Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

ĐỀ ÁN TỐT NGHIỆP CCLLCT PHÒNG NGỪA ĐIỂM NÓNG CT - XH ĐĂK NÔNG K42G

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.21 KB, 42 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết xây dựng Đề án
1.1. Công cuộc đổi mới của nhân dân ta, do Đảng lãnh đạo đã đạt được
nhiều thành tựu có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình phát triển toàn diện của
đất nước. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, cũng còn tồn tại nhiều vấn đề
kinh tế, chính trị, xã hội phức tạp đòi hỏi phải giải quyết như: đường lối, chủ
trương của Đảng; pháp luật của nhà nước còn những bất cập; một bộ phận cán
bộ công chức trong hệ thống chính trị suy thoái về phẩm chất đạo đức, yếu kém
về trình độ nghiệp vụ, chuyên môn, về năng lực và tinh thần trách nhiệm; những
thế lực phản động trong và ngoài nước thường xuyên kích động, lợi dụng, xuyên
tạc, gây rối nhằm thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”... Những khiếm
khuyết đó, cùng với nhiều nguyên nhân xã hội khác trong thời gian qua đã làm
nảy sinh một số “điểm nóng” chính trị - xã hội tại một số địa phương, gây hậu
quả nghiêm trọng trong đời sống chính trị - kinh tế - xã hội của đất nước.
Ngày nay, lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo là một trong những âm mưu,
thủ đoạn, hoạt động chủ yếu, cơ bản của các thế lực thù địch nhằm thực hiện
chiến lược “diễn biến hòa bình” chống Việt Nam. Chúng coi đây là những “ngòi
nổ” để tấn công vào chế độ XHCN ở nước ta. Càng nguy hiểm hơn khi chúng
tìm cách gắn kết hai vấn đề có tính nhạy cảm là “dân tộc” và “tôn giáo” lại với
nhau để kích động tư tưởng ly khai, tự trị tạo nên các “điểm nóng” chính trị - xã
hội gây ảnh hưởng đến ổn đinh chính trị - xã hội
1.2. Đắk Nông là một tỉnh được thành lập năm 2004, có đông đồng bào
các DTTS, là một địa bàn có tầm quan trọng về nhiều mặt đối với chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng của khu vực Tây Nguyên, đồng
thời cũng là một mục tiêu trọng điểm trong âm mưu xâm lược, thống trị, chia rẽ
của kẻ thù với nhiều phương thức, thủ đoạn thâm độc. Lợi dụng chính sách mở
cửa của Nhà nước ta, các tổ chức tôn giáo đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền,
phát triển đạo và lợi dụng vấn đề này để tuyên truyền, xuyên tạc, vu cáo, đả kích
chế độ, đẩy mạnh các hoạt động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, kích
động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, đòi ly khai tự trị, thực hiện âm mưu quốc tế hóa
vấn đề dân tộc. Trong những năm qua, điển hình là các đợt tháng 4/2004, tháng


10/2006, tại một số địa bàn của tỉnh Đắk Nông như huyện Cư Jút, Đắk Mil, Đắk
Song… đã xảy ra các vụ gây rối, gây bạo loạn ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình
hình an ninh chính trị của địa phương nói riêng và an ninh quốc gia nói chung.
Đáng chú ý hơn, trong thời gian gần đây, tổ chức phản động “Tin lành Đêga” đã
phát triển lực lượng vào địa bàn Đắk Nông nhằm lôi kéo, kích động đồng bào
dân tộc thiểu số tại chỗ vào các hoạt động chống đối chính quyền, phục vụ cho
mưu đồ thành lập cái gọi là Nhà nước Đêga độc lập.
Là một tỉnh mới được thành lập, điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn,
ở một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số đời sống vẫn còn nhiều thiếu thốn, trình
độ dân trí chưa cao. Nhiều vấn đề như di dân tự do (người Mông từ phía Bắc
vào), sự dung túng, tạo điều kiện của Mỹ (thông qua tổ chức Cao ủy Liên hợp
quốc về người tỵ nạn tại Campuchia) cho bọn phản động FULURO ở Mỹ dùng
1


Phòng ngừa và giải quyết các “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan đến tôn giáo, dân tộc nhằm góp phần ổn định chính trị xã hội ở tỉnh Đắk Nông

địa bàn tỉnh Monđulkiri để chỉ đạo vào trong nước biểu tình, bạo loạn và thực
hiện các hoạt động kích động, móc nối, lôi kéo người dân tộc thiểu số trốn sang
Campuchia. Tình hình về an ninh nông thôn, an ninh trong vùng đồng bào dân
tộc thiểu số còn phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ngờ làm phương hại đến an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên toàn tỉnh.
Xuất phát từ tình hình trên, việc xây dựng Đề án Phòng ngừa và giải
quyết các “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan đến tôn giáo, dân tộc
nhằm góp phần ổn định chính trị - xã hội ở tỉnh Đắk Nông là hết sức cần thiết.
2. Mục đích của Đề án
Thông qua việc làm rõ một số vấn đề về đặc điểm tình hình tôn giáo, dân
tộc cũng như nhận diện âm mưu, thủ đoạn hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo,
dân tộc của các thế lực thù địch và đánh giá thực trạng công tác phòng ngừa, giải
quyết các “điểm nóng” chính trị - xã hội của các cơ quan chức năng trên địa bàn

tỉnh Đắk Nông thời gian qua, Đề án nhằm đến mục đích đề xuất một số giải pháp
góp phần chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động lợi dụng vấn đề
tôn giáo, dân tộc của các thế lực thù địch gây mất ổn định chính trị, trật tự an
toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Đắk Nông thời gian tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của Đề án
3.1. Đối tượng nghiên cứu chính của Đề án: Công tác phòng ngừa và giải
quyết các “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan đến tôn giáo, dân tộc của các
cơ quan chức năng trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.
3.2. Phạm vi nghiên cứu chính của Đề án:
Không gian: Địa bàn tỉnh Đắk Nông
Thời gian: Nghiên cứu thực trạng từ năm 2004 (thời gian thành lập tỉnh)
đến nay( 2016) và đề xuất giải pháp trong thời gian đến (đến năm 2020 và tầm
nhìn 2025)
4. Phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận của Đề án
- Đề án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận trong nghiên cứu khoa
học của chủ nghĩa Mác – Lênin; đồng thời kết hợp các phương pháp khác như: tiếp
cận hệ thống, phân tích so sánh, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
5. Ý nghĩa của Đề án
- Góp phần nhận diện âm mưu, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù
địch trong việc lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc tạo “điểm nóng” chính trị - xã
hội gây mất ổn định chính trị, TTATXH trên địa bàn tỉnh Đắk Nông.
- Đóng góp một số đề xuất về giải pháp, trực tiếp nhất là để Ủy ban nhân
dân tỉnh tham khảo, chỉ đạo các cơ quan chức năng thực hiện tốt hơn công tác
Học viên: Lê Xuân Cường – Lớp CCLLCT K6 Đăk

Nông
2


Phòng ngừa và giải quyết các “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan đến tôn giáo, dân tộc nhằm góp phần ổn định chính trị xã hội ở tỉnh Đắk Nông


chủ động phòng ngừa và giải quyết các “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan
đến tôn giáo, dân tộc trên địa bàn tỉnh Đắk Nông trong thời gian đến.
6. Kết cấu của Đề án
Ngoài phần Mở đầu, phần kết luận và kiến nghị, Danh mục tài liệu tham
khảo, Nội dung cơ bản của Đề án gồm 4 phần:
- Phần thứ nhất: Cơ sở khoa học của Đề án
- Phần thứ hai: Những giải pháp chủ yếu nhằm chủ động phòng ngừa,
giải quyết “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan đến tôn giáo, dân tộc trên
địa bàn tỉnh Đắk Nông trong thời gian tới.
- Phần thứ ba: Tổ chức thực hiện Đề án
- Phần thứ 4: Dự kiến kết quả

Học viên: Lê Xuân Cường – Lớp CCLLCT K6 Đăk

Nông
3


Phòng ngừa và giải quyết các “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan đến tôn giáo, dân tộc nhằm góp phần ổn định chính trị xã hội ở tỉnh Đắk Nông

B. NỘI DUNG:
Phần thứ nhất:
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ ÁN
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và những nguyên nhân làm phát sinh
“điểm nóng” chính trị - xã hội
1.1.1.1. Khái niệm
Có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm “điểm nóng”, “điểm nóng”
chính trị xã hội: “Điểm nóng” là nơi tập trung mâu thuẫn cao độ cần giải quyết,

hoặc nơi diễn ra tình trạng xung đột căng thẳng 1[13, tr339]. “Điểm nóng” là nơi
xảy ra đấu tranh trong nội bộ nhân dân ở mức độ cao, thậm chí gay gắt về một
vấn đề nào đó trên một địa bàn nhất định (từ quy mô thôn, xóm bản trở lên...)
vượt quá giới hạn giải quyết tại chổ đòi hỏi cấp bách phải có sự tham gia giải
quyết, chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền và sự can thiệp của các cơ quan
pháp luật từ cấp cơ sở trở lên2[14, tr49]. “Điểm nóng” chính trị - xã hội là hiện
tượng chính trị - xã hội xảy ra trên địa bàn thôn, xã; bắt nguồn từ những mâu
thuẫn nội bộ kéo dài dẫn đến tranh chấp, xung đột gay gắt, lôi cuốn đông người
tham gia, có nhiều hành vi cực đoan, quá khích, vi phạm pháp luật nghiêm trọng
hoạt động của tổ chức đảng, chính quyền cơ sở giảm sút hoặc tê liệt, gây mất ổn
định về an ninh trật tự xã hội và đời sống nhân dân ở địa phương3 [15,
tr15] .“Điểm nóng” là tình trạng không yên ổn trong cộng đồng, nhanh chóng
tiến đến gần điểm bùng nổ - Community unrest is rapidly approaching the
Plashpoint 4. [16, tr624]
Trên cơ sở tham khảo các quan niệm khác nhau và thực tiễn các “điểm
nóng” trên thế giới và ở nước ta trong thời gian qua, có thể quan niệm “điểm
nóng”, “điểm nóng” chính trị xã hội như sau:
-“Điểm nóng” là khái niệm chỉ trạng thái không bình thường của sự vật; là
nơi tập trung mâu thuẫn cao độ cần giải quyết; là tình trạng không yên ổn trong
cộng đồng nhanh chóng tiến đến gần điểm bùng nổ.
Xét ở phạm vi rộng, "điểm nóng" có thể xảy ra ở những nơi, những vùng
đang có mâu thuẫn, xung đột gay gắt giữa các thế lực chính trị - quân sự đối lập
nhau trong một hoặc giữa nhiều quốc gia. Trong phạm vi hẹp của một quốc gia,
1

Hoàng Phê. Tự điển Tiếng Việt. Nxb KHXH. Hà Nội 1988, tr 339.
Nhị Lê. Tạp chí Cộng sản, số tháng 3/1994, trang 49.
3
Ban Nội chính Trung ương. Một số tình hình và giải pháp phòng ngừa, giải quyết
điểm nóng ở cơ sở nông thôn nước ta. Nxb Chính trị Quốc gia. Hà Nội 2000, tr 15

