ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
ĐỖ HÀ PHƢƠNG
NGHIÊN CỨU LUẬT BẢO TỒN
DI SẢN VĂN HÓA NHẬT BẢN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Châu Á học
Hà Nội – 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
ĐỖ HÀ PHƢƠNG
NGHIÊN CỨU LUẬT BẢO TỒN
DI SẢN VĂN HÓA NHẬT BẢN
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Châu Á Học
Mã số: 60 31 50
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS PHAN HẢI LINH
Hà Nội – 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn
khoa học của PGS.TS Phan Hải Linh. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đề tài
này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây.
Những số liệu trong các bảng biểu phục vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh
giá do tác giả luận văn thu thập và tổng hợp từ các tài liệu khác đều được ghi rõ
nguồn trong phần nội dung và trong phần tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, một số nhận xét, đánh giá, số liệu nghiên cứu của các tác giả hoặc cơ
quan khác đều ghi rõ trích dẫn nguồn tài liệu tham khảo.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về
nội dung luận văn của mình. Trường đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn không
liên quan đến những vi phạm tác quyền, bản quyền do tôi gây ra trong quá trình
thực hiện (nếu có).
Hà Nội, ngày 05 tháng 10 năm 2016
Học viên cao học
Đỗ Hà Phương
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
1. Lý do lựa chọn đề tài ..................................................................................... 3
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 4
3. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 4
4. Nguồn tư liệu ................................................................................................. 5
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 5
6. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 6
CHƢƠNG 1. BỐI CẢNH VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT BẢO
TỒN DI SẢN VĂN HÓA NHẬT BẢN NĂM 1950 ...................................... 8
1.1. Bối cảnh.................................................................................................... 8
1.1.1. Tình hình bảo tồn di sản văn hóa đầu thời Minh Trị ........................ 8
1.1.2. Những văn bản pháp qui về bảo tồn di sản văn hóa được ban hành
từ thời Minh Trị đến trước năm 1950........................................................ 10
1.2. Quá trình xây dựng Luật Bảo tồn Di sản Văn hóa năm 1950 ................ 20
1.2.1. Quá trình chuẩn bị dự thảo luật ....................................................... 20
1.2.2. Quá trình thảo luận, chỉnh sửa và thông qua Luật Bảo tồn Di sản
Văn hóa ..................................................................................................... 22
1.2.3. Quá trình thực thi Luật Bảo tồn Di sản Văn hóa ............................ 32
Tiểu kết:.......................................................................................................... 40
CHƢƠNG 2. QUÁ TRÌNH SỬA ĐỔI BỔ SUNG LUẬT BẢO TỒN DI
SẢN VĂN HÓA NHẬT BẢN TỪ SAU NĂM 1950 ĐẾN NĂM 1996....... 41
2.1. Luật sửa đổi năm 1954 ........................................................................... 41
2.2. Luật sửa đổi năm 1968 ........................................................................... 45
2.3. Luật sửa đổi năm 1975 ........................................................................... 46
2.4. Luật sửa đổi năm 1996 ........................................................................... 56
Tiểu kết:.......................................................................................................... 60
1
CHƢƠNG 3. LUẬT BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA NHẬT BẢN HIỆN
HÀNH VÀ SO SÁNH VỚI VIỆT NAM ...................................................... 61
3.1. Luật Bảo tồn Di sản Văn hóa Nhật Bản hiện hành ................................ 61
3.1.1. Nội dung Luật Bảo tồn Di sản Văn hóa Nhật Bản hiện hành (sửa đổi năm
2004) .......................................................................................................... 61
3.1.2. Chế độ bảo tồn đối với từng loại hình di sản văn hóa .................... 64
3.1.2.1. Chế độ bảo tồn di sản văn hóa vật thể ...................................... 64
3.1.2.2. Chế độ bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể ................................ 68
3.1.2.3. Chế độ bảo tồn di sản văn hóa dân gian ................................... 69
3.1.2.4. Chế độ bảo tồn di tích, danh thắng và công trình kỉ niệm
thiên nhiên .................................................................................... 71
3.1.2.5 Chế độ bảo tồn cảnh quan văn hóa ............................................ 74
3.1.2.6. Chế độ bảo tồn quần thể công trình kiến trúc truyền thống ..... 76
3.1.2.7. Chế độ bảo tồn đối với kỹ thuật bảo tồn di sản văn hóa .......... 77
3.1.2.8. Chế độ bảo tồn di sản văn hóa trong lòng đất .......................... 77
3.2. Một số nhận xét so sánh với Luật Di sản Văn hóa của Việt Nam ......... 79
3.2.1. Khái quát về Luật Di sản Văn hóa của Việt Nam ........................... 79
3.2.2. So sánh với Luật Bảo tồn Di sản Văn hóa của Nhật Bản và một số
bài học kinh nghiệm .................................................................................. 82
Tiểu kết:.......................................................................................................... 84
KẾT LUẬN .................................................................................................... 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 88
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 90
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong khi tìm hiểu về kịch rối Bunraku1 để viết khoá luận tốt nghiệp đại học
với đề tài “Bunraku - Nghệ thuật kịch rối truyền thống Nhật Bản”, tôi nhận thấy đây
là một loại hình nghệ thuật độc đáo, thể hiện rõ nét bản sắc dân tộc Nhật Bản, là sự
kết hợp hài hòa giữa các yếu tố kỹ thuật, nghệ thuật, mỹ thuật và văn học và dù trải
qua 300 năm lịch sử nhưng vẫn giữ nguyên những giá trị truyền thống cổ xưa. Điều
đó khiến tôi tự đặt ra câu hỏi: Những yếu tố nào giúp Bunraku gìn giữ được nguyên
vẹn những giá trị cốt lõi đó? Cho dù là một môn nghệ thuật đặc sắc đến đâu,
Bunraku hẳn khó tự mình tồn tại và đứng vững trong nhiều thế kỷ, đặc biệt là trong
giai đoạn đầy thăng trầm của lịch sử Nhật Bản thời cận hiện đại. Liệu chỉ bằng nỗ
lực của các nghệ nhân và sự ủng hộ của cộng đồng có đủ giúp các bộ môn nghệ
thuật truyền thống như Bunraku duy trì sức sống bền bỉ của mình? Những chính
sách bảo tồn, hỗ trợ từ phía chính phủ đóng vai trò như thế nào? Đó là khởi điểm
khiến tôi bắt tay vào việc tìm hiểu về chính sách của Chính phủ Nhật Bản trong việc
bảo tồn và phát huy các loại hình nghệ thuật truyền thống. Tôi nhận thấy quá trình
xây dựng, sửa đổi bổ sung nội dung của các văn bản luật về bảo tồn di sản văn hóa
ở Nhật Bản đã được thực hiện một cách bền bỉ và công phu trong hơn nửa thế kỷ
qua nhằm đưa ra những chính sách cập nhật và hiệu quả nhất đối với di sản. Đây
không chỉ là điều kiện tiên quyết tạo nên thành tựu bảo tồn di sản văn hóa đáng
ngưỡng mộ của nước Nhật, mà có thể trở thành những bài học kinh nghiệm quý báu
đối với nhiều nước, trong đó có Việt Nam, trong quá trình xây dựng cơ chế phù hợp
để gìn giữ và bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống.
Chính vì vậy, tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Nghiên cứu về Luật Bảo tồn Di
sản Văn hóa Nhật Bản” làm đề tài cho luận văn thạc sỹ của mình.
