Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

THỰC TRẠNG CÔNG TY ĐA QUỐC GIA SỬ DỤNG THIÊN ĐƯỜNG THUẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.99 KB, 35 trang )

ĐỀ TÀI: CÁC CÔNG TY ĐA QUỐC GIA SỬ DỤNG THIÊN ĐƯỜNG
THUẾ NHẰM TRỐN THUẾ DƯỚI NHỮNG HÌNH THỨC NÀO ?
PHÂN TÍCH MỘT VÀI VÍ DỤ CỤ THỂ

MỤC LỤC

1

1


CHƯƠNG 1. THIÊN ĐƯỜNG THUẾ
1.1. Khái quát về các công ty đa quốc gia
1.1.1. Khái niệm
Công ty đa quốc gia, thường viết tắt là MNC (từ các chữ Multinational
corporation) hoặc MNE (từ các chữ Multinational enterprises), là khái niệm
để chỉ các công ty sản xuất hay cung cấp dịch vụ ở ít nhất hai quốc gia. Các
công ty đa quốc gia lớn có ngân sách vượt cả ngân sách của nhiều quốc gia.
Công ty đa quốc gia có thể có ảnh hưởng lớn đến các mối quan hệ quốc tế và
các nền kinh tế của các quốc gia. Các công ty đa quốc gia đóng một vai trò
quan trọng trong quá trình toàn cầu hóa; một số người cho rằng một dạng mới
của MNC đang hình thành tương ứng với toàn cầu hóa – đó là xí nghiệp liên
hợp toàn cầu.
Một số công ty đa quốc gia tại Việt Nam: Viettel, Toyota, Honda,
BMW, Nestle, Samsung, Sony, Apple, Google, Boeing, Microsoft, Nike,
Pepsico, Unilever, Philips, Toshiba,...
1.1.2. Đặc điểm của các cty đa quốc gia
Đặc điểm đầu tiên của MNC chính là các chi nhánh của nó phải chịu
tác động của các áp lực môi trường quan trọng như các đối thủ cạnh tranh,
khách hàng, nhà cung ứng, các tổ chức tài chính, và nhà nước kể cả trong và
ngoài nước. Trong một số trường hợp, các áp lực tương tự nhau cùng hiện


hữu tại nước nhà và nước khách. Ví dụ, rất nhiều đối thủ cạnh tranh của công
ty GMC tại thị trường Hoa Kỳ thì cũng tương tự như tại thị trường Châu Âu:
Ford, Chrysler, Honda, Volkswagen, và Volvo.
Đặc điểm thứ hai của MNC đó là các chi nhánh của chúng cùng sử
dụng một nguồn lực chung, các nguồn lực này bao gồm các tài sản hữu hình,
sáng chế, nhãn hiệu, thông tin, và nhân lực. Do các chi nhánh là một bộ phận
của MNC cho nên nó được quyền sử dụng những tài sản mà các đơn vị bên
ngoài không được quyền sử dụng. Ví dụ, cả Ford và GMC cạnh tranh với
nhau rất quyết liệt tại thị trường EC và rất nhiều kiểu dáng được thiết kế và
phát triển tại thị trường EC cũng đã được sử dụng tại thị trường Hoa Kỳ. Mặt
khác dòng thông tin hai chiều giữa thị trường EC và Hoa Kỳ do các chi nhánh
thực hiện đã góp phần phát triển một thị trường thế giới hoàn chỉnh. Tương tự
như vậy, nếu một chi nhánh tại Nhật Bản cần mở rộng ngân quỹ, MNC sẽ
2

2


xem xét khả năng vay nguồn ngân quỹ này tại thị trường địa phương có thấp
hay không, nếu không thì MNC sẽ sử dụng nguồn lực từ công ty để cho chi
nhánh này sử dụng.
Đặc điểm thứ ba của MNC chính là các chi nhánh của MNC được liên
kết với nhau bởi một sứ mệnh chiến lược chung. Mỗi MNC sẽ xây dựng một
kế hoạch chiến lược để phối hợp hoạt động của các chi nhánh một cách đồng
bộ và có hiệu quả nhất. Tùy theo đặc điểm của từng MNC, các kế hoạch chiến
lược này sẽ được xây dựng một cách tập trung hay phân quyền từ cơ sở. Một
số MNC kết hợp cả hai phương thức này trong việc xây dựng kế hoạch chiến
lược, tiêu biểu cho sự kết hợp này đó là cách làm của GMC.
1.1.3. Hình thức của các công ty đa quốc gia
Thông qua cách thức đầu tư của MNC mà FDI sẽ hình thành các biểu

hiện như sau:
• Thành lập công ty 100% vốn nước ngoài: đây là hình thức các MNC đầu tư
vốn vào nền kinh tế của một nước để lập công ty 100% vốn nước ngoài. Các
công ty này thuộc quyền sở hữu và chịu sự quản lý điều hành về kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh của mình trước pháp luật nước sở tại.
• Tham gia các hợp đồng kinh tế, hợp đồng kinh doanh: là hình thức mà một
chủ đầu tư nước ngoài liên kết một chủ đầu tư trong nước sở tại để thực hiện
một hay nhiều hoạt đọng kinh doanh ở nước sở tại trên cơ sở quy định rõ về
trách nhiệm của từng bên cũng như quyền lợi trong công việc phân chia lợi
nhuận. Đối với hình thức này thì không cần thành lập công ty hay xí nghiệp
hay nói cách khác là không ra đợi một tư cách pháp nhân khách tại nước tiếp
nhận đầu tư.
• Mua lại một phần hay toàn bộ một doanh nghiệp đang hoạt động tại nước tiếp
nhận đầu tư.
• Góp vốn liên doanh liên kết với nước chủ nhà: các bên tham gia góp vốn liên
doanh phải có trách nhiệm góp vốn liên doanh, đồng thời phân chia lợi nhuận
và rủi ro theo tỷ lệ góp vốn.
• Hình thức xây dựng - vận hành - chuyển giao và một số hình thức tương tự
khác như xây dựng, chuyển giao và vận hành; xây dựng và chuyển giao là các
loại hình đầu tư nhằm khuyến khích xây dựng các công trình hạ tầng như:
3

3


cầu, đường, bến cảng và công trình cung cấp năng lượng trong lúc mà nhà
nước tiếp nhận đầu tư còn nhiều khó khăn về mặt tài chính.
MNC bao gồm công ty mẹ ở một nước, và thực hiện các đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài để hình thành các công ty con. Các công ty mẹ con này ảnh
hưởng lẫn nhau và cùng chia sẻ kiến thức, nguồn lực và trách nhiệm lẫn nhau.

Trong một tập đoàn đa quốc gia có xác lập các mối quan hệ thân thuộc: (1)
mối quan hệ chiều dọc giữa công ty mẹ và các công ty con (quan hệ kiểm soát
hay quan hệ chi phối tùy thuộc vào tỷ lệ vốn tham gia đầu tư); (2) quan hệ
chiều ngang giữa các công ty con với nhau. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt
động các giao dịch các công ty trong mối quan hệ này đều được quyết định
hoặc ảnh hưởng từ công ty mẹ.
Các MNC phát triển rất nhanh và có vai trò vô cùng to lớn trong nền
kinh tế thế giới, sản xuất ra khoảng từ 20% đến 25% tổng sản lượng của toàn
thế giới và chiếm 90% tổng khối lượng đầu tư nước ngoài trên toàn cầu.
1.1.4. Cơ cấu tổ chức của công ty đa quốc gia
Các MNC có thể xếp vào ba nhóm lớn theo cấu trúc phương tiện sản
xuất như sau:
• Công ty đa quốc gia "theo chiều ngang" là các công ty đa quốc gia mà có hoạt
động sản xuất kinh doanh các sản phẩm cùng loại hoặc tương tự tại các quốc
gia mà công ty này có mặt. Một công ty điển hình với cấu trúc này là công ty
Mc Donalds.
• Công ty đa quốc gia "theo chiều dọc" là công ty có các cơ sở sản xuất hay các
chi nhánh, công ty con tại một số quốc gia sản xuất ra các sản phẩm mà các
sản phẩm này lại là đầu vào để sản xuất ra sản phẩm của các công ty con hay
các chi nhánh tại các quôc gia khác. Một ví dụ điển hình cho loại hình cấu
trúc này là công ty Adidas.
• Công ty đa quốc gia "nhiều chiều" là công ty có nhiều chi nhánh hay công ty
con tại nhiều quốc gia khác nhau mà các công ty này phát triển và hợp tác với
nhau cả chiều ngang lẫn chiều dọc. Một ví dụ điển hình cho loại hình công ty
đa quốc gia có cấu trúc như này là Microsoft.