4
Viện ngôn ngữ học. Tự điển Anh - Việt. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, tr 624.
2

Học viên: Lê Xuân Cường – Lớp CCLLCT K6 Đăk

Nông
4


Phòng ngừa và giải quyết các “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan đến tôn giáo, dân tộc nhằm góp phần ổn định chính trị xã hội ở tỉnh Đắk Nông

"điểm nóng" có thể diễn ra ở một lĩnh vực cụ thể của đời sống xã hội, ở một địa
bàn dân cư nhất định.
- “Điểm nóng” xã hội là trạng thái không bình thường của đời sống xã hội
với đặc điểm là có sự xung đột, tranh chấp giữa các lực lượng với những hành vi
vượt ra ngoài khuôn khổ của pháp luật và chuẩn mực văn hóa đạo đức, gây mất
ổn định về an ninh, trật tự xã hội và đời sống nhân dân địa phương.
- “Điểm nóng” chính trị - xã hội là điểm nóng xã hội diễn ra trong lĩnh
vực chính trị - xã hội; khi mà sự xung đột, tranh chấp của các lực lượng (đám
đông quần chúng hoặc các lực lượng thù địch) đã hướng trực tiếp vào thể chế, bộ
máy, đội ngũ cán bộ của các cơ quan quyền lực Nhà nước.
1.1.1.2. Đặc điểm
- Nhìn chung các “ điểm nóng” chính trị - xã hội thường nảy sinh khi một
giai cấp mới giành được chính quyền; khi một chế độ xã hội mới ra đời hoặc khi
thể chế chính trị mắc sai lầm trong việc hoạch định và tổ chức thực hiện quyết
sách chính trị; khi những người cầm quyền thoái hóa biến chất, quan liêu tham
nhũng, vi phạm nghiêm trọng quyền làm chủ của nhân dân; hoặc do sự phá hoại
của các lực lượng thù địch đối lập.
- Các “điểm nóng” chính trị - xã hội bản thân nó có thể gây nên các hậu

quả xấu (thậm chí cần phải lên án) - nó thường gây ra tác hại về nhiều mặt cho
xã hội như gây mất ổn định chính trị - xã hội; kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã
hội ở địa phương, ảnh hưỏng đến đời sống nhân dân. Tuy nhiên; trên một
phương diện nào đó có thể thấy rằng: qua đó nó có thể đem lại cho thể chế
những dữ kiện để xem xét, điều chỉnh những khiếm khuyết trong việc hoạch
định đường lối, chính sách và trong việc quản lý điều hành mọi mặt của đời sống
xã hội.
- Các "điểm nóng" chính trị - xã hội có thể diễn ra trên những địa bàn
(nông thôn, thành thị, miền núi...) và trên những lĩnh vực khác nhau của đời sống
xã hội (kinh tế, văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc...).
- Các dấu hiệu cơ bản để nhận diện "điểm nóng" chính trị - xã hội là sự
xung đột gay gắt với những biểu hiện manh động ,vượt qua giới hạn của chuẩn
mực pháp lý và đạo đức của các chủ thể phản ứng; hệ thống tổ chức quyền lực
chính trị của nhiều nơi, lúng túng và bất lực, thậm chí có lúc bị tê liệt; hiệu ứng
lan tỏa của nó thường diễn ra rất phức tạp.
1.1.1.3. Nguyên nhân phát sinh "điểm nóng" chính trị - xã hội ở nước ta
hiện nay
Có thể nói rằng tình hình phát sinh các “điểm nóng” chính trị - xã hội bắt
nguồn từ nhiều loại nguyên nhân kinh tế, chính trị, xã hội. Việc xác định rõ
nguyên nhân và mối quan hệ phức tạp giữa các nguyên nhân sinh ra “điểm nóng”
chính trị - xã hội là vấn đề có ý nghĩa quan trọng và thiết thực trong việc xây dựng
và sử dụng các giải pháp phòng ngừa, giải quyết điểm nóng và quan trọng hơn hết
Học viên: Lê Xuân Cường – Lớp CCLLCT K6 Đăk

Nông
5


Phòng ngừa và giải quyết các “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan đến tôn giáo, dân tộc nhằm góp phần ổn định chính trị xã hội ở tỉnh Đắk Nông


là tạo lập cho được cơ sở đồng thuận xã hội để đảm bảo sự ổn định chính trị. Qua
nghiên cứu và tìm hiểu thực tế ở nước ta có thể khái quát những loại nguyên nhân
cơ bản mà trong mỗi “điểm nóng” đều thấy có biểu hiện:
*Các tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở một số địa phương còn yếu
kém, mất sức chiến đấu.
Đây có thể nói là nguyên nhân cơ bản, trực tiếp dẫn đến sự bùng nổ các
điểm nóng trong thời gian qua. Mà biểu hiện của nó được thể hiện ở những mặt
sau:
Một là; ở những nơi xảy ra “điểm nóng”, các tổ chức Đảng, chính quyền,
đoàn thể chính trị - xã hội còn yếu kém, thậm chí có nơi bị mất sức chiến đấu:
- Ở Tây Nguyên; từ sau các cuộc biểu tình bạo loạn 2001, 2004, hệ thống
chính trị cơ sở vùng Tây Nguyên bộc lộ rõ sự yếu kém về năng lực và bản lĩnh
chính trị, nhiều nơi bị vô hiệu hóa, cán bộ không dám đấu tranh trực diện với số
FULURO. Vai trò, trách nhiệm lãnh đạo điều hành của cấp ủy, chính quyền
nhiều nơi yếu kém, chưa đảm đương được nhiệm vụ lãnh đạo phát triển kinh tếxã hội, phát hiện xử lý những vấn đề phát sinh; vẫn còn tình trạng quan liêu, xa
dân, chưa thực sự chăm lo đời sống của đồng bào DTTS. Trình độ, năng lực thực
tiễn của phần đông đội ngũ cán bộ còn thấp và không đồng đều, bản lĩnh chính
trị của một bộ phận chưa thực sự vững vàng. Công tác quy hoạch, tạo nguồn,
đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ người DTTS các cấp, nhất là ở cơ sở chưa
được quan tâm đúng mức, chưa đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài. Việc thực
hiện chủ trương bổ sung phó bí thư cấp uỷ chuyên trách xây dựng hệ thống
chính trị đối với các huyện, xã trọng điểm còn lúng túng về chức năng nhiệm vụ,
hiệu quả thấp. Công tác xây dựng tổ chức đảng, phát triển đảng viên tại chỗ ở
một số địa bàn vùng DTTS, vùng đồng bào có đạo còn bất cập; nhiều nơi điều
động đảng viên đến để đạt mục tiêu xóa “trắng” những nơi chưa có đảng viên và
tổ chức đảng nhưng chưa phát huy được vai trò hạt nhân lãnh đạo. Xây dựng
buôn làng tự quản chưa quan tâm đúng mức nên hoạt động còn yếu. Chế độ,
chính sách đối với cán bộ cơ sở, nhất là ở những địa bàn khó khăn, phức tạp còn
bất cập nên chưa thu hút, động viên cán bộ yên tâm công tác, bám buôn làng.
Hai là; khi gặp “điểm nóng “ xảy ra, tổ chức Đảng và chính quyền một số

nơi thường bị động, lúng túng, đùn đẩy trách nhiệm; hiệu lực lãnh đạo quản lý bị
giảm sút; hệ thống chính trị ở cơ sở có lúc tê liệt và bị vô hiệu hoá (như vụ
“điểm nóng” ở Thái Bình 1997)
Ba là; không chỉ yếu kém về năng lực, một trong những biểu hiện phổ
biến và nghiêm trọng của một số cán bộ, đảng viên có chức, có quyền trong tổ
chức Đảng, chính quyền, hợp tác xã là tệ quan liêu, tham nhũng; vi phạm chính
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.
Ở những nơi có “điểm nóng” xảy ra – nhất là các điểm nóng liên quan đến
dân chủ cơ sở, kinh tế, đất đai - một số cán bộ tha hóa, biến chất, lợi dụng chức
Học viên: Lê Xuân Cường – Lớp CCLLCT K6 Đăk

Nông
6


Phòng ngừa và giải quyết các “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan đến tôn giáo, dân tộc nhằm góp phần ổn định chính trị xã hội ở tỉnh Đắk Nông

quyền, cố tình không thực hiện hoặc thực hiện sai chính sách pháp luật để trục
lợi, tham ô, chiếm dụng tài sản công quỹ của tập thể, sống xa hoa, lãng phí:
Ngoài các yếu tố đã được đề cập trên, thì vấn đề cần quan tâm ở đây là ở
một số nơi tổ chức Đảng, chính quyền cơ sở yếu kém, mất đoàn kết kéo dài,
thậm chí có mâu thuẫn gay gắt nhưng không được khắc phục; nhiều cán bộ
đảng viên mượn tay quần chúng để bôi nhọ, chống đối lẫn nhau đã biến mâu
thuẫn trong nội bộ thành mâu thuẫn ngoài xã hội.
Đó là những mâu thuẫn giữa một bên là số đông đảng viên gồm những
cán bộ, công chức liêm khiết đã nghỉ hưu, những đảng viên là nông dân bình
thường làm ăn chân chính, có đời sống khó khăn… với một bên là một số ít cán
bộ, đảng viên là cán bộ đương chức ở địa phương do tham nhũng, tiêu cực mà
giàu lên một cách nhanh chóng; là mâu thuẫn giữa đảng viên ở chi bộ hoặc ở
thôn, làng này với chi bộ khác hoặc thôn, làng khác; là mâu thuẫn giữa những

cán bộ chủ chốt với nhau.
*Một số chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước chậm đổi mới,
thiếu đồng bộ, chưa thông thoáng... như chính sách về tôn giáo, dân tộc, nông
nghiệp, nông thôn, quản lý đất đai, khoa học công nghệ, tài chính, đầu tư, xây
dựng cơ bản...Bên cạnh đó, nhiều tổ chức Đảng, cơ quan nhà nước, đoàn thể
quần chúng và cán bộ, đảng viên, công chức không chấp hành đúng các chủ
trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước (đặc biệt là ở cấp cơ sở).
Sự nghiệp đổi mới là quá trình lâu dài, phức tạp, nên mặc dầu Đảng và
Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng trong việc hoàn thiện các chủ trương, chính
sách, các văn bản pháp luật, pháp quy; tuy nhiên cơ chế, chính sách hiện hành
vẫn chưa đầy đủ, chưa đồng bộ và thiếu tính cụ thể. Trên nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội, cơ chế chính sách của Đảng, Nhà nước ta đều có những điều bất
cập, lạc hậu. Dưới đây là một số vấn đề cụ thể:
Một là; một số chính sách đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn chưa
được quan tâm đúng mức, thiếu cụ thể, kém hiệu quả.
Các chính sách về tiêu thụ, chế biến nông sản; cải tiến công cụ sản xuất;
cung ứng vật tư nông nghiệp, đào tạo, sử dụng cán bộ kỹ thuật nông nghiệp ở
vùng nông thôn chưa được các cấp chính quyền quan tâm đầu tư thích đáng. Một
số nơi việc thực hiện chủ trương “Nhà nước và nhân dân cùng làm” không được
chỉ đạo, hướng dẫn về bước đi, cách làm cụ thể của các nghành, các cấp... nên
một số chính quyền cơ sở tự xoay xở bằng cách bán đất, vay vốn với lãi suất cao,
thu các loại phí dịch vụ một cách áp đặt và không công bằng, huy động sức dân
vượt quá khả năng cho phép để xây dựng nông thôn mới quá sức dân; xây dựng
đường giao thông nông thôn, trường học, kên mương nội đồng…”. Hơn nữa,
việc hướng dẫn, kiểm tra ghi chép sổ sách, chứng từ thu chi không rõ ràng, rành
mạch dẫn đến sự nghi kỵ lẫn nhau. Ngoài ra sự cách biệt về mức sống, về việc
hưởng thụ các phúc lợi xã hội, cơ sở hạ tầng giữa nông thôn và thành thị quá lớn
Học viên: Lê Xuân Cường – Lớp CCLLCT K6 Đăk

