Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Dạy học phát huy năng lực đọc hiểu của học sinh thông qua bài cảm xúc mùa thu ( đỗ phủ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (307.28 KB, 25 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG PT NGUYỄN MỘNG TUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

DẠY HỌC PHÁT HUY NĂNG LỰC ĐỌC - HIỂU CỦA
HỌC SINH THÔNG QUA BÀI "CẢM XÚC MÙA
THU"(Đỗ Phủ)

Người thực hiện: Phạm Thị Thương
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực(môn): Ngữ văn

THANH HÓA NĂM 2016
MỤC LỤC


Trang
I. MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1.1. Lí do chọn đề tài...........................................................................................1
1.2. Mục đích nghiên cứu....................................................................................1
1.3. Đối tượng nghiên cứu...................................................................................1
1.4. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................1
II. NỘI DUNG.....................................................................................................3
Chương1. CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI..........................................................................3
1.1. Cơ sở lí luận..................................................................................................3
1.2. Cơ sở thực tiễn..............................................................................................4
Chương 2. DẠY HỌC PHÁT HUY NĂNG LỰC ĐỌC - HIỂU CỦA HỌC SINH
THÔNG QUA BÀI "CẢM XÚC MÙA THU" (Đỗ Phủ)....................................6
2.1. Tiếp nhận văn bản từ thao tác đọc................................................................6
2.2. Ứng dụng thi pháp học..................................................................................6


3. KẾT LUẬN .....................................................................................................17
Kết quả từ việc áp dụng các phương pháp trên....................................................17
Đề xuất.................................................................................................................17
Tài liệu tham khảo...............................................................................................19
PHỤ LỤC.............................................................................................................20
1. Tranh ảnh tác giả, tác phẩm trong chương trình..............................................20
2. Bảng tổng hợp số liệu điều tra học sinh khối lớp D.........................................22


I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hoài Thanh đã nói: “Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có,
luyện những tình cảm ta sẵn có”. Mục đích của việc dạy học văn là để học sinh
cảm thụ được cái hay, cái đẹp mà nhà văn muốn gửi gắm vào tác phẩm của
mình, trên cơ sở đó mà tích hợp giá trị của nhân cách, thanh lọc tâm hồn con
người, nâng đỡ con người. Nhận thức được ý nghĩa quan trọng đó, trong những
năm qua, ngành giáo dục đã có nhiều cải cách quan trọng, đổi mới trên nhiều
phương diện, rõ nhất là về chương trình sách giáo khoa và đặc biệt là phương
pháp dạy học môn Ngữ văn.
Tuy nhiên, trong thực tế dạy học Ngữ văn ở cấp THPT, việc dạy đọc-hiểu
một tác phẩm văn chương còn không ít khó khăn. Đặc biệt là chương trình Ngữ
văn lớp 10, với các tác phẩm văn học trung đại và thơ Đường. Việc tìm ra
phương pháp có thể giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
trong việc cảm, hiểu và yêu các tác phẩm văn chương ấy là thách thức lớn nhất
đối với giáo viên. Nhất là thơ Đường, bộ phận văn học đòi hỏi ở người tiếp nhận
có sự đồng cảm và thấu hiểu sâu sắc cả về vẻ đẹp nội dung cũng như nghệ thuật.
2. Mục đích nghiên cứu
Trong những năm đứng trên bục giảng, bản thân tôi cũng gặp khó khăn
trong việc khơi gợi ở học sinh cảm hứng đối với tác phẩm thơ Đường. Chính vì
thế, với niềm yêu thích riêng đối với thơ Đường và với mong muốn đổi mới

phương pháp dạy học, tôi đã không ngừng nghiên cứu, học hỏi tìm ra giải pháp
để làm sao những giờ dạy đọc-hiểu thơ Đường thật sự hiệu quả, nhất là với các
em học sinh học khối C, D, để có thể phát huy được vốn kiến thức cũng như
niềm đam mê và yêu thích văn chương sẵn có của các em. Qua những năm dạy
học chương trình Ngữ văn lớp 10 , cũng như bồi dưỡng học sinh giỏi, từ mục
đích đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, tôi xin trao đổi kinh nghiệm của
bản thân về một số giải pháp nhằm góp phần giúp học sinh đọc - hiểu thơ Đường
hiệu quả và thiết thực nhất.
3. Đối tượng nghiên cứu
Thơ Đường được đưa vào chương trình Ngữ văn ở cấp THCS và THPT,
tổng số tiết là 7 tiết (THCS: 4 tiết; THPT: 3 tiết), riêng với chương trình Ngữ
văn 10 là 3 tiết. Trong khuôn khổ của đề tài, tôi chỉ đi vào nghiên cứu phương
pháp dạy học phát huy năng lực đọc - hiểu của học sinh thông qua bài "cảm
xúc mùa thu"(Đỗ Phủ)
- Thông qua đề tài này giúp các em học sinh khối C,D có kiến thức sâu
rộng hơn về thơ Đường nói chung và bài "cảm xúc mùa thu" nói riêng.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng thành tựu của nhiều ngành: nghiên cứu văn học, lý luận văn
học, ngôn ngữ học, giáo dục học… trong đó đặc biệt chú trọng vận dụng những

1


thành tựu của những công trình nghiên cứu về thơ Đường, thi pháp thơ Đường
và những thành tựu khoa học về phương pháp dạy học văn.
- Kết hợp điều tra, thăm dò có phân tích thống kê, dự giờ và học hỏi kinh
nghiệm của đồng nghiệp.
- Đúc rút kinh nghiệm từ bản thân trong quá trình giảng dạy môn ngữ văn ở
trường THPT.
- Tham khảo một số tài liệu nghiên cứu về đổi mới phương pháp dạy học

văn.

2


II. NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1.1. Cơ sở lí luận
Dạy học đọc - hiểu tác phẩm văn chương được hiểu là “một quá trình bao
gồm việc tiếp xúc với văn bản, thông hiểu cả nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa hàm
ẩn cũng như thấy được vai trò, tác dụng của các hình thức, biện pháp nghệ thuật
ngôn từ, các thông điệp tư tưởng, tình cảm, thái độ của người viết và cả các giá
trị tự thân của hình tượng nghệ thuật”. Đọc - hiểu là hoạt động duy nhất để học
sinh tiếp xúc trực tiếp với các giá trị văn học. Đọc - hiểu bắt đầu từ đọc chữ, đọc
câu, hiểu nghĩa của từ và sắc thái biểu cảm, hiểu nghĩa của hình thức câu, hiểu
mạch văn, bố cục và nắm được ý chính, cũng như chủ đề của tác phẩm. Lý giải
những đặc sắc về nghệ thuật và ý nghĩa xã hội nhân văn của tác phẩm trong ngữ
cảnh của nó. Trong quá trình học đọc, HS sẽ biết cách đọc để tích luỹ kiến thức,
đọc để lý giải, đọc để đánh giá và đọc sáng tạo, phát hiện. học sinh sẽ học cách
trích câu hay, trích chi tiết, trích ý, học cách thuyết minh, thuật lại nội dung văn
bản đã học”. Hệ thống văn bản được lựa chọn nhằm thực hiện việc đào tạo năng
lực đọc-hiểu, qua đó vừa cung cấp tri thức văn học, văn hóa dân tộc, vừa giáo
dục tư tưởng, tình cảm, vừa rèn luyện kỹ năng đọc, phương pháp đọc... để sau
khi ra trường, HS có thể đọc - hiểu nhiều loại văn bản thông dụng trong đời
sống.
Dạy học Ngữ văn theo yêu cầu đọc - hiểu văn bản, thực chất là hình thành
cho học sinh toàn bộ quá trình tiếp nhận, giải mã văn bản (kể cả hiểu và cảm
thụ), giúp học sinh cách đọc văn, phương pháp đọc - hiểu để dần dần các em có
thể tự đọc được văn, hiểu tác phẩm văn học một cách khoa học, đúng đắn. Vai
trò của người thầy thể hiện ở năng lực tổ chức cho học sinh đọc-hiểu văn bản, từ

