Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Vai trò của đường mòn hồ chí minh trên biển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.12 KB, 26 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
BIÊN BẢN THẢO LUẬN
Nhóm: 11
Ngày.... Tháng....Năm 2017
Đề tài: Vai trò của đường mòn Hồ Chí Minh trên biển trong sự nghiệp kháng chiến
chống Mỹ cứu nước
Lần 1:
-

Thời gian: ngày
Địa điểm:
Nội dung:

tháng

năm 2017

-

Thời gian: ngày
tháng
năm 2017
Địa điểm:
Nội dung: Phân công nhiệm vụ từng cá nhân trong nhóm.

Lần 2:

BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ
ST
T


1
2
3
4
5
6
7
8
9

Họ và tên

Nhiệm vụ

Mức độ hoàn
thành

Nguyễn Duy Phúc
Đặng Thị Lâm Oanh
Đào Thị Tú Oanh
Đinh Thị Kim Oanh
Ngô Thị Oanh
Nguyễn Thị Oanh
Trương Thị Oanh
Lê Văn Phú
Đỗ Thị Phương

Lần 3:
-


Thư kí

Thời gian: ngày tháng năm 2017
Địa điểm:
Nội dung: Tổng hợp và kiểm tra lại bài thảo luận
Nhóm trưởng


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lâp- Tự do- Hạnh phúc
BẢNG ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN
Nhóm: 11
ST
T
1

Họ và tên

MSV

Nguyễn Duy Phúc

15D1250174

2

Đặng Thị Lâm Oanh

15D120244


3

Đào Thị Tú Oanh

15D1130176

4

Đinh Thị Kim Oanh

14D110030

5

Ngô Thị Oanh

14D180319

6

Nguyễn Thị Oanh

14D180249

7

Lê Văn Phú

15D180179


8

Đỗ Thị Phương

15D110038

9

Trương Thị Oanh

15D130177

Nhóm trưởng
đánh giá

Thành viên tự
đánh giá

Chữ kí

Thư kí
Nhóm trưởng


MỤC LỤC

I.

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài

2. Lời cảm ơn và giới thiệu đề tài

II.

Nội dung
1. Đặc điểm của đường mòn Hồ Chí Minh trên biển
1.1.

Sơ lược về đường mòn Hồ Chí Minh trên biển

1.2.

Các số liệu liên quan

2. Vai trò của đường mòn Hồ Chí Minh trên biển trong sự nghiệp

kháng chiến chống Mỹ cứu nước
3. Giá trị lịch sử và giá trị thực tại của đường mòn Hồ Chí Minh trên

biển ngày nay
3.1.

Giá trị lịch sử

3.2.

Giá trị thực tiễn

III.


Kết luận

IV.

Tài liệu tham khảo

V.

Mục lục


A. MỞ ĐẦU
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc ta, công tác chi viện
sức người, sức của từ hậu phương miền Bắc vào tiền tuyến miền Nam giữ vai trò hết sức
quan trọng, có ý nghĩa quyết định nhất đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước. Cùng với tuyến đường chi viện chiến lược- đường Hồ Chí Minh trên bộ
nổi tiếng thế giới, dân tộc ta còn lập một kỳ tích nữa trong lịch sử, đó là tuyến chi viện
chiến lược- đường Hồ Chí Minh trên biển. Đây là một kỳ tích có ý nghĩa chiến lược của
quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng mà người đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh
vĩ đại; là biểu hiện của ý chí sắt đá, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Trong bức điện gửi cán bộ, chiến sỹ Lữ đoàn 125
(khi mới thành lập có phiên hiệu là đoàn 759- đơn vị trực tiếp xây dựng tuyến chi viện
chiến lược và làm nên kỳ tích đường Hồ Chí Minh trên biển) hải quân nhân kỷ niệm 35
năm mở đường Hồ Chí Minh trên biển (1961- 1996), Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã đánh
giá: “Năm tháng sẽ qua đi, nhưng chiến công anh hùng và sự hy sinh cao cả của các lực
lượng mở đường vận tải chiến lược mang tên Bác Hồ kính yêu trên biển Đông, của
những “con tàu không số” của quân và dân các bến bãi, làm nhiệm vụ chi viện cho chiến
trường miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại sẽ mãi mãi đi vào
lịch sử đấu tranh anh dũng của dân tộc ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam
quang vinh, Tổ quốc và nhân dân ta đời đời ghi nhớ công lao của những người đã làm

nên kỳ tích đường Hồ Chí Minh trên biển”. Những đóng góp hiệu quả của tuyến chi viện
chiến lược- đường Hồ Chí Minh trên biển (1959- 1975) đã góp phần xứng đáng vào
thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc, vượt lên những


tính toán thông thường về chiến tranh của chính quyền Mỹ- ngụy, để lại nhiều bài học
kinh nghiệm quý giá cho hôm nay và mai sau. Với lòng biết ơn và sự tri ân sâu sắc đối
với những hy sinh, đóng góp của các thế hệ cha anh, nhóm 11 xin chọn “Đường Hồ Chí
Minh trên biển trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1959- 1975)” làm đề tài
thảo luận.
Hy vọng qua bài thuyết trình của nhóm em không chỉ chúng em mà nhiều người khác
không những hiểu biết sâu sắc hơn về những hoạt động, kết quả đóng góp của tuyến chi
viện chiến lược- đường Hồ Chí Minh trên biển trong nhiệm vụ chi viện cho chiến trường
mà qua đó cũng thấy được sự sáng tạo, thành công của Đảng ta trong tổ chức lãnh đạo,
chỉ huy tuyến chi viện chiến lược này.

A.

NỘI DUNG

1. Đặc điểm của đường mòn Hồ Chí Minh trên biển
1.1. Sơ lược về đường mòn Hồ Chí Minh trên biển
a. Thành lập
Tiền thân đường mòn Hồ Chí Minh trên biển là hải lộ ven bờ do những người trong
hàng ngũ Việt Minh ở Nam Bộ thực hiện lần đầu tiên. Năm 1946, lực lượng Việt Minh ở
Nam Bộ đã tổ chức chuyến đi của một thuyền đánh cá xuất phát từ Thạnh Phong, huyện
Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre ra Bắc xin tiếp tế vũ khí. Tàu cập bến trong vùng Việt Minh
kiểm soát tại Tuy Hòa, Phú Yên. Những người trên tàu ra Bắc bằng tàu hỏa. Số vũ khí
được Quân đội nhân dân Việt Nam cung cấp cũng được chuyển vào Phú Yên bằng tàu
hỏa và chất lên thuyền chở vào Bến Tre.

Từ tháng 6 năm 1961 đến tháng 2 năm 1962, những người lãnh đạo của Mặt trận dân
tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ở các tỉnh Bến Tre, Cà Mau, Trà Vinh, Bà Rịa đã cử
năm con thuyền gỗ từ miền Nam ra miền Bắc để báo cáo tình hình, xin tiếp tế vũ khí và
sau đó trực tiếp vận chuyển vũ khí cũng như dẫn đường cho các tàu tiếp tế giả dạng tàu
đánh cá từ Bắc vào Nam. Những người chỉ huy chủ chốt gồm các ông Phan Văn Nhờ (tức
Tư Mau), bà Nguyễn Thị Định, ông Bông Văn Dĩa... Trong số 5 chiếc thuyền gỗ, chiếc
thuyền của Bà Rịa đã bị lực lượng tuần duyên của Hải quân Việt Nam Cộng hòa chặn bắt