Nông

7


Phòng ngừa và giải quyết các “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan đến tôn giáo, dân tộc nhằm góp phần ổn định chính trị xã hội ở tỉnh Đắk Nông

và tồn tại những vấn đề bất công về giá điện và tiền học phí của học sinh nông
thôn quá cao; giá cả đầu vào, đầu ra của sản xuất nông nghiệp không hợp lý
Hai là; các chính sách, pháp luật của nhà nước về quản lý và sử dụng đất
đai, nhất là đất sản xuất nông nghiệp, đất thổ cư, quỹ đất 5%... còn thiếu cụ thể
và nhiều sơ hở.
Đó là tình trạng chính quyền cơ sở nhiều nơi tự ý bán đất, cấp đất, cho
đấu thầu sử dụng đất trái pháp luật, tùy tiện thay đổi mục đích sử dụng đất khá
phổ biến, lấy đất sản xuất của dân cấp cho doanh nghiệp trong và ngoài nước;
Tình trạng lấn chiếm, tranh chấp đất diễn ra khá gay gắt; có những nơi việc tranh
chấp địa giới hành chính kéo dài không giải quyết được (như 59 hộ dân tại xã
EaPô huyện Cư Jút). Các chính sách và quy định về quản lý nhà nước đối với
tôn giáo, chính sách miền núi, chính sách xây dựng kinh tế mới, các quy định về
đền bù giải tỏa đất, về quản lý và sử dụng đất của các nông lâm trường, đơn vị
quân đội, cơ quan nhà nước... chưa đầy đủ và đồng bộ, không đáp ứng được yêu
cầu thực tế. Mặt khác, việc thực hiện những chính sách và quy định đó chưa triệt
để và có nhiều sai phạm nên đã xảy ra tình trạng một số tôn giáo đòi lại đất cũ;
người di cư tự do tranh chấp đất với người dân sở tại; nông dân tranh chấp đất
với nông lâm trường và đơn vị quân đội, cơ quan nhà nước. Tất cả đều đã góp
phần làm cho những khiếu nại, tố cáo về đền bù giải tỏa đất càng nhiều và càng
phức tạp hơn. Có thể nói, trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai là lĩnh vực
có nhiều tranh chấp khiếu kiện nhất (trên dưới 70%). Không ít tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương có tới 100% xã, phường, thị trấn bán đất, cấp đất trái
phép; không chỉ có chính quyền cấp xã, cấp huyện bán đất, cấp đất trái phép mà
hợp tác xã và trưởng thôn, trưởng xóm ở nhiều nơi cũng bán đất; cấp đất trái
phép.

Ba là: trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường, kinh tế - xã hội
nhiều vùng, địa phương đã có nhiều chuyển biến tích cực đáng ghi nhận; tuy
nhiên, bên cạnh đó cũng nảy sinh nhiều yếu tố phức tạp tiêu cực mới. Mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội vẫn còn nhiều bất cập; sự phân
hóa giàu nghèo trong xã hội ngày càng sâu sắc, số đông nhân dân lao động vẫn
còn nhiều khó khăn (nhất là đối với bà con ở các vùng nông thôn, vùng sâu,
vùng xa, miền núi...). Sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo cũng là một
trong những nguyên nhân gây nên tâm trạng tự ty, mặc cảm của một bộ phận
quần chúng, đồng bào DTTS:
Bốn là; một số chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về vấn đề dân
tộc, tôn giáo chưa hoàn thiện và thiếu tính đồng bộ; đặc biệt là việc vận dụng các
chính sách đó ở nhiều nơi còn máy móc, thiếu tính linh hoạt.
*Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp trong nhân dân còn
bị coi nhẹ, có nhiều sai sót, kéo dài.

Học viên: Lê Xuân Cường – Lớp CCLLCT K6 Đăk

Nông
8


Phòng ngừa và giải quyết các “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan đến tôn giáo, dân tộc nhằm góp phần ổn định chính trị xã hội ở tỉnh Đắk Nông

Quyền khiếu nại, tố cáo của người dân ở một số nơi trên thực tế vẫn bị
các cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm coi nhẹ: Nhiều cơ quan có thảm
quyền không giải quyết kịp thời, khách quan các khiếu nại, tố cáo. Tình trạng
người dân phải đi lại nhiều lần đến các cơ quan Đảng, chính quyền để khiếu nại,
tố cáo và đơn thư khiếu nại, tố cáo bị đùn đẩy vòng vo, gửi vượt cấp vẫn diễn ra
phổ biến. Công tác hòa giải, xử lý những mâu thuẫn, tranh chấp xảy ra giữa cá
nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể, tập thể khác trong cộng đồng làng, xã

nhiều khi bị chính quyền, đoàn thể bỏ mặc để họ tự xử với nhau; cá biệt có
trường hợp giải quyết lại thiếu cân nhắc, khách quan, vừa có tình trạng nóng vội,
vừa có tình trạng dây dưa kéo dài.
* Hiểu biết về pháp luật của người dân nhiều nơi còn nhiều hạn chế;
công tác tuyên truyền giáo dục chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước của các tổ chức Đảng, chính quyền và đoàn thể còn nhiều yếu kém.
Nhìn chung, thời gian qua các địa phương đã thể hiện sự quan tâm nhiều
hơn tới hoạt động giáo dục pháp luật thông qua các hình thức, phương pháp có
thể vận dụng như qua các phương tiện truyền thông (báo viết, báo nói, báo hình);
qua các hoạt động tư pháp; qua dạy và học pháp luật trong các nhà trường; qua
việc lồng ghép một số nội dung giáo dục pháp luật trong các lễ hội... Bằng
những hình thức và phương pháp đó, chất lượng và hiệu quả của công tác giáo
dục pháp luật được nâng lên một bước đáng kể.
Tuy nhiên, nhìn tổng thể, hoạt động giáo dục pháp luật ở nhiều nơi còn
bộc lộ nhiều yếu kém, bất cập: Nhận thức về vai trò, hiệu quả của công tác tuyên
truyền, giáo dục pháp luật trong đội ngũ cán bộ, công chức và trong nhân dân
chưa thật sự đồng đều, chưa đạt được yêu cầu cần thiết. Việc sử dụng các hình
thức, phương pháp giáo dục pháp luật còn chưa thật hợp lý, linh hoạt và hiệu quả
còn thấp, trong nhiều trường hợp, điều đó còn bộc lộ tính ngẫu hứng, tự phát.
Đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan có chức năng tuyên truyền, giáo
dục pháp luật còn rất mỏng về số lượng và chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu về
chất lượng trong điều kiện mới. Công tác xã hội hoá hoạt động giáo dục pháp
luật nhìn tổng thể còn rất yếu kém, không được tiến hành thường xuyên, tổ chức
thiếu chặt chẽ và hiệu quả thấp. Ở vùng đồng bào DTTS nhiều cán bộ chưa thực
sự “4 cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc) với đồng bào.
Do vậy, công tác tuyên truyền giáo dục chủ trương chính sách của Đảng, pháp
luật của nhà nước của các tổ chức Đảng chính quyền và đoàn thể còn hạn chế. Vì
thế ở các điểm nóng, một số người dân đã nghe theo sự xúi giục, kích động của
các phần tử quá khích cầm đầu gây ra những vụ việc mất trật tự, vi phạm pháp
luật.

* Các thế lực phản động và một số phần tử xấu lợi dụng các thiếu sót,
hạn chế nói trên để kích động một bộ phận quần chúng chống lại chính quyền
nhằm thực hiện chiến lược "Diễn biến hòa bình":
Học viên: Lê Xuân Cường – Lớp CCLLCT K6 Đăk

Nông
9


Phòng ngừa và giải quyết các “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan đến tôn giáo, dân tộc nhằm góp phần ổn định chính trị xã hội ở tỉnh Đắk Nông

Ở Tây Nguyên - địa bàn trọng yếu, nhạy cảm - các thế lực phản động
thường lợi dụng để thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”. Chúng triệt để lợi
dụng sự chênh lệch về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, phong tục, tập quán, tín
ngưỡng tôn giáo giữa các dân tộc; các vấn đề thuộc về lịch sử... để khơi tư tưởng
đòi ly khai, tự trị; kích động tư tưởng hận thù dân tộc; gây hoài nghi, chia rẽ
quần chúng nhân dân với Đảng, chính quyền. Chúng còn lợi dụng trình độ nhận
thức còn hạn chế, lạc hậu của đồng bào các dân tộc thiểu số, sự khác biệt giữa
các vùng miền để lừa bịp, mê hoặc, lôi kéo quần chúng tham gia hậu thuẫn cho
lực lượng chống phá, bạo loạn lật đổ khi có thời cơ. Chúng tập trung khai thác
mọi sơ hở, thiếu sót của ta trong việc thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà
nước ở vùng dân tộc thiểu số để quy kết mọi sự nghèo đói, lạc hậu chậm phát
triển là do Đảng, Nhà nước không quan tâm đến đồng bào dân tộc thiểu số; là do
người Kinh lên chiếm đất, khai thác tài nguyên của Tây Nguyên.
1.1.2. Tính tất yếu khách quan của việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội
trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta nói chung và ở Tây
Nguyên nói riêng.
Sự ổn định chính trị - xã hội trong thời đại ngày nay không chỉ phụ thuộc
vào tiềm lực kinh tế, quân sự, mà còn phụ thuộc vào sự trong sạch của nền tảng
tinh thần xã hội, vào truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, vào sự đúng đắn

của các quyết sách chính trị trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội... Ổn
định chính trị- xã hội nói một cách khái quát là giai cấp cầm quyền phải giữ
vững và tăng cường được quyền lực chính trị của mình, nhà nước của giai cấp đó
phải mạnh và có hiệu lực, luật pháp phải nghiêm minh, chế độ xã hội đã xác lập
phải được giữ vững. Sự ổn định chính trị - xã hội nhìn chung được khái quát qua
các tiêu chí cơ bản sau:
Một là, thiết chế chính trị không bị rối loạn, hoạt động của các bộ phận
trong đó nhịp nhàng theo một hướng thống nhất đáp ứng yêu cầu của đời sống
thực tiễn.
Hai là, có sự thống nhất giữa đường lối của Đảng và những chủ trương,
chính sách của Nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội...
Ba là, bản thân Nhà nước của giai cấp cầm quyền nói riêng và xã hội nói
chung có khả năng ngăn chặn và đập tan mọi hoạt động chống phá của các lực
lượng đối lập.
Bốn là, ổn định chính trị - xã hội cũng là quá trình bảo đảm giữ vững vai
trò lãnh đạo xã hội của chính đảng của giai cấp cầm quyền.
Nói chung, thực chất của việc ổn định chính trị - xã hội là khả năng chủ
động trong mọi tình huống của thiết chế chính trị. Bản chất của ổn định chính trị
không chỉ đối lập với khủng hoảng, rối loạn đổ vỡ, mà còn đối lập với sự trì trệ,
ngưng đọng. Với nghĩa đó thì ổn định chính trị - xã hội là sự ổn định của một hệ
thống đang liên tục vận động và biến đổi trong các quỹ đạo được xác định là phù
Học viên: Lê Xuân Cường – Lớp CCLLCT K6 Đăk