4

4



1.2. Thiên đường thuế
1.2.1. Khái quát về thiên đường thuế
Thiên đường thuế được xem là nơi trú ẩn an toàn cho các công ty đa
quốc gia trên thế giới, là nơi đặt các văn phòng hay trụ sở chính của các công
ty đa quốc gia (MNC), cũng là nơi chuyển tiền của tội phạm quốc tế nếu
không được kiểm soát chặt chẽ. Đây là các quốc gia hoặc các vùng lãnh thổ
có thuế suất thấp hơn đáng kể so với các nước khác hoặc không đánh thuế đối
với các công ty, cá nhân nước ngoài. Tuy nhiên, không phải tất cả các quốc
gia có mức thuế thấp hay bằng 0% đều được xem là thiên đường thuế. Tổ
chức OECD đã đưa ra 3 tiêu chí cơ bản để một quốc gia hay vùng lãnh thổ
được xem là thiên đường thuế như sau:
• Không có thuế hay mức thuế tượng trưng.
Điều này tạo điều kiện để cư dân tại một quốc gia có mức thuế cao
chuyển tài sản hay lợi nhuận về những nơi có mức thuế thu nhập thấp hơn
nhằm giảm bớt số tiền thuế phải nộp hoặc để trốn thuế.
• Bảo vệ thông tin tài chính cá nhân.
Các thiên đường thuế thường có luật hay có thông lệ quản lý nhằm bảo
mật thông tin của cá nhân hay doanh nghiệp trước yêu cầu cung cấp thông tin
của các cơ quan thuế nước ngoài. Điều này ngăn cản quá trình truyền thông
tin về người nộp thuế được hưởng lợi từ hệ thống quy định pháp luật.
• Không công khai.
Thiếu minh bạch gây ra khó khăn cho các cơ quan quản lý thuế của
nước ngài khi muốn áp dụng hiệu quả luật của nước họ. Theo tổ chức OECD
việc tiếp cận các thông tin của người nộp thuế tại các quốc gia mà khó khăn
hoặc không thể thì đó là yếu tố quan trọng để xét quốc gia hay vùng lãnh thổ
đó là thiên đường thuế. Cũng theo nhận định của OECD, mỗi quốc gia có
quyền định mức thuế của quốc gia mình thấp hoặc bằng 0%, nhưng nếu thông
tin về tài sản và thu nhập vẫn được công khai cho các cơ quan thuế nước
ngoài thì chưa hẳn đó là một thiên đường thuế.

1.2.2. Đặc điểm thiên đường thuế
1.2.1.1. Thuế suất áp dụng
• Mức thuế suất áp dụng rất thấp
Ở Liechtenstein, thuế áp đặt cho các công ty rất ưu đãi, mức thuế tối
5

5


đa là 18% trong khi mức trung bình của Châu Âu lên tới 30%
• Nếu có thì chỉ áp dụng thuế trên danh nghĩa
Trước đây Gibraltar – quốc gia nằm giữa Tây Ban Nha và Anh bị coi
là 1 thiên đường trốn thuế khi các công ty ở đây hàng năm chỉ phải nộp một
khoản thuế lợi tức là 400 EUR, thấp đến mức gần như không đáng kể. Sau khi
bị dư luận phê phán và bị coi là không phù hợp với luật thuế của EU, chính
sách thuế đã được thay đổi lại là: không áp thuế theo doanh thu hay lợi
nhuận mà theo số công nhân làm việc cho công ty đó với mức
4.500EUR/người. Nhưng vì đại đa số hay gần hết các công ty ở đây hầu như
không có công nhân làm việc và thường chỉ do một văn phòng luật sư ở
Gibraltar quản lý nên quy định mới về thuế này chỉ là danh nghĩa.
• Không áp nhiều loại thuế
Bermuda là nơi có mức thuế thu nhập doanh nghiệp là 0% đồng thời
cũng không có thuế thu nhập cá nhân. Nhờ chính sách thuế này, các công ty
đa quốc gia của Mỹ kiếm được bộn tiền ở Bermuda, với lợi nhuận năm 2012
là 80 tỷ USD. Con số này lớn hơn lợi nhuận của các công ty Nhật Bản, Trung
Quốc, Pháp và Đức cộng lại.
Andorra là quốc gia nằm giữa biên giới Pháp và Tây Ban Nha không
thu thuế GTGT, thuế thu nhập hay thuế tài sản.
1.2.1.2. Về khai báo Tài chính Quốc Tế
• Đề cao bảo mật thông tin tài chính cá nhân, dẫn đến thiếu minh bạch

thông tin. Các khách hàng được phép mở tài khoản tại thiên đường thuế
mà có thể ẩn danh.
• Bất hợp tác trong khai báo tài chính quốc tế. Hạn chế các nhà điều tra
nước ngoài tiếp cận thông tin. Không cho phép các thanh tra thuế nước
ngoài điều tra hoạt động trốn thuế trong lãnh thổ.
VD: Tại Thụy Sỹ áp dụng Luật bảo mật ngân hàng, theo dó các thông tin và
các tài khoản của khách hàng được bảo mật hoàn toàn, ngay cả các tổ chức
hay thanh tra có thẩm quyền trên quốc tế cũng không được cung cấp thông
tin. Theo ước tính, lượng tài sản trốn thuế đang được cất giữ tại các ngân
hàng ở Thụy Sỹ vào khoảng 4.700 tỷ USD. Từ thế chiến thứ hai, Đức quốc xã
và cả những người Do Thái đều đánh giá cao dịch vụ bí mật của Thụy Sỹ.
Sau chiến tranh, nhiều tên trùm ma túy của Columbia, giới độc tài Châu Phi
6

6


và những kẻ trốn thuế từ nhiều nước đều “gửi gắm” hàng tỷ USD tại các
ngân hàng ở Thụy Sỹ.
1.2.3. Tác hại của thiên đường thuế
a. Tạo điều kiện cho hoạt động chuyển giá, rửa tiền
Các công ty đa quốc gia thực hiện chuyển giá đến các công ty con có
trụ sở đặt tại các thiên đường thuế để hưởng mức thuế suất cực thấp tại đây.
Để đơn giản hóa, có thể hình dung mô hình “trốn thuế” theo phương thức
chuyển giá như sau: Giả sử một tập đoàn đa quốc gia có công ty mẹ (A) đặt
tại chính quốc, cung cấp nguyên liệu cho các công ty con (B) tại các nước
đang phát triển. Ngoài ra, tập đoàn này còn lập ra một công ty bình phong (C)
tại một thiên đường thuế nào đó để tối thiểu hóa số thuế phải nộp và tối đa
hóa lợi nhuận.
Công ty C sẽ mua nguyên liệu từ công ty A với giá rẻ rồi bán cho công

ty B với giá cao. Rõ ràng, hàng hóa nguyên liệu sẽ được vận chuyển trực tiếp
từ A đến B, nhưng phần lớn lợi nhuận lại thuộc về C. Ở chính quốc, công ty A
sẽ đóng thuế thấp do lợi nhuận thấp vì bán nguyên liệu giá rẻ cho C, còn ở các
nước đang phát triển - phần thuế phải nộp cũng thấp, có khi chẳng tốn xu nào
vì B kinh doanh không có lãi do nhập khẩu nguyên liệu từ C với giá cao.
Đó là chưa kể có khi công ty B còn được hưởng chính sách trợ thuế hấp
dẫn từ các nước đang phát triển - vốn cần nguồn vốn đầu tư FDI.
VD: Về mặt này, các công ty công nghệ - vốn có vô vàn bản quyền trí
tuệ để thuyên chuyển lòng vòng, chính là những bậc thầy của “nghệ thuật”
chuyển giá. “Gã khổng lồ” tìm kiếm Google là một ví dụ. Công ty này tránh
khoản thuế 2 tỉ USD vào năm 2011 bằng cách chuyển gần 10 tỉ USD vào một
công ty tại Bermuda, quốc gia không đánh thuế doanh nghiệp.
Ngoài ra vào năm 2001, khi Tập đoàn Enron của Mỹ bị điều tra, người
ta phát hiện công ty này có đến 881 chi nhánh và 692 trong số đó đăng ký
hoạt động chỉ riêng ở quần đảo Caimans.
b. Che giấu thu nhập bất chính
Nếu không có thiên đường thuế, khi có nguồn thu nhập nào đó, các tổ
chức, cá nhân bắt buộc phải khai báo nguồn gốc của thu nhập. Đồng thời, nếu
thu nhập này lớn thì khoản tiền thuế thu nhập phải đóng là rất cao. Nhưng khi
có thiên đường thuế thì tại đây họ mở 1 tài khoản mới, các thiên đường thuế
7