tại ngoài khơi Cam Ranh. Không phát hiện thấy nghi ngờ, con thuyền này được trả tự do.
Sau đó nó bị bão đánh trôi dạt đến đảo Hải Nam. Đây là chiếc thuyền do ông Dương
Quang Đông, nguyên Ủy viên thường vụ Xứ ủy Nam Kỳ của Đảng Cộng sản Đông
Dương trước năm 1945, nguyên là cán bộ hậu cần của Việt Minh tại Khu VIII trong
Kháng chiến chống Pháp được giao nhiệm vụ mua sắm. Tuy nhiên, khi di chuyển đến Bà
Rịa, ba người cũng đi với ông Đông đã bị quân Việt Nam Cộng hòa bắn chết và tịch thu
số tiền mà tổ công tác của ông được tổ chức giao cho để mua thuyền. Nhờ có bà Nguyễn
Thị Mười ở Phước Hải, Long Đất đã dồn tiền của trong nhà tổng cộng 10 cây vàng để
đóng góp, chiếc thuyền này được mua về và được sử dụng trong chuyến liên lạc, vận
chuyển đầu tiên. Tham gia chuyến vượt biển trên con thuyền của Bà Rịa còn có ông Lê
Hà, con trai bà Mười, sau này trở thành một trong các thuyền trưởng đầu tiên trên các con
tàu không số.
Ngày 23 tháng 10 năm 1961, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương Việt Nam quyết
định mở tuyến đường biển Bắc-Nam. Trung tướng Trần Văn Trà, Phó Tổng tham mưu
trưởng được Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ thành lập tuyến đường này. Ngày 23-101961, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Hoàng Văn Thái ký Quyết định số 97/QP thành lập
Đoàn 759, sau này trở thành Lữ đoàn 125 thuộc Hải quân nhân dân Việt Nam. Đoàn 759
có trách nhiệm chi viện vũ khí cho miền Nam bằng đường biển. Trung tá Đoàn Hồng
Phước được giao nhiệm vụ làm Đoàn trưởng. Đây là đơn vị đầu tiên đảm nhận nhiệm vụ
vận tải vũ khí, hàng hóa vào chiến trường miền Nam bằng các con tàu không số, mở ra sự
phát triển mới của Đường Hồ Chí Minh trên biển. Tại Nam Bộ, Bộ Chỉ huy quân khu IX
của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam được giao nhiệm vụ thành lập Trung đoàn 962

chuyên trách nhiệm vụ chuẩn bị bến bãi tại bờ biển các tỉnh Trà Vinh, Bến Tre, Cà Mau.
Bộ chỉ huy các Khu V, VI, VIII cũng được lệnh thiết lập các bến bãi bí mật để đón nhận
vũ khí, đạn dược, phương tiện và các hàng hóa khác từ miền Bắc Việt Nam chuyển vào
bằng đường biển.
b. Phát triển phương tiện và các tuyến vận tải quân sự trên biển
* Các đơn vị
Đoàn 759: Ngày 23 tháng 10 năm 1961, Quân ủy Trung ương Việt Nam quyết định
thành lập Đoàn hải quân 759, sau này trở thành Lữ đoàn 125 của Hải quân nhân dân Việt
Nam. Đây là đơn vị đầu tiên đảm nhận nhiệm vụ vận tải vũ khí, hàng hóa vào chiến
trường miền Nam bằng các con tàu không số, mở ra sự phát triển mới của Đường Hồ Chí
Minh trên biển.


Đoàn 962: Tại Nam Bộ, Bộ Chỉ huy quân khu IX của Quân giải phóng miền Nam Việt
Nam được giao nhiệm vụ thành lập Trung đoàn 962 chuyên trách nhiệm vụ chuẩn bị bến
bãi tại bờ biển các tỉnh Trà Vinh, Bến Tre, Cà Mau. Bộ chỉ huy các Khu V, VI, VIII cũng
được lệnh thiết lập các bến bãi bí mật để đón nhận vũ khí, đạn dược, phương tiện và các
hàng hóa khác từ miền Bắc Việt Nam chuyển vào bằng đường biển.
Đoàn 950
* Phương tiện
+ Tàu, thuyền gỗ
+ Tàu sắt
+ Tàu hai đáy
* Các tuyến chính
+ Tuyến ven bờ
+ Tuyến tiếp giáp lãnh hải
+ Tuyến hàng hải quốc tế
c. Các căn cứ và bến bãi
K15 là bí danh được đặt tên cho bến tàu xuất phát có quy mô lớn đầu tiên của các con
tàu không số vận chuyển người và vũ khí từ Bắc vào Nam bằng đường biển trong Chiến

tranh Việt Nam. Nó còn có tên khác là "Vạn Xép". Bến này được mở lần đầu tiên tại các
thôn Vạn Hoa và Vạn Sơn (Đồ Sơn, Hải Phòng), do Trung đoàn công binh 83 xây dựng.
Đây là một vịnh nhỏ ăn sâu vào đất liền ở bờ Đông bán đảo Đồ Sơn, Hải Phòng. Vịnh
này có ba phía là núi, đường ra biển duy nhất nằm ở hướng Tây Nam, độ sâu khoảng 3 m
khi thủy triều xuống và đến 4 m khi thủy triều lên. Cầu cảng được xây hình chữ T. Thân
chính rộng 6 m, dài 60 m; thân ngang rộng 6 m, dài 12 m. Toàn bộ cầu tàu được làm bằng
bê tông cốt thép dạng khung chịu lực kiểu dầm gác hai đầu. Ngày 15 tháng 5 năm 1964,
cầu tàu K15 bắt đầu hoạt động. Tuy ra đời sau tuyến vận tải quân sự bí mật trên biển đầu
tiên từ Quảng Bình vào miền Nam và các chuyến tàu từ miền Nam ra miền Bắc nhận vũ
khí và trở lại miền Nam nhưng lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam vẫn coi đây như "Cột
km số 0" của các tuyến đường mòn Hồ Chí Minh trên biển.
Cầu cảng K15 đánh dấu một bước chuyển biến lớn của Đường Hồ Chí Minh trên biển.
Đó là việc các tàu sắt được đưa vào sử dụng, dần thay thế cho các con tàu gỗ kém an


toàn. Trong quá trình hoạt động, cảng K15 đã tổ chức xếp hàng và xuất phát cho 88
chuyến vận tải quân sự trên biển, gồm 4.919 tấn vũ khí đạn dược và hàng nghìn tấn hàng
hóa khác. Do được ngụy trang rất kín đáo nên trong suốt cuộc Chiến tranh Việt Nam,
không quân và hải quân Hoa Kỳ vẫn không phát hiện được cầu cảng K15. Sau nửa thế
kỷ, đặc biệt từ năm 1975 đến nay không còn được hoạt động, công trình đã hư hại nặng.
Hiện nay, tại bãi biển Vạn Sơn (Đồ Sơn, Hải Phòng) chỉ còn lại di tích các cọc bê tông
của cầu tàu trên bến cảng quân sự bí mật K15.
Sa Huỳnh: là một làng chài cổ đồng thời là một bãi biển nổi tiếng ở miền Trung Trung
Bộ với nghề đánh cá từ lâu đời. Trong quá trình hoạt động của "Đường Hồ Chí Minh trên
biển"; Sa Huỳnh là một trong những bến bãi tiếp nhận vũ khí, đạn dược, hàng hóa do các
chuyến tàu không số chuyên chở từ miền Bắc gửi vào cho Quân giải phóng miền Nam
Việt Nam tại chiến trường Khu V.
Quy Thiện: Địa điểm Quy Thiện thuộc xã Phổ Hiệp, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi.
Là một trong các bến đỗ dự bị của các chuyến tàu không số trong trường hợp tàu bị hỏng,
là nơi tránh trú khi gặp bão lớn hoặc bị hải quân Việt Nam Cộng hòa vây ráp. Tháng 3

