Tải bản đầy đủ (.docx) (67 trang)

Văn học viết Campuchia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.79 KB, 67 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HCM
Khoa Ngữ Văn

Môn: Văn học các nước Đông Nam Á

VĂN HỌC VIẾT CAMPUCHIA

GVHD: GV Nguyễn Thị Bích Thúy
Nhóm thực hiện: Nhóm 7
Hồ Thị Trang Linh

41.01.601.048

Nguyễn Minh Dương 41.01.601.019
Lê Thị Huyền Trâm

41.01.601.118

Huỳnh Ngọc Ngân

41.01.601.065

Tp. HCM tháng 4/2017


Phần 1. Dẫn nhập
A. Một vài đặc điểm văn học viết các nước Đông Nam Á
B. Một vài đặc điểm của văn học viết Campuchia
1. Chữ viết
2. Nền văn học viết chịu ảnh hưởng của văn học dân gian bản địa, tôn giáo


và văn học nước ngoài
Phần 2. Các giai đoạn văn học viết Campuchia
A. Văn học viết thời kỳ dựng nước (TK VI – TK VIII)
B. Văn học thời kì Ăngco (thế kỉ IX-thế kỉ XV)
1. Những tiền đề lịch sử, tư tưởng, văn hóa, xã hội:
2. Tình hình văn học:
2.1. Lực lượng sáng tác:
2.2. Khuynh hướng, chủ đề
2.3. Hình thức, thể loại văn học
2.4. Thành tựu văn học
3. Các giai đoạn phát triển của văn học:
4. Riêm Kê-tác phẩm tiêu biểu của văn học Campuchia thời kì Ăngco
C. Văn học thời kì chuyển tiếp (Thế kỉ XV- nửa đầu thế kỉ XX)
1. Bối cảnh lịch sử
2. Tình hình chung văn học
2.1. Lực lượng sáng tác
2.2. Đặc điểm văn học
2.3. Nội dung phản ánh
2.4. Thể loại, chữ viết, hình thức sáng tác
2.5. Thành tựu văn học
2


3. Đặc điểm từng thể loại
3.1.Truyện thơ- thể loại tiêu biểu và có nhiều thành tựu trong nền văn học
Campuchia
3.2. Văn bia
3.3. Văn học lịch sử (biên niên sử )
3.4. Thể Chơbắp
4. Tác phẩm tiêu biểu: Truyện thơ Tum Tiêu

D. Văn học hiện đại Campuchia (nửa cuối TK XIX – TK XX)
1. Những tiền đề lịch sử, xã hội, tư tưởng, văn hóa
2. Diễn biến văn học
2.1. Lực lượng sáng tác
2.2. Thể loại
2.3. Những khuynh hướng trong văn học
2.3.1. Khuynh hướng giải phóng cá nhân
2.3.2. Khuynh hướng hoài niệm về quá khứ vinh quang
2.3.3. Khuynh hướng tố cáo chế độ tư bản, chế độ độc tài Pôn Pốt và ca
ngợi đất nước hồi sinh
Kết luận .............................................................................................................64
Tài liệu tham khảo ...........................................................................................66

3


Phần 1. Dẫn nhập
A. Một vài đặc điểm văn học viết các nước Đông Nam Á
Nền văn minh nông nghiệp với sự phát triển của văn học dân gian đã làm
cho văn học thành văn của Đông Nam Á ra đời muộn. Vào khoảng 10 thế kỷ đầu
sau Công nguyên, các nước ở Đông Nam Á chưa có chữ viết, trong khi đó tôn
giáo Ấn Độ và Phật giáo du nhập & phát triển ở các quốc gia Đông Nam Á.
Tiếng Pali, Sanskrit, tiếng Hán không những đóng vai trò ngôn ngữ trong truyền
giáo mà còn đóng vai trò ngôn ngữ văn học ở các quốc gia Đông Nam Á. Ban
đầu các quốc gia ở Đông Nam Á đã vay mượn trực tiếp các chữ viết của ấn Độ,
Trung Quốc, sau đó cư dân Đông Nam Á mới dựa trên những mẫu chữ đó để
sáng tạo ra chữ viết riêng của mình. Từ xu hướng bản địa hoá các tác phẩm văn
học cổ Ấn Độ tiến đến dân tộc hoá nền văn học viết, đó cũng là đặc điểm chung
của văn học Đông Nam Á.
Văn học viết truyền thống ở Đông Nam Á bao gồm dòng văn học viết

bằng tiếng, chữ vay mượn ở ngoài và dòng văn học viết bằng chữ viết dân tộc.
Bộ phận văn học viết bằng ngôn ngữ vay mượn lúc đầu có ưu thế trội hơn bộ
phận văn học viết bằng ngôn ngữ dân tộc vì ngôn ngữ vay mượn chuyển tải văn
học được xem là cao quý, bác học. Dần dần văn học viết bằng ngôn ngữ dân tộc
chiếm ưu thế , trở thành phương tiện biểu đạt đời sống tinh thần của dân tộc.
Văn học viết truyền thống của Đông Nam Á được nuôi dưỡng từ ba
nguồn lớn: văn học dân gian, văn học lịch sử, văn học nước ngoài. Thế kỷ XIXđầu thế kỷ XX, văn học Đông Nam Á tiếp thu ảnh hưởng của văn hoá phương
Tây. Cuối thế kỷ XIX, việc xuất hiện các nhà in, các cơ quan báo chí ngôn luận
trong thời gian này tạo thành một môi trường xã hội thuận lợi cho văn học phát
triển. Văn học khai sáng và những nhân tố của chủ nghĩa hiện thực hình thành
trong văn học. Thời kỳ này, nhiều tác phẩm sao phỏng được công bố, in ấn công
bố và phát hành rộng rãi ở Đông Nam Á.

4


Về phương diện nội dung, văn học truyền thống các nước Đông Nam Á
lúc ban đầu còn đi vào những đề tài xa lạ với đời sống thực tế của dân tộc;
những câu chuyện văn học thường nói tới những xứ sở xa xôi, những nhân vật
thần thoại, hoang đường. Văn học Đông Nam Á tiếp thu được ở văn học phương
Tây trước hết là tư tưởng tự do, dân chủ, tư tưởng khoa học.
Truyện thơ thời mới hình thành là phổ biến, thường là truyện thơ khuyết
danh. Văn học Đông Nam Á tiếp thu thêm những thể loại văn học mới như thơ
tự do, kịch nói, truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn.... Đặc biệt tiểu
thuyết là loại văn xuôi chóng thích ứng với đời sống tinh thần của các dân tộc ở
đây. Đầu thế kỷ XX, văn học Đông Nam Á bước sang thời kỳ hiện đại. Văn xuôi
chiếm ưu thế trong văn học và đó là điều mới mẻ trong truyền thống văn học.
Bước vào thời kỳ hiện đại, văn học Đông Nam Á thay đổi toàn diện sâu sắc thay đổi nội dung chức năng của văn học, thay đổi về hình thức, thể loại văn học
và ngôn ngữ văn học.
B. Một vài đặc điểm của văn học Campuchia

1. Chữ viết
Trong thời kì cổ đại, văn học các nước Đông Nam Á nói chung và văn
học Campuchia nói riêng đã cùng tiếp nhận hai nền văn hóa lớn của loài người
là văn hóa Ấn Độ và văn hóa Trung Quốc. Nền văn học viết Campuchia hiện
nay vẫn còn là một đề tài mới mẻ đối với các nhà nghiên cứu văn học Đông
Nam Á bởi còn gặp khó khăn về mặt tìm kiếm tài liệu cũng như khái quát một
nền văn học khá là đa dạng, phong phú. Văn học Campuchia có những thay đổi
cùng với lịch sử văn hóa của dân tộc. Ngoài tiếng Khomer là chủ yếu,
Campuchia còn sử dụng các thứ tiếng như Sanskrit, Pali, Pháp.
Trước thế kỷ XIV, các dân tộc Campuchia chưa có chữ viết, thường phải
sử dụng tiếng Pali, Sankrist, chữ Hán nhưng cũng từ đó mà các dân tộc mượn
mẫu chữ trên để sáng tạo ra một loại chữ viết riêng cho dân tộc mình. Khi đạo
Bàlamôn đang thịnh hành thì văn học Campuchia đã sử dụng tiếng Sanskrit
(tiếng Phạn - là một ngôn ngữ tế lễ của các tôn giáo như Ấn Độ giáo, Phật giáo
5