1
Bunraku là một trong năm loại hình nghệ thuật truyền thống nổi tiếng của Nhật Bản bao gồm tấu nhạc
Bugaku (舞楽, Vũ nhạc), kịch No (能, Năng), tấu hài Kyōgen (狂言, Cuồng ngôn) và kịch Kabuki (歌舞伎,
Ca vũ kĩ).
3
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn này lấy đối tượng nghiên cứu là “Luật Bảo tồn Di sản Văn hóa Nhật
Bản”.
Với đề tài luận văn này, tôi muốn làm rõ các vấn đề cơ bản như bối cảnh ra đời của
luật Bảo tồn Di sản Văn hóa đầu tiên năm 1950, cùng quá trình 5 lần sửa đổi chỉnh sửa
bổ sung nhằm hoàn thiện luật, từ giai đoạn tập hợp những quy định pháp luật nhỏ lẻ liên
quan đến di sản văn hóa đã được ban hành trước đó như Luật Bảo tồn di tích chùa xã cổ,
Luật Bảo tồn Di tích lịch sử và Danh thắng tự nhiên, Luật Bảo tồn Bảo vật Quốc gia…
đến giai đoạn chỉnh sửa nâng cao hiệu quả và tính cập nhật của các nội dung luật. Từ đó
đưa ra nhận xét về quá trình xây dựng văn bản luật và hiệu quả của văn bản này đối với
việc bảo tồn di sản văn hóa Nhật Bản.
Ngoài ra, với tư cách là người Việt Nam nghiên cứu về Nhật Bản, tôi mong muốn
nghiên cứu của mình mang lại ý nghĩa thực tiễn cho đất nước. Ở Việt Nam, Luật Di sản
Văn hóa được ban hành lần đầu tiên vào ngày 29/6/2001, tức là 56 năm sau Cách
mạng Tháng Tám với mục đích nhằm tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, nâng
cao trách nhiệm của nhân dân trong việc tham gia bảo vệ và phát huy giá trị di sản
văn hóa. Ngày 18/6/2009, Quốc hội khóa XII kỳ họp thứ V đã thông qua Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản Văn hóa (số 28/2001/QH10). Việc sửa đổi
bổ sung luật nhằm đưa ra những chính sách kịp thời trong bối cảnh tăng trưởng kinh
tế tốc độ cao và nhiều di sản văn hóa đang xuống cấp nhanh chóng, tuy nhiên hiệu quả
thực hiện luật vẫn còn nhiều bất cập. Có thể nói bài toán giữa phát triển và bảo tồn ở Việt
Nam hiện nay có nhiều nét tương đồng với Nhật Bản cách đây hơn 60 năm. Vì vậy, tôi
hy vọng những bài học rút ra từ nghiên cứu về Luật Bảo tồn Di sản Văn hóa của Nhật
Bản có thể giúp chúng ta tìm ra những bài học thiết thực trong việc giữ gìn và phát huy
di sản văn hóa truyền thống của cha ông.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu như trình bày trên, luận văn tập trung thực hiện các
nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:
4
1. Bối cảnh và quá trình xây dựng Luật Bảo tồn Di sản Văn hóa của Nhật Bản
năm 1950.
2. Bối cảnh và quá trình sửa đổi bổ sung Luật Bảo tồn Di sản Văn hóa từ năm 1950
đến nay.
3. Nội dung cơ bản của Luật Bảo tồn Di sản Văn hóa hiện hành.
4. So sánh nội dung của Luật Bảo tồn Di sản Văn hóa của Nhật Bản hiện hành
với Luật Di sản Văn hóa Việt Nam sửa đổi và một số bài học kinh nghiệm trong
việc xây dựng thể chế bảo tồn di sản văn hóa cho Việt Nam.
4. Nguồn tƣ liệu
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu trên, tác giả luận văn đã sử dụng các nguồn
tư liệu chủ yếu sau:
1. Tư liệu gốc: Các văn bản về Luật Bảo tồn Di sản Văn hóa của Nhật Bản qua
các giai đoạn được công bố trên website chính thức của chính phủ và thư viện, cơ
quan lưu trữ của Nhật Bản. Luật Di sản Văn hóa sửa đổi bổ sung của Việt Nam
được công bố trên website chính thức của chính phủ Việt Nam.
2. Tài liệu tham khảo: Do ở Việt Nam hiện nay chưa có nghiên cứu nào đề cập
đến Luật Bảo tồn Di sản Văn hóa của Nhật Bản nên tác giả luận văn chủ yếu tham
khảo các nguồn tài liệu bằng tiếng Anh và tiếng Nhật trực tiếp liên quan đến đề tài.
Trong đó, tác giả đặc biệt chú trọng các nghiên cứu do cơ quan chính phủ công bố
và nghiên cứu được các học giả thực hiện độc lập. Tiêu biểu là công trình “Lịch sử
50 năm Luật Bảo tồn Di sản Văn hóa” (文化財保護法五十年史) (2001) của Tổng
cục Văn hóa, NXB Gyosei; hay “Giải thích dễ hiểu về chế độ Luật Bảo tồn Di sản
Văn hóa” (わかりやすい文化財保護制度の解説) (2007) của tác giả Kenjiro
Nakamura, NXB Gyosei.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, tác giả đã sử dụng các phương pháp cơ bản của
ngành khoa học xã hội như phương pháp thu thập tổng hợp tài liệu, phương pháp
thống kê, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh đối chiếu…
5
Ngoài ra, luận văn đã áp dụng phương pháp lịch đại, logic của khoa học lịch
sử khi sắp xếp và phân tích các sự kiện chính về bối cảnh và quá trình sửa đổi bổ
sung luật.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn có cấu trúc 3
chương chính như sau:
Chương 1: Bối cảnh và nội dung cơ bản của Luật Bảo tồn Di sản Văn hóa Nhật
Bản năm 1950. Chương này phân tích tình hình bảo tồn di sản văn hóa ở Nhật Bản và
những văn bản pháp qui liên quan đến bảo tồn di sản đã được ban hành từ thời Minh Trị
đến trước năm 1950. Từ đó tác giả làm sáng rõ nhu cầu cấp bách cần có một văn bản luật
bao quát đầy đủ các vấn đề đặt ra trong bảo tồn di sản đương thời.
Chương 2: Quá trình sửa đổi bổ sung Luật Bảo tồn Di sản Văn hóa Nhật
Bản sau năm 1950. Trong chương này tác giả tập trung phân tích về bối cảnh và
những nội dung được sửa đổi bổ sung của Luật Bảo tồn Di sản Văn hóa trải qua 5
lần sửa đổi từ năm 1950 đến năm 2004.
Chương 3: Luật Bảo tồn Di sản Văn hóa Nhật Bản hiện hành và bài học
cho Việt Nam. Đây là phần phân tích những nội dung cơ bản của Luật Di sản Văn
hóa Nhật Bản, từ đó đối chiếu với tình hình của Việt Nam để bước đầu đưa ra
những gợi ý về bài học trong việc xây dựng cơ chế bảo tồn phù hợp.
Nghiên cứu về Luật Bảo tồn Di sản Văn hóa Nhật Bản quả thực là một đề tài mới mẻ
và khó khăn. Do giới hạn về năng lực chuyên môn trong lĩnh vực bảo tồn của tác giả, khóa
luận chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự chỉ bảo,
góp ý của các thầy cô giáo, các anh chị và bạn bè, để có những kiến thức toàn diện và sâu
sắc hơn về đề tài này.
Cuối cùng, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Cô giáo, PGS.TS Phan Hải Linh,
người đã tận tâm hướng dẫn, chỉ dạy cho tôi trong suốt quá trình làm khóa luận. Tác giả
6
cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Đông Phương học, các anh chị đi trước
và bạn bè đã giúp đỡ tôi về mặt tư liệu và đóng góp cho khóa luận của tôi nhiều lời khuyên,
ý kiến quý báu.