đó hình thành cho họ cách đọc - hiểu một văn bản, nhất là văn bản văn học đồng
thời hướng dẫn, gợi mở, tránh nhầm lẫn cho học sinh, chủ yếu là dạy về phương
pháp đọc chứ không đọc hộ, biến học sinh thành thính giả thụ động của mình.
Giáo án của thầy chủ yếu phải là giáo án về phương pháp đọc cho học sinh.
Muốn thế học sinh phải được trang bị trên hai phương diện: những kiến thức để
đọc văn và phương pháp đọc văn. Những kiến thức và phương pháp này chỉ có
thể có được qua việc thực hành trong quá trình đọc văn thông qua các văn bản
tác phẩm cụ thể, tiêu biểu cho các thể loại ở từng giai đoạn lịch sử văn học. Tất
nhiên thông qua hệ thống văn bản tác phẩm tiêu biểu, chương trình cung cấp và
hình thành cho học sinh những hiểu biết sơ giản về lịch sử văn học, lý luận văn
học, tác gia văn học, nhưng đối tượng chính vẫn là văn bản- tác phẩm.
Sách giáo khoa biên soạn theo tinh thần trên là sách phục vụ cho mục đích
dạy văn thực chất là dạy cách đọc - hiểu, cách giải mã văn bản. Trong đó nhấn
mạnh việc coi trọng văn bản với tất cả các biểu hiện cụ thể của hình thức ngôn
từ nghệ thuật; hình thành và rèn luyện kỹ năng phân tích văn học trên cơ sở phân

3


tích ngôn ngữ; từ việc nghiên cứu các văn bản văn học để đạt tới những suy nghĩ
sâu sắc về các cấu trúc văn học và ngôn ngữ…
Như vậy, đọc - hiểu là con đường để dẫn học sinh đến với cảm thụ văn học.
Đó là hình thành xúc cảm, tưởng tượng và gần gũi, “nhập thân” với những gì đã
đọc, nhập thân vào tác phẩm, suy tư về một số các câu chữ, hình ảnh, lập luận và
sống cùng tâm trạng, cảm xúc của nhân vật, nhân vật trữ tình hoặc của tác giả.
Người cảm thụ đồng thời vừa là người tiếp nhận vừa là người phản hồi về tác
phẩm. …Như nhà văn Anh Đức đã tâm sự: “Khi đọc, tôi không chỉ thấy dòng
chữ mà còn thấy cảnh tượng ở sau dòng chữ, trí tưởng tượng nhiều khi dẫn tôi đi
rất xa, vẽ thêu ra lắm điều thú vị”.
1.2. Cơ sở thực tiễn

Thơ Đường là tinh hoa của văn hóa thế giới và là niềm tự hào của nền văn
hóa Phương Đông. Thơ Đường phát triển rực rỡ ở Trung quốc từ thế kỷ thứ VII
đến cuối thế kỷ thứ IX với khoảng 48.000 bài thơ của 2.300 nhà thơ. Trải qua 14
thế kỷ với biết bao thăng trầm, biến cố của lịch sử; đến nay thơ Đường đã ảnh
hưởng khá sâu rộng đến nền văn hóa các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước
lân cận trong đó có Việt Nam.
Việc giảng dạy thơ Đường nói chung và việc giảng dạy bài dạy học phát
huy năng lực đọc - hiểu của học sinh thông qua bài "cảm xúc mùa thu"(Đỗ
Phủ) nói riêng trong chương trình Ngữ văn 10 có những thuận lợi và khó khăn
như sau:
- Về thuận lợi, thơ Đường với đặc điểm nổi bật là ngắn gọn, súc tích, giàu
cảm xúc nên dễ thuộc, dễ nhớ. Nội dung thơ Đường chan chứa tính nhân văn,
những rung động sâu lắng đối với thiên nhiên, tình yêu, tình bạn; hình ảnh con
người trong thơ rất gần gũi và quen thuộc với hình ảnh con người trong thơ văn
Việt Nam. Chính những điều đó đã tạo điều kiện cho các em học sinh dễ tiếp cận
và cảm thụ thơ Đường. Bên cạnh đó, đối tượng là học sinh khối C, D, đa số có
niềm yêu thích và có vốn kiến thức về văn chương phong phú được cung cấp ở
cấp học dưới. Do vậy nhu cầu học văn, nhu cầu được khám phá cái hay cái đẹp
của thơ văn thường nổi trội hơn các em ở khối lớp tự nhiên, cơ bản A. Theo điều
tra khảo sát học sinh các lớp khối D, có 72/96 (75%) học sinh thích học thơ
Đường; 90/96 (93,7%) học sinh cho rằng việc học thơ Đường giúp ích cho việc
cảm thụ văn học trong nước. Như vậy, nhu cầu học tập của học sinh đối với thơ
Đường rất lớn. Một điểm thuận lợi của chương trình thơ Đường nữa là sách giáo
khoa có trích dẫn đầy đủ bản phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ; giới thiệu về tác
giả, có hình ảnh tương đối phong phú nên học sinh và giáo viên có thể tham
khảo, tìm hiểu văn bản trước khi lên lớp. Ngoài ra, hệ thống câu hỏi trong phần
Hướng dẫn học bài mang tính gợi mở, nêu vấn đề, giúp học sinh chuẩn bị bài
tốt, SGK chương trình nâng cao còn có phần Tri thức đọc hiểu giúp học sinh mở
rộng kiến thức, nắm được đặc trưng của thể loại, lí luận văn học…
- Bên cạnh những thuận lợi, việc học và dạy thơ Đường ở trường phổ thông

cũng gặp rất nhiều khó khăn về phía người học và người dạy.

4


Về phía người học, nội dung thơ Đường thường có nhiều điển tích, điển cố,
từ ngữ cổ. Niêm luật thơ Đường khó nên học sinh không cảm thấy hấp dẫn. Thơ
Đường hàm súc, cô đọng nên đôi lúc gây khó hiểu cho học sinh... Mặt khác, bản
phiên âm và bản dịch thơ nhiều khi chưa sát nghĩa, gây lúng túng cho cả học
sinh và giáo viên khi học và dạy thơ Đường. Do khoảng cách về không gian,
thời gian lịch sử và một phần là do khoảng cách về tâm lí học nên việc tiếp nhận
nội dung và ý nghĩa của các tác phẩm thơ Đường rất khó khăn. Học sinh chưa
vượt qua được “rào chắn” của từ ngữ, vì thế chưa thực sự hiểu và rung cảm với
bài học.
Về phía người dạy, chính những điều trên đã ảnh hưởng ít nhiều đến xúc
cảm của giáo viên cũng như học sinh khi đến với những tác phẩm thơ Đường.
Bên cạnh đó số lượng thơ tuy không nhiều nhưng những bài được chọn vào
giảng dạy là tiêu biểu mà việc phân bố thời gian dạy chỉ bốn mươi lăm phút cho
một bài thơ là quá ít, không đủ để phân tích đầy đủ nội dung và thi luật. Chính
do phân phối thời gian giảng dạy trong khuôn khổ tiết học đã được quy định sẵn
như vậy nên giáo viên gặp rất nhiều khó khăn. Sự hạn chế thời lượng của những
tiết học đã khiến cho người thầy không có cơ hội thực hiện một số công việc
nhằm kích thích hứng thú học tập ở học sinh. Thời gian dạy bài thơ"cảm xúc
mùa thu"(Đỗ Phủ) là 1 tiết thì làm sao giáo viên có thể đủ thời gian để truyền
tải kiến thức đầy đủ đến học sinh, buộc giáo viên phải dạy lướt qua nên học sinh
cũng gặp những khó khăn trong việc lĩnh hội tri thức.
Về phương pháp giảng dạy thơ Đường hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, việc
diễn giảng một bài thơ Đường khiến việc dạy học không hiệu quả. Đa số giáo
viên chủ yếu tập trung vào nội dung, nghệ thuật, điển tích, chưa chú ý đến bức
tranh toàn cảnh của thơ Đường trong trào lưu chung của thời đại. Bên cạnh đó