Bắc Tông và Jaina giáo. Nó có một vị trí quan trọng trong văn hóa Ấn Độ và các
văn hóa vùng Đông Nam Á). Ở thời điểm này,tiếng Sansktit được xem là ngôn
ngữ chính của người Campuchia, tiếng Khơmer còn lại chỉ được xem là yếu tố
phụ. Từ thế kỉ XV trở đi, khi đạo Phật Tiểu Thừa thắng thế và trở thành quốc
giáo thì tiếng Pali trở thành ngôn ngữ bác học của giới tu hành có học thức và từ
đó, tiếng Khomer cũng trở thành ngôn ngữ chính. Đến thế kỉ XIX, khi người
Pháp thống trị Campuchia, người Khomer có sử dụng tiếng Pháp nhưng chỉ
trong một vài lĩnh vực như hành chính, báo chí và giáo dục. Do sự truyền bá
kinh kệ, giáo lí đạo Balamon, đạo phật mà chữ Pali và chữ Sankrit dần dần được
phổ biến và có ảnh hưởng rất lớn đến việc phát triển chữ viết cũng như tiếng nói
của Campuchia.
Chữ Khmer xuất phát từ chữ viết Pallava, một biến thể của chữ
Grantha mà nguyên thủy là chữ Brahmi ở Ấn Độ và nó cũng chính là hệ thống

chữ cái để viết tiếng Khomer. Tiếng Khomer là tiếng nói văn học thống nhất của
các dân tộc Campuchia. Chữ viết này xuất hiện sớm nhất trên những văn bản
còn giữ được từ thế kỉ VI. Hai kiểu chữ viết hiện nay vẫn còn được sử dụng là
chữ chriêng (nghiêng) dùng trong thư từ, thông điệp viết lay, văn bản hành chính
và báo chí. Chữ mul (tròn) viết một cách chậm chạp, kỹ lưỡng dung để sao chép
văn bản tôn giáo bằng tiếng Phạn. Sau có khuynh hướng dung như một thứ chữ
Hoa để ghi tiêu đề các tác phẩm, những từ phải nhấn mạnh trong một văn bản
bằng chữ chrieng, những văn bia ở những kiến trúc công cộng. Người Khomer
đã tiếp thu vốn từ của tiếng Pali, Thái, Hán, …nhưng đã Khomer hóa nó, làm
cho nó biến đổi về mặt ngữ âm và ngữ nghĩa, làm giàu thêm vốn từ cho tiếng
Khomer. Ngôn ngữ này cũng có lịch sử phát triển của nó, từ tiếng Khomer cổ
đại, tiến lên tiếng Khomer trung đại rồi hiện đại. Với sự phát triển của xã hội mà
tiếng Khomer ngày càng phát triển để phục vụ cho việc xây dựng văn hóa dân
tộc.

6


2. Nền văn học viết chịu ảnh hưởng của văn học dân gian bản địa, tôn giáo
và văn học nước ngoài
Khi chữ viết dân tộc đã phát triển và phổ biến thì văn học bằng tiếng vay
mượn vốn được coi là nên văn học cao quý, bác học, văn học cung đình ngày
càng xuống ngôi. Văn học viết dân tộc ngày càng phát triển và được coi trọng
bởi các tác phẩm văn học mang đậm tính dân tộc, phản ánh rõ đời sống hiện
thực của đất nước. Một vài yếu tố đã tạo nên nền văn học trong các tác phẩm
văn học viết chính là sự kế thừa, tiếp nối và sang tạo văn học nhân gian. Văn học
nhân gian tiếp tục cung cấp cho văn học viết về đề tài, hình thức mang đậm tính
chất trữ tình, làm cho sắc màu dân tộc ngày càng đậm nét trong các tác phẩm
văn học.
Đất nước Campuchia phát triển hùng mạnh nhất từ thế kỷ thứ IX cho đến

thế kỷ XIII. Chính giai đoạn này đã viết nên những trang sử hào hùng nhất của
dân tộc Campuchia với “nền văn minh Khomer”, với quần thể Angkor - di sản
thế giới và hàng loạt những kỳ tích khác tạo nên một huyền thoại bất tử. Bên
cạnh một nền nghệ thuật kiến trúc tuyệt vời, những đền thờ kì vĩ, những pho
tượng tuyệt mĩ, nhân dân Campuchia còn xây dựng nên một nền văn học đa
dạng và phong phú dưới sự ảnh hưởng lớn của Ấn Độ, Trung Quốc... Trong suốt
lịch sử Campuchia, các trào lưu tôn giáo đã ảnh hưởng và in dấu sâu sắc vào
nghệ thuật của Campuchia. Phong cách nghệ thuật Khmer rất độc đáo là sự kết
hợp giữa tín ngưỡng duy tâm bản địa với các tôn giáo gốc Ấn Độ là đạo
Bàlamôn và đạo Phật. Hai tôn giáo này cùng với chữ Phạn và các yếu tố khác
của văn minh Ấn Độ du nhập vào Đông Nam Á từ đầu thế kỷ thứ nhất tạo nên
một nền văn học phong phú, đa dạng.
Văn học Campuchia chịu nhiều ảnh hưởng từ tư tưởng phật giáo Ấn Độ
mặc dù đạo Bàlamôn đến Campuchia trước đạo Phật. Đạo Balamon được truyền
vào Campuchia vào những thế kỷ đầu CN, với việc tôn thờ ba vị thần: Brahma,
Visnu và Siva như một thể thống nhất gọi là Trimurti (tam thể thống nhất). Tôn
giáo quý tộc Vua – Thần đã chi phối tư tưởng, tình cảm và tài nghệ của các nhà
7


kiến trúc điêu khắc, đồng thời làm cho nền văn học Campuchia mang nặng tính
cung đình và đô thị. Dù ra đời sớm hơn chưng ảnh hưởng của nó lại không sâu
rộng bằng đạo Phật. Tư tưởng từ bi, bác ái, vị tha và mục đích cứu khổ cứu nạn
của đạo Phật như làn gió lành lan tới khắp nơi và được nhân dân Campuchia
nhanh chóng tiếp nhận. Đạo Phật ở Campuchia tồn tại song song hai trường
phái: đạo Phật phái Tiểu thừa và đạo Phật phái Đại thừa. Phái Đại thừa xuất hiện
vào cuối thế kỷ VIII ở Campuchia và các nước thuộc đế chế Khơme. Phái Tiểu
thừa xuất hiện ở Campuchia ngay khi bắt đầu có đạo Bàlamôn, sau đó vào cuối
thế kỷ XII, nó bị lu mờ bởi phái Đại thừa trở thành đạo của hoàng gia. Sang thế
kỷ XIII, với sự thúc đẩy của Thái Lan, đạo Phật Tiểu thừa phát triển và trở thành