Hà Nội, ngày 05 tháng 10 năm 2016
Học viên cao học
Đỗ Hà Phương
7
CHƢƠNG 1
BỐI CẢNH VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN
CỦA LUẬT BẢO TỒN DI SẢN VĂN HÓA NHẬT BẢN NĂM 1950
1.1. Bối cảnh
1.1.1. Tình hình bảo tồn di sản văn hóa đầu thời Minh Trị
Trước thời Cận đại, ở Nhật Bản, các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể
thường được lưu truyền, kế thừa và bảo tồn trong các dòng họ hay các cộng đồng cư
dân. Tiêu biểu là các bảo vật, nghi lễ của Hoàng tộc, gia sản và truyền thống của các
gia đình quý tộc, võ sĩ hay thương nhân giàu có… Ngoài ra, những bảo vật và lễ hội
thực hiện trong chùa chiền và thần xã cũng được lưu truyền cẩn mật. Trong cộng
đồng, các loại hình biểu diễn nghệ thuật, văn hóa thị dân, di sản văn hóa truyền
thống, các danh lam thắng cảnh của địa phương được coi trọng và phương pháp gìn
giữ được lưu truyền qua các thế hệ. Nhằm quảng bá giá trị, gây quỹ và nâng cao ý
thức bảo vệ đối với các di sản, nhiều dòng họ, chùa xã và địa phương định kỳ tổ
chức các hình thức trưng bày, giới thiệu bảo vật văn hóa hay danh lam của mình.
Những hoạt động này đặc biệt phổ biến trong thời Edo. Nhiều dòng họ và chùa xã
còn tổ chức trao đổi và giới thiệu bảo vật lẫn nhau để quảng bá bảo vật và gây quỹ
bảo tồn. Sử sách có ghi lại vào năm Nguyên Lộc thứ 7 (1694) và năm Thiên Bảo
thứ 13 (1842), với mục đích quảng bá tín ngưỡng và gây quỹ tu bổ chùa Horyu2 (法
隆寺), tự viện Kaiko 3 (回向院) ở Edo đã tiến hành trưng bày các bảo vật của chùa
Horyu.
Có thể nói đặc điểm lịch sử không bị những cuộc xâm lăng từ bên ngoài là một
yếu tố quan trọng giúp Nhật Bản gìn giữ các giá trị văn hóa. Bên cạnh đó, tính cách
nghiêm cẩn nhưng cởi mở trong tiếp thu, khả năng chuyển hóa sáng tạo nhằm liên
2
Chùa Horyu tên đầy đủ là Horyu Gakumonji (法隆学問寺) do Thánh Đức Thái Tử chủ trì xây dựng năm
607 tại tỉnh Nara. Phần Chính điện và Tháp năm tầng của chùa được xem như là kiến trúc bằng gỗ thuộc loại
cổ nhất trên thế giới còn tồn tại được đến ngày nay. Năm 1993, chùa là một phần của Quần thể kiến trúc Phật
giáo được UNESCO công nhận là Di sản thế giới. Trước đó chính phủ Nhật Bản đã công nhận đây là Quốc
bảo.
3
Ngôi chùa ở phố Ryogoku, quận Sumida, Tokyo.
8
tục hoàn thiện, tính thực tiễn và coi trọng hiệu quả cũng là những yếu tố cốt lõi giúp
người Nhật không những bảo vệ được các giá trị văn hóa truyền thống mà còn
thường xuyên bổ sung, nâng cao giá trị của các di sản văn hóa.
Hình 1.2: Kim đường chùa Horyu5
Hình 1.1: Tự viện Kaiko4
Mặc dầu vậy, có thể nói đến trước thời Minh Trị (1868-1912), hoạt động bảo
tồn, tôn tạo các di sản văn hóa chủ yếu được thực hiện một cách tự phát mà không
tồn tại một cơ chế bảo tồn và hệ thống pháp qui chính thức từ phía nhà nước. Trong
thời Minh Trị, cùng với quá trình xây dựng nhà nước quân chủ lập hiến theo mô
hình phương Tây, hệ thống văn bản pháp qui của Nhật Bản được gấp rút hình thành
và từng bước bổ sung, hoàn thiện. Trong bối cảnh đó, chế độ bảo tồn di sản văn hóa
bắt đầu được xây dựng nhằm bảo tồn các giá trị văn hóa đang rơi vào tình trạng
nguy cấp trước trào lưu Âu hóa (欧化主義). Tuy nhiên, việc xây dựng chế độ bảo
tồn này diễn ra trong cả một quá trình dưới ảnh hưởng của bối cảnh chính trị, xã hội
đương thời. Sau đây xin đơn cử một số chính sách mà chính phủ Minh Trị ban hành
liên quan đến tự viện.
Năm Minh Trị thứ nhất (1868), chính phủ muốn thực thi chính sách kết hợp tôn
giáo và chính trị, nên đã ban hành lệnh Phân ly Thần Phật (神仏分離令), tách Thần
Đạo (Shinto) khỏi Phật Giáo và đưa Thần Đạo lên hàng tôn giáo quốc gia. Nó đã
4
/>
5
/>
9
tạo ra một cơn lốc bài báng Phật giáo trên toàn quốc. Phong trào Phế Phật hủy
Thích (廃仏毀釈), đòi dẹp bỏ chùa chiền, tượng Phật lan tràn khắp nơi.
Trước tình hình đó, các giáo đoàn Phật giáo, đặc biệt là Thiền Tông, đã tức
khắc liên kết với các tông phái khác thành các liên minh như Chư tông đồng đức hội
minh (諸宗同徳会盟, 1868), Chư tông đồng đức hội (諸宗同徳会, 1868)… và đệ
trình các kiến nghị lên Chính phủ. Nhằm giải quyết vấn đề này, sau đó 2 năm, Bộ
Nội Vụ (民部省) đã lập ra một cơ quan gọi là Tự Viện Liêu (寺院寮) có nhiệm vụ
thống nhất việc quản lý chùa chiền. Nhờ đó, các phong trào Phế Phật hủy Thích hay
Bài Phật khí Thích mới tạm lắng xuống.
Tuy nhiên, năm 1871, chính phủ ban hành lệnh sung công đất đai nằm ngoài
khuôn viên nhà chùa làm cho tình hình kinh doanh của chùa rơi vào cảnh khó khăn.
Đặc biệt, các chùa thuộc phái Thiền Lâm Tế xưa nay vẫn sở hữu ruộng đất được
Mạc phủ và các phiên trấn tiến cúng theo chế độ chu ấn địa (朱印地) và hắc ấn địa
(黒印地)6. Nhiều tháp đầu7 (塔頭) của chùa vốn là các chi nhánh hoạt động ở ngoài
khuôn viên chùa vì thế bị rời vào chùa chính hay có nguy cơ biến mất. Trước nguy
cơ này, các giáo đoàn phải thay đổi lối quản lý cũ vốn lấy tháp làm trung tâm của
mọi hoạt động. Ngoài ra, trong chế độ hành chính mới, chính quyền chỉ cho phép
giữ lại mối liên hệ của mạt tự (末寺, tức chùa chi nhánh ở địa phương) đối với bản
sơn (本山, tức chùa chính), còn các tháp ngoài chùa nếu còn chỉ đóng vai trò ngang
hàng với một mạt tự.