sách tham khảo về phương pháp dạy học thơ Đường vẫn còn thiếu, số lượng
băng hình, tranh ảnh dành riêng cho việc dạy học thơ Đường chưa đáp ứng được
nhu cầu của giáo viên và học sinh. Vì chưa có đủ điều kiện cơ sở vật chất nên
giáo viên thường không sử dụng các hình thức hỗ trợ này. Vài giáo viên tự tìm
lấy tranh ảnh minh họa để sử dụng trong những tiết thao giảng chứ chưa có sự
hướng dẫn cụ thể.

5


Chương 2. DẠY HỌC PHÁT HUY NĂNG LỰC ĐỌC - HIỂU
CỦA HỌC SINH THÔNG QUA BÀI "CẢM XÚC MÙA THU"(Đỗ Phủ)
2.1. Tiếp nhận văn bản từ thao tác đọc
Như trên đã trình bày, đọc - hiểu bắt đầu từ đọc chữ, đọc câu, hiểu nghĩa
của từ và sắc thái biểu cảm, hiểu nghĩa của hình thức câu, hiểu mạch văn, bố cục
và nắm được ý chính, cũng như chủ đề của tác phẩm. Đọc là một trong những
thao tác quan trọng để dẫn dắt học sinh đến với cái hay cái đẹp của bài thơ, nhất
là với thơ Đường. Một trong những nguyên nhân khiến học sinh khó hiểu thơ
Đường là vì khoảng cách về từ ngữ, vốn hiểu biết về văn hóa, văn học. Chính vì
thế, để vượt qua khoảng cách này, giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc thơ
Đường hiệu quả hơn. Bởi thơ là cảm xúc từ trong tâm hồn được bộc bạch ra
thành từ ngữ, mỗi câu, mỗi chữ đều chứa đựng tư tưởng, tình cảm, tấm lòng của
nhà thơ. Không ít giáo viên xem nhẹ việc đọc, để rồi ngay từ đầu đã làm mất đi
không khí văn chương, khiến học sinh khó hiểu thơ ngay từ đầu.
Vậy để có thể có những phút đọc thơ hiệu quả, trước hết giáo viên cần yêu
cầu học sinh đọc trước ở nhà, lập bảng cụ thể ý nghĩa của các từ Hán, điển tích,
điển cố. Bước thứ hai, sau khi giới thiệu sơ lược tác giả và tác phẩm, giáo viên
cần dành ít phút để hướng dẫn học sinh về phương pháp đọc thơ. Để có dễ dàng
hơn trong việc đọc, giáo viên cần giúp học sinh hiểu nghĩa một số từ khó, từ cổ,
điển cố, điển tích qua việc kiểm tra sự chuẩn bị của các em. Khi đọc một bài thơ

Đường cần lắm những yêu cầu về ngắt câu, giọng điệu. Ví dụ: với thơ ngũ ngôn,
cách ngắt nhịp thông thường là 2/3, với thơ thất ngôn, cách ngắt nhịp thường là
4/3 hoặc 2/2/3. Đọc thơ cần có nhịp chậm đều, những điểm cần nhấn để tạo âm
thanh, những từ cần kéo dài để tạo cảm xúc, có những câu có thể đọc nối nhau
với mục đích thể hiện tứ thơ. Sự hướng dẫn cụ thể của giáo viên là một trong
những cách để học sinh tiếp nhận bài thơ nghiêm túc, có tâm thế để đọc diễn
cảm và sáng tạo. Giáo viên cần đọc mẫu một bản phiêm âm, dịch nghĩa hoặc
dịch thơ, và yêu cầu học sinh đọc tiếp. Đó là sự gần gũi trong quá trình “cùng
đọc-hiểu” tạo ra sự liên thông cảm xúc giữa người dạy và người học. Sau khi
đọc thơ, học sinh cần nêu cảm nhận của bản thân về sắc thái biểu cảm của câu,
từ, cảm xúc chủ đạo trong bài thơ, từ hiểu biết của mình về kết cấu của một bài
thơ Đường mà nêu bố cục của tác phẩm.
Với bài thơ "Cảm xúc mùa thu"( Đỗ Phủ) học sinh đọc cả phiên âm,
dịch nghĩa và bản dịch thơ của Nguyễn Công Trứ giọng đọc buồn bâng khuâng
trầm lắng, thiết tha, thể hiện được lòng yêu nước, thương nhà của nhà thơ.
2.2 Ứng dụng thi pháp học trong việc đọc - hiểu thơ Đường vào bài
"Cảm xúc mùa thu"( Đỗ Phủ)
Thành tựu của thi pháp học nghiên cứu về thơ Đường hiện nay đã đóng góp
lớn cho việc nghiên cứu, giảng dạy bộ môn Ngữ văn trong nhà trường. Dạy đọc
- hiểu một văn bản thơ theo hướng thi pháp đem lại nhiều hiệu quả, nhất là với
thơ Đường – nền văn học có đặc trưng thi pháp rõ nét. Khi hướng dẫn học sinh
đọc-hiểu về thơ Đường, cần đưa các em vào bức tranh chung của cả thời đại.
6


Học văn, dạy văn theo hướng thi pháp không chỉ giúp các em nắm được tác
phẩm sâu sắc mà còn cung cấp kiến thức cơ bản để các em có thể đọc-hiểu các
bài thơ Đường khác ngoài sách giáo khoa. Với đối tượng là học sinh khối C, D
thì việc giảng dạy đọc-hiểu văn bản theo hướng thi pháp sẽ giúp học sinh nâng
cao khả năng tiếp nhận văn chương, đặt cơ sở cho việc hiểu, cảm và viết văn.