tôn giáo chính của Campuchia, cũng giống như Lào, Thái Lan, Miến Điện và
Xây Lan đều theo đạo Phật Tiểu thừa. Phật giáo Tiểu thừa đã ảnh hưởng nhiều
mặt đến đời sống thế tục, quy định các tiêu chí đạo đức trong nhân dân. Phật
giáo đã được đi vào văn thơ Campuchia theo ba mạch. Mạch thứ nhất là những
tác phẩm trực tiếp bàn giải về triết học, về lý thuyết Phật giáo; mạch thứ hai là
những khái niệm, những nội dung triết học sâu sắc của đạo Phật như những gợi
ý, những luồng ánh sáng tiếp dẫn giúp cho thi sĩ Campuchia cảm hứng sáng tác
văn học; mạch thứ ba là các tác phẩm mượn vỏ tôn giáo song tuyệt nhiên không
mang nội dung Phật giáo. Và như vậy, mỗi mạch tác phẩm đều có đối tượng, nội
dung, thủ pháp nghệ thuật riêng.
Văn học Campuchia có tiếp nhận ít nhiều ảnh hưởng của các nền văn học
trong vùng như Thái Lan, Lào, Giava, Việt Nam qua quá trình giao lưu văn hóa
dân tộc. Về sau, từ thế kỷ XV trở đi còn chịu ảnh hưởng nhiều của văn học Ấn –
Nhật, nhưng nhìn chung thì nền văn học Campuchia đã chịu sự ảnh hưởng sâu
sắc nhất chính từ nền văn học Ấn Độ, nhắc đến văn học Ấn đồng nghĩa phải
nhắc tới sự ảnh hưởng của hai bộ sử thi lớn là Ramyana và Mahabharata với sự
cải biên trong nhiều hình thức và đậm màu sắc dân tộc. Các tác phẩm được biến
tấu lại cũng dựa vào motif chung của Ramayana. Về đề tài vẫn là bàn về cái
thiện – cái ác với trục bộ xoay quanh ba dạng nhân vật: người con trai – người
8


con gái – ác quỷ. Người con trai được xây dựng trên hình tượng là một chàng
hoàng tử, một dũng sĩ, chàng trai tuấn tú hay anh tiều phu khỏe mạnh … sẽ đại
diện cho người người hướng thiện. Nhân vật cô gái thì thường xinh đẹp, công
chúa, tiêu thư đại, … diện cho những người yếu đuối, hay bị ức hiếp, bắt cóc, …
Còn nhân vât ác quỷ thường là ma quái, chuyên hại người, bắt cóc, súc sinh, gia
thần, … đại diện cho lực lượng gian ác. Và cái kết cuối cùng của những câu
chuyện thì luôn có một cái kết tốt đẹp, những nhân vật thiện luôn luôn chiến
thắng được kẻ ác, những cảnh đoàn tụ, tình yêu được hàn gắn bên nhau, …

Chúng ta có thể thấy rõ motif này trong truyện Riêm Kê ở thời kỳ Angco. Ngoài
hai bộ sử thi lớn của Ấn Độ thì văn học viết Campuchia còn chịu ảnh hưởng của
kinh Jataka – kinh trong Phật giáo. Khi Jataka du nhập vào Campuchia ở cuối
thời kỳ Ăngco thì trở thành nguồn đề tài phong phú, mới mẻ và đầy hấp dẫn
mang những tư tưởng về phật giáo rất đậm dấu ấn. Văn học Campuchia nói
chung và văn học thành văn nói riêng đã trải qua bốn thời kỳ phát triển cùng với
bao thăng trầm lịch sử. Giai đoạn 1 là thời kì dựng nước (TK VI – VIII), đây là
thời kì sơ khai của văn học thành văn; giai đoạn 2 là thời kỳ Ăngco (TK IX –
giữa TK XV) với một nền văn học phát triển mạnh mẽ và đầy màu sắc; giai đoạn
ba là thời kỳ chuyển tiếp (XVI – đầu TK XX) tiếp tục phát triển và chuyển sang
xu hướng Phật giáo. Và giai đoạn bốn là chuyển sang văn học hiện đại với các
tiểu thuyết, thơ, truyện thơ được xây dựng xoay quanh vấn đề tình yêu, chính trị
- xã hội.

9


Phần 2. Các giai đoạn văn học viết Campuchia
A. Văn học viết thời kỳ dựng nước (TK VI – TK VIII)
Xã hội thời kì dựng nước là một xã hội náo nhiệt với những âm thanh rộn
ràng của tiếng trống chiên, những âm thanh dịu dàng của tiếng sáo và sự uyển
chuyển nhịp nhàng của những điệu múa. Từ đó cho thấy những con người
Campuchia xưa luôn ưa chuộng nghệ thuật, tư duy và tình cảm cũng thật phong
phú, đa dạng. Và đây cũng chính là thời kì bước đầu phát triển của văn học dân
gian. Bên cạnh các tác phẩm văn học dân gian, nền văn học thành văn cũng bắt
đầu xuất hiện với sự khởi đầu là các tác phẩm viết trên văn bia. Đây là thời kỳ
sơ khai của văn học viết nên văn bia cũng thực sự chưa nhiều. Phần lớn các văn
bia đều được viết bằng tiếng Sanskrit và tiếng Khomer cổ do dân tộc Campuchia
chưa có tiếng nói thực sự của mình mà phải đi vay mượn từ các nền văn hóa
khác. Ta có thể tìm thấy những văn bia vừa viết bằng chữ Sanskrit vừa viết bằng

chữ Khơmer. Bia kỷ của thế kỉ VI chỉ là những danh mục về nhân sự, các phẩm
vật cúng dâng và chúng có giá trị đặc biệt khi những bia ký đó ghi chép lại
những tài liệu về đời sống tôn giáo, giáo phái Siva (thần là hiện thân của sự hủy
diệt) và giáo phái Visnu (thần tượng trưng cho đấng bảo hộ).
Ở thời kỳ này chưa có tác phẩm nào tiêu biểu, tất cả chỉ là sự ghi chép lại
về lịch sử cũng như văn hóa trên các bia đá bằng tiếng Khomer. Các vua thường
chú ý đến việc phổ biến tiếng Khomer cho các vùng dân cư mới và dần dần
tiếng Khomer đã trở thành tiếng nói chung của cả nước Campuchia. Tiếng
Khomer không chỉ có tác dụng là tiếng nói của dân tộc, là sự thống nhất của một
quốc gia mà còn là sự thúc đẩy ra đời nền văn học dân tộc. Tiếng Khomer trở
thành tiếng nói có chữ viết và ngôn ngữ văn học sớm nhất Đông Nam Á. Chữ
Khomer được tìm thấy sớm nhất có thể nói là được tìm trên bia đá Kdei An
( 629 TCN).
Văn bia là tài liệu văn học thành văn duy nhất của Campuchia, là hình
thức văn học thành văn đặc biệt của dân tộc. Sự phát triển của nó gắn liền với
các giai đoạn thăng trầm lịch sử và việc tạo dựng các văn bia đã gắn liền với
10


những công trình kiến trúc đồ sộ ở Campuchia. Trong gần 100 bia của giai đoạn
tiền Ăngco (TK VI – VIII) cho thấy sự ra đời và nở rộ của văn tự và văn học
Khomer trên địa bàn đông bắc Biển Hồ, trung và hạ lưu sông Mê Kông. Văn bia
giai đoạn này nhìn chung vẫn còn sơ xài, hình thức còn thô kệch nhưng nó chính
là bước đầu chuẩn bị cho sự phát triển rực rỡ sau này.
B. Văn học thời kì Ăngco (thế kỉ IX-thế kỉ XV)
1. Những tiền đề lịch sử, tư tưởng, văn hóa, xã hội
Thế kỉ IX mở đầu một thời kì mới của lịch sử đất nước, Campuchia đạt
đến độ cực thịnh, một nhà nước hùng mạnh: vương triều Ăngco. Vương triều
Ăngco đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển và đánh một dấu mốc hoàng kim
trong lịch sử Campuchia.