7


thường cho phép khách hàng ẩn danh khi mở tài khoản đồng thời đảm bảo
việc bảo mật thông tin (do không chấp nhận việc khai báo tài chính với các cơ
quan thanh tra quốc tế), vì vậy các tài khoản này được lập ra mà không ai biết
nguồn gốc hay chủ nhân thực sự của nó. Việc không minh bạch về thông tin
này thường được các đối tượng xấu, các cá nhân muốn trốn thuế lợi dụng triệt

để.
Có thể nói, giới nhà giàu và quyền lực - bằng cách giấu tài sản ở nước
ngoài, đã chiếm đoạt của các quốc gia những khoản thuế cần thiết để phục vụ
đầu tư cho các dịch vụ thiết yếu như chăm sóc sức khỏe và giáo dục. Đó là
cách làm lợi bất hợp lý từ sự mất mát của người khác.
Tầng lớp siêu giàu Thế giới giấu ít nhất 21.000 tỷ USD trong những
thiên đường thuế “bí mật” tính đến cuối năm 2010. Nhưng theo một nghiên
cứu lớn được công bố vào năm 2012 của James Henry – cựu kinh tế trưởng
tại Công ty tư vấn tài chính hàng đầu Thế giới McKinsey, ông Henry cho biết
21.000 tỉ USD chỉ là một con số dè dặt và quy mô thật sự có thể lên đến
32.000 tỉ USD – tức là bằng GDP của 2 nước đứng đầu thế giới là mỹ và
Trung Quốc cộng lại.
c. Các quốc gia giảm khả năng điều tiết của ngân sách
Khi xảy ra hiện tượng chuyển giá, hệ thống thuế của quốc gia bị mất
một khoản thu lớn khiến cho ngân sách bị thiếu hụt, đặc biệt là vào những
thời kỳ khủng hoảng kinh tế. Hơn nữa khi các cá nhân, tổ chức lựa chọn thiên
đường thuế để gửi gắm thu nhập, số tiền gửi đáng lẽ nằm trong hệ thống ngân
hàng trong nước thì nay lại nằm tại các ngân hàng tại thiên đường thuế. Như
vậy, ngân hàng cũng giảm khả năng hỗ trợ nhà nước trong việc cấp ngân sách.
Thậm chí các nước nghèo còn không có tiền cho việc đầu tư cho y tế và giáo
dục.
Các thiên đường thuế rõ ràng chỉ làm lợi cho nhiều cá nhân giàu có và
công ty đa quốc gia, các đối tượng muốn che giấu thu nhập bất chính từ tham
nhũng, buôn bán vũ khí, ma túy... trong khi làm giảm khả năng thu hồi thuế
của nhà nước, đặc biệt các nước nghèo phải chịu thiệt hại lớn nhất.
Theo nhận định của Oxfam, hành vi trốn thuế của các công ty đa quốc
gia khiến các nước nghèo mất đi ít nhất 100 tỷ USD hàng năm. Số tiền này đủ

8


8


để tạo cơ hội cho 124 triệu trẻ em thất học được đến trường và cứu sống ít
nhất 6 triệu trẻ em mỗi năm.
VD: 1. Oxfam tạm tính rằng, nguồn thu thuế bị mất từ số tiền của một
số cá nhân người Malawi, hiện đang giữ tại các tài khoản ngân hàng HSBC ở
Geneva, bị tiết lộ trong vụ bê bối Swissleaks (vụ Ngân hàng HSBC ở Thụy Sĩ
giúp hơn 100.000 người trốn thuế năm 2015), có thể trả lương cho khoảng
800 y tá trong một năm.
Trong khi đó, một nửa trong tổng số 16 triệu dân Malawi đang sống
trong nghèo khổ. Hệ thống y tế còn không có đủ nhân viên và nguồn dược
phẩm thiết yếu, trung bình chỉ khoảng 3 y tá cho mỗi 10.000 người dân.
2. Trong khi Hy Lạp đang phải hứng chịu khủng hoảng nợ công và
phải nhờ đến các gói cứu trợ của IMF hay của EU thì có đến khoảng 16 tỷ
EUR đã bị người dân Hy Lạp chuyển ra nước ngoài để trốn thuế đến mức thr
tướng của Hy Lạp đã phát biểu trước toàn bộ EU rằng: “Nếu không có tình
trạng này thì chắc chắn Hy Lạp sẽ không bao giờ phải cần tới các gói cứu
trợ”
1.2.4. Lợi ích của thiên đường thuế
Lợi ích họ thu được chính là từ những khoản tiền gửi. Số tiền hiện đang
nằm trong các thiên đường thuế của các công ty đa quốc gia ước tính lên đến
hàng ngàn tỷ USD. Lượng tiền này được gửi vào các ngân hàng tại thiên
đường thuế, các ngân hàng này tất nhiên không để khoản tiền này “chết” tại
quỹ mà sẽ đem đi đầu tư khắp thế giới từ đó thu về những khoản lợi nhuận
khổng lồ. Ngoài ra phí dịch vụ họ nhận được từ các dịch vụ tài chính cũng
không phải là nhỏ. Có thể nói, trên bản đồ thế giới, các thiên đường thuế chỉ
là những dấu chấm nhỏ cả về diện tích lẫn dân số nhưng mỗi năm, hàng tỉ
USD được luân chuyển vào hệ thống ngân hàng trên thế giới từ những địa
danh này.

VD: Ngân hàng và các dịch vụ tài chính “bí mật” chiếm tỷ trọng lớn
trong nền kinh tế của Liechtenstein. Lĩnh vực này giải quyết việc làm cho
14,3% lực lượng lao động và đóng góp 30% vào GDP trị giá 2,7 tỷ euro.
Công quốc này có tất cả 15 ngân hàng và hơn 300 người được ủy thác
( thường là luật sư) điều hành hàng ngàn quỹ đầu tư.

9

9


1.2.5. Một số ví dụ về thiên đường thuế
• Luxembourg
Luật công quốc nhỏ bé trong Liên minh EU cho phép bảo vệ sự bí mật
thông tin về tài sản cho các doanh nghiệp và cá nhân. Đồng thời, thuế suất
doanh nghiệp thấp cũng giúp Luxembourg thu hút những dòng vốn đầu tư
khổng lồ.
• Thụy Sỹ
Thông tin khách hàng được bảo mật là điểm hấp dẫn nhất mà các nhà
băng Thụy Sỹ có được đối với khách hàng. Tuy nhiên, cách đây ít lâu, chính
quyền của Tổng thống Mỹ Barack Obama với quyết tâm chống trốn thuế đã
gây áp lực buộc ngân hàng lớn nhất Thụy Sỹ UBS công bố danh tính hàng
loạt khách hàng Mỹ.
• Cayman Islands
Đây là mộ quần đảo nhỏ bé nhưng cũng có thể được xem là một trung
tâm tài chính của thế giới, nổi tiếng vì mức độ bảo mật thông tin cao và thuế
suât thấp.
• Bermuda
Bermuda là một địa chỉ đăng ký kinh doanh ưa thích của các công ty
Mỹ. Nhiều doanh nghiệp trụ sở tới các thiên đường thuế như Bermuda, trong