1.1.2. Những văn bản pháp qui về bảo tồn di sản văn hóa đƣợc ban hành
từ thời Minh Trị đến trƣớc năm 1950
1) Sắc lệnh về Phương pháp bảo tồn cổ vật
6
Đây là tên gọi các mảnh đất được cúng tiến và được công nhận bằng các giấy tờ chuyển nhượng có đóng
dấu màu đỏ (của Mạc phủ) hay dấu màu đen (của chính quyền phiên trấn).
7
“Tháp đầu” là nơi lưu giữ xá lị các Cao tăng của chùa lớn và nổi tiếng, hoặc những vị đứng đầu giáo phái
sau khi chết. Tháp được xây trong hoặc ngoài khuôn viên chùa để các đệ tử tưởng nhớ về đức độ của vị Cao
tăng đã khuất. Ngoài ra tiểu viện mà vị Cao tăng sống sau khi lui về ở ẩn cũng được gọi là Tháp đầu.
10
Trong những năm đầu thời Minh Trị, khi một bộ phận lớn người dân say sưa
với phong trào Âu hóa và chế độ Phế Phật hủy Thích, nhiều giá trị văn hóa truyền
thống của Nhật Bản bị xem nhẹ, dẫn đến nguy cơ thất thoát, hư hoại nhiều di sản
văn hóa vật thể và phi vật thể. Năm Minh Trị thứ 4 (1871), chính phủ ban hành sắc
lệnh về Phương pháp bảo tồn cổ vật (古器旧物保存方), đồng thời tuyên truyền
rộng rãi cho người dân trên toàn quốc ý thức bảo quản cổ vật nhằm lưu truyền lại
cho hậu thế. Bên cạnh đó, chính phủ còn chỉ thị cho chính quyền địa phương lập danh
mục báo cáo về các cổ vật và người sở hữu cổ vật trong địa phương. Cũng theo sắc lệnh
này, cổ vật được chia làm 31 nhóm và xếp thứ tự tùy theo mức độ quan trọng. Việc phân
loại này về sau trở thành tiêu chuẩn phân loại hiện vật tại các bảo tàng của Nhật Bản.
Như vậy đây là lần đầu tiên một sắc lệnh của chính phủ đưa ra những chỉ dẫn về việc
thống kê, bảo quản, phân loại di sản và chủ sở hữu. Sắc lệnh này còn có ý nghĩa tuyên
truyền hướng dẫn cho địa phương và người dân về ý thức bảo tồn các di sản văn hóa.
2) Chính sách Trợ cấp bảo tồn chùa xã cổ
Như đã trình bày, trong thời Edo, nhằm mục đích gây quỹ tu bổ miếu mạo,
nhiều chùa xã ở Nhật Bản đã tổ chức các hoạt động trưng bày hiện vật cổ của chùa
hoặc trao đổi quảng bá hiện vật lẫn nhau. Trường hợp trưng bày hiện vật của chùa
Horyu năm Thiên Bảo thứ 13 (1842) là một ví dụ. Tuy nhiên kết quả của việc trưng
bày này không đem lại đủ nguồn phụ kinh phí tu bổ cho nhà chùa như mong muốn.
Tháng 11 năm Minh Trị thứ 9 (1876), chùa Horyu đệ trình lên Chính phủ "Đơn
cung tiến cổ vật" (古器物献備御願), và đã được Bộ Cung Nội8 (宮内省, phụ trách
các vấn đề liên quan đến Hoàng tộc) chấp nhận xử lý vào tháng 2 năm Minh Trị thứ
11 (1878). Theo đó, các bảo vật của chùa vốn được trưng bày tại hội chợ triển lãm
tỉnh Nara vào các năm Minh Trị thứ 8 (1875), thứ 9 (1876) từ tháng 3 năm 1878
được cung tiến cho Viện Chính thương9 (正倉院, kho lưu giữ bảo vật Hoàng gia) và
8
Bộ Cung nội là Cơ quan của Chính phủ Nhật Bản. Đơn vị chuyên thực hiện các nhiệm vụ Quốc gia liên
quan đến Hoàng thất, nhiệm vụ tiếp nhận thông tin của các Công sứ, các đại sứ quán nước ngoài liên quan
đến các vấn đề quốc gia của Thiên hoàng, sắp xếp các công việc liên quan đến các nghi lễ Hoàng thất, là cơ
quan của Phủ Nội các bảo quản Ấn triện - Quốc triện.
9
Viện Chính thương là nơi lưu giữ nhiều bảo vật thủ công mỹ nghệ, chủ yếu là của thời Heian. Viện được đặt
tại phía Tây Bắc của Phật điện chùa Todai, thành phố Nara, tỉnh Nara.
11
trở thành bảo vật Hoàng gia. Sau đó, tháng 3 năm Minh Trị thứ 15 (1882) các bảo
vật này được chuyển đến lưu giữ tại bảo tàng trong công viên Ueno tại Tokyo. Việc
cung tiến bảo vật của chùa Horyu đem lại cho nhà chùa số tiền thưởng một vạn yên
từ chính phủ, giúp chùa đạt được mục đích phòng trừ việc thất thoát bảo vật văn hóa,
đồng thời có thêm kinh phí cho chùa [18, tr.15].
Trường hợp chùa Horyu phản ánh tình trạng suy giảm nguồn thu dẫn đến sự xuống
cấp của các cơ sở tôn giáo thời Minh Trị do những thay đổi về chính sách tôn giáo,
kinh tế, xã hội. Đứng trước nguy cơ đó, từ năm Minh Trị thứ 13 (1880) đến năm Minh
Trị thứ 27 (1894), trong khoảng 15 năm, Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện chính sách
Trợ cấp bảo tồn chùa xã cổ (古社寺保存金の交付). Trong thời gian này có 539 chùa
trên toàn quốc được nhận trợ cấp với tổng số tiền là 121.000 Yên [18, tr.15]. Số tiền
này chủ yếu được sử dụng vào việc duy trì tu sửa kiến trúc tự viện và thần xã cổ.
3) Cục Điều tra lâm thời về bảo vật trong toàn quốc và hệ thống Bảo tàng Đế quốc
Năm Minh Trị thứ 11 (1878), Ernest Francisco Fenollosa (1853-1908), một học
giả người Mỹ được mời sang giảng dạy tại Đại học Tokyo về triết học, chính trị,
kinh tế. Trong thời gian làm việc tại Nhật Bản, ông đặc biệt hứng thú với các tác
phẩm mỹ thuật truyền thống và đã bắt tay nghiên cứu về lĩnh vực này. Năm Minh
Trị thứ 15 (1882) ông chính thức tham gia hội đồng thẩm định cổ vật tổ chức ở
Nhật Bản. Những nghiên cứu của ông có vai trò soi sáng trong việc đánh giá các tác
phẩm mỹ thuật cổ ở Nhật Bản, cảnh tỉnh người Nhật bước ra khỏi giai đoạn sùng
bái thái quá các giá trị phương Tây. Năm Minh Trị thứ 17 (1884), ông cùng người
trợ giảng của mình là Okakura Tenshinra (岡倉天心ら, 1863-1913) được Bộ Giáo
dục giao nhiệm vụ điều tra hiện trạng các ngôi chùa cổ trong khu vực Kyoto và
Osaka. Trong suốt quá trình điều tra, hai ông luôn chủ trương coi trọng bảo tồn mỹ
thuật truyền thống Nhật Bản.