Người ta không biết rõ lai lịch của Jayavarman II, chỉ biết ông đã từ Java
(bán đão Mã Lai) trở về giành độc lập cho Campuchia từ tay Srivijaya, quy đất
nước đã bị chia năm xẻ bảy về một mối. Ông làm lễ lên ngôi năm 802, tại
Phuôm Kulen. Trong dịp này, ông mời một người bà la môn giỏi pháp thuật làm
lễ cởi bỏ sự lệ thuộc của Campuchia đối với vương triều Sailenđra, và thành lập
một quốc gia độc lập đầu tiên trong lịch sử Campuchia. Ông cũng bắt đầu tôn
thờ thần-vua (Devaraja), một tôn giáo mới, hay đúng hơn là một phát triển mới
trên một tôn giáo cũ có lẽ mượn ở Java. Tôn giáo này làm cho nhân cách nhà
vua mang tính thần linh. Từ đây, các vua Campuchia là những thần (Deva) ngay
khi còn sống và cái tôi tinh tế của ông ta chứa đựng trong hiện tượng Linga.
Việc tôn thờ Linga hoàng gia trở thành tôn giáo chính thức của nhà nước. Tôn
giáo đó sẽ chi phối toàn bộ những hoạt động nghệ thuật và văn học thời kì này.
Đi liền với nó là một loạt những đền - núi kì vĩ, những kiến trúc điêu khắc tuyệt
vời. Chỉ cần nhìn qua quy mô và số lượng của những ngôi đền và pho tượng còn
lại với khối lượng gạch đá đã sử dụng là có thể thấy được vị trí của tôn giáo này
quan trọng như thế nào trong thời Ăngco. Còn trong văn học, các nhà vua sẽ

11


được ca ngợi không phải như những con người vĩ đại, mà như những vị thần.
Tôn giáo thần - vua là một chỗ dựa của sức mạnh Ăngco.
Một chỗ dựa khác có lẽ còn cơ bản hơn của sức mạnh Ăngco là hệ thống
nông nghiệp đô thị. Chính sách nước là điều lo lắng của tất cả các vua Ăngco.
Ngay từ khi mới định đô ở đây, một số biện pháp thủy lợi to lớn đã được thực
hiện. Nắn lại dòng sông Xiêm Reap, đắp đê làm hồ chứa nước nhân tạo Barây
Đông rộng lớn, chiều dài 8km, chiều rộng 2 km, rồi hồ Barây Tây cũng rộng lớn
không kém, khơi kênh rạch nối liền hồ nước ở các đền đài, đồng ruộng, ngang
dọc khắp kinh thành, nông thôn. Đây là một hệ thống dẫn nước hợp lí, mà ngay
cả những chuyên gia thủy lợi phương Tây ngày nay đến nghiên cứu cũng thấy

không thể thay đổi được gì. Ăngco không phải là vùng đất màu mỡ. Vậy mà, với
hệ thống tưới nước này, nền nông nghiệp đô thị kiểu Ăngco đã tạo ra được một
đời sống kinh kì đông đúc, náo nhiệt. Do đó, nền văn học thời Ăngco cũng mang
rõ tính chất cung đình và đô thị.
Văn hóa lúc này nằm trong tay hoàng gia và giới tu sĩ Bàlamôn. Đời sống
văn hóa phát triển, nghệ thuật kiến trúc tập trung vào chủ đề đền - núi. Kiến trúc
đền núi hoàn toàn phù hợp với những quan niệm về nguồn gốc vũ trụ của người
Khơ Me. Họ cho rằng kinh thành nơi nhà vua đóng đô là một tiểu thế giới, là
hình ảnh thu nhỏ của vũ trụ. Ngôi chùa hình tháp ở giữa kinh thành tượng trưng
cho ngọn núi vũ trụ, bức tường thành là dãy núi bao quanh vũ trụ, con hào là đại
dương dưới chân dãy núi này, có bao nhiêu chiếc cầu có bao lớn hình rắn Naga
là có bấy nhiêu cầu vồng làm cho thế giới loài người giao tiếp với thế giới thần
linh, những gian lầu hoặc những sân bằng phía dưới có trang trí bằng những
hình chim tạo nên cột trụ hình người là những lâu đài bay mà người ta cho là
thần linh ở trong đó. Mặt khác, văn học dân gian vẫn đang bang bạc ở nông
thôn, nhưng còn sống một cuộc đời thầm lặng, ẩn dật, chưa thấy có mối quan hệ
qua lại nào với văn chương bác học. Xã hội Campuchia thời đó chia thành hai
tầng lớp dường như tách biệt hoàn toàn. Hoàng tộc và những người Bàlamôn
thường xuyên có những cuộc kết hôn với nhau tạo thành tầng lớp quý tộc quyền
12


thế trong nước. Họ nắm quyền thống trị, chiếm giữ những chức vụ quan trọng.
Còn lại là những người lao động và nô lệ. Giữa hai loại người sau này dường
như chưa có sự phân biệt gì đáng kể. Họ tạo thành khối dân chúng ở dưới,
chuyên lo cung phụng sức người sức của cho những công trình tôn giáo và
những tham vọng chiến tranh của vua chúa. Văn học thành văn của thời kì này
hoàn toàn là sản phẩm của tầng lớp trên.
Nhìn chung, thời kì Ăngco là thời kì hoàng kim, phát triển rực rỡ về mọi
mặt trong lịch sử Campuchia. Giayavarman II là người mở đầu thời kì Ăngco,

đã mang theo hào khí của vương triều Sailandra hùng mạnh để cách tân đất nước
và gieo vào đất nước Khơ Me những hạt giống của một tôn giáo mới-tôn thờ
vua-thần. Sự sùng bái Devaraja (Vua-Thần) đã tạo cơ sở tinh thần cho sự hùng
mạnh của đất nước và cho sự phát triển văn hóa và nghệ thuật Campuchia thời
kì Ăngco. Ăngco từ đó trở thành trung tâm của nhà nước Khơmer lớn mạnh. Đời
sống văn hóa không ngừng phát triển và đạt được nhiều thành tựu rực rỡ. Nghệ
thuật kiến trúc thời kì này tập trung vào chủ đề đền - núi, đỉnh cao nhất và hoàn
hảo nhất là ĂngCoVat.
Chính sự phát triển và thịnh vượng về mọi mặt của vương triều Ăngco đã
kéo theo sự đi lên của văn học và quy định đề tài chủ đề, tính chất của văn học
viết Campuchia: văn học thời kì Ăngco từ thế kỉ IX đến thế kỉ XV chủ yếu tập
trung vào chủ đề ca tụng vua chúa, chịu ảnh hưởng tôn giáo Bàlamôn rất rõ và
nền văn học thời kì này mang nặng tính cung đình và đô thị.
2. Tình hình văn học:
Văn học Ăngco tạo ra bộ mặt riêng trong lịch sử Campuchia, với một số
đặc trưng tiêu biểu như sau:
2.1. Về lực lượng sáng tác:
Các sáng tác là sản phẩm của tầng lớp trên, của hoàng gia và giới tu sĩ
Bàlamôn.

13


2.2. Về khuynh hướng, chủ đề:
Mặc dù số lượng văn bia rất nhiều, văn chương mang tính quy phạm
nhưng phong cách lại khoa trương, đầy những mĩ từ và điển tích Ấn Độ. Nội
dung thường nói về việc dựng chùa, đắp tượng, lai lịch người chủ lễ, thành tích
nhà vua, vật phẩm quyên góp, nhưng lại nghèo nàn về mặt phản ánh xã hội, nên
có nhiều hạn chế. Ngoài văn bia có thể còn có các tác phẩm dịch hoặc mô phỏng
văn học cổ Ấn Độ nhưng đã mai một. Đến nay, tác phẩm Riêm Kê, bắt nguồn từ