Đây là mục tiêu quan trọng nhất của việc dạy đọc-hiểu văn chương trong nhà
trường. Chính vì thế, bên cạnh việc tạo không khí văn chương qua thao tác đọc,
giáo viên cần nắm vững thi pháp thơ Đường để giúp học sinh nhận biết vẻ đẹp
của bài thơ và các tác phẩm khác có cùng đề tài, cùng khuynh hướng sáng tác.
Đây là phương pháp trọng tâm khi hướng dẫn học sinh đọc-hiểu về thơ Đường.
Ngoài ra bản thân một bài thơ bao giờ cũng mang dấu ấn thời đại, tư tưởng, tình
cảm và phong cách tác giả. Nó là kết quả của sự tổng hoà các yếu tố ấy. Vì vậy,
nếu dạy thơ Đường mà giáo viên không chắc về kiến thức văn học sử, tác giả,
tác phẩm, thi pháp thơ thời Đường thì lúc dạy sẽ không chủ động, lúng túng
trước học sinh, không thể dấy lên được không khí Đường thi và sẽ làm giảm giá
trị của bài thơ. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tôi xin đề cập đến một số
vấn đề thi pháp thơ Đường cơ bản sau đây.
- Về nội dung:
+ Thơ Đường có nhiều trường phái: Trường phái Điền viên sơn thủy,
trường phái Biên tái; trường phái lãng mạn, trường phái hiện thực. Trong đó tập
trung nhất vào hai khuynh hướng sáng tác là: hiện thực và lãng mạn. Nó là kết
quả của một quá trình lĩnh hội những tinh hoa rực rỡ của đời Đường mà thi ca cổ
trước đó chưa bao giờ đạt đến được. Hiện thực và lãng mạn là hai bộ phận thống
nhất trong một chỉnh thể của thi ca đời Đường góp phần cống hiến to lớn cho
văn học Trung Quốc. Trong đó, nếu Lí Bạch được xem là ‘tập đại thành” của
trường phái lãng mạn thì Đỗ Phủ là người khởi đầu và đặt nền móng cho trường
phái hiện thực trong thơ Đường.
Khi hướng dẫn học sinh đọc - hiểu "Cảm xúc mùa thu"( Đỗ Phủ) , giáo
viên cần giúp học sinh nhận diện rõ bút pháp hiện thực gắn liền với cuộc sống
đời thường của Đỗ Phủ qua việc sử dụng từ ngữ và hình ảnh. .
+ Đề tài trong thơ Đường rất phong phú: Thơ Đường sử dụng đề tài hết sức
rộng rãi, đề tài xã hội, thiên nhiên, lịch sử, cá nhân, đề tài chiến tranh, đề tài
cuộc sống con người xã hội... Đề tài trong bài"Cảm xúc mùa thu"( Đỗ Phủ)
nằm chung trong tinh thần của thời đại
- Về hình thức, các nhà thơ thời Đường thường sử dụng hai thể thơ chính

là cổ thể (cổ phong và nhạc phủ) và cận thể (hay là kim thể, gồm luật thi và
tuyệt cú).
+ Thơ cổ thể không hạn định số câu, số chữ, không phải tuân thủ niêm luật,
đối ngẫu, cách gieo vần, do đó có khả năng biểu hiện được nhiều sắc thái tình
cảm phong phú, mạnh mẽ, cũng như phản ánh được hiện thực phức tạp và đầy
biến động. .
+ Thơ Đường luật (tức thơ cận thể) thì lại tuân thủ niêm luật chặt chẽ. Sự
chặt chẽ về cách luật của thể thơ này tuy có phần gò bó những nó có ưu điểm là
7


cấu trúc nội tại cân đối, âm điệu hài hòa, phù hợp với nhu cầu thể hiện những
tình cảm nội tâm sâu lắng, trầm tư. Sự qui định của luật thi rất chặt chẽ, không
được vi phạm, cụ thể như sau: Một bài thơ phải đạt sáu yêu cầu: niêm, luật, vận,
đối, tiết tấu, bố cục. Giáo viên không cần đi sâu vào yêu cầu về niêm, luật, tiết
tấu, vì sách giáo khoa đã cung cấp trong phần Tri thức đọc-hiểu, mà cần giúp
học sinh nhận diện rõ ý nghĩa và nghệ thuật đối, bố cục của tác phẩm trong quá
trình đọc-hiểu bài thơ.
Về bố cục, bài thơ cận thể thường được chia thành bốn phần: đề, thực, luận,
kết, mỗi phần 2 câu (nếu là luật thi – 8 câu), hoặc khai, thừa, chuyển, hợp (nếu
là thơ 4 câu). Nhưng thực tế thơ Đường không nhất thiết bài nào cũng có bốn
phần như vậy. Đặc biệt nhà phê bình Kim Thánh Thán (đời Thanh) thì chia bài
thơ Đường thành hai phần, ông gọi 4 câu (2 câu) đầu là tiền giải, 4 câu (2 câu)
cuối là hậu giải. Tiền giải thường nêu hoàn cảnh sự tình, cảm hứng sáng tác, hậu
giải thường là cái tình được gói ghém. Ngoài ra còn có cách chia làm 3 phần:
2/4/2. Cách chia này tương đối mới, gần với cách chia bố cục của một văn bản
hiện đại: có 3 phần (mở bài, thân bài và kết bài). Như vậy, khi phân tích bình
giảng bài thơ Đường, giáo viên có thể căn cứ vào nội dung cấu trúc cụ thể của
từng bài thơ để chọn phương án thích hợp.
Với bài thơ "Cảm xúc mùa thu"( Đỗ Phủ) giáo viên có thể chia bài thơ

thành hai phần, 2 câu đầu là cảnh thu, 2 câu cuối là tình thu.
Cả luật thi và tuyệt cú là thơ trữ tình nội tâm, nên khi tâm tình đã được bộc
bạch thì bài thơ kết thúc. Thao tác chia bố cục của bài thơ cần được học sinh
phát hiện và lựa chọn, giáo viên chỉ làm công việc gợi ý, để giúp các em chủ
động trong khi tiếp xúc với một tác phẩm thơ Đường và rèn kĩ năng tự đọc-hiểu
các bài thơ Đường khác.
- Về ngôn ngữ thơ Đường nhìn chung là giản dị, trong sáng, tinh luyện.
Cũng có thể nói đó là sự tinh luyện đến mức giản dị, do vậy khi phân tích thơ
Đường, đừng vì thấy sự giản dị của ngôn ngữ mà xem thường rồi bỏ qua. Cái
độc đáo của thơ Đường chính là sự giản dị đến mức gần như trong suốt ấy. Ngôn
ngữ thơ Đường giàu hình ảnh và cảm xúc là do các biện pháp tu từ tạo ra. Nhiều
khi các biện pháp tu từ xen kẽ chồng chéo lên nhau, làm bật lên cái “tứ” sâu xa
như người ta vẫn thường nói “ý tại ngôn ngoại” (ý ở ngoài lời
Chính điều này cũng ảnh hưởng đến một đặc điểm nổi bật của thơ Đường
là chỉ gợi chứ không tả, thơ nói ít mà ý hàm súc sâu xa. Thơ Đường chỉ có vài
nét chấm phá, nhưng lại hiện ra cả một trời thiên nhiên và tâm trạng. Trong
"Cảm xúc mùa thu"( Đỗ Phủ) bài thơ mang tính cương lĩnh cho tám bài thơ
viết về mùa thu của Đỗ Phủ, cũng được coi là bài thơ thất ngôn bát cú Đường
luật hay nhất ở thời Đường .
- Quan niệm nghệ thuật về con người: thơ Đường có hai kiểu con người
chủ yếu, đó là con người vũ trụ và con người xã hội.
+ Con người là một “tiểu vũ trụ” trong lòng “đại vũ trụ”. Con người xuất
hiện trong tư thế vũ trụ, đứng giữa đất trời “đầu đội trời, chân đạp đất”, hòa hợp
đất trời. Con người trong thơ Đường luôn luôn khát vọng hòa hợp với thiên
8


nhiên, ở giữa đất trời, cảm ứng với đất trời. Con người vũ trụ phù hợp với không
gian vũ trụ - không gian nghệ thuật chính của thơ Đường. “Không gian vũ trụ là
hào khí của thơ Đường nhưng cũng là mối sầu của thơ Đường”. Điều này khiến