năm 1968, tại đây đã diễn ra cuộc hội ngộ không hẹn mà gặp giữa các cán bộ, nhân viên
của Bệnh xá Đức Phổ nổi tiếng do bác sĩ Đặng Thùy Trâm lãnh đạo với các thủy thủ Tàu
43 khi tàu bị không quân và hải quân Việt Nam Cộng hòa bắn hỏng. Các thủy thủ phải đổ
bộ lên bờ và được người dân trong vùng bí mật đưa đến trạm xá này để cứu chữa. Sau đó,
họ được Bộ Chỉ huy Khu V của Quân giải phóng miền Nam tổ chức vượt Trường Sơn trở
lại miền Bắc.
Lộ Diêu: Bến này nằm trên địa bàn xã Hoài Diêu, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
Ở vào vị trí giữa đèo Lộ Diêu trong và đèo Lộ Diêu ngoài, phía Tây là núi, phía Đông là
bãi biển, Lộ Diêu được chọn làm bến trung chuyển vũ khí, đạn dựoc và hàng hóa do các
con tàu không số chở từ miền Bắc vào chiến trường khu V. Bến Lộ Diêu bắt đầu hoạt
động từ ngày 1 tháng 1 năm 1964 khi đón con tàu đầu tiên chở hàng chục tấn vũ khí xuất
phát từ Hòn Dấu, Hải Phòng đi vào.
Lộc An: Địa điểm này nay thuộc huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Đây là bến
xuất phát của một trong năm con thuyền gỗ đầu tiên mở tuyến đường Hồ Chí Minh trên
biển từ Nam ra Bắc và ngược lại. Trong quá trình hoạt động, bến này đã đón 3 tàu không
số cập bến, vận chuyển 109 tấn vũ khí cho Quân giải phóng miền Nam Việt Nam tại Khu
IX.
Cồn Tàu: Đây là bến chính trong hệ thống bến bãi Trà Vinh, nằm ở gần cửa Cung Hầu,
một trong ba cửa chảy ra biển của sông Hậu, thuộc huyện Duyên Hải. Bến này bắt đầu


hoạt động từ tháng 6 năm 1963 khi đón chuyến tàu sắt đầu tiên chở 44 tấn vũ khí từ Bắc
vào Nam.
Khâu Lầu: Bến "Ông Hai Ghiền" Đây là biệt danh được những người lính của Trung
đoàn vận tải 962 đặt cho Bến Thạnh Phong. Địa điểm này nay thuộc xã Thạnh Phong,
huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. Đây là nơi xuất phát của con tàu đầu tiên của Việt Minh
ở vùng Tây Nam Bộ ra Bắc xin vũ khí để tổ chức kháng chiến chống Pháp từ năm 1946.
Từ năm 1961 đến năm 1962, 2 chuyến tàu của lực lượng Quân giải phóng miền Nam Việt
Nam ở Tây Nam Bộ cũng xuất phát từ đây ra Bắc xin chi viện vũ khí và trở về an toàn.
Bến này cũng với các bến Cồn Tra và Cồn Lợi hợp thành một hệ thống bến bãi đón nhận

vũ khí, đạn dược, hàng hóa của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam tại tỉnh Bến Tre.
Mặc dù theo sự bố trí của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, Thạnh Phong thuộc khu
VIII nhưng lại đóng vai trò là bến trung chuyển lớn cho cả miền Đông và miền Tây Nam
Bộ trong thời kỳ 1961-1963. Kho cất giữ vũ ký bí mật phục vụ cho bến Thạnh Phong
được xây dựng dưới lòng đất tại xã Thạnh Thới A, gần bến phà Cầu Ván, thuộc huyện
Mỏ Cày, tỉnh Bến Tra. Xã Thạnh Thới A cũng là nơi đóng sở chỉ huy Trung đoàn vận tải
962 của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam tại Khu IX.
Vàm Lũng: Bến này do ông Bông Văn Dĩa (sau này là thượng tá hải quân) lựa chọn và
xác định thay cho hai con lạch Bồ Đề và Rạch Gốc tuy sâu và rộng hơn nhưng dễ bị lộ
hơn. Địa điểm này thuộc huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau. Tại đây có một con rạch lớn sâu
từ 2 đến 3 m. Hai bên có rừng đước rộng lớn che phủ. Các tàu pha sông biển cỡ nhỏ có
trọng tải dưới 100 tấn có thể ra vào được và dễ dàng ẩn nấp dưới các rặng đước cao và
rậm rạp. Tháng 10 năm 1962, bến này bắt đầu hoạt động khi đón con tàu gỗ mang mật
danh "Phương Đông 1" chở 30 tấn vũ khí từ miền Bắc vào cho Quân giải phóng miền
Nam Việt Nam tại Khu IX. Trong toàn bộ thời gia hoạt động, bến này đã dón 68 chuyến
tàu tiếp tế từ miền Bắc vào.
Rạch Giá: Cảng cá Rạch Giá là căn cứ nửa công khai, nửa bí mật của đoàn tàu hai đáy
do Trung đoàn vận tải 950 thuộc Khu IX, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phụ
trách. Bến này đi vào hoạt động từ nửa sau năm 1968. Gọi là nửa công khai vì bề ngoài,
đây là một cảng cá, gọi là nửa bí mật vì đây là một bến tiếp nhận vũ khí vận chuyển bằng
đường biển. Bến cảng này đánh dấu một phương pháp vận chuyển mới: "trên cá, dưới
súng đạn". Do tàu gỗ có cấu tạo hai đáy nên bề ngoài, nó giống như một tàu đánh cá bình
thường. Nhưng giữa hai lớp đáy có một khoảng trống để cất giấu vũ khí, đạn dược và các
hàng hóa khác. Do sự kiểm soát gắt gao của Hải quân Việt Nam Cộng hòa khi phát hiện
một tàu hai đáy bị hỏng máy và được kéo về bờ, bến này phải tạm ngừng hoạt động từ
giữa năm 1973 đến đầu năm 1975, khi Chiến dịch Mùa Xuân 1975 bắt đầu được khởi
động.


1.2. Các số liệu liên quan

Ngày 11-10-1962, một tàu vỏ gỗ mang mật danh “Phương Đông 1”, do đồng chí Lê
Văn Một và đồng chí Bông Văn Dĩa chỉ huy, chở 30 tấn vũ khí rời bến Đồ Sơn (Hải
Phòng) rẽ sóng ra khơi nhằm hướng Cà Mau tiến tới. Đến ngày 19-10-1962, tàu cập bến
Vàm Lũng an toàn. Nhân dân đón nhận chuyến tàu chi viện vũ khí đầu tiên cho cách
mạng miền Nam với lòng phấn khởi vô hạn. Họ nhanh chóng khuân vác vũ khí cất giấu
vào những kho bí mật an toàn. Tiếp theo tàu Phương Đông 1 là tàu Phương Đông 2, 3, 4
cũng lần lượt lên đường vận chuyển vũ khí vào Nam Bộ.
Trong vòng hai tháng, các tàu này đã chuyển vào Nam 111 tấn vũ khí, cập các bến đã
chuẩn bị của tỉnh Cà Mau. Vượt qua những thử thách ác liệt, gian nan, đấu trí và đấu lực
căng thẳng với địch và sóng gió biển khơi, các chiến sĩ Hải quân đã hoàn thành nhiệm vụ
xuất sắc thời kỳ đầu tiếp tế vũ khí cho cách mạng miền Nam, góp phần rất quan trọng
tăng cường nhanh chóng sức mạnh chiến đấu cho lực lượng vũ trang giải phóng... Công
việc vận chuyển vũ khí vào chiến trường Nam Bộ tạm ổn, tuy số lượng chưa nhiều,
nhưng đã góp phần quan trọng giúp quân và dân các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long phát
triển lực lượng vũ trang, tạo được thế mới, lực mới, đánh thắng địch nhiều trận, củng cố
và mở rộng vùng giải phóng.
Tính từ tháng 10-1962 đến tháng 2-1965, ta đã sử dụng 3 tàu vỏ gỗ, 17 tàu vỏ sắt tổ
chức đưa 88 chuyến tàu tới đích (không tính các chuyến trinh sát, mở đường) vận chuyển
được 4.919,636 tấn vũ khí và một số mặt hàng thiết yếu vào chiến trường2 (Cà Mau, Bạc
Liêu 45 chuyến, Bến Tre 23 chuyến, Trà Vinh 12 chuyến, Bà Rịa 3 chuyến, Vũng Rô 4
chuyến, Bình Định 1 chuyến), đạt 93% kế hoạch, vượt chỉ tiêu Trung ương giao (Bộ
Chính trị, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng giao chỉ tiêu đưa được 50% số hàng tới
đích đã là thành công). Riêng hai năm 1962 và 1964, đạt tỷ lệ cao nhất: 100% (57/57) số
chuyến thành công.
Thành công của những chuyến vũ khí đã trực tiếp góp phần đẩy mạnh chiến tranh nhân
dân, xây dựng và phát triển khối chủ lực ở chiến trường Nam Bộ, cực Nam Trung Bộ;
góp phần làm nên những chiến thắng oanh liệt của quân dân ta ở Ấp Bắc, Đầm Dơi, Cái
Nước, Chà Là, Vạn Tường, Ba Gia, Bình Giã, Đồng Xoài... Đặc biệt, điều đó có ý nghĩa
hơn khi cũng trong thời gian này, tuyến chi viện chiến lược trên bộ (Đoàn 559) tuy đã
được tổ chức ngang cấp sư đoàn, được biên chế 2 trung đoàn gùi thồ, 1 đại đội ôtô vận

tải, một số đơn vị công binh, giao liên... đã có những nỗ lực rất lớn trong nhiệm vụ mở
đường và đã vươn vào tới chiến trường Bắc Tây Nguyên. Nhưng do đường mới mở, bị
mưa lớn, lại bị địch ngăn chặn quyết liệt, nên chỉ chuyển tới các chiến trường được 1.410
tấn vật chất các loại (chủ yếu cho Trị Thiên và Nam Lào), đạt 25% kế hoạch trên giao3.