khi hoạt động thực tế vẫn duy trì trên đất Mỹ.
• Tiểu bang Delaware
Tiểu bang này được xem là một thiên đường thuế đối với các doanh
nghiệp ngay trên đất Mỹ. Có quá nửa số công ty đại chúng trong danh sách
500 doanh nghiệp lớn nhất của Mỹ đăng ký tại bang này để hưởng mức thuế
suất thấp và được bảo vệ bí mật thuế.
• Singapore
Đảo quốc sư tử đang được xem là một “ứng cử viên” thay thế cho Thụy
Sỹ một khi “pháo đài bí mật” trong các nhà băng Thụy Sỹ bị phá vỡ.
1.2.2. Một vài công ty chuyên trốn thuế qua thiên đường thuế
• Yahoo
Được biết, Yahoo đã đạt được thỏa thuận trả số thuế tương đương với
1,35% tổng doanh thu của chi nhánh tại Hà Lan. Dữ liệu cho thấy trong năm
2009, chi nhánh này nộp khoản thuế thu nhập trị giá 1,28 triệu euro cho chính
10
10


phủ Hà Lan. Tuy nhiên, đổi lại, chi nhánh này đã giúp Yahoo chuyển 101,5
triệu euro lợi nhuận tới các thiên đường thuế. Do đó, có thể dễ dàng nhận thấy
Yahoo chỉ phải trả chi phí rất nhỏ để trốn được lượng thuế lớn.
• Dell
Một trong những mục đích lớn nhất của các hiệp định thuế là tránh hiện
tượng 1 công ty bị đánh thuế 2 lần ở 2 quốc gia khác nhau trên cùng 1 khoản
lợi nhuận. Tuy nhiên, Dell lại sử dụng Hà Lan để không phải chịu thuế ở cả 2
nơi. Nhà sản xuất máy tính cá nhân lớn thứ 3 thế giới đã trốn được khoảng 4
tỷ USD tiền thuế kể từ năm 2004, nhờ việc sử dụng 1 chi nhánh ở Hà Lan có
tên gọi Dell Global BV. Chi nhánh này chỉ trả thuế thu nhập ở mức 1/10 của
1% đối với khoản lợi nhuận 2 tỷ USD trong năm 2011. Theo các tài liệu, chi
nhánh này không hề có nhân viên.

Với mục đích trốn thuế, Dell khẳng định lợi nhuận của chi nhánh ở Hà
Lan được tạo ra ở Singapore, nơi Dell thiết kế và bán laptop cùng với các
thiết bị khác ra thị trường Mỹ, châu Âu và châu Á.. Và, mặc dù nhận được ưu
đãi về thuế và gần như không phải trả thuế tại Singapore, chi nhánh ở Hà Lan
cũng không bị áp thuế bởi qui định không đánh thuế 2 lần.
• Starbucks
Doanh số kinh doanh năm 2012 của Starbucks tăng 4% so với năm
trước đó, và đạt 413 triệu Bảng Anh. Vậy mà Starbucks báo cáo là thua lỗ 30
triệu Bảng Anhnên không phải đóng thuế lợi nhuận. Cứ như thế suốt 15 năm
qua. Lý giải của Starbucks là các chi nhánh của Starbucks ở nước Anh tuy
kinh doanh phát đạt thật, nhưng phải nộp "lệ phí bản quyền" cho công ty mẹ
rất nhiều nên thua lỗ.Cách làm của họlà đóng thuế lợi tức ở nơi áp dụng mức
thuế thấp như Hà Lan hay Luxembourg chẳng hạn, và trốn thuế ở những nơi
áp dụng mức thuế cao như Anh, Đức hoặc ở Mỹ. Để đạt được mục đích ấy, họ
thành lập mạng lưới công ty mẹ con ràng buộc lẫn nhau, theo phương châm
càng phức tạp và rối càng tốt.
• Apple
Hãng Apple còn có độc chiêu là tiền dự trữ ở nước ngoài rất nhiều
nhưng vẫn đi vay tiền trên thị trường tài chính ở Mỹ để chi trả. Rồi khoản lãi
của công ty con được chu chuyển và phân tán đi nhiều nơi dưới nhiều hình
thức khác nhau để cuối cùng trên sổ sách chỉ thấy lỗ dài hết năm này đến năm
11

11


khác. Mà đã kinh doanh thua lỗ thì làm gì có lãi để mà phải nộp thuế lợi
tức.Tháng 9 vừa qua, EU đã phán quyết cơ quan thuế Ireland đã hành động
vượt ra ngoài các luật pháp quốc tế khi ký thỏa thuận ưu đãi thuế với Apple.
Ireland là một thiên đường thuế cho nhiều công ty nước ngoài với mức thuế

doanh nghiệp chỉ có 12,5%. Tuy nhiên theo điều tra của Thượng viện Mỹ,
Apple thậm chí chỉ trả chưa tới 2% mức thuế ở đâyvà các nhà điều tra phát
hiện ra rằng các thỏa thuận đã cho phép công ty này trả mức thuế rất thấp
trong hơn 20 năm qua.

12

12


CHƯƠNG 2. CÁC HÌNH THỨC LIÊN QUAN ĐẾN TRỐN THUẾ CỦA
CÁC CÔNG TY ĐA QUỐC GIA TẠI THIÊN ĐƯỜNG THUẾ
2.1. Hoạt động chuyển giá tại thiên đường thuế
2.1.1. Khái niệm chuyển giá
Các thiên đường thuế là những mảnh đất màu mỡ để thực hiện hành vi
chuyển giá - một thủ đoạn chính mà các tập đoàn và công ty đa quốc gia áp
dụng để trốn thuế. Chuyển giá là việc điều chỉnh chính sách giá đối với hàng
hóa, tài sản vô hình và hữu hình, các dịch vụ tài chính giữa công ty mẹ và
công ty con hay giữa các công ty con với nhau trong cùng một MNC đặt tại
các quốc gia và vùng lãnh thổ có mức thuế suất khác nhau nhằm mục đích
cuối cùng là tối thiểu hoá số thuế phải nộp của các công ty đa quốc gia.
Thông qua hoạt động chuyển giá, các MNC sẽ thực hiện ý đồ trốn tránh
việc nộp thuế thu nhập doanh nghiệp tại các quốc gia có thuế suất cao. Thông
qua các nghiệp vụ chuyển giá, các MNC sẽ chuyển thu nhập của mình ra khỏi
quốc gia có mức thuế thu nhập doanh nghiệp cao mà MNC này có trụ sở.
Hiện nay, các MNC có nhiều chi nhánh, công ty con trên nhiều quốc gia khác
nhau mà các công ty này mua bán hàng hoá, cung cấp dịch vụ cho nhau. Các
hoạt động này có thể chứa đựng trong đó là các hoạt động chuyển gia, giá cả
của hàng hoá dịch vụ trong các nghiệp vụ chuyển giao này được tính theo một
xu hướng chủ quan mà không hề dựa trên chi phí thực tế tạo nên sản phẩm

hay dịch vụ được cung cấp. Thông qua hoạt động chuyển giá sẽ mang về cho
các MNC một khoản lợi nhuận lớn trong khi các MNC này không cần phải nỗ
lực nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ hay mở rộng phát triển thị trường
mà chỉ cần những hoạt động phù phép trên sổ sách kế toán. Nói tóm lại, bản
chất của hoạt động chuyển giá là việc lựa chọn nơi ưu đãi nhất để nộp thuế
của một doanh nghiệp mà không làm trái các quy định pháp luật hiện hành.
Nhờ vậy, giá cả có thể được doanh nghiệp điều chỉnh nhằm chuyển lợi nhuận
đến các quốc gia đánh thuế thấp, còn chi phí được chuyển sang nước đánh
thuế cao.
Để đơn giản hoá, ta có thể hình dung mô hình trốn thuế theo phương
thức chuyển giá như sau: Giả sử một tập đoàn đa quốc gia có công ty mẹ (A)
đặt tại chính quốc, cung cấp nguyên liệu cho các công ty con (B) tại các nước
đang phát triển. Ngoài ra, tập đoàn này còn lập ra một công ty bình phong (C)
13

