ tăng khả năng sinh trưởng. Khi tăng
khoảng thời gian chiếu sáng từ 12 giờ lên 16 giờ/ngày thì tác giả Bolhuis (1966)
[60] cho biết các giống sắn đều nhậy cảm với ánh sáng và có tác dụng làm tăng
năng suất củ, tăng số nhánh/cây. Tuy nhiên, độ dài ngày ngắn làm tăng cường độ
tích lũy tinh bột về củ và độ dài ngày thích hợp nhất để tích lúy tinh bột về củ là 12
giờ/ngày (Bolhuis, 1966) [60]. Nếu ngày dài thì thích hợp với phát triển thân, lá
nhưng hạn chế tích lũy tinh bột về củ.
Nếu cây bị che bóng 60% ánh sáng so với khơng che bóng, năng suất củ
giảm tới 36% (Otoo, 1983)
Dinh dưỡng đất:
Cây sắn có khả năng chịu đựng tốt với đất nghèo dinh dưỡng, đất chua, đất có
hàm lượng nhơm và mangan cao. Do bộ rễ phát triển sâu tới 2,5m và có khả năng
cố định cacbon trong điều kiện thiếu nước kéo dài.
7
Các tác giả Asher và cs (1980) [53], Ciat (1980) [64]; Putthacharoen và cs
(1998) [98] đều cho biết: cây sắn hấp thu nhiều nhất N, sau đó là K, Ca, Mg, P và S.
Cứ 1000 kg củ sắn có 5,87 kg N; 0,98 kg P; 7,71 kg K; 1,18 kg Ca; 0,69 kg Mg.
Còn 1000 kg thân và lá sắn có 15,70 kg N; 1,99 kg P; 13,66 kg K; 7,16 kg Ca; 2,26
kg Mg. Vì vậy, nếu trong thành phần dinh dưỡng đất thiếu nguyên tố nào thì sẽ làm
giảm khả năng sinh trưởng của cây và làm giảm năng suất của cây sắn.
1.1.4. Thành phần hóa học và ảnh hưởng của một số phương pháp chế biến đến
thành phần hóa học của củ và lá sắn
1.4.1.1. Thành phần hóa học của củ và lá sắn
a. Thành phần hố học và giá trị dinh dưỡng của củ sắn
Củ sắn tươi chứa 23,36-33,12% vật chất khô, 1 kg vật chất khơ của củ sắn có
3087 kcal, tỷ lệ tinh bột từ 65-80% (P.Silvestre, 1990 [34]; Best và cs, 1992 [57]).
Theo các tác giả nước ngoài như Maner J.H, 1987 [92]; P.Silvestre, 1990 [34] thì
trong 1kg củ sắn tươi có từ 903- 1193 Kcal năng lượng trao đổi. Còn các tác giả
trong nước như Nguyễn Văn Thưởng (1992) [46]; Bùi Văn Chính (1995) [5] thì ở
Việt Nam, các giống có năng lượng trao đổi cao, 1 kg củ sắn tươi có năng lượng
dao động từ 1034-1187 Kcal/kg. Ở củ sắn khô cả vỏ, năng lượng trao đổi dao động
từ 3087- 3138 Kcal/ kg, cịn ở sắn khơ bóc vỏ trung bình từ 3115-3196 Kcal/ kg.
Các giống, dịng sắn khác nhau thì có tỷ lệ tinh bột cũng khác nhau. Theo
Hồng Kim (1999) thì các giống KM 98-1, KM 98-5, KM 98-6 đạt năng suất tinh
bột là 12,41; 13,02 và 13,69 tấn/ha. Tỷ lệ tinh bột trong củ sắn tươi ở các tháng 4, 6,
8, 10, 12 sau khi đặt hom tương ứng là: 3,0; 16,5; 20,0; 21,0 và 28,0% (Hoài Vũ,
1980) [51]; (Đinh Văn Lữ, 1972) [29]. Theo các tác giả như Hồi Vũ (1980) [51];
Bùi Thị Bn (1985) [3] thì thu hoạch sắn sau khi đặt hom 10-12 tháng là lúc củ sắn
có tỷ lệ tinh bột cao nhất. Nếu để qua thời gian 12 tháng, tỷ lệ tinh bột giảm nhưng
tỷ lệ protein thô và xơ thô tăng lên.
Một số giống sắn của Việt Nam có tỷ lệ tinh bột cao hơn các giống có tỷ lệ cao
nhất trên thế giới. Ví dụ: Giống sắn vỏ vàng của nước ta có tỷ lệ tinh bột là 34,20% và
cao hơn 2,09% so với giống sắn Soliđa Balanca của Colombia (một trong những giống
sắn cho tinh bột cao nhất thế giới) (Hoài Vũ, 1980 [51]).
8
Theo Hutaga-Lung (1973); Sheswell (1978) (Trích theo P.Silvestre, 1990 [34])
thì trong VCK của củ sắn có tới 80-90% dẫn xuất không đạm. Trong dẫn xuất
không đạm, xơ thô chiếm 3,2-4,5%, tinh bột chiếm 80%. Trong tinh bột của sắn có
khoảng 20% amilose và 70% amilopectin Johnson (1965) và Raymon (1965) (Trích
Maner J.H, 1987 [92]).
Theo nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước như: Best (1992) [57];
Trần Ngọc Ngoạn (1990) [32]; Phạm Văn Biên (2002) [58] thì tỷ lệ protein trong củ
sắn thấp và thường dao động từ 1,47 đến 5,18% tuỳ theo giống, địa điểm trồng, thời
gian thu hoạch và phương pháp chế biến bảo quản củ. Theo Từ Quang Hiển và cs
(1998) [16] thì củ của các giống sắn bản địa của Việt Nam chỉ có protein từ 2,44
đến 4,13%. Các giống sắn có tỷ lệ protein cao thường từ 3,78-4,61%, các giống có
tỷ lệ protein thấp chỉ từ 2,4%-2,75% (Nguyễn Nghi, 1984 [30]).
Tỷ lệ acid amine trong củ sắn cũng được nhiều người nghiên cứu xác định.
Theo Phạm Sỹ Tiệp (1999) [47] tỷ lệ acid amine không thay thế của củ sắn thấp và
không cân đối. Hầu hết các acid amine không thay thế trong củ sắn đều có thang giá
trị hóa học thấp từ -33,50 đến - 71,8%. Tỷ lệ glycine và agrinine quá cao: + 63,3%
và 80,8%. Các tác giả khác như Maner (1973) và Creswell (1978) (Trích theo
Maner J. H (1987) [92]) cho biết tỷ lệ acid amine trong củ sắn thấp và không cân
đối: Tỷ lệ lysine và triptophan trong củ sắn chiếm 1,55 và 8,50% trong protein, còn
methionine và cystine rất thấp, tương ứng là 0,33% và 0,25% trong protein, tỷ lệ
này thấp hơn rất nhiều so với tiêu chuẩn của FAO là 2,2%.
Tỷ lệ lipit trong củ sắn thấp, chỉ đạt 1,6-1,8% so với vật chất khơ (trích Gomez
G, 1979 [74]). Theo Nguyễn Văn Thưởng (1992) [46] thì tỷ lệ lipit trong củ sắn
Việt Nam đạt cao hơn, tỷ lệ này thường dao động từ 2-2,5% trong vật chất khô. Tuy
nhiên kết quả phân tích của Phạm Sỹ Tiệp (1999) [47] thì tỷ lệ lipit thơ trong củ sắn
là rất thấp chỉ từ 0,15 đến 1,74%.