Nông
10


Phòng ngừa và giải quyết các “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan đến tôn giáo, dân tộc nhằm góp phần ổn định chính trị xã hội ở tỉnh Đắk Nông

hợp với quy luật vận động, phát triển của đời sống xã hội. Đó là ổn định động

gắn với sự phát triển, nhằm phát triển; sự ổn định này không phải vì mục đích tự
thân, mà ổn định chỉ là điều kiện cho sự phát triển, còn phát triển mới là mục
đích. Đó là một quá trình thống nhất biện chứng, diễn ra liên tục trong không
gian và thời gian, kết quả là đưa lại sự phát triển xã hội bền vững.
Sự ổn định chính trị - xã hội là thành quả tổng hợp của sức mạnh kinh tế,
chính trị, văn hoá, tư tưởng, đối ngoại và sức mạnh quốc phòng an ninh. Trạng
thái ổn định về chính trị - xã hội chỉ vững chắc khi lĩnh vực khác cũng đạt sự ổn
định tương ứng. Sự khủng hoảng ở lĩnh vực nào đó sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực
đến sự ổn định chung và nếu chậm khắc phục sẽ kéo theo hậu quả khó lường...
Tây Nguyên có một vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế, quân
sự. Trên cơ sở đánh giá đúng vị trị chiến lược ấy; từ sau ngày đất nước thống
nhất, Đảng và Nhà nước ta đã tập trung nhiều công sức và trí tuệ, phương tiện
vật chất và có nhiều chính sách phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng ở
đây. Điều này bước đầu đã làm thay đổi bộ mặt của Tây Nguyên trên các phương
diện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, giáo dục, y tế và đời sống của đồng bào
các dân tộc... Rõ ràng, tình hình kinh tế -xã hội, quốc phòng, an ninh đang từng
bước đi vào ổn định và đời sống đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên từng bước
được cải thiện. Đó là những thuận lợi cơ bản để Tây Nguyên tiếp tục phát triển
nhanh, bền vững. Tuy nhiên, nơi đây vẫn còn nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội,
nhất là vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và còn tiềm ẩn những nhân tố gây
mất ổn định chính trị. Tình hình đó đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải đặc biệt quan
tâm đến Tây Nguyên bằng những chủ trương, chính sách đồng bộ và toàn diện,
nhằm phát huy những tiềm năng, lợi thế của Tây Nguyên vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
1.2. CƠ SƠ CHÍNH TRỊ - PHÁP LÝ
1.2.1. Công tác tôn giáo và chính sách tôn giáo
- Nghị định số 92/2012/NĐ-CP, ngày 08/11/2012 “Quy định chi tiết và
biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo”.
- Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo số 21/2004/PL-UBTVQH11 được Ủy
ban thường vụ Quốc hội thông qua ngày 18/6/2004.

- Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg, ngày 04/2/2005 của Thủ tướng Chính phủ
về “Một số công tác đối với đạo Tin lành”.
- Quyết định số 14/2012/QĐ-UBND, ngày 20/8/2012 của UBND Tỉnh
“về việc ủy quyền công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo trên địa bàn tỉnh Đăk
Nông”.
- Chỉ thị số 15/CT-CTUBND ngày 11/8/2006 của UBND tỉnh về “Chỉ
đạo các ban ngành liên quan, UBND các huyện, thị xã tổ chức hướng dẫn đạo
Học viên: Lê Xuân Cường – Lớp CCLLCT K6 Đăk

Nông
11


Phòng ngừa và giải quyết các “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan đến tôn giáo, dân tộc nhằm góp phần ổn định chính trị xã hội ở tỉnh Đắk Nông

Tin lành đăng ký sinh hoạt theo điểm nhóm, từng bước công nhận tư cách pháp
nhân cho một số chi hội có đủ điều kiện”.
- Kế hoạch số 12/KH-TU ngày 01/5/2004 của Tỉnh ủy Đăk Nông về “một
số công tác đối với đạo Tin Lành”.
1.2.2. Công tác dân tộc và chính sách dân tộc
Công tác dân tộc và những chính sách cụ thể đối với các dân tộc thiểu số
thể hiện trong nhiều văn bản, chủ trương, chính sách của Chính phủ. Có thể nêu
lên một số chương trình có mục tiêu ở vùng dân tộc thiểu số như:
- Chương trình xóa đói giảm nghèo (theo tinh thần Quyết định số
133/1998/QĐ-TTg ngày 23/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ); Chương trình
phát triển kinh tế - xã hội ở các xã đặc biệt khó khăn và vùng sâu, vùng xa
(chương trình 135);
- Quyết định số 1592/QĐ-TTg ngày 12/10/2009 của Thủ tướng Chính phủ
về việc tiếp tục thực hiện một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và
nước sinh hoạt đến năm 2010 cho hộ đồng bào DTTS nghèo, đời sống khó khăn

- Quyết định số 755/QĐ-TTg ngày 20/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ
về phê duyệt chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho hộ đồng
bào DTTS nghèo và hộ nghèo ở xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn
- Quyết định số 1342/QĐ-TTg ngày 25/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ
về tiếp tục hỗ trợ di dân thực hiện định canh, định cư cho đồng bào DTTS đến
năm 2015
- Quyết định số 12/2013/QĐ-TTg ngày 24/1/2013 quy định chính sách hỗ
trợ học sinh trung học phổ thông là người dân tộc thiểu số, là người dân tộc Kinh
thuộc hộ nghèo ở xã, thôn có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn.
Trong đó, tựu trung nhất về công tác dân tộc thể hiện ở Nghị định số
05/2011/NĐ-CP “Về công tác dân tộc” của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày
14/01/2011. Theo đó, có 4 nguyên tắc cơ bản của công tác dân tộc là:
- Thực hiện chính sách dân tộc theo nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng, giúp nhau cùng phát triển.
- Đảm bảo và thực hiện chính sách phát triển toàn diện, từng bước nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào dân tộc thiểu số.
- Đảm bảo việc giữ gìn tiếng nói, chữ viết, bản sắc dân tộc, phát huy
những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mỗi dân tộc.
- Các dân tộc có trách nhiệm tôn trọng phong tục, tập quán của nhau, góp
phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Cùng với xác định các nguyên tắc, Nghị định cũng xác đinh các hành vi
nghiêm cấm, gồm:
- Mọi hành vi kỳ thị, phân biệt đối xử, chia rẽ, phá hoại đoàn kết các dân
tộc.
Học viên: Lê Xuân Cường – Lớp CCLLCT K6 Đăk

Nông
12



Phòng ngừa và giải quyết các “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan đến tôn giáo, dân tộc nhằm góp phần ổn định chính trị xã hội ở tỉnh Đắk Nông

- Lợi dụng các vấn đề về dân tộc để tuyên truyền xuyên tạc, chống lại
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
- Lợi dụng việc thực hiện chính sách dân tộc, quản lý nhà nước về công
tác dân tộc để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân.
- Các hành vi khác trái với quy định của Chính phủ.
Về nội dung chính sách dân tộc, Nghị định chia làm 13 nhóm, gồm: (1)
Chính sách đầu tư và sử dụng nguồn lực; (2) Chính sách đầu tư phát triển bền
vững; (3) Chính sách phát triển giáo dục và đào tạo; (4) Chính sách cán bộ người
dân tộc thiểu số; (5) Chính sách đối với người có uy tín ở vùng dân tộc thiểu số;
(6) Chính sách bảo tồn và phát triển văn hóa; (7) Chính sách phát triển thể dục,
thể thao vùng dân tộc thiểu số; (8) Chính sách phát triển du lịch vùng dân tộc
thiểu số; (9) Chính sách y tế, dân số; (10) Chính sách thông tin - truyền thông;
(11) Chính sách phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý; (12) Chính
sách bảo vệ môi trường, sinh thái; (13) Chính sách quốc phòng, an ninh.
1.2.3. Về an ninh quốc gia
- Nghị quyết 08 ngày 17/2/1998 của Bộ chính trị về “chiến lược An ninh
quốc gia”.
- Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 18/01/2002 của Bộ Chính Trị về “phát
triển kinh tế - xã hội và đảm bảo Quốc phòng, An ninh vùng Tây Nguyên thời ký
2001 – 2010”.
- Nghị quyết 08-NQ/TW, ngày 12/7/2003 của Bộ Chính Trị về “chiến
lược bảo vệ An ninh quốc gia trong tình hình mới”.
- Chỉ thị số 05 ngày 14/10/2006 của Bộ Chính Trị về “tăng cường lãnh
đạo công tác đảm bảo An ninh quốc gia trong tình hình mới”.
- Chỉ thị số 03-CT/TTg, ngày 09/03/2001 về “một số chủ trương, biện
pháp cấp bách nhằm tiếp tục đấu tranh, xóa bỏ tổ chức phản động đòi độc lập
“Nhà nước Đêga” ở Tây Nguyên”.