con người cảm thấy nhỏ bé, cô đơn giữa vũ trụ mênh mông vô tận. Từ đó con
người luôn khao khát chiếm lĩnh không gian
+ Con người trong thơ Đường còn đặc biệt đề cao cái tâm, được thể hiện rõ
trong đề tài yêu nước. Thơ Đường nói nhiều về hiện thực nhất là thơ của Đỗ
Phủ.
- Về thời gian trong thơ Đường, ta thấy rằng, trong thơ luôn ưu tiên cho
quá khứ và chủ yếu được thể hiện dưới hai dạng: thời gian hoài cổ và thời gian
ký ức. "Cảm xúc mùa thu"( Đỗ Phủ) thời gian được tác giả nhắc tới là mùa
thu lạnh lẽo, hùng vĩ mà hiu hắt, sôi nổi mà nhạt nhòa, hiện diện của nỗi buồn xa
xót trước tình cảnh đất nước và thể hiện nỗi lòng thương nhớ quê hương Chính
điều này đã làm cho thơ Đường mang tính hiện thực và nhân văn.
Những kiến thức về thi pháp thơ Đường trên đây được đưa vào nhằm củng
cố kiến thức thơ Đường cho giáo viên, để giúp học sinh thấy được giá trị của tác
phẩm. Không nhất thiết giáo viên trình bày hết về thi pháp mà cần được lồng
ghép trong quá trình khơi gợi học sinh đọc - hiểu qua các câu hỏi nêu vấn đề.
Đặc biệt, cần phân bố thời gian phù hợp, có thể chỉ cần nhấn mạnh những từ
ngữ, hình ảnh nổi bật. Việc giới thiệu về tác giả và tác phẩm chỉ cần chú trọng
phong cách của tác giả, còn lại đã được giới thiệu trong SGK, giáo viên có thể
để học sinh làm việc với kiến thức ấy ở nhà (tóm tắt văn bản thuyết minh). Khi
hướng dẫn học sinh đọc hiểu tác phẩm, giáo viên chỉ cần nhấn mạnh những chi
tiết tiêu biểu, thể hiện rõ nét đặc điểm thi pháp của bài thơ, không cần đi sâu
khai thác toàn bộ tác phẩm, vì thơ Đường có độ súc tích cao, từ ngữ, hình ảnh
nào cũng mang đậm ý tình.
Bên cạnh đó cần có sự đối chiếu, liên hệ trong quá trình phân tích tác
phẩm. Ta có thể liên hệ: Những bài thơ có những điểm tương đồng, giống nhau
giữa các tác giả. Những nét giống nhau giữa các bài thơ của cùng một tác giả.
Những nét khác biệt nhau về bút pháp và trường phái của các tác giả. Từ sự liên
hệ, đối sánh ấy, giáo viên có thể khái quát đặc điểm về nội dung hoặc về phong
cách của tác giả Đỗ Phủ
Trong quá trình khai thác bài thơ qua thi pháp học, giáo viên cần chỉ ra

được những ảnh hưởng của thơ Đường khi dạy thơ chữ Hán trung đại Việt Nam.
Có thể nói, văn học chữ Hán là một bộ phận chính thống của văn học trung đại
Việt Nam. Nó đã hấp thụ tinh hoa văn học Trung Quốc trên tinh thần Việt hoá,
tạo nên những giá trị văn học đậm đà bản sắc dân tộc. Đối với các nhà thơ trung
đại Việt Nam, thơ Đường có một ảnh hưởng sâu sắc trong cảm xúc và sáng tác
của họ. Những bài thơ Đường bất hủ của các bậc “tiên thơ”, “thánh thơ” như Lý
Bạch, Đỗ Phủ, Thôi Hiệu, Vương Xương Linh…luôn là mẫu mực cho sáng tác
thi ca của họ. Vì thế, trong những thi phẩm trung đại Việt Nam không thể không
có “dấu vết” của các bậc tiền bối ấy cùng với những nét đặc sắc của thơ Đường.
Ứng dụng cụ thể trong bài "Cảm xúc mùa thu"( Đỗ Phủ)
9


Trong khuôn khổ của một giờ giảng văn, giáo viên không chỉ giúp học sinh
khai thác kiến thức mà còn tìm hiểu những giá trị thẩm mỹ của tác phẩm. Nếu
như đặt ra quá nhiều yêu cầu, đưa ra nhiều vấn đề sẽ không phù hợp về mặt thời
gian và trình độ nhận thức của học sinh. Vì thế, với một lượng thời gian như vậy,
chúng tôi thử đưa ra một giáo án có một số câu hỏi mang tính chất gợi mở về
mặt thi pháp thơ Đường cho học sinh cụ thể trong bài"Cảm xúc mùa thu"( Đỗ
Phủ ) như sau:
CẢM XÚC MÙA THU
(Thu hứng - ĐỖ PHỦ)
I - MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT
- Hiểu được tâm trạng buồn rầu của nhà thơ trong cảnh đất nước loạn li :
nỗi nhớ quê hương và nỗi ngậm ngùi xót xa cho thân phận của người xa quê ;
- Biết thêm một khía cạnh và đặc điểm của thơ Đường luật : kết cấu chặt
chẽ, tính cô đọng, hàm súc của hình ảnh và ngôn ngữ thơ.
II - TRỌNG TÂM KIẾN THỨC, KĨ NĂNG
1. Kiến thức
- Cảnh buồn mùa thu và tâm trạng con người cũng buồn như cảnh.

- Qua việc tiếp nhận văn bản, củng cố những kiến thức đã học về hình thức
và đặc điểm nghệ thuật của thơ Đường luật.
2. Kĩ năng
- Đọc - hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại.
- Phân tích cảm hứng nghệ thuật, hình ảnh, ngôn từ và giọng điệu thơ.
III - HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN
1.Ổn định
2. Kiểm tra bài cũ
Câu hỏi: Đọc thuộc bài thơ “Hoàng hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi
Quảng Lăng” và nêu giá trị của tác phẩm?
Trả lời:
- Đọc diễn cảm bài thơ.
- Giá trị: + Nghệ thuật: ngôn ngữ giản dị, hình ảnh gợi cảm, hàm xúc.
+ Nội dung: Ca ngợi tình bạn sâu sắc chân thành của 2 nhà thơ
lớn. Tình bạn rất đáng trân trọng.

10


3. Bài mới:
Hoạt động của GV - HS

Yêu cầu cần đạt

GV: Dựa vào phần tiểu dẫn SGK nêu
những nét chính về nhà thơ Đỗ Phủ?
HS trả lời ->
GV: Là con trai của một quan lại bậc
thấp, thời trẻ ông đựoc tiếp thu nền giáo
dục theo tiêu chuẩn thời đó: học thuộc

các tác phẩm triết học kinh điển Khổng
giáo, lịch sử và thơ ca.
ĐP mồ côi mẹ khi còn nhỏ, sống một
thời gian với người thím. Lớn lên lại lận
đận trong thi cử. Năm 735 ông tới
Trường An dự thi nhưng bất ngờ bị đánh
hỏng. Năm 746 ông tới kinh đô để tìm
kiếm một chức quan, tham gia vào cuộc
thi năm đó nhưng tất cả thí sinh đều bị vị
tể tướng đánh trượt và từ đó ông ko bao
giờ đi thi.
Năm 755, sự biến An Lộc Sơn xảy ra đã
tàn phá xã hội TQ. Nội chiến PK đã làm
cho cuộc sống của nhân dân vô cùng
điêu đứng. Đỗ Phủ phải trải qua một
cuộc sống lưu lạc ko thể định cư lâu dài
ở đâu vì chiến tranh, vì nạn đói cũng
như sự bạc đãi của triều đình.
Trong 11 năm cuối đời, ĐP đưa gia đình
đi lánh nạn khắp các tỉnh phía Tây Nam
TQ: Cam Túc, Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Hồ
Nam. Chính trong những năm tháng
sống lưu lạc ấy khiến ĐP trở thành nhà
thơ đồng cảm với nỗi đau khổ bất hạnh
của người dân thuờng.
Năm 770, ông mất ở Lỗi Dương trên
dòng sông Tương trong đói rét và bệnh
tật để lại cho đời trên 1500 bài thơ.
GV: Thơ ĐP có nội dung gì?
HS trả lời ->

GV: Thơ ĐP thấm máu và nước mắt của
nhân dân trong buổi loạn li. Nếu thơ Lí
Bạch có dòng sông hát ca, chim muông

I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả và sự nghiệp sáng tác
- Đỗ Phủ (712- 770) tự là Tử Mĩ,
quê ở huyện Củng, tỉnh Hà Nam TQ
- Gia đình có truyền thống nho học
và thơ ca.
- Cuộc đời gặp nhiều sóng gió, sống
trong nghèo khổ, và chết trong bệnh
tật.