Chất khoáng trong củ sắn cũng tương đối thấp. Theo Phạm Sỹ Tiệp (1999)
[47] thì tỷ lệ Ca đạt từ 0,11-0,25%, P đạt 0,08-0,12% trong vật chất khơ. Trong các
thành phần khống thì K chiếm tỷ lệ cao nhất trong củ sắn, thường từ 0,57-0,58%
trong vật chất khơ. Theo tác giả trên thì tỷ lệ Co, P, K, Zn, Mn, Cu tính theo VCK
9
trong củ sắn rất thấp so với nhu cầu của gia súc. Do đó, khi sử dụng nhiều sắn trong
khẩu phần ăn phải chú ý bổ sung các nguyên tố trên.
b. Thành phần hoá học và giá trị dinh dưỡng của lá sắn
Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Thưởng (1992) [46]; Từ Quang
Hiển (1982) [14], Pham Van Bien (2002) [58] thì lá sắn có thành phần các chất dinh
dưỡng khá phong phú. Mặc dù hàm lượng tinh bột rất ít (từ 1,8 đến 3,2%), tỷ lệ
DXKN của lá có từ 3,7-6,4%. Từ lâu, lá sắn đã được coi là một nguồn rau xanh cho
người và gia súc. Theo Bùi Văn Chính và cs (2001) [7] thì trong ngọn lá sắn tỷ lệ
VCK chiếm 25,5%, năng lượng trao đổi là 2549 kcal/kg VCK.
Theo các tác giả trên và một số tác giả khác như Đinh Văn Lữ (1972) [29],
Dương Thanh Liêm (1999) [27], tỷ lệ protein thô trong VCK của lá sắn tương đối
cao, dao động từ 20-29,9%. Còn theo W.S. Alhasan và Odei (1982) (Trích Nguyễn Nghi,
1984 [30]) thì lá sắn giàu protein hơn so với củ sắn, tỷ lệ protein trong lá sắn từ 2332% trong vật chất khơ. Cịn theo Từ Quang Hiển và cs (1998) [16] thì protein
trong lá của các giống sắn bản địa của Việt Nam dao động từ 24,06 đến 29,80%
trong vật chất khơ. Lá của các giống sắn trong nước có tỷ lệ protein cao là Xanh
Vĩnh Phú, sắn Dù, Chuối trắng, KM 60, Chuối đỏ, 205. Theo Liu Jian Ping (2000)
[88] thì bột lá sắn có tỷ lệ protein là 27,50%, cịn chế biến sắn cả cuống thì tỷ lệ
protein giảm xuống còn 20,30%. Tuy nhiên, giống sắn và thời điểm thu lá khác
nhau thì tỷ lệ protein là khác nhau. Tác giả cũng cho biết protein trong lá sắn cao
hơn hẳn các loại cây thức ăn khác, như tỷ lệ protein trong VCK của cỏ hịa thảo là
12,60%; ngơ 11,90% nhưng thấp hơn so với đỗ tương là 45,70%.
Adrian và Peyrot (1970) (Trích theo Job, A.T, 1975) [83]) khi so sánh thành
phần acid amine trong lá sắn với thành phần acid amine trong trứng gà, thấy: Tỷ lệ
acid amine thiết yếu trong lá sắn tương đối đầy đủ và cân đối. Tuy nhiên,
methionine vẫn là yếu tố hạn chế trong protein của lá sắn, tỷ lệ methionin chỉ đạt
1,2g% trong protein, chỉ bằng 67% tỷ lệ methionine trong protein của trứng gà
(3,65g%). Vì vậy, khơng nên sử dụng bột lá sắn khi khẩu phần nghèo methionine.
Theo Phạm Sỹ Tiệp (1999) [47] thì tỷ lệ acid amine trong lá cao hơn trong củ sắn và
cân đối so với trứng gà. Tuy nhiên, tỷ lệ methionin và histidine trong lá cũng thấp,
10
tương ứng là 1,99 và 1,14%. Tỷ lệ lizin trong lá tương đối vao (5,68%) đáp ứng đầy
đủ nhu cầu dinh dưỡng trong 1 kg thức ăn của gia súc gia cầm. Theo Creswell
(1978) (Trích Maner, J. H (1987) [92]; Gomez, G (1983) [75]) thì tỷ lệ lysine trong
lá cao hơn (7,2g) với tiêu chuẩn thức ăn của FAO (4,2g%). Theo Hồi Vũ (1980)
[51] thì protein của lá sắn có đầy đủ và cân đối các acid amine thiết yếu hơn hẳn các
các loại rau tươi khác. Ví dụ: Tỷ lệ lysine, methionine và của lá sắn tươi là 0,34;
0,14; (g/100g). Trong khi đó, rau muống là 0,14; 0,07; rau ngót là 0,16; 0,13; bột cỏ
là 0,102; 0,186; ngơ là 0,48; 0,12. Theo Duong Thanh Liem (1998) [87] thì thành
phần acid amine của bột lá sắn cũng tương tự như của bột cỏ alfalfa.
Adrian và cs (1970) (Trích theo Nguyễn Nghi,1984 [30]) cho biết methionin
thường là yếu tố hạn chế của bột lá sắn, trong khi đo tỷ lệ lysine và arginine trong
protein của lá sắn lại tương đối cao, tương ứng 4,45 và 4,35mg% nếu được bổ sung
methionin sẽ làm cân đối tỷ lệ acid amine trong hỗn hợp và làm tăng tỷ lệ tiêu hóa
của thức ăn. Trong lá sắn tỷ lệ acid amine cao hơn và cân đối hơn so với củ sắn. Tuy
nhiên, yếu tố hạn chế vẫn là methionine và histidine, tương ứng là 1,99 và 1,14%, so
với thang giá trị hóa học chỉ đạt - 47,6 và - 50,4% (Từ Quang Hiển và cs 1998 [17]).
Tỷ lệ vitamin trong lá sắn cũng cao. Theo Hồi Vũ (1980) [53] thì tỷ lệ
caroten trong lá sắn tươi là 3,00mg%, vitamin B1 là 0,25mg %, B2 là 0,66mg %,
PP là 0,66mg %. Đặc biệt, vitamin C trong lá sắn khá cao (295mg%).Theo Từ
Quang Hiển (1983) [15], trong bột lá sắn khơ có chứa tới 66,7mg% caroten. Theo
Dương Thanh Liêm (1998) [87] thì tỷ lệ caroten trong bột lá sắn phụ thuộc quá
trình chế biến, sấy ở nhiệt độ 1000C giữ được caroten cao nhất là 351 mg/kg.
Thành phần khoáng đa lượng và vi lượng của lá sắn nói chung cao hơn so
với củ. Theo Phạm Sỹ Tiệp (1999) [47] thì tỷ lệ khống tổng số của các loại sắn
Xanh Vĩnh Phú, Xanh Hà Bắc, Chuối vỏ đỏ, Chuối vỏ trắng, KM 60, Sắn dù,
205 thường từ 6,60 đến 7,80% trong VCK. Còn các giống sắn H34, 202 lần lượt
là 5,62 và 5,80%. Tỷ lệ Ca từ 0,77 đến 0,91% còn tỷ lệ P từ 0,12 đến 0,28%. Tỷ
lệ Ca dao động từ 0,74-1,13%; P từ 0,25 đến 0,38%; K từ 1,52 đến 1,71%. Trong
lá sắn tỷ lệ Fe và Mn rất cao, tương ứng là 344,0-655,2mg trong 1kg chất khô
(Nguyễn Khắc Khôi (1982) [23]; Ravindran (1984) [100]).