- Chỉ thị số 16/2004/CT-TTg, ngày 01/5/2004 của Thủ tướng Chính phủ
về “đấu tranh xóa bỏ tổ chức phản động FULRO đang nhen nhóm phục hồi trên
địa bàn một số tỉnh Tây Nguyên”.
- Cơ sở pháp lý của Đề án còn là các Chỉ thị, Quyết định như Quyết định
số 168 - QĐ/TTg ngày 30/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ "Về việc định
hướng dài hạn, kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 và những giải pháp cơ bản phát
triển kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên"; Chỉ thị số 03- CT/TTg ngày 07/02/2002
"Về việc tiếp nhận người ở Tây Nguyên vượt biên sang Campuchia về nước";
Chỉ thị số 45/2004/CT-TTg ngày 07/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ về tăng
cường thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục phát triển vùng Tây Nguyên
toàn diện, bền vững; Thông báo 78a/TB-VPCP ngày 13/4/2004 về ý kiến chỉ đạo
Học viên: Lê Xuân Cường – Lớp CCLLCT K6 Đăk

Nông
13


Phòng ngừa và giải quyết các “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan đến tôn giáo, dân tộc nhằm góp phần ổn định chính trị xã hội ở tỉnh Đắk Nông

của Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về xử lý tình hình phức tạp ở Tây
Nguyên…
1.3. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.3.1. Đặc điểm tình hình tỉnh Đắk Nông liên quan đến vấn đề ổn định chính
trị, trật tự an toàn xã hội
Tỉnh Đăk Nông được thành lập ngày 01/01/2004 tách ra từ tỉnh Đăk Lăk
theo Nghị quyết số 22/2003/NQ-QH11, ngày 26/11/2003 của Quốc Hội Nước
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam; có tổng diện tích 651.438 ha, dân số
trên 500 ngàn người; đơn vị hành chính có 07 huyện, 01 thị xã; 71 xã, phường,
thị trấn, 701 thôn, bon, tổ dân phố (trong đó có 128 thôn, bon đồng bào dân tộc
thiểu số). Là địa bàn có vị trí chiến lược của khu vực Tây Nguyên, cửa ngõ phía

Nam Tây Nguyên, có tầm quan trọng cả về kinh tế, chính trị và An ninh, Quốc
phòng, là huyết mạch nối liền giữa các tỉnh Tây Nguyên với các tỉnh miền Đông
Nam bộ với chiều dài 155 km dọc theo tuyến Quốc lộ 14 từ Bình Phước đến Đăk
Lăk và 130 km đường biên giới với nước bạn Campuchia (khu vực biên giới
giữa hai tỉnh Mondunkiri và Đăk Nông có diện tích khoảng 109.149 Km 2; chạy
dọc theo phạm vi địa giới hành chính của 79 thôn (bon), thuộc 07 xã, 04 huyện
(Cư Jút, Đăk Mil, Đăk Song, Tuy Đức) và 10 phun, sóc của 02 xã Đăk Đam,
Busara, 02 huyện Ô Rang và Pich Chăm Đa, tỉnh Mondunkiri - Campuchia) với
địa hình phức tạp, hiểm trở, có 02 cửa khẩu Quốc gia Bu Prăng và Đăk Puer.
Nhìn chung, Đăk Nông còn là một tỉnh nghèo, kinh tế chậm phát triển, đời
sống nhân dân còn nhiều khó khăn; truyền thống, tập quán canh tác của người
dân còn lạc hậu, kinh tế chủ yếu phụ thuộc vào nông, lâm nghiệp. Sau gần13
năm thành lập, Đăk Nông đã từng bước khởi sắc đi lên, đời sống nhân dân được
cải thiện, tình hình An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Để
đạt được những kết quả đó, trong những năm qua chính quyền và nhân dân tỉnh
Đăk Nông đã có nhiều cố gắng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế của
tỉnh nhà.
Trong vấn đề an ninh quốc gia, ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội,
Đắk Nông có cả 3 vấn đề cần quan tâm là dân tộc, tôn giáo và biên giới.
Về vấn đề dân tộc, Đắk Nông là tỉnh có đến 40 dân tộc cùng sinh sống.
Dân số các dân tộc thiểu số 176.489 người, chiếm khoảng 31,05% tổng dân số
trong tỉnh. Trong đó có 3 dân tộc thiểu số tại chỗ là M’Nông, Mạ, Ê Đê với
59.104 người, chiếm 33,5% so với tổng số dân tộc thiểu số và chiếm 10,5% so
với dân số toàn tỉnh, dân tộc khác 117.385 người chiếm khoảng 21% dân số toàn
tỉnh.
Cũng giống như một số tỉnh Tây Nguyên khác, cư dân Đắk Nông còn thưa
thớt và đa số các DTTS đều sống ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, sống
rải rác và xen kẽ với các dân tộc khác trong tỉnh. Hầu hết đồng bào DTTS sống
Học viên: Lê Xuân Cường – Lớp CCLLCT K6 Đăk


Nông
14


Phòng ngừa và giải quyết các “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan đến tôn giáo, dân tộc nhằm góp phần ổn định chính trị xã hội ở tỉnh Đắk Nông

bằng nghề nông, là lao động phổ thông, số lao động chuyên môn ít, những mối
quan hệ truyền thống của các DTTS còn tồn tại lâu dài, cho đến nay vẫn còn
đậm nét quan hệ công xã nông thôn.
Về tâm lý, tình cảm người DTTS thường chân thật, mộc mạc, dễ tin dễ
ngờ, sùng bái cá nhân, sự giúp đỡ về vật chất được đồng bào coi trọng hơn hàng
ngàn lời nói suông. Do ảnh hưởng của những quan hệ xã hội theo dòng họ, huyết
thống và những quan hệ đó khép kín trong phạm vi buôn, bon nên trong vùng
DTTS tồn tại những người có uy tín trong cộng đồng. Ngày nay, do những tác
động ảnh hưởng bởi nhiều nguyên nhân khác nhau nên số lượng người có uy tín
và mức độ uy tín ảnh hưởng của họ có phần giảm sút so với trước đây, những
người là chức sắc tôn giáo ngày càng trở thành lớp người có uy tín ảnh hưởng
lớn trong vùng đồng bào DTTS có đạo. Người DTTS Tây Nguyên có tình cảm
dân tộc sâu sắc, dễ tự ti, mặc cảm khi ai đó đụng chạm, xúc phạm đến dân tộc
mình, họ còn mang nặng tư tưởng dân tộc hẹp hòi, kỳ thị dân tộc, đây chính là
điều kiện thuận lợi cho các thế lực thù địch, phản động lợi dụng.
Một vấn đề rất đáng quan tâm là tình trạng di cư tự do từ các tỉnh khác
đến làm ăn sinh sống ngày càng nhiều và tăng nhanh đột biến (chủ yếu là người
dân tộc Mông). Theo số liệu thống kê, tính đến 31/11/2011 toàn tỉnh có khoảng
3.880 hộ người Mông với 22.628 khẩu; di cư từ 14 tỉnh đến sinh sống, cưa trú tại
50 thôn, bon, buôn, bản - cụm của 18 xã thuộc 06 huyện và thị xã, chiếm tỷ lệ
4,4% dân số toàn tỉnh và 11,25 so với đồng bào DTTS. Tập trung chủ yếu tại 02
huyện Đắk Glong và Tuy Đức (chiếm 92% tổng số người Mông trên toàn tỉnh).
Người Mông di cư tự do, tập trung sinh sống theo từng nhóm, từng cụm, chưa có
sự quản lý chặt chẽ của chính quyền địa phương, dẫn đến thực trạng người Mông

phá rừng để lấy đất sản xuất, tranh chấp đất đai với người đồng bào DTTS tại
chỗ, với các lâm trường, công ty gây khó khăn cho ta trong công tác đảm bảo
ANTT tại cơ sở và là điều kiện thuận lợi cho các thế lực thù địch, phản động lợi
dụng kích động lôi kéo người Mông vào các hoạt động chống phá ta.
Về vấn đề tôn giáo, toàn tỉnh có 4 tôn giáo là Công giáo, Tin Lành, Phật
giáo, Cao Đài. Ở thời điểm năm 2016, có đến 30,6% số tín đồ người đồng bào
dân tộc thiểu số chiếm đến 30,6% tổng số người theo đạo trên toàn tỉnh. Về
Công giáo, có một số xã toàn tòng, chiếm đến 90% là người có đạo. Nhất là có
sự phát triển rất nhanh của đạo Tin Lành vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đã
có đến 40.897 trong tổng số 51.023 tín đồ Tin lành toàn tỉnh.
Quan hệ dân tộc ở tỉnh Đắk Nông khá đa dạng. Đồng bào các dân tộc ở
đây có mối quan hệ đồng tộc, đồng họ, đồng tôn giáo với các nước láng giềng.
Điển hình như người M’Nông có quan hệ rất nhiều và lâu đời với người M’Nông
ở Campuchia, nhất là dân cư dọc biên giới của các tỉnh có chung đường biên giới
như Monđulkiri. Họ có cùng tiếng nói, chữ viết, phong tục tập quán, có quan hệ
huyết thống, nhiều người sinh sống ở Đắk Nông nhưng có nguồn gốc ở bên kia
Học viên: Lê Xuân Cường – Lớp CCLLCT K6 Đăk

Nông
15


Phòng ngừa và giải quyết các “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan đến tôn giáo, dân tộc nhằm góp phần ổn định chính trị xã hội ở tỉnh Đắk Nông

và ngược lại nhiều người ở bên kia nhưng có cội nguồn ở bên này. Ở Đắk Nông
có 90% người có đạo theo đạo Tin lành, còn ở Monđulkiri cũng có hơn 80%
người có đạo theo đạo Tin lành, số còn lại thì theo đạo Thiên Chúa giáo. Ngoài
ra người Mông ở Đắk Nông có quan hệ xuyên quốc gia với người Mông ở các
nước Lào, Thái Lan, Trung Quốc. Họ cùng nguyện vọng lập “Vương quốc
Mông” và lấy đạo Vàng Chứ làm đức tin cho mình. Chính những mối quan hệ và

ý thức dân tộc đó là mầm móng nảy sinh ý thức dân tộc tự trị, ly khai, tư tưởng
bài Kinh. Điều đó làm cho vấn đề người Mông ở Đắk Nông trở nên phức tạp
hơn.
Chính những yếu tố dân tộc, tôn giáo và địa bàn có đường biên giới đã nói
lên tính khó khăn, phức tạp trong quá trình đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn
của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc để làm mất ổn định chính trị, tật
tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.
1.3.2. Âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo,
dân tộc gây mất ổn định chính trị, TTATXH trên địa bàn tỉnh Đắk Nông
1.3.2.1. Âm mưu
Trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của Mỹ và các thế lực thù địch
chống Việt Nam, Tây Nguyên nói chung và Đắk Nông nói riêng là một trong
những địa bàn trọng điểm mà các thế lực thù địch tập trung tấn công quyết liệt
trong thời gian qua. Với chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo,… chúng
đã kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi của một bộ phận không nhỏ người DTTS
bản địa ở Đắk Nông theo hướng ly khai, đòi tự trị, nhằm thành lập cái gọi là
“Nhà nước Đêga” và tổ chức “Tin lành Đêga”.
Âm mưu xuyên suốt của các thế lực thù địch và bọn phản động FULURO
lưu vong đối với Tây Nguyên nói chung và Đắk Nông nói riêng là tổ chức, tiến
hành biểu tình dài ngày, gây tê liệt hoạt động của các cơ quan chính quyền tại
địa phương, gây hoang mang dao động trong quần chúng nhân dân và cán bộ ta
trên địa bàn đồng thời cũng cố niềm tin cho những người tham gia tổ chức của
chúng. Lợi dụng vấn đề trên để chúng tạo cớ vu cáo ta vi phạm nhân quyền, dân
tộc, tôn giáo, gây tiếng vang trong dư luận quốc tế, kêu gọi sự ủng hộ của các thế
lực thù địch bên ngoài, tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của ta.
1.3.2.2. Thủ đoạn hoạt động
* Tuyên truyền tư tưởng lý khai, đòi tự trị dân tộc
Đây là một thủ đoạn hết sức thâm độc của các thế lực thù địch, một khi tư
tưởng dân tộc hẹp hòi luôn hiện hữu trong cộng đồng người DTTS thì phong
trào, hoạt động đòi hỏi ly khai, tự trị trong vùng DTTS là không thể tránh khỏi.