13


tại một thiên đường thuế nào đó để tối thiểu hóa số thuế phải nộp và tối đa
hóa lợi nhuận. Công ty C sẽ mua nguyên liệu từ công ty A với giá rẻ rồi bán
cho công ty B với giá cao. Rõ ràng, hàng hóa nguyên liệu sẽ được vận chuyển
trực tiếp từ A đến B, nhưng phần lớn lợi nhuận lại thuộc về C. Ở chính quốc,
công ty A sẽ đóng thuế thấp do lợi nhuận thấp vì bán nguyên liệu giá rẻ cho C,
còn ở các nước đang phát triển - phần thuế phải nộp cũng thấp, có khi chẳng
tốn xu nào vì B kinh doanh không có lãi do nhập khẩu nguyên liệu từ C với
giá cao. Đó là chưa kể có khi công ty B còn được hưởng chính sách trợ thuế
hấp dẫn từ các nước đang phát triển - vốn cần nguồn vốn đầu tư FDI.
Cần lưu ý là hàng hóa, nguyên liệu đó có thể không phải ở dạng vật
chất hữu hình mà có khi chỉ là bản quyền sử dụng các phần mềm; bản quyền
sử dụng nhãn hiệu, giấy phép; hay cả những thứ rất chung chung như là dịch

vụ quản lý, dịch vụ tư vấn, thiết kế các giao dịch thương mại…
2.1.2. Điều kiện thực hiện hoạt động chuyển giá
• Điều kiện cần: Sự hình thành của các công ty liên kết.
• Điều kiện đủ: Tối thiểu 02 mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp chênh
lệch.
Như đã phân tích ở trên, do chính sách kinh tế - xã hội của mỗi quốc
gia khác nhau, không những vậy sự hiện hữu của các quy định ưu đãi thuế là
điều tất yếu, chính vì vậy thông qua việc định giá, nghĩa vũ thuế được chuyển
từ nơi bị điều tiết cao sang nơi bị điều tiết thấp hơn và ngược lại. Hơn nữa, lý
do vì sao chuyển giá chỉ có ý nghĩa đối với các giao dịch được thực hiện giữa
các chủ thể có mối quan hệ liên kết là do quyền tự do định đoạt trong kinh
doanh, các chủ thể hoàn toàn có quyền quyết định giá cả của một giao dịch.
Do đó, giữa công ty mẹ và công ty con hay giữa các công ty con của MNC
hoàn toàn có quyền mua hay bán hàng hoá, dịch vụ với giá họ mong muốn và
từ đó, họ hoàn toàn có thể làm thay đổi tổng nghĩa vụ thuế của họ.
2.1.3. Các phương thức chuyển giá của các MNC
Tuỳ vào hoàn cảnh kinh doanh khác nhau mà các MNC sử dụng các
biện pháp khác nhau để thực hiện chuyển giá nhằm tối đa lợi nhuận trên phạm
vi toàn cầu.
• Chuyển giá thông qua hình thức nâng cao giá trị tài sản góp vốn
14

14


Đầu tư dưới dạng liên doanh: việc nâng giá trị tài sản đóng góp sẽ làm
cho phần vốn góp của bên phía có ý nâng giá trị góp vốn tăng, nhờ đó, sự chi
phối trong các quyết định liên quan đến hoạt động của dự án liên doanh sẽ gia
tăng và mức lời được chia sẽ tăng. Ngoài ra, khi dự án kết thúc hoạt động thì
tỷ lệ trị giá tài sản được chia cao hơn. Đối với các công ty có 100% vốn đầu

tư nước ngoài thì việc nâng tài sản góp vốn sẽ giúp họ tăng mức khấu hao
trích hàng năm, làm tăng chi phí đầu vào. Việc tăng mức khấu hao tài sản cố
định sẽ giúp chủ đầu tư:
- Nhanh hoàn vốn đầu tư cố định, nhờ đó giảm thiểu rủi ro đầu tư.
- Giảm mức thuế TNDN phải đóng cho nước tiếp nhận đầu tư.
• Chuyển giá bằng cách nâng khống giá công nghệ, thương hiệu…( tài sản vô
hình)
Việc định giá chính xác được tài sản vô hình của các nhà đầu tư hết sức
khó, lợi dụng việc này mà các MNC chú ý thổi phồng phần góp vốn bằng
thương hiệu, công thức pha chế, chuyển giao công nghệ…nhằm tăng phần
góp vốn của mình lên. Một số trường hợp phía góp vốn bằng tài sản vô hình
có xuất trình giấy chứng nhận của công ty kiểm toán nhưng độ tin cậy, trung
thực của các giấy chứng nhận này rất khó kiểm định.
• Nhập khẩu nguyên vật liệu từ công ty mẹ từ nước ngoài, hoặc từ công ty đối
tác trong liên doanh với giá cao
Đây là hình thức chuyển một phần lợi nhuận ra nước ngoài thông qua
việc thanh toán tiền hàng nhập khẩu. Ngoài ra, việc mua hàng nhập khẩu với
giá đắt làm chi phí sản xuất tăng, dẫn tới lợi nhuận chịu thuế TNDN giảm.
• Chuyển giá thông qua hình thức nâng chi phí các đơn vị hành chính và quản
lý.
Các công ty mẹ thường sử dụng các hợp đồng tư vấn hay thuê trung
gian. Một số đối tác liên doanh còn bị ép nhận chuyên gia với chi phí rất cao
nhưng hiệu quả thấp. Chi phí này phía liên doanh nước chủ nhà gánh chịu.
Một số công ty thuê người quản lý doanh nghiệp FDI với lương cao, ngoài ra
còn phải trả một khoản tiền lớn cho công ty nước ngoài cung cấp nhà quản
lý.Ở một số trường hợp cũng có hiện tượng chuyển giá ở khâu này khi công
ty cung cấp nguồn nhân lực cũng là công ty con của cùng một tập đoàn. Một
số trường hợp còn thực hiện chuyển giá thông qua hình thức đào tạo ở nước
15


15


ngoài: cử chuyên viên, công nhân sang học tập, thực tập tại công ty ẹ với chi
phí cao. Một hình thức chuyển giá của công ty có vốn FDI là trả lương, chi
phí cho chuyên gia tư vấn được gởi đến từ công ty mẹ. Loại hình tư vấn này
rất khó xác định số lượng và chất lượng để xác định chi phí cao hay thấp. Lợi
dụng điều này, nhiều công ty FDI thực hiện hành vi chuyển giá mà thực chất
là chuyển lợi nhuận về nước dưới danh nghĩa là phí dịch vụ tư vấn.
• Thực hiện chuyển giá thông qua việc điều tiết giá mua bán hàng hoá.
Khi thuế nhập khẩu cao thì công ty mẹ bán nguyên liệu, hàng hoá với
giá thấp nhằm tránh nộp thuế nhập khẩu nhiều. Trong trường hợp này, công ty
mẹ sẽ tăng cường hoạt động tư vấn, huấn luyện, hỗ trợ tiếp thị với giá cao để
bù đắp lại hoặc mua lại sản phẩm với giá thấp. Đối với hàng hoá nhập khẩu
mà thuế suất thấp, thì công ty ký hợp đồng nhập khẩu với giá cao nhằm nâng
chi phí để tránh thuế.
• Chuyển giá thông qua hình thức tài trợ bằng nghiệp vụ vay từ công ty mẹ
Bằng hình thức này, các công ty con tạo ra cơ cấu vốn và nguồn vốn bất
hợp lý như dùng nguồn vốn vay từ công ty mẹ để tài trợ cho tài sản cố định và
tài sản đầu tư dài hạn mà không tăng vốn góp và vốn chủ sở hữu nhằm đẩy
chi phí hoạt động tài chính lên cao như chi phí chênh lệch tỷ giá, chi phí lãi
vay… và chuyển một phần lợi nhuận về nước dưới dạng lãi vay, chi phí bảo
lãnh vay vốn để tránh thuế, tránh lỗ do chênh lệch tỷ giá về sau.
• Chuyển giá thông qua các trung tâm tái tạo hoá đơn.
Trung tâm tái tạo hoá đơn đóng vai trò người trung gian giữa công ty
meh và các công ty con. Hàng hoá trên chứng từ hoá đơn thì được bán từ công
ty nơi sản xuất hàng hoá qua trung tâm tái tạo hoá đơn và chứng từ kèm theo.
Thông qua việc này sẽ định vị lại loại ngoại tệ của cả đơn vị sản xuất và trung
tâm tái tạo hoá đơn. Nhưng trên thực tế, hàng hoá được chuyển giao trực tiếp
từ công ty sản xuất qua thẳng công ty phân phối mà không qua trung tâm tái

tạo hoá đơn. Hình thức này thường xảy ra trong ngành dược phẩm.