11
c. Độc tố HCN trong sản phẩm sắn
Một trong những yếu tố quan trọng gây hạn chế sử dụng các sản phẩm từ củ
và lá sắn làm lương thực và thức ăn gia súc là trong các bộ phận của cây có chứa
cyanogen glucoside. Đó là Linamaroside và Lotostraloside. Quá trình tổng hợp
Linamaroside từ valin cịn Lotostraloside được tổng hợp từ izoleuxin. Hai chất này
khi thuỷ phân đều tạo ra xeton và axít cyanhydric. Chính vì vậy, axít cyanhydric tự
do hầu như khơng có trong mơ thực vật, mà chỉ tồn tại ở dạng hợp chất liên kết giữa
axetin và axít cyanhydric. Cũng vì thế mà các heteroside nói trên cịn gọi là
glucoside hydroxinitrin.
Theo Nambisan (1985) [96], thì Linamaroside có tên hố học là 2 Hydroxyl-2
Methylpropan-Nitrilaglucoside, có cơng thức C10H17O6N. Cịn chất Lotostraloside
có cơng thức hóa học là C11H18O6N (Trần Ngọc Ngoạn, 2007 [33]). Trong đó,
Linamaroside chiếm từ 93-96% cịn Lotostraloside chiếm 4-7% (Lê Đức Ngoan,
2005 [31]). Nhưng Gomez. G (1991) [77] cho biết: ở sắn, chất Linamaroside chiếm
từ 89-96%, còn Lotostraloside chiếm từ 4-11%.
Lượng độc tố trong sắn rất khác nhau tùy thuộc vào giống sắn. Còn trong cùng
một giống sắn thì ở phần củ sắn, lượng HCN cao nhất ở phần vỏ thịt, sau đó là 2 đầu củ
và lõi sắn; ở lá thì HCN ở lá non nhiều hơn lá già; ở thân thì thân già nhiều hơn thân
non. Ở mỗi phần của cây sắn đều có HCN nhưng có tỷ lệ rất khác nhau, nhưng nằm tập
trung chủ yếu ở phần củ sắn nên người ta chỉ căn cứ vào hàm lượng độc tố HCN
trong củ sắn mà phân chia làm 2 loại: Sắn ngọt (ngọt và không đắng) và sắn đắng
(đắng và rất đắng). Theo Trần Ngọc Ngoạn (2007) [33] thì giống sắn ngọt có từ 3080 ppm HCN trong chất tươi, sắn không đắng có từ 30-180 ppm HCN trong chất
tươi, giống sắn đắng có từ 80-400 ppm HCN trong chất tươi, cịn sắn rất đắng có từ
275-500 ppm HCN trong chất tươi. Theo Sinha và Nair (1968) (Trích P.Silvestre,
1990 [34]) thì sắn ngọt là những giống sắn có tỷ lệ HCN nhỏ hơn 80 ppm trong chất
tươi. Nhóm sắn đắng là những giống sắn có tỷ lệ HCN lớn hơn 80 ppm.
Trong cây sắn, sự phân bố HCN trong các bộ phận khác nhau là rất khác nhau.
Theo Phạm Sỹ Tiệp (1999) [47] thì phân bố HCN được chia ra như sau: các bộ phận
trên mặt đất có 29,3%; trong đó chủ yếu độc tố nằm ở thân là 27,2% còn lại ở lá chỉ
12
có 2,1%. Lượng độc tố ở các bộ phận dưới mặt đất chiếm 70,7% tổng lượng độc tố
trong cây. Trong đó gốc già dưới đất có 8,9% và rễ củ chiếm 61,8%, tập trung chủ
yếu ở vỏ và hai đầu củ sắn.
Theo Oke (1969) [95] thì ở động vật thường gặp 2 triệu chứng ngộ độc HCN
đó là ngộ độc cấp tính làm cho con vật chết rất nhanh và ngộ độc mãn tính con vật
thường có biểu hiện khơng rõ ràng. Theo Lê Đức Ngoan (2005) [31] khi cho ăn liên
tiếp những lượng nhỏ hydrocyanic axít và thường xuyên thì ở gia súc cũng xuất hiện
dấu hiệu ngộ độc, nhưng gan vẫn có khả năng giải độc HCN nhờ vào lưu huỳnh trong
acid amine để tạo ra chất thiociannat ít độc hơn HCN. Maner (1987) [92] cho biết quá
trình sử dụng lưu huỳnh để giải độc làm giảm hấp thu và sử dụng các acid amine
chứa lưu huỳnh (methionine, cystine) và các chất dinh dưỡng khác lấy từ thức ăn như
sulfure, vitamin B12, sắt, đồng và Iode, v.v... sự thiếu hụt này xảy ra ngay cả khi khẩu
phần thức ăn có đầy đủ các thành phần dinh dưỡng trên. P. Slivestre (1990) [34] đã
cho biết: Tỷ lệ độc tố HCN có thể gây chết động vật khoảng 2,5mg/kg khối lượng
cơ thể. Theo Humphreys, 1988 dẫn theo Lê Đức Ngoan (2005) [31] thì liều ngộ độc
tối thiểu là 2-2,3 mg/kg khối lượng cơ thể, còn theo Butler (1973) là 4,4 và Tewe
(1995) là 3,5 nhưng theo Dư Thanh Hằng và cs (2005) [70] thì ở mức 6-15 mg/kg
khối lượng cơ thể vẫn không thấy ngộ độc. Tuy nhiên, theo các tác giả trên thì mức
độ gây ngộ độc cịn tùy thuộc vào dạng glucoside có trong thức ăn giải phóng HCN
nhanh hay chậm và mức độ hấp thu nhanh hay chậm thì ở mức độ này hay lớn hơn
cũng khơng gây ra triệu chứng ngộ độc.
1.1.4.2. Ảnh hưởng của một số phương pháp chế biến đến thành phần hóa học của
củ và lá sắn
a. Một số phương pháp chế biến củ và lá sắn
* Một số phương pháp chế biến củ sắn
Các phương pháp chế biến sắn dựa vào làm khô trực tiếp
* Chế biến và bảo quản sắn lát phơi khô hoặc sấy khô:
Sắn sau khi thu hoạch được rửa sạch, bóc vỏ hoặc khơng. Thái lát thủ cơng
bằng tay hoặc bằng máy. Sau đó sắn được phơi trên sàn, nong, nia, cót... hoặc tốt
nhất là trên sân xi măng. Sau khi phơi khô sắn phải để nguội rồi mới đem cất trữ.
13
* Chế biến sắn khô-nghiền bột
Người ta để cả củ hay thái lát rồi phơi khô hoặc sấy khô trong các lị sấy thủ
cơng hay lị sấy điện. Sau khi sắn khơ thì nghiền thành bột và cất trữ.
* Chế biến tinh bột từ sắn khô:
Củ sắn khô được cắt thành miếng và được nghiền sơ bởi lực ép liên tiếp sao
cho các miếng sắn không bị nghiền quá kỹ. Sau đó khối sắn được ngâm trong nước
để xử lý tách tinh bột.
* Chế biến sắn viên
Đây là phương pháp của Thái Lan. Sắn được rửa sạch rồi nghiền nhỏ sau đó
được ép đùn qua hệ thống trục ngang. Trong quá trình ép sắn bị mất nước và được
ép thành các viên dài từ 1-2cm và bảo quản khi độ ẩm nguyên liệu là 13%.