trường ca Ramayana của Ấn Độ được xem là một tác phẩm tiêu biểu nhất thuộc
dòng văn học Bàlamôn.
2.3. Về hình thức, thể loại văn học:
Thời kì này có nhiều thể loại văn học khác nhau như: văn bia, văn học
lịch sử, thi ca, văn học sân khấu. Văn bia ở Banteai Srei khen một vị trưởng giáo
là “Biết các ngôn ngữ và chữ viết khác nhau, ông khuyến khích việc biên soạn
truyện ngắn và bản thân ông soạn các tác phẩm sân khấu. Bằng thơ và những
hành động đẹp đẽ của mình, ông khiến cho các nhà hiền triết và thiên nhân trên
các lục địa khác phải ghen tị”. Trừ thể loại văn bia, các thể loại khác hầu như
chỉ được viết với phấn trên da bôi đen nên không thể cưỡng lại sự phá hủy của
khí hậu và thời gian. Vì vậy có thể nói, văn bia được xem là hình thức văn học
tiêu biểu của văn học thời kì Ăngco.
Văn bia thời kì nay phát triển nở rộ, với một khối lượng đồ sộ và có giá trị
đặc biệt. Văn bia Campuchia ra đời từ thế kỉ thứ VII, cho mãi đến tận thế kỉ
XVIII-XIX, đã có khoảng 1052 văn bia.
Văn bia là hình thức văn học độc đáo, sinh động của nền văn học
Campuchia cổ đại, là nguồn tư liệu phong phú cho phép minh định một cách
chính xác niên đại của lịch sử Campuchia cổ đại, phả hệ của các nhà vua, mục
đích của những di tích. Vì vậy, văn bia cho chúng ta thấy một Campuchia cổ tồn
tại dưới ba dạng: lịch sử, tôn giáo và anh hùng ca. Văn bia được phân làm hai
loại chủ yếu là văn bia bằng chữ Phạn và văn bia bằng chữ Khơ Me.
14




Văn bia bằng chữ Phạn:

Hầu như tất cả đều được viết theo thể thơ. Các tác giả văn bia đã khổ công
áp dụng hàng chục các khổ thơ Sanskrit khác nhau. Câu thơ khá hoa mĩ, cầu kì:

“Trong khát vọng đạt được vinh quang của sự chiến thắng từ trong đại dương
của cuộc chiến đấu, đức vua này cũng mang về những của cải khác. Vì sao khi
bắt được chúa của loài voi mà sư tử lại không đoạt lấy những hạt ngọc để gắn
vào khe móng vuốt của nó”. (Bia Prasat Srun, XLI)
Ẩn trong những lời hoa mĩ đó là những nội dung thực: tên gọi, tước hiệu,
dòng họ, cả đạo đức và vẻ đẹp bên ngoài, lòng sung kính thần thánh và chiến
công, lí do lập đền dựng tượng, và cùng với những sự kiện đó nhiều khi có cả
những niên đại chính xác.
Những sự kiện, sự việc lại được phản ánh bằng sự sử dụng một cách quen
thuộc khá nhiều điển tích Ấn Độ: “Đó là Anisha mà trải qua năm tháng trong
những lần sinh nở liên tiếp của Hari, vốn sẵn lòng nhiệt thành mạnh mẽ đã tạo
nên Vasudeva bằng cơ thể của mình, trong khi đây là Isa, người chiến thắng
Mara, người đã nhập thân vào đức vua này…”
Khi nói về những phẩm chất, nhân cách các bia Campuchia cũng áp dụng
nhiều chuẩn mực đạo đức Ấn Độ: “Thực hành năm phép hiến lễ (Pancablrit),
quan sát năm canh (Pancakala), tuân theo lễ nghi của giáo phái (Pancaratra)
và thấu hiểu năm yếu tố (Pancabhauti)” (Baset IV). Theo phong tục Ấn Độ, các
bia cũng đã không dấu diếm mà còn ca ngợi tình yêu trần tục: “Ông hoạn lạc
với thần đất hiến mình cho ông, như thể với một người phụ nữ mà áo quần phấp
phới là đại dương…” (Prerup).
Tất cả những điều đó lại luôn luôn được nêu kên dưới hình thức ẩn dụ,
những lời nói bóng, sự ám chỉ - phong cách Kavya của văn học cổ Ấn Độ-mà
đối với đương thời có thể là dễ hiểu, nhưng đối với chúng ta ngày nay việc đoán
định thật là vất vả, khó khăn: “Isa đã lập nên vị vua này, vị vua có một của bán
là tính cách anh hùng, để củng cố vật trang điểm cho ba thế giới đã phải chịu
15


nỗi bất hạnh của tình yêu giữa rừng binh khí, đã bị thiêu hủy, bị thờ ơ và trở
thành một dấu hiệu suy yếu” (Prasat Srung). Đoạn trên đây, ta chỉ thấu rõ khi

nhờ thêm những tài liệu khác, muốn nói tới sự kiện năm 1177, Ăngco bị
Champa tấn công, đốt phá.


Văn bia bằng chữ Khơ Me:

Văn bia bằng chữ Khơ Me phần lớn viết bằng văn xuôi, giản dị. Đó là
những tác phẩm văn học đầu tiên của Campuchia. Những văn bản này ít mang
tính chất văn học, chủ yếu là bảng liệt kê những nô bộc và đồ thờ dâng cúng, ghi
nhận những tặng vật và kiến trúc tôn giáo, chỉ rõ những đặc quyền của nhà vua,
ghi lại những bản án xét xử trên cơ sở những tranh chấp về quyền sở hữu đất
đai… văn bia Khơ Me còn cho biết cả một hệ thống quan chức đông đảo, bao
hàm một tổ chức cai trị phát triển. Quan chức bị ràng buộc với nhà vua bằng
tuyên thệ. Lễ tuyên thệ là một trong những vương lễ lớn hàng năm ở Campuchia
trước đây. Tám văn bia khắc trên cột ngọn tháp dẫn vào sâu trong hoàng cung
Ăngcothom đều biên soạn theo một nội dung giống nhau và sao lại một công
thức tuyên thệ vào năm 1011 sau công nguyên của một triều thần dưới triều vua
Suryavarman I. Kèm theo công thức tuyên thệ là danh mục những viên chức
tuyên thệ và gắn liền vào mỗi danh hiệu người là một tên xứ sở.
Văn bản bia kí cổ đại của người Khơ Me hầu như hoàn toàn mang tính
chất tôn giáo. Tuy không phải là những nguồn lịch sử đích thực, chúng vẫn cung
cấp cho ta thấy ảnh hưởng của Ấn Độ đối với thời kì này, cho ta một danh mục
khá hoàn chỉnh các nhà vua đã trị vì từ thế kỉ VI đến thế kỉ XII. Di tích và bia kí
bị đình chỉ hoàn toàn hoặc ít nhất cũng trở nên rất khan hiếm trong thời kì suy
vong ở thế kỉ XIII, XIV.
Về văn bia của giai đoạn này người ta biết được tên của các nhà thơ ở thời
đại Ăngco:
- Sévakasom là nhà thơ, nhà văn chuyên về y học, là một học giả tài giỏi
về nhiều môn khác nhau. Ông có biên soạn nhiều loại sách như Mahabharata, bộ
16



văn phạm… ông là thầy chỉ giáo trực tiếp cho vua Indravarman. Ông có bia ở
Kandol Doeum.
- Yati Amarah Pheavak là một trí thức có vị trí cao nhất dưới triều đại vua
Giasovarman (889-908), được vua phong cho chức trí thức trưởng và kiêm chức
giáo trưởng của đền Indra Srom là trung ương của giáo phái Bàlamôn. Ông là
tác giả bia đền Bayon.
- Tivear Kâr là một thi sĩ xuất sắc nhất dưới triều đại Rajendravarman
(944-968). Ông thành thạo bộ Vê Đa. Được vua gả công chúa Indralaksmi. Ông
có bia ở Kampheus.
- Kavintrah là nhà văn nổi tiếng dưới triều vua Suryavarman (1002-1049).
Ông học rộng, hiểu sâu nhiều thể loại văn học, là trí thức cao nhất có thể giải
đáp những vấn đề khó khăn một cách nhanh chóng. Ông được phong chức cận
thần, có bia tại đền Khma Toc.
- Phùbantr là trí thức dưới triều vua Giayavarman VII (1181-1201) là giáo
trưởng kiêm cố vấn của nhà vua, là quan tòa nổi tiếng, có kiến thức sâu rộng về
luật pháp. Ông có bia ở đền Daza.
- Inđra Devi vợ kế của vua Giayavarman VII, là người đàn bà rất có học
thức, tác giả của bia Phimean Akas, cho đến nay bà vẫn được coi là biểu tượng
của thơ ca Khơ Me.
Văn bia Khơ Me-những biểu hiện văn học ghi trên đá ấy là tài sản đặc
biệt của quý tộc Ăngco. Điều đó có nghĩa là những nhà thơ khác sống ở những
tầng lớp xã hội khác cũng đã tồn tại, điều đó không thể loại trừ.
2.4. Về thành tựu văn học
Như trên đã nói, nhắc đến thành tựu tiêu biểu của văn học thời kì Ăngco
không thể nào không nhắc đến văn bia. Đây là một hình thức văn học đặc biệt để
lại những giá trị to lớn cả về mặt nội dung và nghệ thuật cho đất nước
Campuchia. Nó không những gắn liền với mỗi giai đoạn lịch sử, xã hội, chính trị
17