16

16


2.1.4. Tác động của hoạt động chuyển giá dưới góc độ các quốc qua liên
quan
2.1.4.1. Dưới góc độ các quốc gia đóng vai trò là thiên đường thuế
• Tác động tích cực: Khi có hoạt động chuyển giá ngược, do nước thu hút đầu
tư có mức thuế thu nhập thấp làm tăng thu nhập cho nước tiếp nhận vốn.
• Tác động tiêu cực:
- Cơ cấu vốn của nền kinh tế ở quốc gia tiếp nhận vốn sẽ bị đột ngột thay đổi
do việc thực hiện hành vi chuyển giá của các MNC làm các luông vốn chảy
vào nhanh mạnh, sau đó lại có xu hướng chảy ra trong thời gian ngắn. Hậu
quả là tạo ra một bức tranh kinh tế bị sai lệch ở các quốc gia trong các thời kỳ
khác nhau.
- Đối với các quốc gia được coi là thiên đường về thuế, họ là người được
hưởng lợi từ hoạt động chuyển giá trong ngắn hạn, nhưng trong dài hạn,
nhưng trong dài hạn, họ phải đương đầu với các khó khăn tài chính khi các
MNC thoái vốn do các thu nhập không bền vững trước đây trong ngắn hạn
khong phản ánh chính xác sức mạnh của nền kinh tế.
- Với việc thực hiện hành vi chuyển giá và thao túng thị trường, chính phủ các
nước tiếp nhận đầu tư sẽ khó khăn trong việc thúc đẩy các ngành sản xuất
trong nước phát triển,
- Hoạt động chuyển giá sẽ phá vỡ cán cân thanh toán quốc tế và các kế hoạch
kinh tế của các quốc gia tiếp nhận đầu tư, vì vậy nếu không kiểm soát tốt sẽ
dẫn đến việc bị lệ thuộc về kinh tế của chính quốc, về lâu dài có thể dẫn tới lệ
thuộc về chính trị.

2.1.4.2. Dưới góc độ các quốc gia bị ảnh hưởng của chuyển giá.
• Tác động tích cực: quốc gia đó sẽ được ngoại tệ nhiều hơn do đó góp phần cải
thiện cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế.
• Tác động tiêu cực: Tác động rõ ràng nhất là việc bị thất thu thu, từ đó làm mất
cân đối trong hoạt động thu chi của NSNN.
2.2. Hoạt động rửa tiền tại các thiên đường thuế
2.2.1. Vài nét về "rửa tiền"
Những năm 20 của thế kỷ trước, tại Mỹ, buôn bán rượu bị cấm đoán.
Các tổ chức tội phạm tham gia vào việc nhập rượu lậu từ các nước vùng
Carribe và bán chui (trốn thuế) trên thị trường Mỹ đã thu được những món lợi
17

17


khổng lồ. Số tiền không rõ nguồn gốc này đã được dấu trong các thu nhập của
các hiệu giặt là và từ đây xuất hiện từ "rửa tiền hay giặt tiền".
Tuy nhiên, thuật ngữ "rửa tiền" lần đầu tiên xuất hiện trên báo chí Mỹ
là vào năm 1973 trong vụ bê bối tài chính Watergate nổi tiếng nước Mỹ. Năm
năm sau đó thuật ngữ "rửa tiền" chính thức được sử dụng trong một số văn
bản pháp lý của tòa án Mỹ. Thuật ngữ này trở nên phổ biến trong những thập
kỷ gần đây bởi tính phổ biến và ảnh hưởng của chúng. Tổ chức chống "rửa
tiền" quốc tế (Finance Action Task Force) đã định nghĩa hoạt động của "rửa
tiền" là:
• Việc giúp đỡ đối tượng phạm pháp lẩn tránh sự trừng phạt của pháp
luật;
• Việc cố ý che giấu nguồn gốc, bản chất, việc cất giấu, di chuyển hay
chuyển quyền sở hữu tài sản phạm pháp;
• Việc cố ý mua, sở hữu hay sử dụng tài sản phạm pháp.
Như vậy, hiểu một cách khái quát thì "rửa tiền" là toàn bộ các hoạt

động được tiến hành một cách cố ý nhằm hợp pháp hóa tiền và tài sản có
nguồn gốc từ tội phạm.
2.2.2. Quy trình "rửa tiền"
Thông thường, tiền được "tẩy rửa" qua 3 bước:
1. Nhập tiền bẩn vào hệ thống kinh tế tài chính: Mục đích của bước này là biến
đổi hình thái ban đầu của các khoản thu nhập phạm pháp và tách chúng khỏi
tổ chức tội phạm nhằm tránh sự phát hiện của các cơ quan chức năng. Một số
thủ đoạn phổ biến là chia nhỏ tiền bất chính để gửi vào các ngân hàng nhiều
lần để số lượng mỗi lần không đến mức phải khai báo, mua các công cụ tiền
tệ hay hàng hóa xa xỉ đắt tiền, chuyển lậu tiền ra nước ngoài...
2. Quay vòng tiền: Trong giai đoạn này, những kẻ "rửa tiền" sử dụng tiền "bẩn"
để thực hiện càng nhiều giao dịch tài chính càng tốt, đặc biệt là các giao dịch
xuyên quốc gia, nhằm tạo ra một mạng lưới giao dịch chằng chịt, phức tạp và
khó lần dấu vết. Tiền có thể được chuyển đổi thành chứng khoán, séc du lịch
hoặc qua các ngân hàng khác nhau.
3. Hội nhập tiền đã "rửa" vào hệ thống kinh tế: Dù tiền "bẩn" có được quay vòng
qua bao nhiêu giao dịch thì đích đến cuối cùng vẫn là tổ chức tội phạm ban
đầu. Một số thủ đoạn tiêu biểu là làm sai lệch hóa đơn trong giao dịch xuất
18

18


nhập khẩu, chuyển tiền qua một ngân hàng hợp pháp thông qua một ngân
hàng trá hình hay công ty ma ở nước ngoài... Sau đó những kẻ "rửa tiền" sẽ
đầu tư tiền này vào các hoạt động kinh tế hợp pháp.
Yêu cầu cơ bản để việc "rửa tiền" được thành công là phải khéo léo xóa
được mọi dấu vết giấy tờ giao dịch. Tránh khai báo hải quan, xâm nhập cài
người vào hệ thống ngân hàng, trì hoãn cung cấp chứng từ là những thủ đoạn
phổ biến giúp bọn tội phạm đạt mục đích này.

2.2.3. Các chiêu thức "rửa tiền"
a. Trong các cơ cấu các giao dịch
Bản chất của phương thức này là chia nhỏ số tiền mặt và gửi vào các
định chế tài chính để tránh bị báo cáo, bị nghi ngờ và thường được sử dụng ở
các quốc gia mà luật pháp yêu cầu phải báo cáo các giao dịch tiền mặt vượt
một ngưỡng nào đó, ví dụ ở Việt Nam là 300 triệu đồng (theo Quyết định số
20/2013/QĐ-TTg ngày 18/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định mức giá
trị của giao dịch có giá trị lớn phải báo cáo), ở Hoa Kỳ là 10 nghìn đô la.
Liên quan đến phương thức này, tội phạm có thể chia số tiền lớn thành
nhiều phần nhỏ dưới mức phải báo cáo để gửi vào các định chế tài chính hoặc
mở nhiều tài khoản ở nhiều các định chế tài chính khác nhau và gửi số tiền
dưới mức phải báo cáo hoặc có thể thuê những người khác gửi tiền mặt do
phạm tội mà có vào tài khoản của họ sau đó chuyển khoản về tài khoản của
tội phạm.
b. Vận chuyển tiền mặt qua biên giới
Do cơ chế phòng, chống rửa tiền, chống tài trợ khủng bố ở các quốc gia
có mức độ chặt chẽ khác nhau, nên tội phạm có xu hướng vận chuyển tiền
mặt có được từ hoạt động bất hợp pháp tới quốc gia có cơ chế phòng, chống
rửa tiền, chống tài trợ khủng bố yếu kém hơn.
Ngoài mục đích rửa tiền, việc vận chuyển tiền mặt qua biên giới còn
nhằm thực hiện các hành vi bất hợp pháp hoặc gây khó khăn cho lực lượng
điều tra.
Để dễ dàng cho việc vận chuyển hoặc cất giấu, tội phạm thường đổi lấy
những đồng ngoại tệ mạnh và có mệnh giá lớn.
c. Thông qua các giao dịch thương mại