Song song với hoạt động trên, năm Minh Trị thứ 21 (1888), Bộ Cung Nội đã
thành lập Cục Điều tra lâm thời về bảo vật trong toàn quốc (臨時全国物取調局), do
Kuki Ryuichi (九鬼隆一, 1852-1931) đứng đầu và Okakura Tenshin là người chịu
trách nhiệm điều hành. Trong vòng 10 năm, Cục đã tiến hành điều tra tình hình bảo
12
vật, đặc biệt là bảo vật của các ngôi chùa cổ trên toàn quốc. Cuộc điều tra đã thống
kê số lượng các bảo vật theo 5 nhóm chính gồm:
- Tư liệu cổ: Hơn 17.000 bản
- Tác phẩm hội họa: Hơn 74.000 bức
- Tác phẩm điêu khắc: Hơn 46.000 hiện vật
- Hàng thủ công mỹ nghệ: Hơn 57.000 hiện vật
- Thư tịch cổ: Hơn 18.000 bản
Tổng các bảo vật được điều tra lên đến con số hơn 215.000 bảo vật, trong số đó
có khoảng hơn 15.000 bảo vật được đánh giá là bảo vật đặc biệt, được đăng ký
trong Danh mục bảo vật [18, tr.16].
Kết quả cuộc điều tra là danh sách những bảo vật quý hiếm được lưu giữ, tập
trung chủ yếu trong những ngôi chùa cổ ở Kyoto và Osaka, đồng thời chỉ ra được
những địa phương có tỉ lệ xuống cấp hay nguy cơ thất thoát bảo vật cao, từ đó kêu
gọi nâng cao ý thức bảo tồn.
Năm Minh Trị thứ 22 (1889), nhờ hiệu ứng của cuộc điều tra trên, Bộ Cung Nội
đã ban hành quyết định cải tạo bảo tàng thuộc Thư viện Tokyo thành Bảo tàng Đế
quốc10 (帝国博物館). Tiếp đó, Bộ ra quyết định xây dựng mới Bảo tàng Đế quốc
tại Nara và Kyoto vào các năm Minh Trị thứ 28 (1895) và Minh Trị thứ 30 (1897).
Đây là hệ thống bảo tàng quốc lập đóng vai trò quan trọng trong việc thu thập, lưu
giữ và bảo tồn di sản văn hóa của Nhật Bản.
4) Luật Bảo tồn chùa xã cổ
Sau cuộc chiến tranh Nhật - Thanh trong các năm Minh Trị 27-28 (1894-1895),
bối cảnh ý thức dân tộc dâng cao trên cả nước đã thúc đẩy việc ban hành thêm các
chính sách bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống. Năm Minh Trị thứ 30 (1897),
chính phủ Nhật Bản ban hành Luật Bảo tồn chùa xã cổ (古社寺保存法). Theo qui
định của luật, những ngôi chùa và đền thờ thần đạo (thần xã) cổ không có khả năng
tự duy tu, sửa chữa các bảo vật và công trình kiến trúc có thể nộp đơn xin nhà nước
10
Bảo tàng Đế quốc là tên gọi bảo tàng quốc gia được sử dụng từ thời Minh Trị đến hến Thế chiến II. Các
bảo tang này đương thời do Bộ Cung nội quản lý.
13
hỗ trợ kinh phí. Quyền chỉ đạo giám sát việc thực hiện được giao cho người đứng
đầu chính quyền địa phương11 (地方長官). Một số công trình kiến trúc và bảo vật
có giá trị tiêu biểu phản ánh những dấu mốc lịch sử hay những phương pháp sáng
tác đặc thù về mỹ thuật sẽ được Bộ trưởng Bộ Nội vụ xem xét và chỉ định là công
trình kiến trúc hay bảo vật quốc gia được bảo vệ đặc biệt.
Nhóm công trình kiến trúc và bảo vật được bảo vệ đặc biệt được quản lý nghiêm cẩn,
cấm mọi hành vi phá bỏ, chiếm hữu. Những người trực tiếp quản lý các công trình và
bảo vật này gồm trụ trì của chùa (住職) và thần xã (神職) có nghĩa vụ và trách nhiệm
trước nhà nước trong việc trông nom, bảo vệ những di sản này. Ngoài ra, luật cũng đưa
ra những quy định về hình phạt đối với những hành vi cất giấu, làm tổn hại di sản như
tượng Phật, hay quy định về nghĩa vụ gửi bảo vật quốc gia đến các viện bảo tàng cấp
quốc gia để lưu giữ.
Nội dung của Luật Bảo tồn chùa xã cổ, mặc dù chỉ giới hạn đối tượng thuộc là
chùa chiền và thần xã cổ, nhưng được coi là văn bản luật đầu tiên do chính phủ ban
hành nhằm xác lập danh sách và thể chế bảo tồn đối với các di sản văn hóa trọng yếu.
Đây là tiền thân của chế độ bảo tồn di sản văn hóa của Nhật Bản sau chiến tranh.
Theo luật, cơ quan chịu trách nhiệm chính về quản lý di sản là Bộ Nội vụ. Bộ
Nội vụ kết hợp với Bộ Cung Nội, Bộ Giáo dục, Khoa học và Văn hóa (sau đây gọi
tắt là Bộ Giáo dục) trong việc thực hiện chính sách quản lý đối với di sản của
Hoàng gia hay di sản liên quan đến tôn giáo.
Từ năm Đại Chính thứ 2 (1913), Bộ Giáo dục trở thành cơ quan chủ quản về
quản lý di sản theo qui định của luật. Năm Chiêu Hòa thứ 4 (1929), Luật Bảo tồn
Bảo vật Quốc gia được ban hành trên cơ sở phát triển nội dung của Luật Bảo tồn
chùa xã cổ. Nhờ đó, Nhật Bản đã thống kê được 845 công trình kiến trúc và 3.705
bảo vật quốc gia cấp đặc biệt [18, tr.17].
11
Trong giai đoạn từ thời Minh Trị đến hết Thế chiến thứ II, người đứng đầu chính quyền địa phương là
người đứng đầu 4 đơn vị hành chính địa phương gồm đô (都), đạo (道), phủ (府) và huyện (県).
14
5) Luật Bảo tồn Di tích lịch sử và Danh thắng tự nhiên
Năm Minh Trị thứ 7(1874), nhằm xúc tiến việc thống kê và bảo tồn mộ cổ (古
墳)12, chính phủ Nhật Bản ban hành văn bản hướng dẫn về Cách thức thông báo khi
phát hiện thấy mộ cổ (古墳発見の節届出方). Tiếp đó, năm Minh Trị thứ 13 (1880),
Bộ Cung nội ban hành hướng dẫn về Cách thức thông báo việc phát hiện mộ cổ
trong phần đất tư hữu của người dân (人民私有地内古墳等発見の節届出方), với
nội dung hướng dẫn việc kiểm tra thẩm định mộ cổ trong đất tư hữu hay khai hoang
của người dân...
Trong giai đoạn này đã xuất hiện một nghiên cứu có ảnh hưởng lớn đến bảo tồn
di sản ở Nhật Bản. Đó là cuộc khai quật gò sò điệp Omori (大森貝塚) 13 của học giả
người Mỹ về động vật học tên là Edward Sylvester Morse (1838-1925) vào năm
Minh Trị thứ 10 (1877). Với cuộc điều tra khai quật này, Morse đã đưa ra những
phát hiện quan trọng về đặc điểm môi trường sinh vật và đời sống sinh hoạt của cư
dân Nhật Bản thời Jomon. Năm Minh Trị thứ 12 (1879), Đại học Tokyo đã xuất bản
công trình “Biên tập về các cổ vật tại gò sò điệp Omori” (大森介墟古物編)14. Từ
đây đánh dấu bước phát triển đầu tiên của ngành khảo cổ học Nhật Bản.