mà hơn nữa nó gắn với mỗi thời điểm hưng thịnh của dân tộc. Không phải chỉ vì
văn bia là văn học chính thống mà còn vì việc tạo dựng bia nói chung đi liền với
những công trình kiến trúc, công ích hay tôn giáo chỉ có được trong các thời
điểm hưng thịnh đó.
Ngoài văn bia ra, có hai tác phẩm văn học của thời kì Ăngco còn để lại
được một ít mảnh vở đến tận ngày nay là Traiphum và Riêm Kê. Traiphum là
một tác phẩm trình bày vũ trụ luận theo quan niệm Ấn Độ. Còn Riêm Kê- truyện
thơ phỏng theo sử thi Ramayana - ở thời Ăngco là một tác phẩm thuộc nền văn
chương Bàlamôn. Chàng Riêm là một hóa thân của thần Visnu. Có lẽ vào thời
đó còn có nhiều tác phẩm văn học Bàlamôn khác, nhưng chỉ có Riêm kê là sống
mãi đến những thời kì sau, tất nhiên với những thay đổi cho phù hợp với tinh
thần của những thời kì đó và cũng vì nó có thể làm được như vậy. Riêm Kê tiềm
tàng một nội dung và hình thức có thể thích ứng với văn học thời kì sau đó: hai
nhân vật chính tuy là lí tưởng nhưng rất con người, có một số phận dễ được
thông cảm, trải qua nhiều đau khổ gian nan, dễ được quần chúng ngưỡng mộ,
đồng tình,chia sẻ. Hơn nữa, hình thức sử thi của Riêm Kê gần gũi với truyện thơ
ở thời kì sau, tạo thành một mạch văn vần tự sự trong văn học Campuchia, có
cùng kết cấu và trục nhân vật như trong phần lớn truyện thơ truyền kì.
Văn học thời kì này còn có thể được bổ sung thêm nhờ những mảng phù
điêu phủ trên tường các ngôi đền. Có thể nói không ngoa, đây là những cuốn
sách bằng đá vĩ đại. Không phải bằng lời văn thông thường mà bằng những hình
chạm nổi sống động. Nhiều cảnh trong Mahabharata - một sử thi khác của Ấn
Độ, cũng thường được thể hiện trên phù điêu Ăngco. Nhưng khác với Riêm Kê,
Mahabharata bị thời kì sau Ăngco quên đi, khi đạo Phật Himayana (Tiểu thừa)
đã thay thế đạo Bàlamôn. Ở thời kì này, văn học Phật giáo cũng đã xuất hiện
nhưng còn đứng sau văn học Bàlamôn.
3. Các giai đoạn phát triển của văn học:


18


Văn học Ăngco tạo ra một bộ mặt riêng trong lịch sử văn học Campuchia,
nhưng trải qua sáu thế kỉ nó cũng có những thay đổi, phát triển nhất định.
Thế kỉ IX mở màn cho thời kì Ăngco, nhưng nó chưa để lại gì nhiều cho
văn học nghệ thuật. Tuy vậy, nó đã đặt nền tảng tinh thần cho toàn bộ thời đại
đó. Công tích của nhà vua khai quốc Jayavarman II to lớn như vậy, nhưng hình
như ông không để lại dòng chữ nào về mình. Mãi đến hai thế kỉ sau, mới thấy có
văn bia ở Sđoh Kăn Thom nói về ông. Nhà vua này là người đầu tiên khơi dậy
một tinh thần dân tộc mạnh mẽ trong lịch sử của người Campuchia.
Việc làm của vua Jayavarman II có tác dụng tập hợp khối những cư dân
tương đối đồng nhất nói tiếng Khơ Me đã đến sinh sống rải rác ở vùng này từ
thời tiền sử, tạo nên một ý thức quốc gia dân tộc mạnh mẽ-sức mạnh mới của
thời kì Ăngco. Trên tinh thần đó Jayavarman II cũng bắt đầu việc thờ phụng một
vị thần hoàng gia, cho phép khẳng định địa vị tiếng nói văn học của ngôn ngữ
dân tộc, bên cạnh tiếng Sanskrit. Vào cuối thế kỉ IX, vua Yasôvarman đã cho đặt
tại nhiều nơi thờ phụng trong nước những “văn bia hai mặt”, một mặt viết bằng
chữ Khơ Me thông dụng, một mặt viết bằng chữ Nagari, có người gọi đó là
những bản cáo thị bằng đá.
Đến thế kỉ X, vào năm 921, vua Jayavarman IV đã thành công trong việc
truyền vị thần hoàng gia thành vị thần dân tộc. Dưới hai triều vua
Rajenđrayarman và Jayavarman V, đất nước Campuchia được sống trong một
thời gian bình yên khá dài. Văn hóa nghệ thuật có điều kiện phát triển thuận lợi.
Triều đình do những người có tài năng nắm giữ. Một tầng lớp trí thức cung đình
đông đảo, có học vấn cao đã xuất hiện. Một số phụ nữ trong hoàng gia tỏ ra có
trình độ bản lĩnh cao, cũng tham dự vào những hoạt động chính trị, văn hóa, xã
hội. Một khu đền xây dựng trong thời kì này mang tên Banteai Srei có nghĩa là
kinh thành của phụ nữ, gồm những kiến trúc rất tinh tế, phong nhã. Riêng ở đây
đã có hai thư viện rất đẹp bằng đá là vật liệu chỉ dành để xây dựng những đền

thờ thần. Đây là thế kỉ tràn đầy một không khí bao dung đối với trí thức, học
19


vấn, nghệ thuật, văn hoc. Đây cũng là thế kỉ hoàn thành giai đoạn xây dựng
Ăngco đầu tiên.
Từ thế kỉ X bắt đầu mầm mống dùng những mảng phù điêu kể về sự tích
các thần hoặc những cảnh trong sử thi. Ở một số ngôi đền, có những mảng phù
điêu lấy đề tài trong Mahabharata. Trên mặt tiền của thư viện cạnh ngôi đền thờ
thần Visnu có mảng phù điêu kể về sự tích vị thần này. Cũng vậy, trên mặt tiền
của thư viện gần đền thơ Siva cũng có phù điêu về vị thần này.
Văn bia thế kỉ X thường mở đầu bằng một loạt khá dài lời cầu nguyện các
thần. Lối cầu nguyện dài dòng như vậy là đặc điểm của văn bia thế kỉ X. Bia ở
O Damban mở đầu bằng 10 khổ thơ cầu nguyện độc một vị thần Siva dưới
những danh hiệu khác nhau. Các bia Phnom Sanđăk Kandol… cũng vậy, thường
dành 8-9 khổ thơ để ca ngợi thần Siva hay Visnu. Đây là cái mốt chiếm ưu thế
vào đầu thế kỉ, dần dần sẽ bớt giảm đi, càng về sau càng ít, thường chỉ có vài ba
khổ thơ mà thôi. Từ nay, bia thường dành phần chủ yếu để ca ngợi các nhà vua.
Bia Tuol Ta Peou đề đến 61 khổ thơ ca ngợi Suryavarman I mà hầu như
không cung cấp một tài liệu lịch sử nào. Lời văn tuy nhẹ nhàng, tài hoa, nhưng
chơi vơi, không cụ thể. Bia kỉa niệm đền Prê Rup gồm 298 khổ thơ Sanskarit,
cung cấp một loạt tư liệu mới về Yasovarman và Rajenđravarman. Ngôn từ của
văn bia chính xác, phong phú, một số hình tượng thuộc loại ít gặp.
Tấm bia Sikren còn ghi lại ý nghĩa chân thật của một cô gái “Bằng công
tích này, cầu mong cho tôi được sinh ra với một vẻ đẹp chinh phục trái tim và
con mắt những người đàn ông, trên một bông sen bằng vàng trên đó óng ánh
chum ánh sáng của bảo vật, và làm cho đàn ong say sưa hương thơm của bông
sen. Nhưng nếu bị hoen ố vì tội lỗi, tôi phải sinh ra như một con vật nhỏ mọn thì
cầu mong cho tôi được trút bỏ, không ngừng và hoàn toàn, tính kiêu ngạo, lười
nhác, đố kị và ích kỹ…”.