Lợi dụng trình độ dân trí của đại đa số đồng bào DTTS Đắk Nông vẫn còn
nhiều hạn chế, đời sống kinh tế - văn hóa của đồng bào chưa thật ổn định, còn
nghèo nàn, lạc hậu. Do vậy, các thế lực thù địch đã lợi dụng tuyên truyền, kích
động, khơi dậy tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tư tưởng ly khai, đòi tự trị trong một bộ
Học viên: Lê Xuân Cường – Lớp CCLLCT K6 Đăk

Nông
16


Phòng ngừa và giải quyết các “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan đến tôn giáo, dân tộc nhằm góp phần ổn định chính trị xã hội ở tỉnh Đắk Nông

phận không nhỏ cộng đồng người DTTS tại chỗ, từ đó lôi kéo họ tham gia vào tổ
chức “Nhà nước Đêga”, “Tin lành Đêga”, tham gia biểu tình, bạo loạn và vượt
biên trái phép sang Campuchia.
* Cung cấp tài chính và chỉ đạo đối tượng bên trong nội địa lập tổ chức
“Nhà nước Đêga”, “Tin lành Đêga”
Để tuyên truyền, kích động và tạo điều kiện cho số đối tượng bên trong
hoạt động chống phá, các thế lực thù địch thường xuyên gửi tài liệu, phương tiện
và đặc biệt là cung cấp tài chính cho số đối tượng bên trong hoạt động. Lợi dụng
dịch vụ chi trả kiều hối qua hệ thống ngân hàng, thông qua số tộc kiều về thăm
thân, số đối tượng bên ngoài đã chuyển kinh phí về nước cho người thân để qua
thân nhân kích động tư tưởng “vọng ngoại” cho số đối tượng trong nước và nhận
tiền mua điện thoại, sim card làm phương tiện hoạt động.
Thực hiện sự chỉ đạo của các thế lực thù địch, số đối tượng FULURO
trong nước thời gian qua tích cực đi tuyên truyền, lôi kéo, dụ dỗ, mua chuộc
đồng bào DTTS tham gia vào tổ chức “FULURO ngầm” nhằm tập hợp lực
lượng, nhanh chóng phục hồi tổ chức FULRO với tên gọi “Nhà nước Đêga” và
“Tin lành Đêga”.
* Lợi dụng danh nghĩa công khai, hoạt động từ thiện để xâm nhập vào địa

bàn Đắk Nông.
Thời gian qua, Mỹ và các thế lực thù địch đã lợi dụng danh nghĩa công
khai hợp pháp để xâm nhập địa bàn Đắk Nông, nổi lên là các tổ chức phi chính
phủ (NGO) lấy lý do vào Đắk Nông để khảo sát tình hình, từ đó có cơ sở lập dự
án hoặc thực hiện dự án nhưng chỉ thu thập thông tin, tình hình kinh tế - xã hội,
phong tục tập quán địa phương và đồng bào DTTS, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước đối với vùng đồng bào DTTS… Sau đó, các NGO bỏ đi,
không thực hiện viện trợ hoặc viện trợ với số vốn rất nhỏ không như cam kết ban
đầu.
* Kích động, lôi kéo, tổ chức quần chúng người DTTS biểu tình, bạo loạn,
vợt biên trái phép.
Dưới sự chỉ đạo của các thế lực thù địch, số đối tượng tại địa phương đã
tích cực tuyên truyền, lôi kéo quần chúng là người DTTS, lợi dụng các thời điểm
chính trị trong nước nhạy cảm, các dịp lễ lớn, lợi dụng những “điểm nóng” về an
ninh chính trị trong vùng đồng bào DTTS để kích động, tổ chức cho đồng bào
DTTS biểu tình, bạo loạn chống phá ta.
Vào tháng 4 năm 2004, số đối tượng cầm đầu FULURO tại huyện Cư Jút
đã kích động, dụ dỗ được hơn 300 người DTTS tiến hành gây rối, gây biểu tình,
bạo loạn tại trung tâm huyện Cư Jút với khẩu hiệu “trả lại đất Tây Nguyên cho
chúng tôi”. Nhiều vụ khác, chúng đã chuẩn bị cờ Đêga, băng rôn, khẩu hiệu với
ý đồ gây bạo loạn nhưng bị phát hiện, ngăn chặn kịp thời.

Học viên: Lê Xuân Cường – Lớp CCLLCT K6 Đăk

Nông
17


Phòng ngừa và giải quyết các “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan đến tôn giáo, dân tộc nhằm góp phần ổn định chính trị xã hội ở tỉnh Đắk Nông


Hay vụ việc, ngày 15/3/2013 công an thị xã Gia Nghĩa có tạm giữ ông
Hoàng Văn Ngài cùng với em trai là Hoàng Văn Pá, Thường trú tại thôn 20
huyện Cư Jút) vì lý do phá rừng làm nương rẫy tại địa bàn thị xã Gia Nghĩa.
Trong quá trình điều tra và câu lưu tại Công an Thị xã (ông Hoàng Văn Ngài đã
tự sát bằng ổ cắm điện). Phát hiện chết tại phòng làm việc công an thị xã Gia
nghĩa lúc 17h ngày 17/3/2013.
Sau khi Hội đồng giám định Pháp Y Công an tỉnh Đăk Nông giám định
xong, đến 18h ngày 18/3/2013, đưa tử thi Hoàng Văn Ngài về gia đình tại thôn
20 xã ĐăkD’rông huyện Cư Jút. Sau khi đưa tử thi về gia đình, bà con đồng bào
dân tộc Mông trên địa bàn huyện về tụ tập, thăm hỏi, chia buồn cùng gia đình
khoảng trên 300 người (báo cáo của Trưởng Công an huyện Cư Jút). Tuy nhiên
dòng họ ông Hoàng Văn ngài không nhất trí theo kết luận của Công an tỉnh nên
khiếu kiện vượt cấp. Sau hơn hai tháng sau Ông Hoàng Văn Quạ (Trưởng điểm
nhóm Tin Lành thôn 20) là người nhà của Hoàng Văn Ngài dẫn theo 27 người
nhà và trong dòng họ vượt biên trái phépsang campuchia sau đó đi Thái Lan
nhưng cơ quan chức năng và chính quyền địa phương không phát hiện và có
biện pháp ngăn chặn kịp thời. gây dư luận không tốt trong đồng bào dân tộc
Mông trên địa bàn huyện Cư Jút.
* Lập trại tị nạn ở Campuchia để kích động, lôi kéo người DTTS trốn
sang Cùng với hoạt động kích động, lôi kéo, tổ chức quần chúng biểu tình, bạo
loạn, các thế lực thù địch cũng tích cực kích động, lôi kéo người DTTS vượt
biên trái phép sang Campuchia với ý đồ tạo tâm lý hoang mang, bất ổn trong
đồng bào DTTS ở Đắk Nông, tạo làn sóng “tỵ nạn” để xuyên tạc, vu cáo Đảng,
Nhà nước, ta đàn áp người DTTS nhằm “quốc tế hóa” vấn đề người Thượng, hạ
uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế và tạo cớ cho bên ngoài can thiệp.
1.3.3. Công tác đấu tranh của các cơ quan chức năng
1.3.3.1. Thực trạng công tác đấu tranh
Quán triệt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, Tỉnh ủy Đắk
Nông ban hành Nghị quyết số 02-NQ/TU ngày 13/5/2004 và Chương trình số
05-CTr/TU ngày 26/4/2004 nhằm đổi mới nâng cao chất lượng hệ thống chính

trị gắn với xây dụng thôn, buôn, bon vũng mạnh toàn diện và tăng cường công
tác đấu tranh chống âm mưu diễn biến hòa bình. Bên cạnh các cơ quan, ban
ngành, Mặt trận và các đoàn thể cính trị xã hội, lực lượng Công an, quân đội của
tỉnh Đắk Nông là lực lượng nòng cốt, tiến hành đồng bộ các biện pháp, công tác
nhằm đảm bảo an ninh vùng DTTS, làm thất bại âm mưu, hoạt động của các thế
lực thù địch lợi dụng đồng bào DTTS để gây rối, gây bạo loạn.
Để tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức của đồng bào DTTS đối với
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhận thức rõ âm mưu
“Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, Tỉnh ủy đã ban hành Chỉ thị số
Học viên: Lê Xuân Cường – Lớp CCLLCT K6 Đăk

Nông
18


Phòng ngừa và giải quyết các “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan đến tôn giáo, dân tộc nhằm góp phần ổn định chính trị xã hội ở tỉnh Đắk Nông

04-CT/TU ngày 07/5/2004. Qua đó, các sở, ban, ngành từ tỉnh đến huyện, tổ
chức kết nghĩa với các buôn, bon người DTTS với phương châm “cùng ăn, cùng
ở, cùng làm” nhằm giúp đỡ, hướng dẫn bà con người DTTS biết cách vận dụng
khoa học kỹ thuật và phát triển kinh tế hộ gia đình; đồng thời tranh thủ vận động
đồng bào DTTS không tin, không nghe theo các luận điệu phản động của các thế
lực thù địch.
Trong thời gian qua, các cơ quan, ban ngành từ cấp tỉnh đến huyện, xã đã
có hoạt động hướng về cơ sở, đẩy nhanh tiến độ thực hiện các chương trình mục
tiêu kinh tế như Chương trình 132, 134, 135; 755; 102; 33…chương trình xoá
nghèo bền vững để chăm lo cho đời sống của đồng bào DTTS, thực hiện tốt quy
chế dân chủ cơ sở; quan tâm đầu tư đúng mức cho công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng cho cộng đồng người DTTS nhằm từng bước nâng cao ý thức pháp luật,
nhận thức của đồng bào DTTS về chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước.