Sau hai cuộc chiến tranh Nhật – Thanh và Nhật - Nga, nước Nhật cận đại tự tin
trỗi dậy và phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, mặt trái của quá trình khai thác đất đai,
xây mở đường bộ, đường sắt, xây dựng nhà máy… diễn ra ồ ạt lúc này là nhiều di tích
lịch sử, danh thắng tự nhiên rơi vào tình trạng bị xâm phạm và hư hại. Ngoài ra, nhiều tác
phẩm thủ công mỹ nghệ cổ mặc dù là đối tượng được bảo vệ theo Luật Bảo tồn di tích
chùa xã cổ ban hành trước đó nhưng cũng rơi vào trình trạng bị thất thoát hoặc hư hỏng.
Điều này đã khiến chính phủ Nhật Bản quyết định đẩy mạnh phương sách bảo tồn. Năm
12
Kofun thường được dịch là mộ cổ, là thuật ngữ chỉ những gò mộ có qui mô lớn được đắp trong các thế kỷ
III-VIII.
13
Kaizuka tạm dịch là gò sò điệp hay còn gọi là đống rác bếp Omori được hình thành cuối thời Jomon (cách
ngày nay hơn 1 vạn năm đến thế kỷ III TCN) nằm ở khu vực quận Shinagawa đến quận Ota, thuộc thủ đô
Tokyo.
14
Đây là bản báo cáo kết quả khai quật khảo cổ tại gò sò điệp Omori của Morse. Báo cáo có chất lượng khoa
học cao, bao gồm nhiều hình ảnh và mô tả chính xác di vật, ghi chép lịch sử của di vật thông qua quá trình
quan sát tỉ mỉ, và trong quan hệ so sánh đối chiếu với di vật của các nước khác. Tài liệu này đã trở thành văn
bản mẫu cho các báo cáo khảo cổ học sau này của Nhật Bản.
15
Đại chính thứ 8 (1919), Luật Bảo tồn Di tích lịch sử và Danh thắng tự nhiên (史跡名勝
天然記念物保存法) được chính thức ban hành. Luật gồm 6 điều ngắn gọn nhưng khái
quát khá đầy đủ các nội dung bảo tồn với đối tượng là di tích lịch sử và danh thắng tự
nhiên. Có thể điểm qua một số điều luật chính như dưới đây:
- Điều 1: Bộ trưởng Bộ Nội vụ quy định, chỉ định thiết lập các biện pháp cần
thiết nhằm cấm, hạn chế các hành vi ảnh hưởng đến khu vực bảo tồn của di tích lịch
sử, danh thắng tự nhiên và các công trình kỉ niệm thiên nhiên.
- Điều 2: Bộ trưởng Bộ Nội vụ quy định các cấp địa phương tiến hành quản lý
di tích lịch sử, danh thắng tự nhiên và các công trình kỉ niệm thiên nhiên.
- Điều 3: Quy tắc bảo toàn môi trường và hạn chế việc thay đổi hiện trạng.
- Điều 5: Quy định xử phạt đối với các trường hợp vi phạm.15
Luật qui định Bộ trưởng Bộ Nội vụ xem xét quyết định các di tích lịch sử và danh
thắng tự nhiên được bảo vệ. Trước đó người đứng đầu chính quyền địa phương có thể
ban hành quyết định tạm thời đối với trường hợp cần bảo tồn. Bộ trưởng Bộ Nội vụ qui
định cơ chế bảo tồn các di tích lịch sử, danh thắng tự nhiên như yêu cầu trang bị các thiết
bị cần thiết, cấm hoặc hạn chế một số hành vi nhất định làm ảnh hưởng đến bảo tồn, xác
định phạm vi khu vực bảo tồn, yêu cầu các đoàn thể, cộng đồng địa phương thực hiện
công tác quản lý di tích lịch sử, danh thắng tự nhiên… Luật cũng qui định về xử phạt đối
với những hành vi vi phạm luật hay làm thay đổi hiện trạng của di tích và danh thắng.
Cho đến khi ban hành Luật Bảo tồn Di sản Văn hóa, trong thời gian 30 năm áp
dụng Luật Bảo tồn Di tích lịch sử và Danh thắng tự nhiên (1920-1950), cả nước Nhật
đã có 1.580 di tích và danh thắng được xếp vào danh sách là đối tượng bảo vệ của
luật [18, tr.18]. Từ tháng 12 năm Chiêu Hòa thứ 3 (1928), công tác quản lý hành
chính liên quan đến Bộ luật được chuyển giao cho Bộ Văn hóa.
15
史蹟名勝天然紀念物保存法(大正八年四月十日法律第四十四号), Ministry of Education, Culture,
Sports, Science and Technology’s website,
(ngày cập nhật 5/10/2016)
16
6) Luật Bảo tồn Bảo vật Quốc gia
Vào giữa thập niên 1920, Nhật Bản rơi vào khủng hoảng kinh tế trầm trọng, dẫn
đến tình trạng thất thoát một lượng không nhỏ các bảo vật được lưu giữ trong những
gia đình danh giá xưa. Ngoài ra, sau sự sụp đổ của chế độ Mạc phủ, nhiều công
trình kiến trúc như thành quách, cung điện ở trong tình trạng xuống cấp cần được sửa
chữa gấp. Công tác bảo tồn di sản văn hóa, đặc biệt là di sản không phải là đối tượng của
Luật Bảo tồn di tích chùa xã cổ, càng trở nên cấp bách.
Năm Chiêu Hòa thứ 4 (1929), Luật Bảo tồn Bảo vật Quốc gia được ban hành
thay thế cho Luật Bảo tồn di tích chùa xã cổ. Trong Luật Bảo tồn Bảo vật Quốc gia,
Bộ trưởng Bộ Văn hóa đảm nhận việc xem xét và quyết định xếp hạng đối với công
trình kiến trúc, bảo vật có giá trị lịch sử hoặc mỹ thuật. Nếu trong Luật Bảo tồn di
tích chùa xã cổ, các công trình kiến trúc hoặc bảo vật được bảo vệ đặc biệt thì trong
Luật Bảo tồn Bảo vật Quốc gia, những công trình và bảo vật sau khi có quyết định
sẽ được chính phủ công nhận cấp quốc gia và được gọi là quốc bảo (国宝).
Khi luật này bắt đầu được thi hành từ tháng 7 năm Chiêu Hòa thứ 4 (1929), các
công trình kiến trúc thành quách cổ như thành Himeji16 (姫路城) hay Nagoya17 (名
古屋城) đều được chính phủ công nhận. Bên cạnh đó, nhiều bức họa bích, thư tịch
nằm ngoài sở hữu của chùa chiền cũng được chính phủ công nhận.
16
Thành Himeji được xây dựng vào năm 1346 bởi Akamatsu Sadanori, một samurai thời kỳ đầu Muromachi.
Đây là một trong những kiến trúc thành cổ nhất còn lại ở Nhật Bản và là kiến trúc tiêu biểu cho các thành
quách thời cận đại của Nhật Bản. Himeji đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới (văn hóa) vào năm
1993 và di tích lịch sử đặc biệt của Nhật Bản. Nhiều phần kiến trúc khác nhau của thành Himeji đã được
công nhận là quốc bảo hoặc di sản văn hóa quan trọng của quốc gia. Thành Himeji cùng với thành
Matsumoto và thành Kumamoto hợp thành cái gọi là “Tam đại quốc bào thành” (三大国宝城). Trong đó,
thành Himeji nổi tiếng nhất.