Từ tháng 2-1965 đến tháng 1-1973 là giai đoạn khó khăn nhất nhưng hết sức hào hùng
của tuyến chi viện chiến lược trên biển. Sau sự kiện xảy ra với tàu C143 ở Vũng Rô (Phú
Yên), bí mật của tuyến chi viện chiến lược trên biển của ta không còn nữa. Công việc tiếp
tế cho miền Nam bằng đường biển vẫn phải tiếp tục, nhưng ta chuyển hướng vận chuyển
từ phương thức trực tiếp sang phương thức gián tiếp. Bằng phương pháp vận chuyển này,
trong một năm (từ 1-11-1968 đến 31-10-1969), lực lượng vận tải biển đã đưa vào cảng
sông Gianh 21.737 tấn vũ khí. Từ đây, số vũ khí này được chuyển vào Nam theo đường
bộ. Đồng thời với đưa hàng vào cảng sông Gianh, Quân chủng Hải quân chọn một số tàu
và thủy thủ có kinh nghiệm tiếp tục vận chuyển vào Nam theo đường Hồ Chí Minh trên
biển. Ngoài ra, trong giai đoạn này, cán bộ chiến sĩ Đoàn 125 còn tham gia chiến dịch
vận tải VT5 - Vận tải tranh thủ tụt thang (từ tháng 11-1968 đến năm 1969), cùng các lực
lượng trong và ngoài quân đội vận chuyển hàng chục vạn tấn vũ khí, lương thực, xăng
dầu… từ Hải Phòng vào các tỉnh Nam Khu 4, tạo chân hàng cho tuyến chi viện chiến
lược trên bộ (Đoàn 559)
Từ 1973 đến 1975, tuyến chi viện chiến lược bằng đường biển đã dốc toàn bộ lực lượng
và phương tiện, sử dụng hàng ngàn lượt chuyến tàu chuyển vũ khí và vật chất các loại
vào các chiến trường. Đặc biệt trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm
1975, đã sử dụng 140 lượt chuyến tàu, vận chuyển 6.282 tấn vũ khí và vật chất khác,
cùng hàng ngàn lượt cán bộ chiến sĩ vào tăng cường cho chiến trường Nam Bộ và Khu 5,
cơ động bộ đội đặc công chiến đấu giải phóng các đảo thuộc quần đảo Trường Sa, Cù
Lao Thu, các đảo phía Nam và Tây Nam của Tổ quốc.

2. Vai trò của đường mòn Hồ Chí Minh trên biển trong sự nghiệp kháng
chiến chống Mỹ cứu nước

2.1. Sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt và tài tình của Ban chấp hành Trung ương Đảng,
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng –
nhân tố quyết định sự hình thành và phát triển thắng lợi của Đường Hồ Chí Minh
trên biển.
Đường Hồ Chí Minh trên biển - Một sáng tạo chiến lược của Đảng trong cuộc chiến
tranh chống Mỹ cứu nước. Từ đầu cho đến kết thúc chiến tranh, trong từng thời điểm,
giai đoạn cụ thể, Đảng ta luôn chỉ đạo sát sao, cụ thể và có những quyết sách chính xác
với Đường Hồ Chí Minh trên biển. Cùng với Đường Hồ Chí Minh trên bộ, Đường Hồ
Chí Minh trên biển là một chiến lược kỳ công của dân tộc ta trong kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước. Trong quá trình hoạch định đường lối kháng chiến là quá trình Đảng ta,


đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành sự quan tâm, chỉ đạo chặt chẽ, cụ thể, tỉ mỉ
công tác chi viện chiến trường thông qua Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương. Thực tế cho
thấy, ngay sau Hội nghị Trung ương 15 quyết định đường lối cách mạng miền Nam từ thế
giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Bộ Chính trị đã trực tiếp chỉ đạo tổ chức mở tuyến
đường Trường Sơn chi viện miền Nam. Nhằm đáp ứng yêu cầu trên, đầu tháng 5-1959,
Tổng Quân ủy (nay là Quân ủy Trung ương) và Bộ Tổng tư lệnh thành lập Đoàn 559, có
nhiệm vụ mở đường giao liên và vận tải trên bộ, đưa người, vũ khí cùng những mặt hàng
thiết yếu từ hậu phương lớn miền Bắc vào chiến trường. Sau một thời gian nghiên cứu
chuẩn bị, ngày 23-10-1961, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 97/QP thành lập Đoàn 759
vận tải quân sự đường biển. Được sự quan tâm chỉ đạo của cấp trên, sự ủng hộ, giúp đỡ
hết lòng của cấp ủy, chính quyền và nhân dân một số địa phương, Đoàn 759 nhanh chóng
xây dựng lực lượng, chuẩn bị phương tiện, tổ chức trinh sát nhằm nắm chắc quy luật tuần
tra, ngăn chặn trên biển của địch; hiệp đồng với các tỉnh ven biển Nam Bộ và Nam Trung
Bộ xây dựng các bến bãi tiếp nhận và tổ chức lực lượng vận chuyển vũ khí. Theo yêu cầu
của đoàn, Bộ Quốc phòng làm việc với Bộ Giao thông vận tải giao nhiệm vụ cho Xưởng
đóng tàu 1 Hải Phòng bí mật nghiên cứu đóng loại tàu vỏ gỗ gắn máy đúng theo kiểu
dạng ngư dân Nam Bộ vẫn sử dụng để phục vụ cho công tác vận chuyển. Sáng ngày 1910-1962, chiếc tàu vỏ gỗ đầu tiên chở hơn 30 tấn vũ khí mang mật danh Phương Đông I
đã cập bên Vãm Lũng an toàn. Tuyến chi viện chiến lược – Đường Hồ Chí Minh trên

biển chính thức được khai thông. Sự nhìn nhận từ sớm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh về yêu cầu, nhiệm vụ, vị trí và vai trò của công tác chi viện chiến trường đã tạo
bước phát triển vững chắc, mạnh mẽ cho cách mạng miền Nam. Con đường chi viện trên
biển đã ghi dấu ấn quan trọng, thúc đẩy sự lớn mạnh của lực lượng vũ trang cách mạng
trên chiến trường, góp phần vào thắng lợi của những trận đánh gây tiếng vang lớn. Đặc
biệt trong cuộc tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, thực hiện chỉ lệnh "thần tốc, đại
thần tốc" của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, đường Hồ Chí Minh trên biển đã
vận chuyển nhanh nhiều vũ khí hạng nặng và hàng chục nghìn cán bộ, chiến sĩ vào miền
Tây, kịp thời hiệp chi viện chiến trường. Kết quả của sự phát triển thực lực kháng chiến ở
miền Nam sau thắng lợi của phong trào “Đồng khởi” (năm 1960) đã chứng tỏ rằng, Đảng
ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở nắm bắt, lường định đúng xu thế phát triển của
cuộc kháng chiến, chủ động, tích cực chuẩn bị thời cơ, lực lượng, tạo ra bước phát triển
mạnh mẽ, vững chắc của cách mạng; con đường chi viện trên biển đã có những đóng góp
thiết thực trong quá trình ấy. Quyết định đúng đắn, sáng tạo, táo bạo của Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh, mở con đường vận tải quân sự chiến lược chi viện miền Nam trên
hướng biển, đã thể hiện rõ nhãn quan nhạy bén, tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh; đáp ứng khát vọng cháy bỏng và quyết tâm sắt đá giải phóng miền Nam, thống
nhất Tổ quốc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Tuyến vận tải quân sự chiến lược