- Để lại khoảng 1500 bài thơ.
- Nội dung:
+ Bức tranh hiện thực sinh động và
chân xác về xã hội thời Đường ->
11


ríu rít, vầng trăng duyên dáng thì trong
thơ Đỗ Phủ, dòng sông nức nở, vầng
trăng thổn thức và cây cỏ chim muông
câm lặng úa vàng.
Nhà thơ của nhân dân đã cùng nhịp thở
với trăm họ, đứng ở vị trí của những nạn
nhân mà nói lên niềm uẩn ức ko kìm nén
đươc.
GV: Giọng thơ ĐP có gì đặc biệt?

HS trả lời ->
GV: Vị trí của ĐP trong nền thơ ca TQ
và đối với nhân loại?
HS ->

mệnh danh là Thi sử.
+ Niềm cảm thương với nhân dân,
chan chứa tình yêu nước và tinh thần
nhân đạo

- Giọng thơ trầm uất, nghẹn ngào
GV: Gọi là “thi thánh” ko chỉ bởi tâm
hồn cao đẹp mà còn vì NT thơ ca bậc
thầy của ông.
ĐP đựoc HCM đánh giá trong di chúc:
“một người làm thơ rât nổi tiếng”.
Nguỹễn Du tôn vinh: ĐP là “Thiên cổ
văn chương thiên cổ sư” ( Bậc thầy
muôn đời của văn chương)
GV: Năm 765 ĐP rời Thành Đô về Vân
An, năm 766 ông đã đến Quỳ Châu. Tại
đây nhà thơ đã làm chùm thơ “Thu
hứng” gồm 8 bài. Chùm thơ bộc lộ lòng
thương nhớ quê hương sâu sắc của nhà
thơ.
Một nhà phê bình đã nhận xét: “ Bài
thơ này đã bao quát cả 7 bài sau mà nỗi
lòng nhớ quê cũ là chỗ “vẽ rồng chấm
măt”
GV đọc mẫu -> gọi HS đọc.

Chú ý: Giọng chậm, buồn, da diết thể
hiện nỗi buồn tha hương và nỗi nhớ quê
tha thiết.
- Giải nghĩa từ khó.
GV: Đối chiếu phần phiên âm, phần dịch
nghĩa, em hãy nhận xét bản dịch của
Nguyễn Công Trứ?
HS: Nguyễn Công Trứ dịch rất thành
công. Tuy nhiên còn đôi chỗ còn chưa
thật sát với nguyên bản. Cụ thể:

=> Là nhà thơ hiện thực vĩ đại của
TQ, là danh nhân văn hoá thế giới
được tôn là "Thi thánh" ( thánh thơ).

2. Bài thơ “Cảm xúc mùa thu”
-Vị trí: Là bài mở đầu của chùm
thơ Thu hứng gồm 8 bài, được xem
là cương lĩnh sáng tác của cả chùm
thơ.
- Hoàn cảnh sáng tác: Sáng tác năm
766, trong thời gian nhà thơ cùng gia
đình đi chạy loạn ở Quỳ Châu.

12


+ Mây đùn, hạt móc sa.
GV: Em hãy xác định thể loại và bố cục
của bài thơ?

HS trả lời ->- Thể thất ngôn bát cú
Đường luật. Bố cục:
+ Tiền giải (4 câu thơ đầu): Nặng về
cảnh thu
+ Hậu giải (4 bốn câu thơ sau): Nặng
tình thu
Vậy nên chia bài thơ thành 2 phần.
GV gọi 1 HS đọc chính xác, diễn cảm ba II. Đọc hiểu văn bản
phần: phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ.
1. Bốn câu thơ đầu
- Điểm nhìn từ xa, bao quát theo
GV gọi 1 HS đọc bốn câu thơ đầu
chiều rộng.
GV: Em có nhận xét gì về điểm nhìn của * Câu 1,2.
nhà thơ trong 4 câu thơ đầu? ( Gần hay - Hình ảnh:
xa, cụ thể hay bao quát)
+ Rừng phong tiêu điều bi thương
HS trả lời ->
bởi ngập trong sương móc.
GV: Trong 2 câu đầu bức tranh thu hiện
+ Núi Vu, kẽm Vu trùm trong hơi
lên với những hình ảnh nào?
thu hiu hắt, ảm đạm.
HS trả lời ->
GV: Đây là 2 địa danh thuộc thưọng lưu
sông Trường Giang. Nơi này núi non
hùng vĩ, hiểm trở, vánh núi dựng đứng
trùng điệp, ánh mặt trời ít lọt xuống lòng
sông. Thu đến nơi đây càng mù mịt, ảm
đạm.

->Cảnh thu ảm đạm, tiêu điều, bi
GV: Em có nhận xét gì về cảnh thu trong thương
2 câu thơ đầu?
Chuyển: Nêú trong 2 câu đầu, cảnh sắc
đẫm màu bi thương thì 2 câu 3, 4 có gì
khác.
* Câu 3,4.
GV: Em có nhận xét gì về hình ảnh thơ
trong câu 3 và 4? Hình ảnh đó tạo nên - Hình ảnh đối lập: cảnh vật chuyển
bức tranh thu như thế nào?
động dữ dội tạo nên bức tranh thu
HS trả lời ->
vừa hùng vĩ, vừa bi tráng.
Sóng vọt lên tận lưng trời >< Mây sa
sầm …
Thấp -> cao
Cao ->
thấp
GV: Không gian như bị dồn nén đến
ngột ngạt, bất an giữa những làn sóng => Bức tranh thu buồn, bức tranh
vọt từ đáy sông đến tận trời cao. Những mang tâm trạng của con người.
13


làn mây nơi cửa ải bị gió cuốn sa sầm
giáp mặt đất.
Như vậy: Qua 4 câu thơ đầu, cảnh mùa
thu hiện lên có rừng phong nhuốn đỏ, có
núi non, sông nước mây trời nhưng tất
cả vừa hiu hắt ảm đạm, vừa hùng vĩ bi

tráng.
GV: Cảnh thu ấy thấp thoáng tâm trạng
gì của thi nhân?
HS trả lời ->
GV: Cảnh thu trong bài thơ có gì khác
với cảnh thu quen thuộc trong thơ ca
Việt Nam?
HS trả lời:
- Long lanh đáy nước…vàng (Truyện
Kiều) -> cảnh thu đẹp, lung linh huyền
ảo đầy chất thơ.
- Thu điếu (Nguyễn Khuyến) - cảnh thu
thi vị, trong sáng biết bao.
-> Cảnh thu lung linh huyền ảo hay tàn
tạ bi thương, cảnh thu trong sáng hay dữ
dội điêu linh đều xuất phát từ lòng người
ngắm cảnh. Cảnh buồn người có vui đâu
bao giờ.
- Ta có thể so sánh cảnh sắc trong bài
thơ “Tảo phát Bạch Đế” của Lí Bạch
với cảnh sắc trong “Thu hứng” của Đỗ
Phủ, ta càng thấy rõ hơn điều đó.
+ Trong “Tảo phát Bạch đế” cảnh sắc
tươi vui trong sáng, bình minh rực rỡ
màu mây “Sớm từ Bạch Đế rực màu
mây”
+ Trong “Thu hứng” cảnh sắc ảm đạm
bi thương.
Sống trong cảnh đất nước chìm ngập
trong loạn li, bản thân lưu lạc nơi đất

khách, sao nhà thơ có thể vui đây?
Bởi vậy, 4 câu thơ đầu bức tranh thiên
nhiên được vẽ bằng tâm cảnh.