Các phương pháp chế biến sử dụng nước
* Phương pháp ngâm củ sắn tươi để chế biến bột sắn:
Ở những nơi sẵn nguồn nước, có thể chế biến bột sắn bằng cách ngâm củ sắn
tươi dưới nước 10-15 ngày đến khi của sắn mềm. Sau đó, vớt củ đem phơi khô và
bảo quản nơi khô ráo. Khi sử dụng thì bóc vỏ, lấy bột bên trong.
* Sản xuất tinh bột sắn ướt
Củ sắn phải được thu hoạch và chế biến ngay trong 24 giờ sau thu hoạch để
sản xuất được tinh bột sắn có chất lượng cao nhất. Sắn được bóc vỏ, mài xát sắn
thành bột nhão, lọc bột để tách bã sắn khỏi bột sắn, lắng đọng nước lọc để thu hồi
tinh bột, phơi hoặc sấy tinh bột (có độ ẩm dưới 13%), bảo quản tinh bột trong chum,
vại có nắp đậy kín hoặc túi nilon.
* Chế biến hạt sắn
Từ sắn khô được loại đi cát bụi... và được nghiền thành bột sau đó phun nước
để sản phẩm có độ ẩm khoảng 18%. Hạt sắn được chế biến bằng cách ép trong các
rá sắt có lỗ và làm tăng nhiệt độ lên 820C do đó sắn được hồ hóa và tạo ra các hạt có
khả năng kết dính tốt. Sau đó hạt được thổi gió qua để giảm độ ẩm đi 3-4% và sau
đó bao gói sản phẩm.
* Chế biến bột Tapioca
Từ sắn khơ người ta làm ẩm tới 40-50%, sau đó được rây mịn để tạo viên bột
và có thể gel hóa các hạt, hoặc có thể làm các hạt bằng tay hoặc máy. Tiếp theo là
14
gel hóa viên bột ở 60-800C hoặc dùng hơi nước 1500C thổi vào sản phẩm. Cuối
cùng sản phẩm được sấy bằng khí nóng ở 400C cho đến khi sản phẩm cuối cùng còn
độ ẩm từ 12,5-14%.
Các phương pháp chế biến dựa vào lên men sản phẩm
* Ủ chua củ sắn:
Sắn củ sau khi thu hoạch rửa sạch sau đó nghiền nhỏ và trộn thêm các loại
thức ăn khác. Theo Nguyễn Thị Tịnh thì cứ 100 kg củ sắn ủ chua với 10 kg cám gạo
và 0,5 kg muối ăn. hoặc 70 kg củ sắn ủ với 30 kg dây lá khoai lang và 0,5 kg muối
đem trộn đều sau đó cho vào dụng cụ ủ (túi polietylen hoặc chum vại...). Khối ủ
được nén chặt, đậy kín để tạo điều kiện yếm khí cho sự lên men.
* Làm giàu protein cho ngun liệu sắn:
Sắn khơ được cắt nhỏ có đướng kính từ 2-4mm, làm ẩm đến 45% và hấp. Sau
khi hấp để nguội nguyên liệu xuống 400C, sắn được trộn với dung dịch (Rhizopus
oryzae MUCL 28627) và 3,4g ure; 1,5g KH2PO4; 0,8g MgSO4.7H2O và 22,7g acid
citric tính trên 100g chất khơ. Tạo cho mơi trường có độ ẩm 60%, pH là 3,5 và được
trải đều trên các khay có đục lỗ, đặt trong phịng kín và lên men trong 65 giờ.
* Chế biến bột Mussequè
Đây là phương pháp của Anggola. Sắn tươi sau khi rửa sạch, thái lát và để
thành đống cho lên men trong 3 tuần. Sau đó sản phẩm được nghiền và rây bằng rổ.
Lượng bột ẩm sau khi thu được có thể đem phơi nắng để cất hoặc nướng, rang...
* Chế biến bột Gari
Củ sắn sau khi rửa và bóc vỏ sẽ được sát thành bột và cho vào các thùng để lên
men trong vòng từ 1-3 ngày. Sau đó có thể sử dụng làm thức ăn cho người và gia súc.
b. Một số phương pháp chế biến lá sắn
* Ủ chua ngọn lá sắn:
Theo Nguyễn Xuân Trạch (2005) [48] thì quy trình ủ chua ngọn và thân lá
sắn như sau: Ngọn lá sắn thu về cần phải đập dập phần thân cây và băm nhỏ 3-4
cm. Cứ 100kg ngọn lá sắn cần bổ sung 5-6 kg bột sắn hay cám gạo, cám ngô và
0,5 kg muối ăn.
15
* Chế biến bột lá sắn:
Theo Dương Thanh Liêm (1998) [87] thì bột lá sắn được chế biến như sau: Lá
sắn được thu gom thì loại bỏ hết cuống lá, phơi héo tại ruộng trong một ngày cho
giảm bớt nước. Sau đó lá sắn được tiếp tục phơi nắng trên sân hoặc đưa vào hệ
thống sấy ở nhiệt độ 60-1000C cho khơ dịn. Lá sau khi khơ dịn được đưa đi nghiền
thành bột, trải mỏng bột lá cho bay hơi nước và HCN. Cho bột lá sắn vào bao
nhưng để hở miệng túi sau 2 tuần mới đóng gói để trong thời gian này, HCN tiếp
tục thốt ra ngồi.
* Chế biến cao lá sắn:
Lá sắn được nghiền nhỏ sau đó lọc bỏ bã và đun nước dịch lá sắn ở nhiệt độ
800C, khi thấy có váng nổi lên thì với lấy và loại bỏ nước có thể cho 10-20g axit
citric/100 lít nước dịch lá sắn khi bắt đầu thấy váng nổi lên thì sẽ thu được sản
phẩm triệt để hơn. Sản phẩm thu được có thể sử dụng trực tiếp cho gia súc gia cầm
hoặc xấy khô nghiền bột để trộn vào thức ăn hỗn hợp.
* Phơi khô thân, lá sắn non
Sắn trồng dầy với mục đích để thu lá, sau trồng 3-3,5 tháng thu cắt lứa đầu,
sau đó cứ khoảng 1,5-2 tháng thu cắt một lần. Thân cây sắn còn non, phơi cả thân,
lá sắn (để nguyên cả cây hoặc băm nhỏ trước khi phơi) khi khơ thì đánh đống hoặc
nghiền thành bột để dự trữ.
b. Ảnh hưởng của chế biến đến thành phần hóa học của củ sắn
Theo Nguyễn Thị Hoa Lý và cs (2000) [91] thì khi chế biến củ sắn và bã sắn
bằng phương pháp ủ sẽ làm giảm tỷ lệ độc tố của củ và bã sắn. Ở củ sắn lượng HCN
ban đầu là 131,1 mg/kg thì sau 28 ngày chỉ cịn 25,6 mg/kg cịn sau 100 ngày chỉ
còn 11,5 mg/kg. Đối với bã sắn, hàm lượng HCN ban đầu là 74,6 mg/kg thì sau 28
ngày chỉ còn 23,2 mg/kg và ở 100 ngày là 8,7 mg/kg. Cũng theo tác giả thì sau thời
gian 100 ngày ủ tỷ lệ vật chất khơ có xu hướng tăng ở cả củ và bã sắn ủ, lần lượt từ
37,05 lên 37,5% và từ 16,0% lên 17,7%. Tỷ lệ protein sau khi ủ có xu hướng giảm
từ 0,85% xuống 0,7% và từ 0,48 xuống 0,35% do sự phân giải của vi sinh vật, tuy
nhiên khơng có sự sai khác thống kê về protein trước và sau khi ủ. Riêng tỷ lệ xơ là
giảm có ý nghĩa thống kê với P < 0,05. Tỷ lệ xơ giảm từ 0,98% xuống 0,86% ở củ
16
sắn và từ 1,89 xuống 1,64 ở bã sắn khi ủ yếm khí. Điều này cho thấy ủ yếm khi
khơng làm giảm giá trị dinh dưỡng của sắn.