19

19



Như sử dụng hóa đơn giả, xuất hóa đơn với giá trị thấp hơn hay cao
hơn giá trị của hàng hóa, dịch vụ; vận chuyển hàng hóa thực tế với số lượng
nhiều hơn hoặc ít so với hóa đơn; ký hợp đồng đặt mua hàng sau đó hủy hợp
đồng….
Điểm mấu chốt của những thủ đoạn này là không ghi đúng giá trị của
hàng hóa, dịch vụ để tạo ra căn cứ chuyển ít hơn hoặc nhiều hơn so với giá trị
thực của hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Với thủ đoạn này, các bên mua,
bán thường có thỏa thuận, thông đồng với nhau trước.
Hoặc tội phạm rửa tiền có thể khai báo nhiều hoặc ít hơn số lượng hàng
hóa thực tế được vận chuyển. Thậm chí, bên xuất khẩu có thể không chuyển
bất kỳ hàng hóa nào lên tàu nhưng chúng thông đồng với các bên có liên quan
(vận chuyển, hải quan, nhà nhập khẩu...) để có được bộ hồ sơ chứng từ đầy đủ
liên quan đến việc vận chuyển hàng hóa khống (hay còn gọi là hàng hóa được
vận chuyển trên “con tàu ma”).
Ngân hàng có thể không biết là bị liên quan đến việc chuyển tiền thanh
toán hàng hóa xuất nhập khẩu cho những con tàu ma này.
Tội phạm rửa tiền đặt cọc mua hàng bằng tiền mặt phi pháp, sau đó hủy
hợp đồng, chịu phạt theo quy định của hợp đồng và yêu cầu hoàn trả lại tiền
đặt cọc còn lại dưới dạng séc mà người thụ hưởng là hắn hoặc bên thứ ba.
Tội phạm rửa tiền cũng có thể tạo lập ra những hợp đồng mua bán với
điều khoản ứng trước 100% tiền hàng hóa, dịch vụ để làm căn cứ yêu cầu
ngân hàng chuyển tiền ra nước ngoài.
Trong trường hợp này, ngân hàng đã chuyển tiền ra nước ngoài trong
khi hàng hóa chưa về, do đó ngân hàng nên căn cứ vào điều khoản giao hàng
và ước lượng thời gian vận chuyển để tính toán thời điểm yêu cầu khách hàng
xuất trình chứng từ hải quan để kiểm tra.
d. Thông qua các hoạt động casino hoặc vui chơi giải trí có thưởng
Tội phạm rửa tiền lợi dụng cơ chế của tổ chức casino để rửa tiền.
Người chơi tại tổ chức casino không dùng tiền thật để chơi mà dùng thẻ đánh

bạc (thẻ đánh bạc có thể được gọi là phỉnh hoặc chíp hoặc sèng) ghi dấu hiệu
giá trị (ví dụ $1, $2, $5, $10…) để chơi.
Theo đó, người chơi sẽ đổi tiền thật lấy thẻ đánh bạc để chơi, khi kết
thúc họ có thể đổi thẻ đánh bạc lấy tiền mặt hoặc séc.
20

20


e.

f.

g.

h.

Lợi dụng cơ chế này, tội phạm rửa tiền dùng tiền mặt có được từ hoạt
động bất hợp pháp để mua một số lượng lớn thẻ đánh bạc, nhưng chỉ đánh bạc
hoặc đặt cược một số tiền không đáng kể. Sau đó hắn trả lại thẻ và đề nghị
được nhận lại tiền dưới dạng séc và tuyên bố đó là tiền được bạc.
Sử dụng các công ty “bình phong” và công ty “vỏ bọc”
Công ty “bình phong” là một thực thể được thành lập hợp pháp, nhưng
hoạt động của công ty không nhằm thực hiện các chức năng vốn có mà nhằm
mục đích rửa các nguồn tiền bất chính.
Công ty “vỏ bọc” là một thực thể được thành lập hợp pháp tại một quốc
gia nhưng hoạt động chính của chúng lại được tiến hành tại quốc gia hoặc
vùng lãnh thổ khác.
Tội phạm sử dụng các công ty này để trộn lẫn các nguồn tiền phi pháp
với tiền hợp pháp của công ty hoặc sử dụng công ty để chuyển tiền qua lại

với nhau nhằm tách số tiền có được từ hoạt động bất hợp pháp ra xa nơi
chúng thực hiện hành vi phạm tội và nhằm gây khó khăn cho các cơ quan
thực thi pháp luật trong việc dựng lại các giao dịch tài chính hoặc thu hồi tài
sản phạm tội.
Thực hiện các hành vi mua chuộc, hối lộ
Tội phạm luôn tìm mọi cách để hối lộ cán bộ, nhân viên của các định
chế tài chính để thực hiện những giao dịch tiền mặt lớn nhưng không báo cáo
theo quy định của pháp luật hoặc giúp đỡ tội phạm lập các tài khoản ngân
hàng với tên giả hoặc các chứng từ giả để chuyển tiền qua ngân hàng.
Mua tài sản có giá trị lớn bằng tiền mặt
Tội phạm rửa tiền dùng tiền mặt mua các tài sản có giá trị lớn sau đó
chúng bán lại, hành động này có thể được lặp đi lặp lại nhiều lần nhằm tạo
dựng lòng tin đối với người xung quanh hoặc cơ quan pháp luật để tránh bị
nghị ngờ.
Hoặc đơn giản là chúng dùng tiền mặt để mua tài sản có giá trị lớn như
bất động sản, sau đó chúng bán và yêu cầu được thanh toán bằng séc để nộp
ngân hàng hoặc chuyển khoản nhằm tránh bị báo cáo.
Chuyển đổi sang các công cụ tiền tệ khác
Tội phạm rửa tiền nộp tiền mặt vào ngân hàng và đề nghị mua các công
cụ tiền tệ có thể chuyển nhượng được ví dụ như séc du lịch, hối phiếu… Với
21

21


thủ đoạn này, tội phạm có thể dịch chuyển tiền qua biên giới, tránh được sự
kiểm soát của Hải quan.
i. Sử dụng hệ thống chuyển tiền thay thế (hệ thống ngân hàng “ngầm”)
Hệ thống chuyển tiền thay thế là hệ thống chưa đăng ký, chưa được cấp
phép thực hiện nhận tiền, tài sản từ nơi này để chuyển cho người thụ hưởng ở

nơi khác.
Một số hệ thống chuyển tiền kiểu này trên thế giới có thể kể đến như
chợ đen trao đổi Peso, Hundi, hệ thống Hawala.
Đặc điểm của hệ thống chuyển tiền thay thế là hoạt động dựa trên cơ sở
niềm tin, chi phí rẻ, tốc độ chuyển nhanh nên rất dễ bị kẻ rửa tiền, tài trợ
khủng bố lạm dụng.
Hiện nay, hệ thống chuyển tiền thay thế được chấp nhận ở một số quốc
gia trên thế giới, một số quốc gia không chấp nhận trong đó có Việt Nam.
j. Rửa tiền thông qua hoạt động tín dụng
Đối với phương thức, thủ đoạn này, tội phạm thường sử dụng tài sản có
nguồn gốc bất hợp pháp để thế chấp cho ngân hàng hoặc chúng sử dụng tiền
có được từ hoạt động bất hợp pháp để trả nợ các khoản vay ngân hàng.
k. Lợi dụng luật sư và kế toán
Tội phạm rửa tiền thường lợi dụng luật sư và kế toán vào việc: thành
lập các công ty bình phong, vỏ bọc; mua và bán tài sản; thực hiện các giao
dịch tài chính; lập kế hoạch và tư vấn thuế; thực hiện vai trò trung gian giới
thiệu tới các định chế tài chính hoặc bạn bè đồng nghiệp; cung cấp các Giám
đốc và nhà quản lý.
Tuy nhiên, tùy vào khuôn khổ pháp luật, yếu tố chính trị, kinh tế, đặc
điểm về địa lý, thói quen, tập quán thanh toán... mà ở một quốc gia nào đó,
một trong các phương thức, thủ đoạn nêu trên được áp dụng phổ biến hơn các
phương thức, thủ đoạn khác.
Vì lý do đó, theo khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về
chống rửa tiền (FATF), các quốc gia phải thực hiện đánh giá rủi ro quốc gia về
rửa tiền, tài trợ khủng bố để có cơ sở tập trung nguồn lực ngăn ngừa, phát
hiện, xử lý loại tội phạm này.