Thông qua các phong trào thi đua yêu nước, các tổ chức chính trị xã hội
như: Mặt trận Tổ quốc, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội
Nông dân, Hội Người cao tuổi,… các cấp đã thực sự quan tâm đến công tác vận
động đồng bào DTTS thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo
ANQP mà Đại hội Đảng các cấp đã đề ra. Điển hình là các phong trào “Vì người
nghèo”, “Thanh niên tình nguyện vì cuộc sống cộng đồng”. “Hội Cựu chiến binh
giúp nhau phát triển kinh tế”, “Nông dân thi đua sản xuất giỏi, giúp nhau xóa đói
giảm nghèo”, “Tuổi cao - gương sáng”,… các cơ quan nhà nước như: Ban Dân
tộc tỉnh, phòng dân tộc huyện, sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh,
Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện…trực tiếp thực hiện các
chương trình, chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ nghèo và vùng khó
khăn hỗ trợ sản xuất, xoá đói giảm nghèo….
Bên cạnh việc chăm lo cho đời sống tinh thần và vật chất của đồng bào
DTTS, công tác đảm bảo an ninh trong vùng đồng bào DTTS cũng được các sở,
ban ngành các cấp đặc biệt quan tâm. Dưới sự chỉ đạo của Thường trực Tỉnh ủy,
các sở, ban ngành đã đưa hàng nghìn lượt cán bộ tăng cường xuống cơ sở làm
công tác dân vận, phối hợp với chính quyền địa phương tổ chức trên 2000 buổi
phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc với hơn 10 nghìn người
tham gia. Qua các buổi phát động này, các sở, ban ngành có liên quan đã góp
phần cùng với cơ quan chức năng vạch trần âm mưu lợi dụng các vấn đề trong
vùng đồng bào DTTS để chống phá Đảng và Nhà nước ta, ngăn chặn các dấu
hiện liên quan đến biểu tình, bạo loạn và vượt biên trái phép, giữ vững ổn định
an ninh chính trị trong vùng đồng bào DTTS.
Việc quán triệt, phổ biến Nghị quyết số 25-NQ/TW của Ban Chấp hành
Trung ương; Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; Nghị định số 22/2005/NĐ-CP (nay
là Nghị định số 92/2012/NĐ-CP); Chỉ thị số 01/2005/CT-TTg về công tác đối
với đạo Tin lành; các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tôn giáo và các
Học viên: Lê Xuân Cường – Lớp CCLLCT K6 Đăk

Nông

19


Phòng ngừa và giải quyết các “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan đến tôn giáo, dân tộc nhằm góp phần ổn định chính trị xã hội ở tỉnh Đắk Nông

văn bản chỉ đạo, điều hành về công tác tôn giáo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh,…được
triển khai sâu rộng, bằng nhiều hình thức tuyên truyền như hội nghị phổ biến
pháp luật, các lớp tập huấn, bồi dưỡng, qua các phương tiện thông tin đại chúng,
các buổi làm việc, gặp mặt. Trong những năm qua, các cấp ủy đảng, chính
quyền, đoàn thể các cấp trên địa bàn tỉnh đã tổ chức phổ biến cho 15.700 lượt
người, trong đó có 11.200 lượt cán bộ, đảng viên và 4.500 lượt chức sắc, tín đồ
các tôn giáo.
Trên cơ sở Quyết định số 26/2014/QĐ-UBND ngày 24/11/2014 của Ủy
ban nhân dân tỉnh về việc ban hành Quy chế phối hợp trong công tác quản lý nhà
nước về tôn giáo trên địa bàn tỉnh, ngày 11/8/2015 Ban Tôn giáo tỉnh và Công an
tỉnh đã ký kết văn bản sơ bộ về nội dung kết nghĩa trong thời gian tới. Đây là cơ
sở để hai đơn vị triển khai có hiệu quả hơn nữa công tác phối hợp thực hiện
nhiệm vụ chuyên môn trong thời gian tới.
Bên cạnh đó Tỉnh uỷ, UBND tỉnh đã chỉ đạo Lực lượng Công an, Bộ đội
biên phòng tập trung lực lượng, triển khai đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ, làm
tốt công tác phòng ngừa, đấu tranh nhằm đập tan âm mưu, ý đồ hoạt động lợi
dụng tôn giáo, dân tộc của các thế lực thù địch gây mất ổn định chính trị, trật tự
an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh. Chủ động phối hợp với các lực lượng có liên
quan làm tốt công tác phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc,
vạch trần âm mưu của bọn FULURO lưu vong và các thế lực thù địch lợi dụng
vấn đề tôn giáo, dân tộc chống phá ta; tăng cường công tác vận động quần chúng
không tin, không nghe theo luận điệu của bọn FULURO lưu vong và các thế lực
thù địch, trong đó tập trung vào công tác vận động cá biệt nhằm xây dựng ngọn
cờ, tranh thủ người có uy tín để đấu tranh chính trị chống lại các luận điệu phản
động. Phối hợp với các lực lượng, các ngành có liên quan triển khai thực hiện có

hiệu quả các chủ trương của Đảng, Chính phủ, của Thường trực Tỉnh ủy và các
phương án tác chiến phòng chống biểu tình, bạo loạn, vượt biên trong vùng đồng
bào DTTS. Tỉnh uỷ, UBND tỉnh đã chỉ đạo Đấu tranh ngăn chặn hiệu quả, nhanh
chóng dập tắt không để lan rộng biểu tình bạo loạn tại huyện Cư Jút vào tháng 4
năm 2004 với hơn 300 người DTTS bị kích động, dụ dỗ gây rối, gây biểu tình,
bạo loạn tại trung tâm huyện Cư Jút, hay trong vụ phát hiện các dấu hiệu chuẩn
bị tổ chức biểu tình, bạo loạn tại xã Đắk N’Drung huyện Đắk Song vào tháng 6
năm 2006, lực lượng chức năng đã ngăn chặn, bắt giữ, vô hiệu hóa số đối tượng
cầm đầu, thu giữ 20 điện thoại di động, 28 simcard, cắt đứt liên lạc trong - ngoài,
làm thất bại âm mưu, ý đồ của bọn phản động FULURO lưu vong chỉ đạo số
phản động trong nước kích động đồng bào DTTS tiến hành biểu tình, bạo loạn.
Trong công tác phòng chống vượt biên trái phép sang Campuchia, lực
lượng Biên phòng đồn 751, 755 của tỉnh phối hợp với lực lượng công an các
huyện Cư Jút, Đăk Mil và các cơ quan chủ động nắm tình hình, phối hợp với
UBND các tỉnh Gia Lai, Đắk Lăk triển khai các kế hoạch ngăn chặn các đường
Học viên: Lê Xuân Cường – Lớp CCLLCT K6 Đăk

Nông
20


Phòng ngừa và giải quyết các “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan đến tôn giáo, dân tộc nhằm góp phần ổn định chính trị xã hội ở tỉnh Đắk Nông

dây trốn qua tỉnh Đắk Nông. Đồng thời cũng đã ký kết kết hoạch và phối hợp tốt
với Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh, Bộ đội Biên phòng trong công tác bảo vệ ANQG
theo Nghị quyết số 107 ngày 02/6/2003 của Thủ tướng Chính phủ. Thường
xuyên duy trì, tăng cường giúp đỡ Lực lượng biên phòng, Công an tỉnh
Monđulkiri Campuchia để phía bạn chủ động tuần tra, kiểm soát tuyến biên giới,
kịp thời phát hiện, đẩy trả công dân Việt Nam vượt biên sang Campuchia.
Phân công các lực lượng Quân đội; Dân vận, Mặt trận, Đoàn Thanh niên,

Phụ nữ, Nông dân thành các tổ công tác liên cơ quan xuống cơ sở giúp dân ổn
định sản xuất. Nhất là trong các đợt cao điểm phòng chống biểu tình, bạo loạn và
vượt biên trong vùng đồng bào DTTS, phối hợp với các lược lượng chức năng
để quản lý chặt chẽ địa bàn, đối tượng; đẩy mạnh công tác tuần tra kiểm soát
giao thông nhất là khu vực biên giới, đề phòng đồng bào vượt biên, kéo về trung
tâm tỉnh, huyện để biểu tình, đòi yêu sách; kịp thời nắm tình hình liên quan đến
các hoạt động lợi dụng tôn giáo, dân tộc để chống phá ta.
Với mục tiêu đảm bảo ANQG nói chung, giữ vững an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội phục vụ cho sự phát triển ổn định, bền vững của tỉnh Đắk Nông
nói riêng. Các cấp uỷ đảng đã chỉ đạo các cơ quan chức năng kịp thời, chủ động
phát hiện, đấu tranh ngăn chặn nhiều vụ âm mưu gây biểu tình, bạo loạn và vượt
biên trái phép ồ ạt sang Campuchia trong vùng đồng bào DTTS; làm thất bại âm
mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc để chống phá ta,
giữ vững tình hình ANCT, TTATXH của địa phương.
1.3.3.2. Nhận xét chung.
a. Ưu điểm
Công tác xử lý “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan đến dân tộc trên
địa bàn tỉnh Đắk Nông cơ bản đã chú trọng và đạt được nhiều kết quả góp phần
giữ vững ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Các cơ quan,
ban ngành các cấp uỷ Đảng, chính quyền từ tỉnh đến huyện, xã đã quan tâm đầu
tư phát triển kinh tế xã hội đúng hướng, có trọng tâm, trọng điểm. Tăng cường
lực lượng xuống cơ sở, vùng đồng bào DTTS, bám sát địa bàn, tiến hành công
tác vận động quần chúng, phát hiện âm mưu, hoạt động lợi của các thế lực thù
địch lợi dụng vấn đề dân tộc nhất là âm mưu, hoạt động tập hợp lực lượng, lôi
kéo người đồng bào DTTS chuẩn bị biểu tình phá rối an ninh, bạo loạn, vượt
biên sang Campuchia. Do vậy, chúng ta đã chủ động triển khai các biện pháp
phòng ngừa, đấu tranh làm thất bại âm mưu tổ chức biểu tình phá rối an ninh,
bạo loạn và vượt biên ồ ạt sang Campuchia trên địa bàn tỉnh. Đặc biệt là đã giải
quyết nhanh chóng, không để lan tỏa cuộc bạo loạn tại huyện Cư Jút vào ngày
10/4/2004.

Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng đã quán triệt các nghị quyết, chỉ thị
của Đảng, Nhà nước và các ngành có liên quan đến công tác đảm bảo an ninh
trật tự trên địa bàn đặc biệt là đối với vùng đồng bào DTTS. Triển khai tổng thể
Học viên: Lê Xuân Cường – Lớp CCLLCT K6 Đăk

Nông
21


Phòng ngừa và giải quyết các “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan đến tôn giáo, dân tộc nhằm góp phần ổn định chính trị xã hội ở tỉnh Đắk Nông

các mặt công tác góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh
với các “điểm nóng” chính trị - xã hội. Kết quả là thông qua các mặt công tác đã
từng bước triển khai thế trận an ninh vững chắc hơn ở cơ sở; nắm tình hình địch
kịp thời, cụ thể, chính xác hơn; công tác giải quyết yếu tố địch ngày càng có hiệu
quả; công tác nắm và giải quyết các vấn đề phức tạp, bức xúc nổi lên về dân tộc,
tôn giáo, về an ninh nông thôn, tham gia xây dựng, củng cố chính quyền cơ sở,
… đã có những chuyển biến tích cực, thế trận an ninh từng bước được tăng
cường.
b. Hạn chế
- Nhận thức của một số sở, ban ngành có liên quan trong công tác đảm
bảo an ninh vùng DTTS Đắk Nông chưa thật sự sâu sắc, còn có ý kiến cho rằng
nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia nói chung và nhiệm vụ giữ gìn an ninh chính
trị trong vùng DTTS là nhiệm vụ của lực lượng quân đội, công an. Vấn đề dân
tộc, tôn giáo là của cao quan làm công tác dân tộc, tôn giáo vì vậy trong sự phối
hợp của các sở, ban ngành liên quan trong công tác đảm bảo an ninh vùng DTTS
chưa đồng bộ, hoặc chỉ tham gia khi sự việc gay gắt, phức tạp.
- Việc thực hiện Chỉ thị số 04-CT/TU ngày 07/5/2004 của Tỉnh ủy về việc
các sở, ban ngành của tỉnh tổ chức kết nghĩa với các buôn, bon người DTTS còn
mang tính hình thức, có những trường hợp lực lượng của cơ quan cử xuống cơ