2. Bốn câu thơ sau
( Cảm xúc của thi nhân khi thu về
trên dất khách)
- Từ không gian xa -> dần thu hẹp
về không gian gần -> không gian nội
tâm.

Gọi HS đọc bốn câu thơ sau.
GV: Nhận xét gì về sự thay đổi của tầm
nhìn từ 4 câu thơ đầu đến 4 câu thơ sau?
14


Vì sao lại có sự thay đổi tầm nhìn như
vậy?
GV: Nghệ thuật gì được sử dụng trong 2
câu 5 và 6?
HS trả lời ->
Liên hệ: Đọc thơ của ĐP ta sẽ thấy, thời
kì ngụ cư ở Ba Thục thơ của ông thường
xuất hiện hình ảnh con thuyền. Ví dụ:
“ Môn bạc Đông Ngô vạn lí thuyền”
( Thuyền Ngô muôn dặm đỗ ngay cửa
ngoài)
Có hình ảnh này là bởi vì, từ Ba Thục
muốn về quê ở Hà Nam thì phải đi

thuyền mất nửa chặng đường. Vì vậy
hình ảnh con thuyền vừa là ẩn dụ cho
cuộc đời cô đơn trôi nổi của nhà thơ,
vừa là phương tiện duy nhất có thể gửi
gắm ước nguyện về quê. Con thuyền
mang chở tâm trạng con người.
GV: Em hãy phát hiện các động từ nhiều
hàm ý trong 2 câu thơ này?
HS ->
- Động từ “khai”: hoa nhỏ lệ hay nhà
thơ nhỏ lệ vì thương nhớ quê hương.
- Động từ “buộc”: dây buộc thuyền hay
dây buộc tấm lòng thương nhớ nơi vườn
cũ.
-> Tâm trạng đau đớn quặn thắt vì ko
thể trở về quê hương.
Như vậy 2 câu 5,6 tác giả đã đồng nhất
nhiều sự vật hiện tượng: cảnh và tình,
hiện tại và quá khứ, sự vật với con người
-> Sự liên tưởng thật tài tình và độc đáo.
GV: Hai câu thơ 5 và 6 bộc lộ tâm sự gì
của nhà thơ?
HS trả lời ->
GV: Trong cảm xúc thương nhớ quê
hương da diết, nhà thơ đã cảm nhận
được gì?
HS trả lời ->
GV: Không khí và âm thanh ấy có tác
động gì đến nỗi niềm nhà thơ?
HS trả lời ->


* Câu 5,6.
- Nghệ thuật:
+ Phép đối xứng ( ý, từ, thanh)
+ Hình ảnh ẩn dụ:
. Cúc - mùa thu: nở hoa 2 lần->
tác giả nhỏ lệ vì thương nhớ quê
hương.
. Con thuyền - cuộc đời cô đơn
trôi nổi giữa dòng đời.

=> Tấm lòng thương nhớ quê hương
tha thiết sâu lắng của nhà thơ.
* Câu 7,8.
- Âm thanh tiếng chày đập vải may
áo rét (âm thanh quen thuộc của mùa
thu TQ…)
=> Xoáy sâu vào lòng người nỗi
buồn nhớ quê hương tê tái khôn
nguôi, nỗi ngậm ngùi cho thân phận,
gợi niềm mong ước được trở về quê
hương.
-> Nỗi niềm của hàng triệu người
dân TQ trong cảnh loạn li.

15


GV: Theo em, đó có phải là tâm trạng
của riêng nhà thơ hay ko? Nguyên nhân

nào dẫn đến cảnh ngộ này? Bài thơ còn
có hàm ý gì nữa?
HS ->
Câu thơ còn ngầm ý lên án chiến tranh
PK.
Bài thơ tiêu biểu cho đặc điểm NT của
thơ Đường: đối cảnh sinh tình (lòng
buồn nên cảnh cũng buồn), thu cảnh
cũng chính là thu tâm.
GV: Qua việc phân tích bài thơ, em rút
ra nhận xét gì về giá trị nghệ thuật và ý
nghĩa văn bản?
HS trả lời ->
- Bài thơ là bức tranh thu vừa hiu hắt
vùa hùng vĩ. Qua đó thấy tấm lòng lo
cho đất nươc, nỗi thương nhớ quê hương
và nỗi ngậm ngùi xót xa của nhà thơ.
- Bài thơ ko phản ánh trực tiếp xã hội
mà vẫn có giá trị hiện thực và ý nghĩa
nhân văn sâu sắc.

III. Tổng kết
1. Nghệ thuật
Kết cấu chặt chẽ, hình ảnh đặc
trưng, ngôn từ nhiều tầng ý nghĩa,
giọng điệu và âm hưởng thơ thể hiện
đúng tâm trạng u buồn,...
2. Ý nghĩa văn bản
Bài thơ thể hiện nỗi buồn riêng
thấm thía và tâm sự chứa chan lòng

yêu nước thương đời của tác giả.

4. Luyện tập, củng cố
- GV: Khái quát nội dung cơ bản của bài
5. Hướng dẫn tự học
- Học thuộc lòng bài thơ.
- Kể tên một vài bài thơ cùng đề tài mùa thu của nhà thơ Việt Nam.
* Rút kinh nghiệm :

16


PHẦN III - KẾT LUẬN
1. Kết quả từ việc áp dụng các phương pháp trên
Qua những năm giảng dạy môn Ngữ văn 10, tôi đã liên tục đúc rút kinh
nghiệm từ thực tiễn đứng lớp và kết quả càng ngày càng được cải thiện. Với
phương pháp đọc đã nói trên, tôi nhận thấy không những học sinh ban cơ bản D,
ban C mà ngay với các em học ban A cũng cảm thấy thích thú và tạo được
không khí văn chương cho giờ học. Việc hướng dẫn học sinh đọc - hiểu thơ
Đường theo thi pháp đã giúp học sinh nắm vấn đề sâu sắc và toàn diện, thấy rõ
được cái hay cái đẹp cũng như các đặc điểm như “ý tại ngôn ngoại”, “thi trung
hữu họa”, “thi trung hữu nhạc”, phong cách thơ của từng tác giả đã nói ở trên.
Qua phiếu điều tra khảo sát (sau khi học các bài thơ Đường), kết quả thu được
như sau:
Số phiếu điều tra: 90 phiếu
+ Số HS nêu đúng tên tác giả và tác phẩm thơ Đường: 86/90 (95,8%)
+ Số học sinh hiểu nội dung và nghệ thuật của các bài thơ: 74/90 (83,3%)
+ Số học sinh muốn được học thơ Đường ở chương trình lớp 11: 59/90
(67,7%)
+ Số học sinh hiểu đúng về “ý tại ngôn ngoại”, “thi trung hữu họa” là 54/90