Tấm bia Phnom Kanva (958) bằng chữ Khơ Me kể lại việc một người nô
lệ bỏ trốn bị bắt đã phải chịu cực hình cắt mũi, cắt tai. Đây là một trường hợp rất
20


hiếm cung cấp được những ghi chép chân thực những khía cạnh khác của thời
đại ăng co. Mặc dù lập trường của người viết là đứng về phe của luật pháp,
nhưng sự việc tự nó cho ta một cách nhìn nhận khác.
Bia Kompong Thom là một sắc chỉ của vua Jayavarman V (974) liên quan
đến việc thành lập hai đẳng cấp hay hai nghiệp đẳng (Varna) mới đề lo việc thờ
phụng một ngôi đền. Văn bản này bằng tiếng khơ me, cũng là một trường hợp
rất ít gặp trong số hàng nghìn tấm bia, mà phần chữ Khơ Me chỉ dành để liệt kê
ruộng đất hoặc nô bộc. Bia này còn ghi được một tư liệu về xã hội rất đáng chú
ý. Nhà vua quy định “Tất cả phụ nữ trong gia đình họ đều phải kết hôn với
những người trong đẳng cấp cao để phục vụ Siva, chứ không được kết hôn với
những người trong đẳng cấp thấp để sinh ra những Anak Khlon”. Ở đây nhà vua
quy định phụ nữ trong gia đình thuộc hai nghiệp đẳng mới thành lập chỉ được
lấy những người thuộc đẳng cấp Bàlamôn để cung cấp những thầy tư tế tương
lai, chứ không được lấy những người thuộc đẳng cấp khác để sinh ra những
người làm những công việc thế tục bình thường.
Thế kỉ XI không được yên ổn cho lắm. Về tình hình văn học, tấm bia
Prasat Khna có ghi lại một đôi nét về sinh hoạt văn học cung đình thời đó: “Nhà
vua thích nghe những mẫu chuyện trong mahabhrata và các bài thơ khác”;
“Người được nghe ông đọc bằng một giọng tự nhiên những đoạn trong
Mahabharata và những bài thơ khác, hưởng một niềm vui mà giọng hát du
dương không thể đưa lại được”; “Việc làm duy nhất của các nhà học giả-luôn
luôn đi tìm kiếm một hình thức đẹp-làm ông vui thích là việc sáng tác văn xuôi
và văn vần. Ý nghĩa của bài thơ mà ngay cả các nhà bác học cũng khó nắm, con
người hùng biện ấy chỉ dung vốn liếng của lời nói của mình không thôi, cũng
giải thích được một cách chính xác…”.

Đến thế kỉ XI, văn bia đã nói đến một số con người tương đối bình
thường. Bia Phnom Prah Net Prah nói về người đàn bà trồng hoa trong cung
đình “Vì sắc đẹp và trí thông minh, bà là người trồng hoa trong cung vua, vì
lòng sợ hãi đối với đại dương những sự luân hôi, bà không chấp nhân một sự
21


nhân nhượng nào trong viêc tuân thủ nghĩa vụ…”. Bia Vatbaset nói về
Visvakarm là người đứng đầu những thợ thủ công của nhà vua.
Tấm bia của trạm phụ ở Prasat ta kăm có 35 dòng chữ Khơ Me, viết bằng
lối chữ thảo của thế kỉ XI. Bằng một số nét lối chữ thảo này báo hiệu chữ viết
hiện đại va cả chữ viết của Thái Lan thời kì Xukhôthay. Trên tường ngôi đền bà
Phnôn bắt đầu xuất hiện những mảng phù điêu, một sáng tạo mới của điêu khắc
Ăngco sẽ được phát triển ở thế kỉ sau. Phần lớn các cảnh miêu tả lấy trong hai
thiên sử thi ấn Ramayana và Mahabharata. Lúc này, các mảng phù điêu như vậy
còn nhỏ và riêng lẻ nhưng những nét chạm khắc lại rất tinh luyện. Đây có thể
nói là sự khởi đầu của một loại hình nghệ thuật độc đáo trên thế giới-phù điêu
văn học.
Vào nửa đầu thế kỉ XII, Suriyavarman II đã đưa nền nghệ thuật
Campuchia đến tuyệt đỉnh vinh quang với khu đền Ăng Co Vat. Đây được xem
là giai đoạn cổ điển của nghệ thuật ăng co. Đây cũng là ánh hào quang rực rỡ
cuối cùng của nền văn hóa Bàlamôn ở campuchia. Đến cuối thế kỉ XII, lịch sử
Ăngco ghi nhớ tên tuổi nhà vua vĩ đại của thời kì cuối Ăngco: Jayavarman VII.
Sau đó, Ăngco bắt đầu suy yếu và dời đô về miền Đông Nam vào thế kỉ XV.
Thế kỉ này còn để lại một văn bản song ngữ đầu tiên trong bia ký
Campuchia. Trước đây, trên bia Xđokkak Thom, phần tiếng Khơ Me sao phỏng
quá tự do phần tiếng Sanskrit. Còn ở bia Phimean Akas này, văn bản Khơ Me
hầu như cùng một nội dung với phần tiếng Sanskrit. Văn bia là một lời cầu
nguyện cây bồ đề được thờ phụng, đây là những câu văn Khơ Me ít ỏi còn lại
đến nay của thời kì ăng co: “Hỡi người vốn là vĩnh hằng. Hỡi người vốn là vua

của tất cả các loài cây. Hỡi người vốn có nhiều hạnh phúc. Hỡi người vốn là
nơi ẩn náu của mọi sinh linh. Hỡi người vốn cho người ta quả để ăn”; “Cầu cho
sấm sét không đánh người. Cầu cho lưỡi rìu không đụng tới người. Cầu cho
Vayu không bẻ gãy người. Cầu cho lửa không thiêu cháy người. Cầu cho nhà
vua không tàn phá người. Cầu cho con voi giận dữ không húc đồ người…”.
22