Theo Hoài Vũ (1980) [51] củ sắn tươi có khoảng 9,72 mg% HCN, dùng
phương pháp thái sợi và phơi khơ thì tỷ lệ HCN chỉ cịn 2,16mg%. Nếu chế biến
thành bột sắn thì tỷ lệ HCN giảm thấp nhất chỉ còn 1,08 mg%. Dùng các phương
pháp ngâm nước, tỷ lệ HCN giảm không đáng kể, đặc biệt nếu sắn khơng được bóc vỏ.
Theo Nguyễn Thị Lộc (2001) [89], củ sắn ủ sau 30 ngày, tỷ lệ VCK tăng từ
37,5 lên 37,8 nhưng sau đó giảm dần, đến 120 ngày là 37,3%. Khi ủ đến 60 ngày thì
pH khối ủ giảm xuống và ổn định ở mức 3,8. Tỷ lệ HCN giảm dần từ 112 mg/kg
khi mới thu hoạch, đến 120 ngày ủ chỉ cịn 44 mg/kg.
Theo tác giả Bùi Văn Chính (1995) [5] thì tỷ lệ gluxit và protein giảm mạnh
cịn tỷ lệ xơ thường tăng trong hầu hết các phương pháp chế biến sắn.
Theo Gomez và cs (1985) [76] thì củ sắn tươi có 35-40% VCK; 1-2% protein
thơ; 1,5-2% xơ thơ 0,2-0,5 mỡ và 30-36% DXKN; Ca là 0,05%; Phot pho là 0,07%
sau khi được chế biến thành bột sắn thì tỷ lệ VCK là 90%; protein là 3,1%; xơ là
3,4%; mỡ là 1,3% và dẫn xuất không đạm tăng lên đáng kể, chiếm 80% trong VCK;
Ca là 0,12% và P là 0,16%.
c. Ảnh hưởng của chế biến đến thành phần hóa học của lá sắn
Theo Nguyen Thi Hoa Ly và cs (2000) [91] thì tỷ lệ HCN trong lá sắn tươi từ
323-340 mg/kg, nhưng sau 28 ngày ủ HCN chỉ còn 68,2-88,4 mg/kg tương ứng
21,1-27,3% so với tỷ lệ ban đầu. Khi ủ lá sắn với muối ăn 0,5% thì sau 28 ngày tỷ lệ
VCK có xu hướng tăng dần từ 25,1% lên 26,8%, cịn tỷ lệ protein và xơ có xu
hướng giảm dần từ 6,84 xuống 6,82% và 4,69% xuống 4,08%. Nếu ủ lá sắn kết hợp
với 5% cám hoặc 5% bột củ sắn thì tỷ lệ VCK đều có xu hướng tăng, tỷ lệ xơ giảm,
nhưng tỷ lệ protein thì ít bị biến động. Cũng theo tác giả này, lá sắn được ủ chua sau
28 ngày thì tỷ lệ VCK tăng lên cịn protein thì có xu hướng giảm. Vật chất khơ tăng
từ 28,73% lên 28,80% cịn protein giảm từ 29,65% xuống 27,40%. Nếu tiếp tục để
lâu hơn nứa đến 56 ngày thì tỷ lệ protein chỉ cịn 23,34%.
Theo Dương Thanh Liêm (1998) [87], lá sắn khi phơi nắng nhanh tại Thái
Lan thì tỷ lệ HCN trong lá là 1270 ppm còn caroten là 121 mg/kg, còn phơi nắng
17
trong nhà thì tỷ lệ HCN trong lá là 526 ppm, cịn tỷ lệ caroten mất đi ít hơn so với
phơi nắng ngoài tự nhiên. Nếu sấy ở các nhiệt độ 60, 80 và 1000C thì sấy ở 1000C tỷ
lệ HCN sẽ giảm thấp nhất và còn lại là 495 ppm, đồng thời lại giữ được tỷ lệ
caroten cao nhất trong các phương pháp (277 mg/kg). Đối với lá sắn Gịn thì tỷ lệ
HCN thấp hơn nhưng tỷ lệ caroten thì cao hơn so với lá sắn Thái Lan. Diễn biến về
HCN và caroten của các phương pháp chế biến phơi nắng ngoài trời, phơi trong
nhà, sấy ở 60, 80 và 1000C cũng tương tự như đối với lá sắn Thái Lan nhưng HCN
ở phương pháp phơi trong nhà chỉ còn 280 ppm và caroten là 251 mg/kg còn sấy ở
1000C thì HCN là 217 và caroten là 351 mg/kg.
Các phương pháp bảo quản khác nhau cũng ảnh hưởng tới tỷ lệ caroten và
HCN của lá sắn. Phơi khô cả lá rồi để nguyên bảo quản tốt hơn nghiền thành bột, vì
HCN giảm nhanh hơn (Dương Thanh Liêm, 1998 [87]).
Theo Bùi Văn Chính (1995) [6] ủ chua có thể làm giảm HCN từ 862,5 xuống
32,5 mg/kg VCK, còn sau phơi nắng 4 giờ thì tỷ lệ này cịn là 260,6 mg/kg. Lá sắn
sau khi phơi khô và nghiền thành bột thì tỷ lệ HCN chỉ cịn 90,2 mg/kg VCK.
Theo Wanapat (1999) [109] thì lá sắn được thu tồn bộ phần ngọn ở thời
điểm 3-4 tháng sau trồng được phơi đến tỷ lệ nước cịn 13,7% thì protein tiêu hóa là
22%, tổng các chất hữu cơ tiêu hóa là 65%. Khi chế biến thành bột có độ ẩm 10%
thì protein tiêu hóa giảm chỉ cịn 18,3%; tổng các chất hữu cơ tiêu hóa giảm 5%.
* Nhận xét chung:
Bột củ sắn có hàm lượng năng lượng cao từ 3087 đến 3196 kcal/kg VCK,
nhưng tỷ lệ protein thấp từ 1,47 đến 5,18%. Bột lá sắn có hàm lượng năng lượng
thấp chỉ trên dưới 2549 kcal/kg VCK; nhưng tỷ lệ protein cao từ 23-32%; trong
VCK các acid amine tương đối đầy đủ và cân đối. Cả củ và lá sắn đều chứa độc tố
HCN, đó là một yếu tố hạn chế cho việc sử dụng củ và lá sắn làm thức ăn chăn nuôi.
Hàm lượng HCN trong củ sắn tươi từ 30 đến 400 ppm, còn trong lá sắn tươi từ 323
đến 1270 ppm. Lượng độc tố có thể gây độc cho vật ni là từ 2-2,5 mg/kg khối
lượng cơ thể 1270 ppm.
Đối với củ sắn có thể chế biến bằng phơi khơ trực tiếp hoặc có sử dụng nước
hay bằng phương pháp lên men. Đối với lá sắn có thể ủ chua, phơi khô, làm cao lá...