(62,5%)
+ Số học sinh hiểu đúng đặc điểm về không gian nghệ thuật và thời gian
nghệ thuật trong thơ Đường: 58/90 (66,7%)
2. Đề xuất
- Cần thành lập câu lạc bộ Văn học của nhà trường để học sinh tham gia
tích cực hơn. Giáo viên khối lớp 10 có thể giúp CLB tổ chức được các buổi sinh
hoạt theo chuyên đề: “Hiểu và cảm thơ Đường”, để việc giao lưu học hỏi về thơ
Đường đem lại nhiều hiệu quả trong việc dạy và học.
- Đồ dùng dạy học cho chương trình Ngữ văn 10 chưa nhiều, với thơ
Đường hiện nay có hai đồ dùng dạy học là tranh ảnh về tác giả Lí Bạch và Đỗ
Phủ cùng một số bài thơ, như vậy cần có sự đầu tư nhiều hơn về tranh ảnh, băng
đĩa để giáo viên có thể sử dụng cho các bài dạy một cách có hệ thống và
đồng bộ.
Tác giả Kiều Văn nhận xét: “Thơ Đường chan chứa tính nhân văn, đầy ắp
tính người, tình đời, nỗi đau, nỗi hận… Thơ Đường phản ánh số phận “thập loại
chúng sinh” trên khắp đất nước Trung Hoa thời phong kiến nhà Đường”. Đúng
vậy, thời đại nhà Đường đã thuộc về quá khứ theo dòng chảy của thời gian, thế
nhưng những giá trị tinh thần mà nó để lại cho đất nước Trung Hoa và nhân loại
sẽ trường tồn mãi mãi. Thơ Đường từ lâu được đưa vào chương trình môn Ngữ
văn ở nhiều bậc học đã phản ánh vị trí quan trọng của nó. Nhất là trong giai
đoạn hiện nay, khi vấn đề giao thoa hội nhập, toàn cầu hoá đang là mối quan tâm
của toàn xã hội thì việc giảng dạy thơ Đường ở trường phổ thông lại trở nên có ý
nghĩa. Nó không chỉ giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp, tính nhân
văn về một thành tựu văn học xưa mà còn giúp các thế hệ tương lai có một định
17


hướng đúng đắn trên con đường tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại, sáng tạo
ra những cái mới tốt đẹp hơn, tự tin hơn để hoà nhập với xu thế phát triển của
thời đại.

Với quan niệm: Người thầy như là người nhóm lửa, thổi lên ngọn lửa văn
chương trong mỗi tâm hồn của những học trò, đề tài "dạy học phát huy năng
lực đọc - hiểu của học sinh thông qua bài "cảm xúc mùa thu"(Đỗ Phủ) mặc
dù đã có sự nỗ lực trong quá trình tìm hiểu các phương pháp cụ thể nhằm tìm ra
hướng tiếp cận, khai thác tác phẩm phục vụ cho nhu cầu giảng dạy đạt hiệu quả
hơn, nhưng sáng kiến kinh nghiệm của tôi không thể không tránh khỏi những sai
sót mong được sự đóng góp của quý thầy cô cùng các bạn đồng nghiệp để việc
giảng dạy bài thơ hiệu quả hơn.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Hữu Dũng (1988), Một số vấn đề cơ bản về giáo dục trung học phổ
thông, Sách bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ 1997 – 2000 cho giáo viên.
2. Lê Giảng (1998), Đến với thơ Lí Bạch, Nxb Thanh niên.
3. Nguyễn Thị Bích Hải (1997), Thi pháp thơ Đường, Nxb Giáo dục.
4. Nguyễn Thị Bích Hải (2006), Thi pháp thơ Đường, Nxb Thuận Hóa – Huế.
5. Hồ Sĩ Hiệp (1995), Thơ Đường ở trường phổ thông, Nxb Văn nghệ Tp.HCM.
6. Hồ Sĩ Hiệp, Trần Xuân Đề (1978), Thơ Đường, Đại học Sư phạm Tp.HCM.
7. Nguyễn Thanh Hùng (2000), Hiểu văn dạy văn, Nxb Giáo dục.
8. Nguyễn Xuân Nam (1992), Làm quen với thơ Đường, Nxb Văn học, Hà Nội.
9. Lê Đức Niệm (1995), Diện mạo thơ Đường, Nxb Văn hóa Thông tin.
10.Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử (1996), Về thi pháp thơ Đường, Nxb Đà
Nẵng.
11.Ngô Văn Phú (2001), Thơ Đường ở Việt Nam, Nxb Hội Nhà văn.
12.Vũ Tiến Quỳnh (1990), Lí Bạch, Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị, Nxb Khánh Hòa.
13.Nguyễn Quốc Siêu (1998), Thơ Đường bình giảng, Nxb Giáo dục.
14.Trần Đình Sử (1998), Môn văn, thực trạng và giải pháp, Báo Văn nghệ, số 7,
tr.5 - 7.

15.Trịnh Xuân Vũ (2002), Phương pháp dạy học văn ở bậc phổ thông, Nxb Đại
học Quốc gia Tp.HCM.

19


PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Tranh ảnh tác giả, tác phẩm trong bài "cảm xúc mùa thu"(Đỗ Phủ)

20


ĐỖ PHỦ 712 - 770

21


Phụ lục 2: Bảng tổng hợp số liệu điều tra học sinh khối lớp D
Tổng số phiếu: 90
Nội dung câu hỏi
Nội dung trả lời
Em hãy nêu việc chuẩn bị bài ở - Có chuẩn bị
nhà của bài thơ ""cảm xúc mùa
- Không chuẩn
thu"(Đỗ Phủ)
Khi đọc bài thơ, em có hiểu nội - Có
dung và nghệ thuật qua văn bản - Không
không?

- Không đầy đủ

Theo em việc học thơ Đường có - Có ích
giúp ích gì cho học sinh trong
việc cảm thụ văn học trong nước - Không có ích
không?
Theo em bài''"cảm xúc mùa - Có ảnh hưởng
thu"(Đỗ Phủ) có ảnh hưởng đến
- Không ảnh hưởng
văn học Việt Nam không?
Em có thuộc bài thơ Đường nào - Thuộc thơ
không?

- Không thuộc
Em có thích được học thơ Có
Không
Đường qua tranh ảnh không?
Nội dung
Trong việc học bài ''"cảm xúc
mùa thu"(Đỗ Phủ) em thường Nghệ thuật
đặt trọng tâm khai thác:
Nội dung và nghệ thuật
Em hiểu gì về “thi trung hữu Hiểu sai
họa” trong "cảm xúc mùa Đúng
thu"(Đỗ Phủ)
Em nghĩ gì về không gian nghệ Hiểu sai
thuật và thời gian nghệ thuật Đúng
trong thơ Đường?
Sau khi học các tác phẩm thơ > 30%
Đường, em nghĩ mình hiểu được
> 50%
bao nhiêu phần trăm nội dung,

nghệ thuật của bài thơ?
100%

Xác nhận của Hiệu trưởng
Cùng một lứa bên trời lận đận,
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau…
(Tì bà hành – Bạch Cư Dị)

SL
90/90
0
80/90
16/90
90/90
6/90
80/90
16/90
83/90
12/90
90/90
0
25/90

Tỉ lệ
100%
83,3%
15,7%
93,7%
6,3%
83,3%

16,7%
86,5%
12,5%
100%
26,1%

0
70/90
36/90
60/90

72,9%
37,5%
62,5%

32/90
64/90

33,3%
66,7%

17/90

17,8%
80,2%

77/90
0

Thanh Hóa, ngày 15 tháng 5 năm

22


2016
Tôi xin cam đoan là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của
người khác

Phạm Thị Thương

23


×