này đã góp phần phát huy sức mạnh của miền Bắc XHCN - nhân tố quyết định nhất, kết
hợp với sức mạnh tại chỗ của cách mạng miền Nam, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn
của toàn dân tộc, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.
2.2. Đường Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành nơi hội tụ sức mạnh của chiến tranh
nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu trí, đấu lực với các âm mưu thủ đoạn của kẻ thù;
là nơi tỏa sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng; lòng quả cảm, trí thông minh và
quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ của dân tộc Việt Nam anh hùng.
Đi vào cuộc trường chinh chống Mỹ, cứu nước, hành trang - vũ khí sắc bén của con
người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh chính là niềm tin sắt son vào sự nghiệp cách mạng
do Đảng và Bác Hồ lựa chọn. Niềm tin ấy của các thế hệ người Việt Nam được hun đúc,

bồi đắp bằng sự quan tâm, chăm lo của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh; được hấp thu,
truyền thụ qua môi trường giáo dục xã hội chủ nghĩa, qua những biểu tượng, hình tượng
của con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức sâu sắc về giá trị của độc lập, tự
do, luôn sẵn sàng hy sinh, phấn đấu cho sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, thống nhất non
sông gấm vóc. Được dẫn dắt bởi đường lối kháng chiến đúng đắn, ý chí, nghị lực, quyết
tâm trong mỗi con người, mỗi tập thể, mỗi lực lượng thực sự là thứ vũ khí tinh thần có ý
nghĩa quyết định thành bại trên mỗi trận tuyến chống quân thù. Trên ý nghĩa đó, lực
lượng vận tải quân sự đường biển đã thể hiện một bản lĩnh chính trị vững vàng, tinh thần
chịu đựng gian khổ, hy sinh, sự mưu trí, dũng cảm hiếm có để hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ được giao. Không có bản lĩnh chính trị vững vàng thì không thể thực hiện được nhiệm
vụ gian khó đặt ra, nhất là trong buổi đầu hình thành lực lượng vận tải quân sự đường
biển, vấn đề soi đường, thông đường, tổ chức chuẩn bị phương tiện, bến bãi. Đó quả là
quá trình tìm tòi, khảo nghiệm công phu, đồng thời là sự thử thách ý chí, quyết tâm của
cả một tập thể, từ người chỉ huy cho đến thủy thủ, sự phối hợp ăn khớp giữa hậu phương
và tiền tuyến. Đường Hồ Chí Minh trên biển thì phải nói đến cả tuyến, bởi từ trăm sông,
trăm ngả, có ngõ, có đường, có đầu, có cuối mới hình thành nên một con đường hoàn
chỉnh. Không có tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, sự mưu trí, dũng cảm hiếm có thì
khó có thể thực hiện được cuộc vượt biển vào Nam với bao hiểm nguy rình rập. Trên
những con tàu nhỏ, trang thiết bị hạn chế, cán bộ, thủy thủ phải đối mặt với sóng to, gió
lớn, với sự ngăn chặn gắt gao của quân thù đòi hỏi phải có tinh thần chịu đựng gian khổ,
trong tình huống hiểm nghèo, phải chấp nhận hy sinh tính mạng để giữ bí mật của tuyến
đường. Do vị trí chiến lược hết sức quan trọng của Đường Hồ Chí Minh trên biển, đế
quốc Mỹ dùng mọi thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, với các loại vũ khí, thiết bị tối tân hiện
đại nhất của nền khoa học - công nghệ quân sự Mỹ để đánh phá, hòng hủy diệt, ngăn
chặn, cắt đứt tuyến đường tiếp viện của ta trên biển. Những con đường, các bến bãi đều
nằm trong các vùng kìm kẹp, lùng sục, truy quét, đánh phá ác liệt suốt đêm ngày của


địch. Trên con đường vận chuyển ấy, cán bộ, chiến sĩ Đoàn tàu không số với tinh thần
“Vì miền Nam ruột thịt” đã xác định quyết tâm, âm thầm hy sinh tình cảm gia đình và

bản thân, biết rằng ra đi là cảm tử, vẫn chấp nhận gian nguy, đương đầu với khó khăn thử
thách. Mỗi chuyến đi là một cuộc đấu trí căng thẳng, quyết liệt với kẻ thù, với thiên
nhiên, sóng gió. Và vượt lên tất cả là chiến thắng chính bản thân mình, đòi hỏi cao ý chí
kiên định, mưu trí, dũng cảm, sáng tạo và ý thức chấp hành kỷ luật nghiêm minh. Thời
đại Hồ Chí Minh đã tạo ra con người Việt Nam và chính con người Việt Nam đã viết nên
những trang sử hào hùng của thời đại Hồ Chí Minh. Thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước nói chung và thành công của công cuộc chi viện chiến trường bằng
Đường Hồ Chí Minh trên biển nói riêng thực sự là biểu trưng sinh động cho giá trị, phẩm
chất và hào khí bất khuất của con người Việt Nam. Đây chính là nhân tố trung tâm, quyết
định tạo nên sức mạnh phi thường để nhân dân Việt Nam đương đầu và đánh thắng quân
xâm lược Mỹ.
2.3. Là niềm tự hào, nguồn cổ vũ, động viên lớn lao đối với những cán bộ, chiến sĩ
trên những con “tàu không số” của bộ đội Hải quân và nhân dân các tỉnh duyên hải
nơi tuyến đường đi qua. Chiến công và thành tích vẻ vang của Đường Hồ Chí Minh
trên biển đã góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của sự nghiệp kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước, đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào, giải phóng miền Nam,
thống nhất Tổ quốc.
Nói tới đường Hồ Chí Minh trên biển còn phải nhắc tới các thế hệ cán bộ, chiến sĩ của
đoàn tàu không số luôn luôn trung thành vô hạn với Đảng, với nhân dân, nêu cao ý chí
quật cường, tinh thần mưu trí, sáng tạo, sẵn sàng xả thân chiến đấu hi sinh để hoàn thành
xuất sắc mọi nhiệm vụ được Trung ương, Bác Hồ và quân đội giao phó. Những con
người can trường trong đội ngũ cán bộ, thủy thủ của "Đoàn tàu không số" trên tuyến vận
tải quân sự Hồ Chí Minh trên biển, lúc đầu phần lớn quê ở các địa phương miền Nam tập
kết ra Bắc, một số vốn quen với nghề đi biển, chịu đựng được sóng gió, điều khiển tàu
chủ yếu bằng kinh nghiệm. Tuy nhiên, do yêu cầu nhiệm vụ, do quy mô vận chuyển phát
triển, nên trong thành phần đội ngũ sĩ quan, thủy thủ, nhân viên kỹ thuật của đoàn vận tải
sau này hầu hết được đào tạo cơ bản, là những đảng viên, đoàn viên, vừa có tri thức, sức
khỏe, có khả năng chịu đựng gian khổ, bản lĩnh cách mạng kiên cường, vừa có quyết tâm
cao, kinh nghiệm dày dặn. Đây chính là những cán bộ, chiến sĩ được đào tạo, rèn luyện,
trưởng thành trong các cơ quan, đơn vị, nhà trường trên miền Bắc, trở thành nguồn nhân

lực quan trọng đảm đương nhiệm vụ nặng nề mà Đảng và nhân dân giao phó. Trên những
chuyến "tàu không số", nhiều cán bộ chỉ huy, thuyền trưởng, chính trị viên, thuyền phó đã
thể hiện sự xử trí tài tình, mưu trí, điều khiển con tàu tiếp tục giữ vững hành trình vào
Nam và đối phó linh hoạt với các tình huống xảy ra. Nói tới đường Hồ Chí Minh trên