22

22



a.

b.

c.








d.

2.2.4. Những hậu quả của "rửa tiền"
Làm tăng tội phạm và tham nhũng
Việc "rửa tiền" thành công sẽ giúp cho các hoạt động phạm tội có thể
sinh lợi, để những kẻ tội phạm có thể "hưởng thụ" các thành quả thu được từ
các hoạt động tội phạm. Vì vậy, chừng nào một nước còn được coi là nơi ẩn
náu an toàn cho hoạt động "rửa tiền" thì khi đó còn có nhiều khả năng nước
đó có sức lôi cuốn tội phạm và thúc đẩy tham nhũng.
Những hậu quả đối với quốc tế và đầu tư nước ngoài
Tai tiếng về một nơi ẩn náu an toàn cho "rửa tiền" và tài trợ cho khủng
bố cũng đã có thể gây ra những hậu quả bất lợi đáng kể cho sự phát triển của
một đất nước. Các tổ chức tài chính nước ngoài có thể quyết định hạn chế các
giao dịch của mình với những tổ chức là nơi ẩn náu an toàn cho "rửa tiền";
buộc những giao dịch như vậy phải qua sự kiểm soát gắt gao hơn, khiến cho

chúng thêm tốn kém hoặc chấm dứt hoàn toàn các mối quan hệ giao dịch hay
vay mượn. Ngay cả các doanh nghiệp hợp pháp lẫn những doanh nghiệp là
nơi ẩn náu an toàn cho "rửa tiền" cũng có thể bị giảm khả năng tiếp cận các
thị trường thế giới hoặc phải tiếp cận với chi phí cao hơn do phải chịu sự kiểm
soát gắt gao hơn về quyền sở hữu, các hệ thống tổ chức và kiểm soát.
Làm suy yếu các tổ chức tài chính
"Rửa tiền" và tài trợ cho khủng bố có thể gây nguy hại theo nhiều cách
cho sự lành mạnh của khu vực tài chính của một đất nước cũng như cho sự ổn
định của từng tổ chức tài chính. Những hậu quả tai hại đó được coi là rủi ro
đối với uy tín, nghiệp vụ, pháp lý và rủi ro tập trung đều có mối quan hệ qua
lại với nhau. Mỗi rủi ro đều gây ra những chi phí cụ thể:
Mất đi hoạt động kinh doanh sinh lợi
Những vấn đề về tính thanh khoản do việc rút tiền gây ra,
Cắt đứt các cơ sở ngân hàng đại lý,
Các chi phí điều tra và tiền phạt,
Thu giữ tài sản,
Tổn thất cho vay,
Giảm giá trị cổ phiếu của các tổ chức tài chính.
Nền kinh tế và khu vực tư nhân bị tổn thương

23

23


Những kẻ "rửa tiền" khét tiếng về việc sử dụng “các công ty bình
phong”- là những doanh nghiệp có vẻ bề ngoài hợp pháp và tham gia vào hoạt
động kinh doanh hợp pháp nhưng trên thực tế lại do bọn tội phạm kiểm soát.
Những công ty bình phong này hòa trộn các quỹ phi pháp với các quỹ
hợp pháp để che giấu những khoản tiền bất chính. Khả năng tiếp cận của các

công ty bình phong tới những quỹ phi pháp cho phép chúng bao cấp các sản
phẩm và dịch vụ của công ty, thậm chí với giá thấp hơn giá thị trường. Do
vậy, các doanh nghiệp hợp pháp sẽ khó cạnh tranh với những công ty bình
phong khi mục tiêu duy nhất của chúng là bảo toàn và bảo vệ những khoản
tiền bất hợp pháp chứ không phải để tạo một ra bất cứ khoản lợi nhuận nào.
Bằng việc sử dụng các công ty bình phong và những khoản đầu tư khác
vào các công ty hợp pháp, những khoản thu được từ "rửa tiền" có thể được
dùng để kiểm soát toàn bộ các ngành hoặc các khu vực của nền kinh tế ở
những nước nhất định. Điều này làm tăng sự bất ổn định tiềm tàng về khía
cạnh tiền tệ và kinh tế do sự phân bổ sai lệch các nguồn lực bắt nguồn từ tình
trạng méo mó giả tạo của giá tài sản và hàng hóa. Nó cũng tạo ra một cơ chế
cho trốn thuế, từ đó làm cạn kiệt nguồn thu của đất nước.
e. Những nỗ lực tư nhân hoá bị tổn hại
Những kẻ "rửa tiền" là mối đe dọa đối với những nỗ lực cải tổ nền kinh
tế thông qua tư nhân hóa của nhiều nước. Những tổ chức tội phạm có khả
năng trả giá cao hơn so với những người đấu thầu chính đáng của những
doanh nghiệp nhà nước trước đây. Khi những khoản tiền bất chính được đầu
tư vào theo cách này, những kẻ phạm tội sẽ tăng được tiềm năng của chúng để
thực hiện nhiều hoạt động phạm tội hơn và tham nhũng nhiều hơn, cũng như
tước đoạt của đất nước những những khoản tiền thuế hợp pháp từ các doanh
nghiệp.
2.2.5. Phòng chống "rửa tiền"trên thế giới
Phòng chống "rửa tiền" là vấn đề làm đau đầu các nhà chức trách trên
thế giới. Ở Mỹ, trong vô số các luật liên quan, có thể kể tới Luật Bảo mật
Ngân hàng (1970) nhằm loại bỏ giao dịch ngân hàng ẩn danh. Theo đó, Bộ
Tài chính có quyền buộc các ngân hàng lưu giữ hồ sơ để dễ truy vết hoạt động
"rửa tiền", các ngân hàng phải báo cáo tất cả giao dịch 1 lần trên 10.000 USD
hoặc nhiều lần có tổng giá trị trên 10.000 USD nhận vào hoặc chuyển đi từ 1
tài khoản trong cùng 1 ngày.
24


24


Năm 1986, Luật Kiểm soát "rửa tiền" ra đời đánh dấu bước ngoặt trong
cuộc chiến chống nạn rửa tiền, từ đó rửa tiền đã bị xem là hành vi tội phạm,
thay vì chỉ là yếu tố trong toàn bộ một tội ác.
Tiếp đó, Luật Ngăn chặn "rửa tiền" năm 1994 yêu cầu các ngân hàng
phải thành lập lực lượng đặc nhiệm để loại trừ các hoạt động đáng ngờ trong
các tổ chức của họ. Luật Ái quốc năm 2001 thiết lập kiểm tra danh tính bắt
buộc đối với khách hàng của các ngân hàng Mỹ, cung cấp các nguồn theo dõi
những giao dịch trong hệ thống ngân hàng ngầm thường được bọn khủng bố
sử dụng. Bên cạnh đó, lực lượng thực thi pháp luật cũng tăng cường hành
động.
Tuy vậy, ngăn chặn "rửa tiền" là điều rất khó khăn. Do đó, nâng cao
nhận thức và hợp tác toàn cầu là điều cần thiết. Các tổ chức quốc tế nổi bật
nhất trong lĩnh vực này bao gồm Lực lượng Đặc nhiệm hành động tài chính
(FATF), Liên hiệp quốc, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới
(WB), Cảnh sát quốc tế (Interpol)…
Trong đó, FATF tập hợp 34 quốc gia thành viên và 2 tổ chức quốc tế, đã
ban hành “40+9 khuyến nghị” cho các ngân hàng, được xem như tiêu chuẩn
chống "rửa tiền". FATF cũng lập danh sách “các quốc gia bất hợp tác” và
khuyến cáo các nước thành viên không giao dịch trong các vấn đề tài chính.
Ngoài ra, cộng đồng quốc tế ngày càng gia tăng áp lực yêu cầu minh bạch đối
với các nước đang áp dụng luật bí mật ngân hàng (được xem như thiên đường
của những kẻ trốn thuế, "rửa tiền").
Ngay cả ngân hàng Thụy Sĩ vốn nổi danh kín tiếng cũng phải nhượng
bộ khi chấp nhận cung cấp cho nhà chức trách Hoa Kỳ danh sách hơn 4.000
tài khoản bị nghi ngờ trốn thuế trong đại gia ngân hàng UBS, đồng thời cam
kết sẽ hợp tác chặt chẽ hơn với các nước trong việc phòng chống trốn thuế và

"rửa tiền".

25

25


×