17
Danh cổ ốc thành – Tòa thành cổ Nagoya được xây dựng vào năm 1612 tại Nagoya. Tòa thành được phục
hồi vào năm 1959, do đã bị phá huỷ phần lớn trong Thế chiến thứ hai, và nhiều phần kiến trúc mới được xây
dựng, bao gồm có một bảo tàng hiện đại với các cuộc triển lãm về lịch sử của lâu đài. Các công viên xung
quanh lâu đài được giữ gìn bằng hai đường bao hào phòng vệ và tường kiên cố với góc tháp. Nơi đây đã trở
thành một điểm ngắm hoa hấp dẫn trong suốt mùa hoa anh đào nở tại Nhật Bản.
17
Hình 1.4: Thành cổ Nagoya19
Hình 1.3: Thành Himeji18
Luật Bảo tồn Bảo vật Quốc gia qui định cấm xuất khẩu hay vận chuyển quốc
bảo đi nơi khác. Trường hợp đặc biệt phải có sự cho phép của Bộ trưởng chuyên
trách. Ngoài ra, việc thay đổi hiện trạng của quốc bảo cũng nhất định phải được Bộ
trưởng chuyên trách cho phép. Việc thẩm định, công nhận, cấp phép… đối với quốc
bảo được một hội đồng tư vấn chuyên môn thực hiện, gọi là Hội Bảo tồn Quốc bảo
Nhật Bản (国宝保存会). Ngoài ra, theo luật, khi có quyết định của Bộ trưởng
chuyên trách, cơ quan hay người sở hữu quốc bảo, trong vòng một năm, phải gửi
quốc bảo đến triển lãm tại bảo tàng quốc gia (Bảo tàng Đế quốc) hay các bảo tàng
mỹ thuật. Nếu trước đó, Luật Bảo tồn di tích chùa xã cổ đã không nhắc đến các
nghĩa vụ như gửi bảo vật được công nhận đến triển lãm công khai hay yêu cầu
cơ chế bảo tồn đặc biệt đối với công trình kiến trúc, bảo vật, thì Luật Bảo tồn
mới đã qui định lại các nghĩa vụ này. Ngoài ra, Luật Bảo tồn Bảo vật Quốc gia
còn cấm tự ý loại bỏ quốc bảo thuộc sở hữu của chùa chiền hoặc thần xã, cấm
tự ý chào giá thế chấp hay tịch thu các quốc bảo này. Trường hợp đặc biệt cần
được Bộ trưởng bộ chuyên trách ban hành quyết định cho phép chuyển nhượng
18
(ngày cập nhật 20/10/2016)
19
(ngày cập nhật 20/10/2016)
)
18
thế chấp. Trong khi đó, các bảo vật thuộc dạng sở hữu khác, chỉ cần nộp đơn xin
thay đổi người sở hữu là được.
Về việc tu bổ quốc bảo trong chùa chiền thần xã, luật qui định chùa xã có thể
xin trợ cấp từ chính phủ, ngoài ra, trong trường hợp cần thiết, quốc bảo thuộc sở
hữu ngoài chùa xã cũng có thể xin được nguồn trợ cấp này. Kinh phí trợ cấp tu bổ
được qui định từ 15 vạn yên đến 20 vạn yên. Nếu cần thiết, chính phủ có thể xem
xét bổ sung thêm tiền trợ cấp.
Đối với các trường hợp như xuất khẩu hay vận chuyển bảo vật mà không xin
phép, trường hợp phá hoại hay cất giấu bảo vật, nếu bị phát hiện sẽ bị chịu hình
phạt tù cải tạo dưới 5 năm hoặc bị phạt tiền. Trường hợp tự ý thay đổi hiện trạng
hay thay đổi tên người sở hữu trái luật, sẽ bị phạt cảnh cáo và yêu cầu sửa chữa lại
đúng nguyên trạng ban đầu.
7) Luật về Bảo tồn các tác phẩm mỹ thuật mỹ nghệ
Như đã trình bày, Luật Bảo tồn Bảo vật Quốc gia áp dụng từ năm 1929 quy
định quốc bảo không được phép xuất khẩu để đề phòng việc thất thoát quốc bảo ra
nước ngoài. Tuy nhiên, theo điều tra của Bộ Văn hóa đương thời vẫn diễn ra tình
trạng các bảo vật chưa kịp được thẩm định và xếp hạng đã bị tuồn ra nước ngoài.
Năm Chiêu Hòa thứ 7 (1932), bức tranh cuốn (絵 巻) mang tên Bandainagon
ekotoba20 (伴大納言絵詞) bị đưa ra nước ngoài đã khiến chính phủ nâng cao các
biện pháp đề phòng việc tẩu tán di sản chưa kịp thẩm định ra nước ngoài. Bên cạnh
đó, bối cảnh ý thức dân tộc gia tăng tại Nhật Bản đầu thập niên 1930 cũng góp phần
không nhỏ ảnh hưởng đến việc ban hành qui định đối với các tác phẩm mỹ thuật mỹ
nghệ. Kết quả là năm Chiêu Hòa thứ 8 (1933), Nhật Bản ban hành Luật về Bảo tồn
các tác phẩm mỹ thuật (重要美術品等ノ保存二関スル法律), gồm 5 điều. Những
tác phẩm mới sáng tác trong thời gian dưới 50 năm hoặc được mang từ nước ngoài
vào Nhật Bản trong thời gian dưới 1 năm nằm ngoài đối tượng qui định của luật.
Luật qui định việc xuất khẩu hoặc vận chuyển những tác phẩm đã được thẩm định
20
Bức tranh cuốn được vẽ cuối thời Heian, lấy đề tài về cuộc chính biến năm 866 ở cổng điện Ứng Thiên.
Đây là 1 trong số 4 bức tranh cuốn được công nhận là quốc bảo của Nhật Bản.
19
về giá trị lịch sử hoặc mỹ thuật nhưng chưa có quyết định công nhận phải được Bộ
trưởng có thẩm quyền cấp phép. Bên cạnh đó thông tin này về việc xuất khẩu hay
vận chuyển còn phải được thông báo đến cơ quan hải quan và chủ sở hữu tác phẩm.
Ngay trong năm đầu áp dụng luật (1933) đã có 1.022 tác phẩm được công
nhận. Tính ra đến trước khi Luật Bảo tồn Di sản Văn hóa ra đời (1950) có tổng
cộng 8.282 tác phẩm được công nhận, gồm 7.983 tác phẩm mỹ thuật mỹ nghệ và
299 tác phẩm kiến trúc [18, tr.20].
Nhìn lại quá trình xây dựng chế độ bảo tồn di sản văn hóa từ đầu thời Minh Trị
đến trước năm 1950, có thể thấy đây là một quá trình từng bước xây dựng và chỉnh
sửa nhằm đưa ra các văn bản pháp qui phù hợp với thực tế. Tuy nhiên, cũng chính
được xây dựng trên cơ sở yêu cầu cấp thiết của thực tế xuống cấp của di sản văn
hóa, nên nội dung các văn bản còn sơ khai, dẫn đến chế độ bảo tồn chưa bao quát
một cách toàn diện các lĩnh vực và cấp độ của di sản. Hơn nữa tình trạng luật ban
hành tập trung vào một đối tượng riêng, với biện pháp bảo tồn và cơ quan quản lý
riêng rẽ làm phát sinh mâu thuẫn về nội dung và sự chồng chéo trong quá trình thực
hiện. Đặc biệt, trong bối cảnh nước Nhật bị tàn phá sau chiến tranh, các di sản văn hóa
bị phá hủy hoặc rơi vào tình trạng nguy cấp, việc ban hành luật bảo tồn hoàn chỉnh, tập
hợp các loại hình di sản văn hóa, thống nhất về biện pháp bảo tồn và cơ quan quản lý
nhằm tạo cơ sở cho một chế độ bảo tồn thống nhất và đẩy đủ đem lại hiệu quả cao là
một nhu cầu đặt ra cấp bách.