biển còn phải nhắc tới các thế hệ cán bộ, chiến sĩ của đoàn tàu không số luôn luôn trung
thành vô hạn với Đảng, với nhân dân, nêu cao ý chí quật cường, tinh thần mưu trí, sáng
tạo, sẵn sàng xả thân chiến đấu hi sinh để hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được Trung
ương, Bác Hồ và quân đội giao phó. Việc mở đường Hồ Chí Minh trên biển là một chủ
trương kiên quyết, táo bạo của Trung ương mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự
quyết định sáng suốt đó là kết quả của sự kết hợp về “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” và đã
mang lại những đóng góp vô cùng to lớn. Trong những năm tháng chống Mỹ cứu nước,
hàng ngàn tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh khác của Trung ương chi viện cho chiến
trường miền Nam qua đường Hồ Chí Minh trên biển đã đến nhiều địa phương dọc theo
duyên hải miền Trung đến tận mũi Cà Mau để tiếp sức cho cuộc kháng chiến. Thắng lợi
của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trang
vàng chói lọi, một biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của ý chí
“Không có gì quý hơn độc lập tự do”, của lòng dũng cảm, bản lĩnh và trí tuệ con người
Việt Nam. Chiến thắng đó còn đi vào lịch sử thế giới như một trong những chiến công vĩ
đại nhất của thế kỷ XX - một sự kiện có tầm vóc quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu
sắc. Có được thành quả cách mạng vĩ đại ấy, dân tộc ta phải trải qua những chặng đường
đấu tranh đầy gian nan, thử thách; đã kế thừa, phát triển lên một tầm cao mới truyền
thống yêu nước, ý chí quật cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam, giá trị văn hóa và nền
nghệ thuật quân sự đặc sắc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Thắng lợi mà dân tộc
ta giành được là sự hội tụ, kết tinh của nhiều nhân tố, trong đó Đường Hồ Chí Minh trên
bộ xuyên dãy Trường Sơn và Đường Hồ Chí Minh trên biển có vai trò quan trọng. Đây
thực sự là một sáng tạo độc đáo về tài thao lược và nghệ thuật chỉ đạo chiến tranh nhân
dân của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Quân ủy Trung ương trong cuộc đấu trí, đấu
lực với các âm mưu và thủ đoạn nham hiểm của kẻ thù, nhằm ngăn chặn sự chi viện sức

mạnh của hậu phương miền Bắc cho tiền tuyến miền Nam.
2.4. Là chiến trường của cuộc đấu trí, đấu lực quyết liệt của các lực lượng tham gia
vận tải và bảo đảm trên tuyến đường; âm mưu thủ đoạn cũng như thất bại của kẻ thù
nhằm tiêu diệt tuyến vận tải chiến lược quân sự trên Biển Đông; là sự độc đáo của
nghệ thuật quân sự Việt Nam nói chung, nghệ thuật quân sự Hải quân nói riêng trong
cuộc chiến đấu chống chiến tranh ngăn chặn của đế quốc Mỹ và tay sai.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, vận tải trên biển có những đặc thù khác
biệt và khó khăn hơn rất nhiều so với việc vận tải trên tuyến đường bộ Trường Sơn: điều
kiện thời tiết khắc nghiệt, địa bàn biển Đông vô cùng phức tạp (vừa trống trải, vừa nhiều
bãi ngầm, bãi cạn, chế độ thủy văn không ổn định), hơn nữa hệ thống bố phòng trên biển
của đối phương rất mạnh. Quân đội Mỹ huy động 40% lực lượng của Hạm đội 7 cùng
với lực lượng hải quân Việt Nam Cộng hòa thực hiện phong tỏa đường biển hòng cắt đứt


đường dây chi viện của Bắc Việt vào chiến trường phía Nam. Ngoài ra ở tuyến bờ và ở
tuyến xa bờ,người Mỹ đã huy động rất nhiều lực lượng được trang bị vũ khí hiện đại,
đóng rải rác trên khắp vùng biển để sẵn sàng tác chiến chống lại sự xâm nhập của các tàu
đối phương và hỗ trợ tác chiến cho lực lượng khác ở trên bộ khi cần thiết. Tàu chiến và
các máy bay tuần duyên của Mỹ luôn quần thảo, giám sát suốt ngày đêm dọc vùng biển
Việt Nam.Ta có thể thấy được âm mưu và thủ đoạn đáng gờm của kẻ thù muốn tiêu diệt
tuyến vận tải chiến lược quân sự trên Biển Đông.
Đặt trong bối cảnh lực lượng, trang thiết bị thời bấy giờ của Hải quân Nhân dân Việt
Nam còn nhiều hạn chế, bất bợi trong tác chiến (nhất là trong tác chiến xa bờ), vấn đề
vận chuyển hàng hóa bằng đường biển chi viện cho chiến trường miền Nam là cả một
thách thức lớn - một bài toán hóc búa không dễ tìm ra lời giải.
Thực tế, trên con đường Hồ Chí Minh trên biển, đã có một cuộc đấu trí, đấu lực vô
cùng căng thẳng, quyết liệt giữ các lực lượng hải quân Nhân dân Việt Nam với lực lượng
Hải quân Mỹ và hải quân Việt Nam Cộng hòa dưới sự chỉ dắt của rất nhiều chuyên gia
quân sự Mỹ “sừng sỏ”.
Trong cuộc đấu trí này, các lực lượng của Hải quân Nhân dân Việt Nam bằng bản lĩnh,

trí tuệ, sự dũng cảm, mưu trí và một nghệ thuật tác chiến đầy khéo léo, linh hoạt đã luôn
nêu cao, triệt để vận dụng và phát huy một cách hết sức sáng tạo truyền thống đánh giặc
giữ nước của ông cha với nghệ thuật quân sự độc đáo: lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch
nhiều; bí mật, triệt để khai thác sơ hở, đánh vào chỗ đối phương không ngờ tới để giành
chiến thắng.
2.5. Vai trò to lớn của Đường Hồ Chí Minh trên biển trong việc chi viện sức người,
sức của cho chiến trường miền Nam. Sự phối hợp của quân và dân cả nước, hậu
phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa, của các đơn vị, địa phương dọc miền duyên
hải trong chiến đấu, bảo vệ và phát triển Đường Hồ Chí Minh trên biển, tinh thần
chiến đấu, hy sinh cao cả của quân và dân ta, đặc biệt là của bộ đội Hải quân và nhân
dân các tỉnh nơi tuyến đường đi qua trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam,
thống nhất Tổ quốc.
Đường Hồ Chí Minh trên biển đã làm tốt vai trò tiếp viện kịp thời cho chiến trường
miền Nam, góp công góp sức cùng quân dân cả nước làm nên thắng lợi của chiến dịch
mùa xuân năm 1975 giải phóng miền Nam thống nhất đất nước
Một là, đường Hồ Chí Minh viện chiến lược, góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước.


Trong vòng hai tháng, các tàu này đã chuyển vào Nam 111 tấn vũ khí, cập các bến đã
chuẩn bị của tỉnh Cà Mau. Vượt qua những thử thách ác liệt, gian nan, đấu trí và đấu lực
căng thẳng với địch và sóng gió biển khơi, các chiến sĩ Hải quân đã hoàn thành nhiệm vụ
xuất sắc thời kỳ đầu tiếp tế vũ khí cho cách mạng miền Nam, góp phần rất quan trọng
tăng cường nhanh chóng sức mạnh chiến đấu cho lực lượng vũ trang giải phóng. Công
việc vận chuyển vũ khí vào chiến trường Nam Bộ tạm ổn, tuy số lượng chưa nhiều,
nhưng đã góp phần quan trọng giúp quân và dân các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long phát
triển lực lượng vũ trang, tạo được thế mới, lực mới, đánh thắng địch nhiều trận, củng cố
và mở rộng vùng giải phóng. Thành công của những chuyến vũ khí đã trực tiếp góp phần
đẩy mạnh chiến tranh nhân dân, xây dựng và phát triển khối chủ lực ở chiến trường Nam
Bộ, cực Nam Trung Bộ; góp phần làm nên những chiến thắng oanh liệt của quân dân ta ở