18
để làm giảm độc tố và tăng chất lượng sản phẩm. Củ sắn sau khi qua chế biến thì
hàm lượng độc tố, protein, gluxit giảm xuống nhưng tỷ lệ xơ thường tăng lên. Đối
với lá sắn sau khi qua chế biến thì hàm lượng độc tố và protein, caroten giảm xuống
cịn tỷ lệ vật chất khơ lại tăng lên.
1.2. Ảnh hưởng của một số kỹ thuật canh tác tới sản lượng và chất lượng của
củ và lá sắn
1.2.1. Mật độ trồng của các phương thức trồng sắn khác nhau
Mật độ và khoảng cách trồng sắn đã được nhiều nhà khoa học trên thế giới
tiến hành nghiên cứu. Weite (1987) [113] cho rằng mật độ trồng sắn phụ thuộc vào
rất nhiều các yếu tố như: loại đất, mùa vụ trồng, đặc tính phân cành, sự hình thành
lá của giống... Đối với đất có độ phì cao thì trồng sắn với mật độ thưa, đất nghèo
dinh dưỡng thì trồng với mật độ dầy. Cịn theo đặc tính phân cành, lá thì giống phân
cành nhiều, thân lá phát triển nhanh trồng với mật độ thưa và ngược lại. Weite
(1992) cho biết mật độ trồng thích hợp với các giống sắn ở phía Nam Trung Quốc
thay đổi từ 10.000-15.000 cây/ha (Trích Nguyễn Viết Hưng, 2006) [19].
Theo tác giả Villamayor (1983) [107] mật độ trồng sắn chịu ảnh hưởng bởi
các đặc điểm về hình thái của giống. Nếu giống sắn nào phân nhánh ít và có tán gọn
thì năng suất ít bị ảnh hưởng bởi khoảng cách, mật độ trồng. Trái lại những giống
có khả năng phân cành cao, thân lá phát triển nhiều thì trồng với mật độ cao, năng
suất sẽ giảm. Mật độ trồng sắn thích hợp có thể thay đổi từ 13.000-20.000 cây/ha.
Tại Malayxia và Indonexia, nhiều tác giả đã nghiên cứu và cho biết mật độ trồng
sắn thích hợp với những giống sắn có thân lá phát triển mạnh và phân nhánh nhiều
là từ 10.000-12.000 cây/ha sẽ cho năng suất cao nhất.
Theo Trần Ngọc Ngoạn (2007) [33] nếu quần thể lá rậm rạp, các lá phía dưới
bị che khuất thì dinh dưỡng do cây đồng hóa phải sử dụng để duy trì sự sống từ đó
làm giảm dinh dưỡng tích lũy ở củ dưới dạng tinh bột, đó là các giống có tiềm năng
năng suất khơng cao. Nếu trồng sắn thuần, với các cây có chiều cao cây trung bình,
thân thẳng khơng phân cành, có thể áp dụng mật độ trồng 12.500 cây/ha, ngược lại
nên trồng mật độ 10.000 cây/ha. Theo tác giả Ociano (1980) [94] thì khoảng cách
trồng sắn thích hợp nhất đối với giống sắn có mức độ phân cành ít, thân gọn là
17.700 cây/ha.
19
Các tác giả khác nhau khi nghiên cứu về mật độ trồng giống sắn KM 94 ở
Việt Nam đã thông báo kết quả như sau: theo Nguyễn Hữu Hỷ (1997) [20] khi
nghiên cứu trồng sắn KM94, KM60 tại Đồng Nai với các mật độ 8.000; 10.000;
12.345; 13.840; 15.625 và 17.774 cây/ha thì tác giả cho biết KM94 nên trồng với
mật độ từ 10.000 đến 15.625 cây/ha, cịn giống KM60 thì trồng với mật độ từ
10.000 đến 17.778 cây/ha. Nhưng vào năm 2001, khi trồng vào đầu mùa mưa trên
đất đỏ ở vùng Đông Nam Bộ với mật độ là 10.000 cây/ha, khi tăng mật độ lên
17.780 cây/ha, năng suất giảm dần từ 30,10 tấn/ha xuống còn 27,28 tấn/ha đối với
giống KM94, còn giống KM60 năng suất giảm dần từ 26,28 tấn/ha xuống cịn 22,28
tấn/ha; trên đất xám thì trồng 11.080 cây/ha cho cả 2 giống KM94 và KM60 sẽ đạt
năng suất và hiệu quả kinh tế cao. Theo Nguyễn Viết Hưng (2006) [19] khi trồng
sắn KM94 ở Sơn Dương, Tuyên Quang thì mật độ trồng 15.625 cây/ha cho năng
suất sinh vật học cao nhất từ 78,74 đến 91,71 tấn/ha/năm, sau đó đến mức trồng
10.000 cây/ha là 58,40 đến 64,50 và thấp nhất ở mức trồng 8.333 cây/ha là 59,99 và
62,32 tấn/ha/năm. Theo Lại Đình Hịe (2005) [18] thì mật độ trồng sắn KM 94 thích
hợp nhất tại huyện Vân Canh- Bình Định là 12.500 cây/ha.
Tác giả Tongglum (1987) [106] cho biết mật độ trồng sắn có ảnh hưởng rất
lớn đến năng suất củ sắn. Mật độ trồng hay khoảng cách trồng phụ thuộc vào từng
giống: Giống Rayong 2 mật độ trồng thích hợp từ 7.000-27.000 cây/ha, cịn giống
Rayong 3 là 10.000-15.000cây/ha.
Rayong Field Crops Research Center, Annual Report, 1979 trích từ Wyllie
(1979) [115] thông báo như sau: ở phương thức trồng sắn lấy lá và lấy lá củ thì
trồng với mật độ 10.000 cây/ha cho năng suất củ là cao nhất.
Wanapat (1997) [109] cho biết trồng sắn lấy lá với mật độ dầy và thu hoạch
lần đầu sau khi trồng 3 tháng còn thu các lần tiếp theo là 2 tháng/lần thì sản lượng
VCK có thể đạt 12,6 tấn/ha/năm.
Wanapat (2002) [110] khi thử nghiệm trồng 16 dòng sắn với mật độ 27.778
cây/ha để thu cắt lấy lá thì cho sản lượng VCK qua 3 lứa cắt từ 4,043 đến 7,768
tấn/ha/năm. Còn khi trồng 25 dòng sắn khác với mật độ 111.111 cây/ha thì cho sản
lượng VCK dao động từ 2,651 đến 8,239 tấn/ha/năm.
20
Atchara Limsila (2002) [55] tổng hợp các kết quả nghiên cứu về khoảng cách
cắt từ 1977 đến 1979 về dòng sắn Rayong 1, tác giả cho biết người ta có thể trồng
sắn với nhiều mật độ khác nhau như 62.500; 50.000; 40.000; 31.250; 20.000;
10.000 cây/ha. Các kết quả nghiên cứu đều cho thấy sản lượng đạt từ 6,94 đến 8,85
tấn lá tươi/ha/năm và khơng có sự sai khác thống kê có ý nghĩa giữa sản lượng lá
tươi được trồng với mật độ khác nhau.