1.2. Quá trình xây dựng Luật Bảo tồn Di sản Văn hóa năm 1950
1.2.1. Quá trình chuẩn bị dự thảo luật
Sau khi Thế chiến thứ II kết thúc, chính phủ Nhật Bản dưới sự chỉ đạo của Bộ
tổng tư lệnh Liên hợp quốc (連合国総司令部, tức GHQ)21 đứng trước nhiệm vụ
giải quyết các vấn đề kinh tế chính trị xã hội bộn bề thời hậu chiến. Chiến tranh đã
hủy hoại nền móng cơ bản của nền kinh tế vốn có cơ cấu không cân bằng do chính
sách dốc toàn lực cho chiến tranh, tình trạng lạm phát gia tăng trong khi nhu yếu
21
Cơ quan Tư lệnh tối cao của GHQ được đặt tại Yokohama từ tháng 8 năm 1945. GHQ ở Nhật Bản sau Thế
chiến II do Mỹ đại diện lực lượng đồng minh chỉ đạo có nhiệm vụ giám sát Nhật Bản thực hiện các điều
khoản theo tuyên bố Postdam và văn kiện đầu hàng vô điều kiện của Nhật Bản.
20
phẩm khan hiếm. Bên cạnh việc tái cơ cấu nền kinh tế, giải thể các tập đoàn tài
phiệt, tái thiết lập quy trình sản xuất nông nghiệp tự chủ..., việc giải quyết các vấn
đề văn hóa xã hội cũng được đặt ra cấp bách, trong đó có tình trạng hủy hoại, xuống
cấp và thất thoát di sản, cổ vật. Nhiều chủ sở hữu bảo vật rơi vào tình trạng kiệt quệ
phải bán nhượng lại các tài sản được để lại. Tình trạng trộm cắp, mua bán bảo vật
tại chợ đen và tuồn ra nước ngoài diễn ra nhức nhối. Các công trình kiến trúc, lịch
sử, danh thắng bị tàn phá hoặc xuống cấp do bị trưng dụng cho mục đích sản xuất,
cư trú trong và sau chiến tranh khiến địa phương và chủ sở hữu tư nhân khó có thể
phục hồi và quản lý.
Bên cạnh đó, bản thân nguồn ngân sách của quốc gia đã cạn kiện không thể
cung cấp tài lực và vật lực cho việc bảo quản di sản. Việc quản lý và thống kê di sản
mặc dù bị đình trệ trong chiến tranh nhưng số lượng quốc bảo, tác phẩm mỹ thuật
mỹ nghệ, công trình tôn giáo lịch sử kiến trúc được công nhận… đã vượt quá số
lượng mà ngân sách phục vụ bảo tồn cho phép. Điều này dẫn đến tình trạng chính
sách bảo tồn trở nên lỏng lẻo, hình thức ở cả cấp trung ương và địa phương. Đặc
biệt, chế độ đảm bảo quyền lợi cho người sở hữu và cộng đồng không được quan
tâm đúng mức càng khiến tình trạng mua bán xâm phạm gia tăng.
Nhằm giải quyết các vấn đề nêu trên, từ cuối thập niên 1940, Bộ Văn hóa Nhật
Bản bắt tay vào điều tra hiện trạng di sản, đồng thời tranh thủ kinh nghiệm và ý kiến
tư vấn của các học giả trong nước và nước ngoài làm cơ sở để xây dựng dự thảo luật
bảo tồn mới đối với di sản văn hóa. Năm Chiêu Hòa thứ 23 (1948) chính phủ công
bố kết luận về việc chuẩn bị đệ trình dự thảo Luật Bảo tồn Di sản Văn hóa với nội
dung bao quát, thay thế cho các luật riêng rẽ đã được ban hành. Đúng vào thời gian
này vụ cháy tại Kim đường chùa Horyu22 đã gây nên cú sốc lớn trong dư luận, khiến
chính phủ và quốc hội Nhật Bản ưu tiên việc nhanh chóng xem xét dự thảo luật.
Tháng 3 năm Chiêu Hòa thứ 24 (1949), Bộ Văn hóa thông qua Phòng Mỹ thuật
thuộc Cục Giáo dục Thông tin Nhân dân kết hợp với GHQ tổ chức buổi công bố và
giải thích về dự thảo luật với các điểm nhấn sau.
22
Sự việc xảy ra ngày 26 tháng 1 năm 1949 tại Kim đường có tuổi đời ngàn năm của chùa Horyu. Vụ hỏa
hoạn diễn ra khi đang thi công tháo lắp để sửa chữa Kim đường và làm hư hỏng nặng một tác phẩm bích họa
Phật giáo của thế kỷ thứ VII.
21
1) Hợp nhất nội dung Luật Bảo tồn Bảo vật Quốc gia và Luật về Bảo tồn các tác
phẩm mỹ thuật.
2) Tăng cường qui định biện pháp ngăn chặn việc chảy máu cổ vật ra nước
ngoài.
3) Thiết lập chế độ thống nhất về thẩm định và chỉ định bảo vật quốc gia.
4) Tăng cường vai trò cộng đồng như quyền điều tra, quyền hạn quản lý quốc
bảo, vai trò của các đoàn thể và chính quyền địa phương đối với việc quản lý, kiểm
tra và duy trì môi trường của quốc bảo và các công trình kiến trúc, tôn giáo, lịch sử.
5) Làm rõ chính sách đối với cá nhân và tổ chức sở hữu quốc bảo, hỗ trợ kinh
phí nhà nước cho những hoạt động bảo tồn quốc bảo cần thiết, hỗ trợ ngân sách nhà
nước cho việc tu sửa các công trình kiến trúc xếp hạng cao, qui định rõ về mua bán
quốc bảo.
6) Hợp pháp hóa khoản ngân sách định kỳ cho bảo tồn quốc bảo.
7) Miễn thuế tài sản đối với quốc bảo.
8) Tăng cường các biện pháp xử phạt đối với hành vi vi phạm.
Việc sửa đổi không chỉ liên quan đến các nội dung cơ bản về chế độ mà còn các
tiêu chí đánh giá phân loại phục vụ xếp hạng hợp lý hơn đối với quốc bảo, tác phẩm
mỹ thuật trọng yếu do số lượng các hiện vật được thống kê quá nhiều.
1.2.2. Quá trình thảo luận, chỉnh sửa và thông qua Luật Bảo tồn Di sản
Văn hóa
Ngày 30 tháng 5 năm Chiêu Hòa thứ 25 (1950), ông Yamamoto Yuzo, ủy viên
Ủy ban Pháp chế của Thượng nghị viện, được sự đồng thuận của 17 vị ủy viên còn
lại, đã đọc tuyên bố ban hành Luật Bảo tồn Di sản Văn hóa. Luật bắt đầu có hiệu
lực từ ngày 29 tháng 8 cùng năm.
Để có được công bố này sau khoảng 1 năm, dự thảo luật đã trải qua một quá
trình xem xét và thảo luận khẩn trương nhưng gay cấn tại quốc hội. Tổng số 130
điều của dự thảo luật nhận được ý kiến đóng góp và thảo luận từ nhiều góc độ của
các nghị sĩ Thượng viện và Hạ nghị viện. Những thăng trầm trong quá trình thảo
22