Với Jayavarman VII, văn hóa văn học Phật bắt đầu chiếm ưu thế trong đời
sống tinh thần campuchia. Văn học phật giáo bắt đầu đi vào cung đình. Bia
Phimean Akas cho biết bà Hậu: “Sau khi đạt được thành quả của nhà phật, bà
sai những vũ nữ của riêng mình biểu diễn những buổi sân khấu trích từ các
Cheat Dak” (Jataka, truyện kể các kiếp trước của đức phật). Tinh thần Phật thể
hiện trong tất cả những công trình xây dựng của Jayavarman VII. Trong chỉ dụ
nói về việc xây dựng bệnh viện, ông để lại cho văn chương Campuchia một lời
nói đẹp nhất trong tất cả các lời nói đẹp của văn bia Campuchia “Nhà vua đau
đớn vì bệnh tật của thần dân hơn là của mình, vì chính nỗi đau chung đó mới là
nỗi đau của nhà vua, chứ không phải nỗi đau của bản thân.”.
Tấm bia Phimean Akas lớn là một tác phẩm văn học xuất sắc của văn bia
và cả nền văn chương Khơ Me-Sanskrit nói chung. Điều đáng lưu ý trước tiên là
văn bản này do bà Hậu Inđrađêvi, vợ kế của vua Jayavarman VII viết. Người
đàn bà rất có học thức này đã ca ngợi người em gái của mình là bà hậu
Jayarajađêvi, vợ trước của Jayavarman VII đã qua đời. Lời thơ giản dị, mềm
mại, bà kể lại những đức tính của Jayarajađêvi, một người đàn bà sung đạo, yêu
chồng mà phải sống đau khổ trong cảnh cô đơn vì chồng đi ra trận.
Thời kì Ăngco còn kéo dài một thời gian, cho đến quãng giữa thế kỉ XV.
Nhưng từ thế kỉ XIII trở đi, sức sống ào dạt của Ăngco đã không còn nữa.
Không còn những công trình xây dựng lớn lao, cũng không còn thấy những áng
văn đầy hùng khí như trước.
4. Riêm Kê-tác phẩm tiêu biểu của văn học Campuchia thời kì Ăngco:

4.1. Tình hình văn bản của Riêm Kê:
Ngay từ đầu Công nguyên, các dân tộc ở Đông Nam Á đã đón nhận nền
văn hóa Ấn Độ thông qua con đường tôn giáo và nghệ thuật. Ảnh hưởng này lan
tỏa một cách rộng rãi, nói theo G.xơ Đet trong cuốn Lịch sử cổ đại các quốc gia
Ấn hóa Viễn Đông: “Sự lan tỏa của một nền văn hóa có tổ chức, dựa trên quan
niệm Hindu về vương quyền, được xác định đặc trưng bằng sự tôn thờ Hidu
23


giáo và Phật giáo, hệ thần thoại Puranas, tin theo Dharma sastras (Đạo Pháp)
và lấy Sanskrit (Phạn ngữ) làm phương tiện diễn đạt”.
Trong di sản văn hóa đồ sộ tiếp thu từ Ấn Độ, các pho sử thi vĩ đại
Ramayana và Mahabharata chiếm một vị trí đặc biệt. Từ một sử thi Ấn Độ,
Ramayana đã trở thảnh sử thi của rất nhiều dân tộc khác. Nhiều nhà nghiên cứu
cho rằng Riêm Kê Campuchia không phải đơn giản hoặc trực tiếp là một bản
dịch ra tiếng Khơ me của sử thi Ấn Độ, mặc dù nguồn gốc của Riêm Kê chính là
Ramayana. Bởi vì trong Riêm Kê có nhiều chi tiết khác hoặc không thấy trong
Ramayana, nhưng lại thấy có trong truyện Rama ở Inđônêxia.
Thật ra không thể nào chỉ ra một truyện Riêm Kê thật chính xác. Nó tồn
tại dưới nhiều dạng và trải qua nhiều biến đổi câu chuyện về hoàng tử Rama
được truyền đến Campuchia từ rất sớm. Văn bia tại chùa Veal Kaltel (thế kỉ VI
SCN) ở Campuchia cho thấy một ví dụ sớm nhất về việc đọc kinh Purana cùng
với Rammayana và Mahabharata tại một ngôi đền. Vào thời Ăngco, Ramayana
cũng thường được nói đến ở trong các văn bia dưới thời Yaxovarman (899-909)
và dưới thời vua Rajendravarman (944-968). Đầu thế kỉ X, Riêm Kê được
những người thợ chạm biết đến. Những dấu vết của quá trình khơ me hóa
Ramayana có thể tìm thấy ở các phù điêu Ban Tay Xrây (nửa cuối thế kỉ X),
thậm chí còn thấy rõ hơn tại Ba Phuôn (đầu thế kỉ XI). Phù điêu tại Ăngco Vat
và Bantay Samre cũng thể hiện rõ cách hiểu và những nét chính giống như còn
được thấy trong truyện Riêm Kê ngày nay.

Có thể nói, phù điêu Ăngco là sự khởi đầu của một loại hình nghệ thuật
độc đáo trên thế giới - phù điêu văn học. Đây là những bản Riêm Kê trên đá còn
lại từ thời Ăngco. Ở các giai đoạn sau, Riêm Kê còn được thể hiện dưới dạng
tranh tường. Bân cạnh đó, Riêm Kê còn mang đến cho sân khấu múa Campuchia
một đề tài tuyệt vời và là nội dung chủ yếu của sân khấu rối bóng.
Riêm Kê có cả văn bản bằng văn xuôi và văn vần. Có hai loại là văn bản
cổ điển và văn bản dân gian. Riêm Kê cổ điển thường ngắn hơn Riêm Kê dân
24


gian, chủ yếu viết bằng thơ, ngôn ngữ cầu kì hoa mĩ, tình tiết cốt truyện có tính
logic chặt chẽ và nội dung, ý nghĩa có tính tượng trưng cao. Lời thơ Riêm Kê cổ
điển là đỉnh cao của ngôn ngữ văn học và thơ ca Khơ me.
Vấn đề tác giả của Riêm Kê chưa rõ ràng và chắc là không thể nào tìm ra
được tác giả đích thực bởi lẽ không hề có một tài liệu nào nói về vấn đề này.
4.2. Giá trị tác phẩm Riêm Kê:
Hoàng tử Prệt Riêm, con vua Kinh thành Aôtđia khôi ngô tuấn tú, thông
minh hơn người. Mụ dì ghẻ vì muốn con riêng của mình lên ngôi nên đã xúi
giục vua đẩy Prệt Riêm vào rừng sâu. Riêm cùng vợ là Xây Đa từ bỏ Kinh thành
ra đi. Người em trai là Prệt Lec xin đi theo để phục vụ hai anh chị. Trên đường
đi, họ gặp vua xứ quỷ là Riếp. Riếp thấy Xây Đa xinh đẹp, rắp tâm chiếm làm
vợ. Hắn biến thành một con nai nhử Riêm đuổi bắt. Nhân lúc Riêm đang đuổi
theo con nai, Riếp bắt Xây Đa về đảo Lan ka ngoài biển khơi. Trở về không thấy
vợ, Riêm đau đớn vô cùng. Chàng quyết tâm tìm mọi cách cứu vợ. Chàng được
Hanuman dẫn theo một đoàn quân khỉ vượt biển, tiến thẳng vào xứ quỷ. Anh em
Prệt Riêm, được sự phối hợp của đoàn quân khỉ đã đán tan quỷ Riếp, cứu Xây
Đa. Lúc này, thời gian bị lưu đày cũng vừa hết, anh em Prệt Riêm trở lại kinh
đô. Người em đang trị vì trao lại ngôi báu cho Prệt Riêm. Song, Prệt Riêm lại
nghi ngờ lòng chung thuỷ của vợ vì chàng cho rằng Xây Đa đã thất thân với quỷ
Riêp. Chàng bắt vợ nhảy vào lửa để chứng minh sự trong trắng của tâm hồn.

Thần lửa đã chứng minh nàng vô tội. Song, vì lòng ghen tuông mù quáng, Prệt
Riêm đuổi nàng vào rừng khi nàng đang có chửa. Xây Đa đau đớn vô cùng vì
không được minh oan. Nàng lặng lẽ sinh con, sau đó, hoá thân vào đất để chứng
minh tấm lòng trung trinh ngay thẳng của mình.
Là sản phẩm của một thời kì lịch sử kéo dài sáu thế kỉ (thế kỉ IX đến thế
kỉ XIV), Riêm Kê đã ít nhiều mang dấu ấn thời đại của nó. Sau khi Ăngco sụp
đổ, khi người Khơ Me dần dần quên Mahabharata, Puranas và những
Hindusastras khác, thậm chí gần như phần lớn nền văn hóa Bà la môn với những
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×