Theo Cadavid (2002) [62] thì trồng sắn CMC 92 lấy lá tại Colombia có mật độ
từ 20.000 đến 62.000 cây/ha thì sản lượng chất khơ thu được khoảng trên dưới 24
tấn/ha/2 năm. Theo Bernardo Ospina thì trồng sắn lấy lá đối với giống CM 4843-1
với mật độ 11.200 cây/ha ở vùng đất xám pha cát có thể thu 24,45 tấn VCK/ha/năm
(91,4 tấn tươi); giống sắn CM 2758 với mật độ 112000 cây/ha trong 2 năm có thể
thu 83,01 tấn chất tươi/ha; giống CM 523-7 là 86,81 tấn chất tươi/ha; giống MCol
2737 là 102,9 tấn/ha. Nhưng trồng dòng HMC 1 với mật độ 48.000 cây/ha đạt 98,2
tấn chất tươi/ha/11 tháng. Ông cũng kết luận trồng sắn lấy lá có thể trồng vơi mật
độ từ 48.000 đến 112.000 cây/ha với khoảng cách cắt là 3 tháng/lần, sản lượng lá
thu được khoảng trên dưới 100 tấn/ha. Tuy nhiên, ở mật độ này thu hoạch rất khó
khăn và cây thường bị tổn hại trong quá trình thu hoạch. Nên trồng với mật độ
48.000 cây/ha sẽ thuận lợi hơn. Cần lưu ý là sản lượng chất tươi nói trên bao gồm
cả thân, cành, lá sắn. Ở các thông báo khác; sản lượng lá sắn thấp hơn nhiều so với
thông báo nêu trên là vì sản lượng này chỉ có riêng lá, khơng bao gồm thân, cành,
ngọn sắn.
Li Kaimian (2002) [85] khi nghiên cứu các mật độ trồng sắn lấy lá ở Trung Quốc
với các mật độ 27.778; 15.625; 10.000 cây/ha, cho biết sản lượng VCK đạt cao nhất
ở mật độ trồng 15.625 cây/ha là 3,04 tấn/ha.
Nguyễn Hữu Hỷ (2002) [20] khi nghiên cứu khoảng cách trồng đối với các
giống KM94, KM140-2; KM98-5 và SM937-26 với các mật độ 12.345 cây/ha và ở
24,690 cây/ha và thu lá 3 lần vào các thời điểm 5 tháng, 7 tháng sau trồng và lần
cuối vào lúc thu hoạch củ. Kết quả cho thấy giống KM98-5 cho sản lượng VCK của
lá cao nhất ở mật độ 24,690 cây/ha, sau đó đến giống KM 94 nhưng sản lượng củ
thì ngược lại. Sản lượng củ và lá của các khoảng cách khác đều thấp hơn, trừ sắn
KM140-2 có sản lượng củ cao nhất trong các giống sắn.
21
Theo Wargiono (2002) [112] thì năng suất lá phụ thuộc vào số lần thu hoạch
lá. Theo ông trồng sắn với mật độ 8.000 cây/ha thu hoạch lá hàng tuần từ tháng 3
đến tháng 7 (4 tầng lá/lần thu) sẽ cho năng suất cao nhất còn tiếp tục thu từ tháng
thứ 7 trở đi sẽ làm giảm năng suất của củ.
Theo Rayong Field Crops Research Center, Annual Report, 1979 trích theo
Wyllie (1979) [115] cho rằng trồng sắn lấy lá với mật độ 31.250 cây/ha đạt sản
lượng lá và củ cao nhất.
Theo Wagiono (2002) [112] người ta thường trồng sắn xen với các cây trồng
khác với mật độ 5.000 đến 10.000 cây/ha, còn trồng thuần sắn với mật độ 10.000
đến 12.000 cây/ha.
Theo Wanapat (1997) [108] thì trồng xen sắn với mật độ 60 x 40 cm (41668
cây/ha) vào giữa hàng của cây keo giậu sẽ cải thiện được dinh dưỡng đất đồng thời
lại vừa cung cấp thức ăn cho người và động vật.
Theo Trần Ngọc Ngoạn (2007) [33] thì trồng sắn xen với lạc với mật độ trồng
sắn là 1,2 x 0,8 m (10.417 cây/ha) và lạc được trồng xen 2-3 hàng gữa hai hàng sắn
sẽ cho năng suất tốt nhất.
Theo Nguyễn Thế Đặng và cs (1999) [9], trồng lạc 1, 2 đến 3 hàng xen giữa 2
hàng sắn; sắn được trồng với các mật độ lần lượt là 1,0 x 0,6m (16.667 cây/ha); 1 x
0,8m (12.500 cây/ha) và 1,2 x 0,8 (10.417 cây/ha) thì cơng thức 16.667 cây/ha cho
sản lượng sắn cao nhất và cho hiệu quả kinh tế nhất. Do đó, nơng dân thường hay
lựa chọn mật độ này sau đó đến mật độ 12.500 cây/ha.
Theo Lê Sĩ Lợi (1999) [28] khi trồng giống KM60 xen với lạc thì ở mật độ
trồng sắn là 16.667 cây/ha và 12.500 cây/ha được xen lần lượt là 1 và 2 hàng lạc sẽ
cho năng suất củ cao nhất.
1.2.2. Vai trò và lượng phân bón cho sắn
Thái Phiên và cs (1998) [35] chỉ ra rằng: Độc canh sắn làm cho đất bị thối
hóa, tăng độ chua của đất, hàm lượng mùn trong đất giảm làm độ phì cũng như lý,
hố tính của đất bị suy giảm dẫn đến giảm năng suất. Hàng năm cây sắn đã lấy đi
một lượng dinh dưỡng khá lớn so với các cây trồng khác. Theo Reinhardt (2000)
[36] thì để tạo ra 15 tấn sắn củ tươi và từ 15-18 tấn thân, lá thì cây sắn phải lấy một
22
lượng dinh dưỡng trung bình là 74 kg N, 16 kg P, 87 kg K, 27 kg Ca và 12 kg Mg.
Theo Howelerc (1999) nếu thu hoạch củ tươi và cả các bộ phận thân lá thì đã lấy đi
75% N, 92% Ca, 76,% Mg mà cây sắn lấy được trong quá trình sinh trưởng.
Mặt khác, đất trồng sắn thường bị xói mịn làm mất đi nguồn dinh dưỡng của
cây, do vậy cần phải áp dụng các biện pháp kỹ thuật bón phân để duy trì sản xuất
sắn bền vững.
Như vậy, nếu khơng có sự quan tâm hợp lý về dinh dưỡng đất sẽ làm cho đất
giảm tỷ lệ mùn, tăng độ chua, tăng q trình rửa trơi đất và đất trồng sắn sẽ dần bị
cạn kiệt về dinh dưỡng. Từ thực tế trên, để bón phân có hiệu quả, phải hiểu rõ đặc
tính và mức bón của từng loại phân bón cho sắn. Chúng tơi xin đưa ra một số thơng
tin về mức bón một số loại phân bón ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng sắn
như sau:
1.2.2.1. Phân đạm
Tỷ lệ nitơ tổng số trong đất khoảng 0,05-0,25 %, phần lớn nitơ nằm trong các
hợp chất hữu cơ (chiếm 5 % trong mùn), do đó, đất càng giàu mùn thì nitơ tổng số
càng nhiều (Cao Liêm và cs, 1975) [26].
Đạm cần cho cấu tạo các vật chất hữu cơ, đặc biệt trong phát triển thân, cành và
lá sắn non. Theo Nguyễn Vy và cs (2006) [52] đạm có trong thành phần protein, các
acid amine và các hợp chất khác tạo nên tế bào. Đạm có trong thành phần chất diệp lục,
nguyên sinh chất, ADN, ARN, nơi khu trú các thông tin di truyền của nhân bào và các
men của cây (Ngô Thị Đào và cs, 2007) [8].
Cây sắn phản ứng mạnh với phân đạm, nhưng mức độ này cịn phụ thuộc vào
các phân bón khác bón theo, đặc biệt là kali.