sở chỉ chiếu lệ, không thường xuyên hoặc xuống chỉ cho quà, tiền mà không
xem xét tình hình, sự việc, tháo gỡ những khó khăn bức xúc trong cộng đồng
dân cư buôn, bon. Mặt khác, do thiếu kiểm tra, giám sát, đôn đốc nhắc nhở thực
hiện Chỉ thị nên dẫn đến việc thực hiện Chỉ thị mang tính chất tùy tiện, không
đồng bộ và không đạt kết quả cao. Thậm chí có cán bộ không biết buôn, bon mà
cơ quan mình kết nghĩa là buôn, bon nào và nằm ở đâu.
- Công tác vận động quần chúng của các cơ quan, ban ngành có liên quan
còn bộc lộ nhiều tính chủ quan, chưa thực sự gắn kết với nhiệm vụ xây dựng hệ
thống chính trị. Việc triển khai các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước tới địa bàn
dân cư ở một số cơ sở chưa đồng bộ, công tác tuyên truyền vận động tuy được
mở rộng nhưng chưa chuyên sâu, nặng về hình thức, cán bộ làm công tác tuyên
truyền chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ đề ra.
- Trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận, mặt trận và
các đoàn thể chưa đồng đều, một số cán bộ yếu về năng lực công tác, thiếu kinh
nghiệm thực tiễn, thiếu tinh thần trách nhiệm, tuy gần dân nhưng không sát dân
nên không hiểu được tâm tư, nguyện vọng chính đáng của bà con DTTS, chưa
có những hoạt động thiết thực mang lại quyền lợi và lợi ích trực tiếp thiết thực
cho đoàn viên, hội viên để thu hút họ tham gia vào các tổ chức cơ sở đoàn, hội.
Từ đó, việc nắm tình hình và dự đoán tình hình có liên quan đến đời sống, an
ninh chính trị trong vùng đồng bào DTTS còn chậm, thiếu sót và chưa sát với
thực tế.
Học viên: Lê Xuân Cường – Lớp CCLLCT K6 Đăk

Nông
22


Phòng ngừa và giải quyết các “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan đến tôn giáo, dân tộc nhằm góp phần ổn định chính trị xã hội ở tỉnh Đắk Nông

c. Nguyên nhân của của những ưu điểm và hạn chế

* Nguyên nhân của những ưu điểm
- Có quan điểm, phương châm chỉ đạo của Bộ Chính trị và Ban Bí thư,
Thủ tướng Chính phủ, nhất là từ khi có Ban chỉ đạo Tây Nguyên, sự lãnh đạo,
chỉ đạo trực tiếp và toàn diện hơn.
- Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, sự quản lý điều
hành của chính quyền địa phương các cấp. Bằng các chị thị, nghị quyết cụ thể
của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, các cơ quan, ban ngành trong toàn tỉnh đã tăng cường
các hoạt động hướng về cơ sở, đẩy mạnh các biện pháp công tác một cách có hệ
thống, hiệu quả nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh
quốc phòng vùng đồng bào DTTS tỉnh Đắk Nông.
- Các cấp ủy đảng, chính quyền đã quan tâm phát triển kinh tế - xã hội
ở vùng đồng bào DTTS, tạo sự phấn khởi, tin tưởng của đồng bào DTTS đối
với chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước.
- Với sự nổ lực, phối hợp chặt chẽ của cơ quan chức năng, các sở, phòng,
ban, ngành, Mặt trận và các tổ chức đoàn thể quần chúng trong việc cố gắng,
bám sát địa bàn, bám đối tượng, đẩy mạnh các mặt công tác nghiệp vụ, phát hiện
kịp thời và tham mưu cho cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp phát huy được thế
mạnh của cả hệ thống chính trị, trực tiếp đấu tranh có hiệu quả với âm mưu, hoạt
động biểu tình phá rối an ninh của các thế lực thù địch, bọn phản động FULURO
ở trong cũng như ngoài nước, góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị phục
vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở Đắk Nông.
* Nguyên nhân của những hạn chế
+ Nguyên nhân khách quan:
- Các thế lực thù địch bên ngoài đã hậu thuẫn cho bọn phản động người
Việt lưu vong và các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện âm mưu “diễn biến
hoà bình” nhằm phá hoại thành quả cách mạng Việt Nam. Đây là nguyên nhân
cơ bản, sâu xa phát sinh điểm nóng chính trị ở Tây Nguyên nói chung và tại tỉnh
Đắk Nông nói riêng; Cơ sở xã hội mà bọn phản động lợi dụng để tập hợp lực
lượng, tạo dựng “ngọn cờ” chống phá cách mạng vẫn còn, đó là số Fulurô cũ, số
nguỵ quân, nguỵ quyền chưa chịu cải tạo, số đối tượng phản động đội lốt tôn

giáo đang hoạt động trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số chưa được xử lý.
- Thực tế vùng đồng bào DTTS ở Đắk Nông còn nhiều khó khăn, điều
kiện kinh tế - xã hội còn nghèo nàn, lạc hậu, địa bàn sinh sống của bà con DTTS
nằm rải rác, đa số là vùng sâu, vùng xa,... do đó ảnh hưởng không nhỏ đến việc
triển khai các mặt công tác của cả hệ thống chính trị của tỉnh trong việc đấu
tranh với âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc
gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh.
+ Nguyên nhân chủ quan:

Học viên: Lê Xuân Cường – Lớp CCLLCT K6 Đăk

Nông
23


Phòng ngừa và giải quyết các “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan đến tôn giáo, dân tộc nhằm góp phần ổn định chính trị xã hội ở tỉnh Đắk Nông

- Công tác xây dựng hệ thống chính trị, đặc biệt ở cơ sở chưa thật sự
được chú trọng. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, dân
tộc còn thiếu và yếu về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, không biết hoặc biết ít
tiếng đồng bào DTTS, ít am hiểu phong tục tập quán, lễ nghi của đồng bào, đặc
biệt là cán bộ làm công tác tôn giáo chưa ngang tầm với đối tượng quản lý do
vậy hiệu quả công tác nhiều mặt bị hạn chế là khó tránh khỏi.
- Chưa tập trung đầu tư đúng mức cho phát triển kinh tế - xã hội ở vùng
đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng trước đây.
Chưa đặt mạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội nhất
là vấn đề xoá đói giảm nghèo, chăm sóc sức khoẻ, chăm lo giáo dục, vấn đề đất
canh tác, nhà ở, việc làm...; nhiều vấn đề bức xúc, nổi cộm trong dân chưa giải
quyết kịp thời và triệt để. Chế độ chính sách cho cán bộ bán chuyên trách cấp xã,
thôn quá thấp, công việc lại nhiều, nhìn chung đời sống cán bộ cơ sở rất khó

khăn, phải lo cuộc sống gia đình vì vậy không thể đảm đương hết được việc
làng, việc xã. Một bộ phận cán bộ thoái hoá, biến chất, nhũng nhiễu gây bất bình
trong dân, một bộ phận khác bản lĩnh chính trị kém, thậm chí còn làm lộ thông
tin, tiếp tay cho bọn phản động.
- Nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền cơ sở và cán bộ, đảng viên về
chủ trương công tác đảm bảo an ninh liên quan đến tôn giáo, dân tộc của Đảng
và Nhà nước chưa đầy đủ, sâu sắc, cho rằng đây là nhiệm vụ của các ngành chức
năng.

Học viên: Lê Xuân Cường – Lớp CCLLCT K6 Đăk

Nông
24


Phòng ngừa và giải quyết các “điểm nóng” chính trị - xã hội liên quan đến tôn giáo, dân tộc nhằm góp phần ổn định chính trị xã hội ở tỉnh Đắk Nông

Phần thứ hai:
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP
NHẰM PHÒNG NGỪA, GIẢI QUYẾT “ĐIỂM NÓNG” CHÍNH TRỊ - XÃ
HỘI LIÊN QUAN ĐẾN TÔN GIÁO, DÂN TỘC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
ĐẮK NÔNG TRONG THỜI GIAN TỚI
2.1. DỰ BÁO TÌNH HÌNH
- Một là, thời gian tới Đắk Nông sẽ là địa bàn trọng điểm phát triển kinh
tế - xã hội của Tây Nguyên, đồng thời cũng là địa bàn phức tạp về an ninh quốc
gia
Với vị trí chiến lược quan trọng trên địa bàn Tây Nguyên, có thế mạnh để
phát triển công nghiệp, nông nghiệp, du lịch - dịch vụ, trong bối cảnh hội nhập
quốc tế, thời gian tới Đắk Nông sẽ đẩy mạnh việc kêu gọi đầu tư nước ngoài,
huy động các nguồn viện trợ để kiến thiết, xây dựng địa phương tiến kịp chung

với nhịp độ phát triển chung của cả nước, đáp ứng ngày càng cao hơn nhu cầu
đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số, nên sẽ tăng
niềm tin của đồng bào đối với Đảng, Nhà nước và cũng qua đó tạo thuận lợi cho
việc củng cố khối đại đoàn kết các dân tộc trên địa bàn tỉnh Đắk Nông. Nhưng
mặt khác, trong thời gian tới các thế lực thù địch cũng sẽ không ngừng gia tăng
các hoạt động chống phá. Chúng tiếp tục thực hiện âm mưu kích động tư tưởng
dân tộc hẹp hòi, ly khai, đòi tự trị trong vùng đồng bào DTTS; xâm nhập qua các
hình thức các đoàn lâm thời, các nhà đầu tư nước ngoài đến thăm dò, tìm hiểu
tình hình đầu tư để thu thập tin tức, tài liệu cũng như chỉ đạo các đối tượng
chống đối trong vùng đồng bào DTTS tổ chức các hoạt động nhằm gây rối, biểu
tình, bạo loạn.
Việc mở rộng tự do, dân chủ, ban hành hàng loạt chính sách đổi mới về
đại đoàn kết dân tộc, tôn giáo một mặt đã đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giáo,
dân chủ của nhân dân, tạo được sự phấn khởi, tin tưởng của quần chúng tín đồ
các tôn giáo và đồng bào DTTS đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước,
nhưng đây cũng là điều kiện để các thế lực thù địch lợi dụng chống phá.
Đối với vùng Tây Nguyên nói chung và vùng DTTS Đắk Nông nói riêng,
lợi dụng điều kiện kinh tế - xã hội vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là vùng đồng
bào DTTS còn tồn tại nhiều vấn đề mang tính chất lịch sử, xã hội, trong thời
gian tới các thế lực thù địch sẽ đẩy mạnh các hoạt động tập hợp lực lượng, xây
dựng cơ sở ngầm bên trong nội địa, tích cực chỉ đạo, thay đổi phương thức, thủ
đoạn hoạt động nhằm kích động đồng bào DTTS ở Đắk Nông tiến hành các hoạt
động chống phá, gây mất ổn định chính trị và TTATXH.
- Hai là, tình hình an ninh vùng đồng bào DTTS Đắk Nông còn tiềm ẩn
nhiều nhân tố phức tạp
Học viên: Lê Xuân Cường – Lớp CCLLCT K6 Đăk

Nông
25



×