Cây được bón đủ đạm, lá có mầu xanh tươi, sinh trưởng khỏe mạnh
(Đào Văn Bảy và cs, 2007) [1]. Đủ đạm, chồi búp, cành lá cây phát triển nhanh.
Theo Duangpatra (1987) [71] thì đạm là nguyên tố rất cần thiết đối với sinh
trưởng và phát triển của cây sắn. Cây sắn hấp thu một lượng N rất lớn từ đất, nên
bón đạm làm tăng số lá trên thân, số đốt, số rễ củ và năng suất củ. Tuy nhiên, bón
đạm làm giảm tỷ lệ tinh bột chứa trong củ. Sắn phản ứng với đạm rất mạnh, nhất
là trên các loại đất nghèo dinh dưỡng. Hàm lượng N trong thân lá tăng khi mức
bón đạm tăng.
23
Theo Howeler (1997) nếu bón dư thừa phân đặc biệt là đạm đối với một số
giống sắn có tốc độ sinh trưởng nhanh sẽ dẫn đến thân lá phát triển nhiều, năng
suất sinh vật cao, tỷ lệ tinh bộ trong củ giảm làm năng suất củ tươi giảm, tăng tỷ lệ
HCN, chỉ số thu hoạch thấp. Bón quá nhiều đạm có thể làm thân, lá tăng 11% nhưng
lại làm giảm năng suất của củ tới 41% (Trần Ngọc Ngoạn, 2007) [33]. Việc cung cấp
dư thừa đạm dẫn đến cây sắn phát triển rất mạnh về thân lá, tỷ lệ nước trong lá
cao, không bào lá lớn, lá non hơn dẫn đến cây sắn dễ bị sâu bệnh phá hoại. Bón
phân N dư thừa sẽ làm tăng giá thành sản xuất và đôi khi làm giảm năng suất dẫn
đến hiệu quả kinh tế thấp. Chính vì vậy duy trì việc cung cấp dinh dưỡng cân đối
cho cây sắn là rất cần thiết để đạt năng suất cao.
Nếu thiếu đạm, khả năng sinh trưởng của cây giảm rõ rệt, thân, cành, lá nhỏ, lá
có mầu vàng. Lúc này, lá già sẽ chuyển đạm nuôi các lá non nên lá già rụng sớm. Cây
thiếu đạm buộc phải hoàn thành chu kỳ sống nhanh, thời gian tích lũy ngắn, năng suất
củ và lá giảm rõ rệt.
Lượng đạm bón tối ưu tùy thuộc vào đất và giống sắn. Để bảo đảm bón cho sắn
cân đối dinh dưỡng lượng N bón cho sắn thường được bón trong tổ hợp phân N. P. K,
nhiều tác giả đã nghiên cứu và có những kết quả về mức bón N/ha như sau:
Những kết quả nghiên cứu khác nhau tại Ấn Độ, Thái Lan, Indonexia,
Philippin và Trung Quốc cho thấy bón cân đối N. P. K với tỷ lệ 2:1:2 và 2:2:4 có
thể làm tăng năng suất sắn lên 48% và nâng cao được tỷ lệ tinh bột so với khơng
bón, đồng thời có thể duy trì được độ phì của đất. Cũng theo các kết quả nghiên cứu
tại các quốc gia này thì mức bón N từ 60 đến 100 kg N/ha. Cịn ở Malayxia, với
nhiều cơng trình nghiên cứu trên đất than bùn, tiến sĩ Lian cho biết bón N thích hợp
cho sắn là từ 150 đến 250 kgN/ha.
Trần Công Khanh và cs (1998) [22] cho biết trên đất nâu đỏ ở Bình Long bón
phân N cho sắn có hiệu lực rõ rệt so với khơng bón phân, ở mức bón N cho 1 ha là
160 và 120 kg/ha đem lại hiệu quả cao nhất.
Theo tác giả Lê Hồng Lịch và cs (2000) [25] ở những vùng đất phiến thạch sét
và đất bazan nâu đỏ tại Đắc Lắc, lượng phân N bón cho sắn là 70 kg/ha, cịn đất đỏ
và đất xám ở miền Đơng Nam Bộ, thì mức bón phân N thích hợp cho sắn từ 80 đến
160 kg/ha đạt năng suất củ và hiệu quả kinh tế cao nhất.
24
Theo Lozano (1981) [90] thì bón đạm cho những vùng đất cát thường từ 50100 kg/ha/năm và phải bón vào thời điểm trồng và sau trồng từ 2-3 tháng. Nếu sắn
sinh trưởng sau khoảng thời gian chịu lạnh hay sau khoảng thời gian bị khơ hạn kéo
dài thì nên bón lượng phân đạm gấp đôi.
Theo Hung (2002) [81] khi nghiên cứu ảnh hưởng của tỷ lệ N khác nhau trong
9 năm với các mức N là 0, 40, 80, 160 đến sản lượng sắn khi phân bón nền P. K giữ
nguyên ở mức 40: 80 thì sản lượng trung bình của củ sắn cao nhất ở mức bón 80 N
là 17,1 tấn/ha.
Nguyễn Thế Đặng (2005) [12] khi nghiên cứu tổ hợp N.P.K cho nương sắn
độc canh thì ở năm thứ 14, đạm vẫn là nguyên tố dinh dưỡng ảnh hưởng mạnh đến
khả năng sinh trưởng và phát triển của 2 giống sắn. Trên nền P. K là 40-80 bón
nhiều N làm suy giảm năng suất và các chỉ tiêu sinh lý khác của cây sắn thí nghiệm.
Bón đạm cho giống Xanh Vĩnh Phú từ 0-110 kg N còn KM60 từ 0-130 kg N/ha; kết
quả cho thấy năng suất cao ở các mức bón đạm cao. Nhưng bón cao hơn mức này
thì các chỉ tiêu cấu thành năn suất khơng tăng mà giảm đi rõ rệt.
Tác giả Sittibusaya (1984) [104] cho biết hơn 100 thí nghiệm trên đồng ruộng
của nơng dân tại Thái Lan và Trung Quốc đều cho thấy cây sắn phản ứng mạnh với
mức bón phân đạm từ 50 đến 200 kg N/ha, nhưng cũng có sự khác nhau tuỳ theo
giống (giống SC205 phản ứng với mức bón 200kgN/ha còn giống SC201 ở mức
50kgN/ha).
Theo Wargiono và cs (2002) [112] khi trồng sắn lấy lá với mật độ 25 x 25 cm
thì bón đạm ure ở mức 100kg/ha (46 kg N/ha) và bón 1 tấn phân trâu bị/ha cho mỗi
lần thu cắt. Khi trồng với mật độ 60 x 60 cm thì bón 25 kg N/ha/lứa cắt.
1.2.2.2. Phân lân
Photpho là một ngun tố đa lượng đóng vai trị rất quan trọng trong sự sinh
trưởng của thực vật và động vật (Woodhouse và cs, 1973) [114]. Photpho cịn có tác
dụng làm tăng cường phát triển bộ rễ cây (đặc biệt là thời kỳ đầu sinh trưởng). Cây
đủ photpho, bộ rễ phát triển sớm, lông hút xum xuê, là cơ sở tạo bộ rễ vững chắc để
cây hút chất dinh dưỡng và phát triển tốt. (Nguyễn Công Vinh, 2002) [49]. Photpho
giúp cho q trình photphoril hóa cacbonhydrat để hình thành nên tinh bột.
25