Ấp Bắc, Đầm Dơi, Cái Nước, Chà Là, Vạn Tường, Ba Gia, Bình Giã, Đồng Xoài… Có
thể thấy, hiệu quả vận chuyển của tuyến chi viện chiến lược biển đã tạo nên thế trận chiến
tranh nhân dân rộng khắp trên tất cả các vùng chiến lược, các địa bàn chiến lược ở miền
Nam, góp phần tạo nên sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của quân dân ta. Đặc biệt, sự
xuất hiện kịp thời những vũ khí tương đối hiện đại, có tính năng chiến đấu cao đã làm
thay đổi cách đánh của quân và dân ta, thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch.
Hai là, tuyến chi viện chiến lược trên biển bảo đảm thời gian nhanh hơn, kịp thời hơn,
vũ khí trang bị đồng bộ và đạt hiệu quả cao và có thể vận chuyển được những loại hàng
“đặc biệt”
Nếu như vận chuyển đường bộ phải qua nhiều cung, chặng, qua nhiều lực lượng
phương tiện... phải mất hàng tháng trời mới đến đích. Thì vận chuyển bằng đường biển
tuy gian nan, nguy hiểm vì phải độc lập đối phó với địch và sóng gió, nhưng nếu vượt
qua sự ngăn chặn của địch thì chỉ khoảng 5-6 ngày đã vào tới chiến trường Tây Nam Bộ.
Những loại hàng đặc biệt như Đó là những ngoại tệ mạnh, những loại máy móc thiết bị y
tế quý hiếm, những hóa chất đặc biệt... Và đặc biệt hơn cả là đã đưa đón an toàn tuyệt đối
hàng trăm cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước, quân đội và các chuyên gia đầu ngành
tăng cường cho chiến trường như các đồng chí: Lê Đức Anh , đồng chí Võ Văn Kiệt,
Nguyễn Thiện Thành, Nguyễn Thế Bôn…
Bên cạnh đó sự phối hợp của quân và dân cả nước đã góp phần làm nên thắng lợi.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta; là thành quả tổng hợp của nhiều nhân tố, trong đó nhân tố quan trọng
và quyết định nhất là sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình, đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Đó còn là thắng lợi của sự đoàn kết, phối
hợp, hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ giữa Quân đội nhân dân và Công an nhân dân Việt


Nam, đã trở thành truyền thống quý báu của lực lượng vũ trang cách mạng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2.6. Đường Hồ Chí Minh trên biển là một nét độc đáo, đặc sắc, sáng tạo của đường
lối chiến tranh nhân dân, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng cộng sản Việt Nam

và Chủ tịch Hồ Chí Minh; trở thành biểu tượng tự hào của cả dân tộc Việt Nam, hiện
thân của ý chí khát vọng độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc; là trí tuệ, ý chí quyết
chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước; trong đó cán bộ, chiến sỹ Hải quân nhân dân Việt Nam, mà trực
tiếp là Đoàn 759 trước đây, Đoàn vận tải quân sự 125 và Lữ đoàn 125 ngày nay là lực
lượng nòng cốt.
Đường Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành một huyền thoại có thật, một kỳ tích của
dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đó không chỉ là phương thức chi
viện mới hết sức quan trọng, trực tiếp cho các chiến trường ven biển miền Nam, mà còn
là một sáng tạo độc đáo của chiến tranh nhân dân trong thời đại Hồ Chí Minh.
Độc đáo bởi, Đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện tầm nhìn chiến lược của Quân uỷ
Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cùng với Đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường
Sơn, Đường Hồ Chí Minh trên biển tạo nên hai tuyến vận tải chiến lược, bổ sung, hỗ trợ
cho nhau, giải quyết nhu cầu của hai hướng chiến lược của chiến trường miền Nam, tạo
nên hệ thống mạch máu giao thông chủ đạo và hoàn chỉnh chi viện kịp thời, hiệu quả cho
miền Nam đánh thắng quân thù.
Thêm vào đó, nó ra đời vào thời điểm khó khăn, gian khổ, ác liệt nhất của cuộc kháng
chiến chống Mỹ. Trong khi địch được trang bị các loại vũ khí, phương tiện hiện đại, tối
tân, chúng ta chỉ có những loại tàu thuyền nhỏ bé, thô sơ, nhưng với tầm nhìn, bản lĩnh và
tài thao lược của Đảng, ý chí và khát vọng độc lập tự do, thống nhất đất nước của toàn
dân tộc, chúng ta đã biết dựa vào khả năng to lớn của nhân dân để vượt qua mọi khó
khăn, từng bước đánh bại các âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ chi viện cho chiến trường miền Nam trong những thời điểm khó khăn ác liệt nhất.
Hơn nữa Đường Hồ Chí Minh trên biển đã quy tụ được sức mạnh của toàn dân tộc, với
quyết tâm sắt đá không gì lay chuyển, đó là dám đánh, biết đánh và biết thắng Mỹ. Trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ, Quân chủng Hải quân đã nắm chắc tình hình, nhiệm vụ,
chủ động xây dựng lực lượng, chuẩn bị phương tiện, huấn luyện chu đáo, kể cả các lực
lượng hiệp đồng tác chiến; và chỉ huy thống nhất, quyết đoán, linh hoạt, liên tục, bí mật;
triệt để tận dụng thời cơ, đa dạng hóa phương pháp vận tải để chuyển hóa thế trận, làm
chủ tình huống.



Và độc đáo cũng bởi vì đây là con đường và phương pháp vận chuyển độc nhất vô nhị
trong lịch sử chiến tranh thế giới. Nó làm cho đối phương kinh ngạc, bất ngờ và không
thể tưởng tượng được về sự có mặt, quy mô, sự dũng cảm và tính sáng tạo vô song của
con đường, những con tàu và những con người tham gia tuyến đường.
Sự sáng tạo thể hiện ở việc mở đường vận tải trên biển đúng thời cơ; sử dụng tàu giả
dạng vận tải, tàu đánh cá; kết hợp hoạt động bí mật và công khai; tàu có thể xuất phát từ
nhiều bến đi (kể cả ở nước ngoài) và cập nhiều bến đến; dẫn tàu đi trên nhiều tuyến
đường khác nhau, có giai đoạn đi vòng ra biển xa, vùng biển quốc tế; địch phong tỏa
đường trong ta đi đường ngoài, địch ngăn chặn đường dài ta đi phân đoạn; địch bám đuôi,
ta đi thẳng ra vùng biển quốc tế; khi địch phát hiện, áp sát tấn công hoặc cướp tàu, ta
đánh trả quyết liệt, có lúc phải phá hủy tàu và hàng để giữ bí mật nhiệm vụ và con đường.
2.7. Thời gian sẽ qua đi, nhưng huyền thoại về đường Hồ Chí Minh trên biển mãi mãi
sáng ngời trong trang sử oanh liệt của dân tộc như một thiên anh hùng ca bất tử, tô
thắm thêm truyền thống đánh giặc, giữ nước của dân tộc, Quân đội và Quân chủng
Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng; tiếp thêm sức mạnh cho mọi thế hệ phấn đấu
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đường Hồ Chí Minh trên biển đã rở thành bản anh hùng ca bất tử, một bộ phận quan
trọng trong hệ thống vận tải quân sự chiến lược góp phần vào thắng lợi vĩ đại của cuộc
kháng chiễn chống Mỹ cứu nước giải phóng miền Nam thống nhất tổ quốc, xây dựng nền
truyền thông vẻ vang của hải quân nhân dân Việt Nam. Những chiến công của tuyến
đường huyền thoại trên biển chính là những kỳ tích lịch sử được làm nên bởi trí tuệ, long
yêu nước, sức mạnh của ý chí “không có gì quý hơn độc lập tự do” và khát vọng hòa
bình, khát vọng về ngày mai tươi sáng. Âm thầm lặng lẽ chở nặng nghĩa tình, vũ khí
trang bị từ miền Bắc đến với miền Nam, đường mòn Hồ Chí Minh trên biển cũng không
tránh nổi những tổn thất hi sinh. Đó là việc bắt buộc cho nổ tàu 143 ở Vũng Rô (2/1965),
có hàng chục chuyễn tàu xuất bến phải quay về. Từ năm 1961 đến 1975, cán bộ, chiến sĩ
Đoàn 125 vượt qua hơn 20 cơn bão lớn, vượt qua hàng trăm cuộc vây ráp của kẻ thù, huy
động được gần 2000 lượt chiếc tàu, đi gần 4 triệu hải lý, vận chuyển gần 8 vạn lượt

người, trên 15 vạn tấn vũ khí, đạn dược và hàng vạn tấn hàng hóa, góp phần chi viện đắc
lực cho nhiều hướng chiến trường, nhiều chiến dịch lớn, nhiều địa bàn trọng yếu mà
đường bộ chưa với tới được. Trong số đó có 8 con tàu đã phải tự phá hủy để xóa dấu vết
nhằm đảm bảo bí mật tuyệt đối của tuyến đường huyết mạch. Trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ đặc biệt này “đã có 117 cán bộ chiến sĩ hi sinh quên mình trên biển”. Tên tuổi
của các anh là những bài ca đi cùng năm tháng, các anh mãi mãi là những người lính hải
quân trên những con tàu đi về phía vầng dương.


Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã đánh giá: “Năm tháng sẽ qua đi, nhưng chiến công anh hùng
và sự hy sinh cao cả của các lực lượng mở đường vận tải chiến lược mang tên Bác Hồ
kính yêu trên biển Đông, của những “con tàu không số” của quân và dân các bến bãi, làm
nhiệm vụ chi viện cho chiến trường miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước vĩ đại sẽ mãi mãi đi vào lịch sử đấu tranh anh dũng của dân tộc ta.

3. Giá trị lịch sử và giá trị thực tại của đường mòn Hồ Chí Minh trên biển
ngày nay.
3.1 Giá trị của đường Hồ Chí Minh trên biển trong lịch sử
Chúng ta không thể phủ nhận vai trò của Đường Mòn Hồ Chí Minh Trên Biển trong
lịch sử đấu tranh của cách mạng Việt Nam. Bởi lẽ nó cho chúng ta thấy được tầm quan
trọng của tuyến đường trong quá trình đấu tranh của nhân dân ta. Cụ thể:
-

Ở giai đoạn 1(1962- 1965): Đường Hồ Chí Minh trên biển làm nhiệm vụ chi viện
cho chiến trường và góp phần đánh thắng chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của
Mỹ:

+ Tổ chức 166 chuyến tài vào 19 bến của 9 tỉnh (trong đó có 6 tỉnh đi trinh sát).
+ Vận chuyển vũ khí hàng hóa (5712 tấn).
+ Đưa đón hàng ngàn lượt người.

-

Ở giai đoạn 2 (1965- 1972): Đường Hồ Chí Minh trên biển vượt qua thử thách ác
liệt, khắc phục khó khăn và tiếp tục vận chuyển chi viện cho chiến trường giai
đoạn này, góp phần đánh thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa
chiến tranh” của đế quốc Mỹ:

+ Tổ chức 411 chuyến tàu
+ Vận chuyển vũ khí, hàng hóa (50 ngàn tấn).
+ Đưa đón 2042 lượt người.
-

-

Đặc biệt, đoàn 371 đã dùng thuyền gỗ vận chuyển hợp pháp ven biển từ Nam ra
Bắc và từ Bắc vào Nam 37 chuyến, Vận chuyển 620 tấn vũ khí, hàng hóa vào quân
khu IX.
Từ tháng 11/1968 đến tháng 6/1969, Đoàn tổ chức 598 chuyến tàu vận chuyển
gián tiếp 34774 tấn vuc khí, hàng hóa cho chiến trường.
Đường Hồ Chí Minh trên biển lại tiêp tục tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, giải
phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (1973- 1975). Cụ thể: vận
chuyển tham gia chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975.


+ 143 chiếc tàu ra khơi, chuyên chở 8721 tấn vũ khí, 50 xe tăng và pháo, vận chuyển
18741 cán bộ, chiến sĩ đi thi đấu, hành trình 65721 hải lý.
+ Đánh chìm 1 tàu PCF, đánh hỏng nặng 3 táu khác, gọi hàng 1 tàu, bắt sống 42 tù
binh.
+ Tham gia giải phóng quần đảo Trường Sa, gồm mấy Sông Tử Tây, Nam Yết, Sơn
Ca, Sinh Tồn, Trường Sa.

+ Tham gia giải phóng Cù Lao Thu.
+ Tham gia giải phóng một số đảo ở vùng biển Tây Nam: Phó Quốc, Thổ Chu, Pô-lôvai.
+ Chở hơn 1000 chiến sỹ cách mạng ở nhà tù Côn Đảo trở về.
+ Tham gia tiếp quản một số quân cảng.
Những đóng góp trên không thể không kể đến hoạt động của những đoàn tàu không
số ngày đếm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nước ta trong giai đoạn
này.
Qua những thành tựu nêu trên để chúng ta thấy được rằng đường Hồ Chí Minh trên
biển đã đi vào huyền thoại chống Mỹ cứu nước của nước ta, của dân tộc ta. Nó mang
một giá trị to lớn, không thể thành công, thất bại hay chiến thắng là nhờ vào chính con
đường này. Đồng thời qua đó, Đường Hồ Chí Minh cũng để lại những giá trị cao đẹp
như sau:
-

-

Khẳng định được sự lanh đạo tài tình của ban chấp hành TW Đảng.
Là nơi hội tụ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thể hiện sức mạnh của
dân tộc Việt Nam – Nơi tỏa sáng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.
Thể hiện được sự sáng tạo độc đáo và đặc sắc của đường lỗi đấu tranh của nhân
dân ta. Nghệ thuật quân sự của Việt Nam nói chung cũng như nghệ thuật quân sự
Hải quân nói riêng trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh ngăn chặn của đế quốc
Mỹ và tay sai.
Là chiến trường của cuộc đấu trí, đấu lực quyết liệt của các lực lượng tham gia vận
tải và bảo đảm trên tuyến đường.
Đồng thới, giá trị của đường Hồ Chí Minh trên biển là một giá trị vĩnh cửu – là bài
ca thiên hùng ca bất tử, thể hiện truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc ta
trên mọi mặt trận.

Chúng ta có thể hình dung của đấu tranh chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta trong

gia đoạn từ 1962 đến 1975 mà không có con đường đấu tranh trên biển, không có


những con tàu không số hoạt động ngày đêm đối mặt với tử thần thì sẽ không có chiến
thắng trong lịch sử. Đồng thời, Sự ra đời của Đường Hồ Chí Minh trên biển cùng với
những chiến công của lực lượng Hải quân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước đã chứng minh về tầm quan trọng của biển, đảo đối với sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn cách mạng mới, sự
nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta diễn ra trong bối cảnh tình
hình thế giới và khu vực có nhiều biến đổi to lớn và sâu sắc, vừa thuận lợi, vừa có
những thách thức mới. Xu thế toàn cầu hóa đang tác động sâu sắc, toàn diện trên bình
diện quốc tế, đồng thời đặt ra yêu cầu khách quan trước mỗi quốc gia. Khu vực châu
Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, vẫn sẽ là khu vực phát triển
năng động, nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển
đảo ngày càng phức tạp. Nhiệm vụ của Hải quân nhân dân Việt Nam là tiếp tục làm
nòng cốt cùng với toàn quân, toàn dân bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền toàn vẹn
lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình ổn định để phát triển kinh tế, xã hội và quan
hệ hữu nghị với các nước láng giềng và trên thế giới, xứng đáng là lực lượng nòng cốt
làm nên con đường Hồ Chí Minh huyền thoại trên biển trước đây cũng như hiện nay.

3.2. Giá trị thực tiễn của đường mòn Hồ Chí Minh trên biển ngày nay.
Đoàn 125 Hải quân với tên gọi "Đoàn tàu không số" là lực lượng trực tiếp vận chuyển
trên con đường biển mang tên Bác đã 2 lần được Đảng, Nhà nước tuyên dương danh hiệu
"Đơn vị Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân", xây đắp nên truyền thống vẻ vang
"Mưu trí dũng cảm, khắc phục khó khăn, vận tải đường biển, chi viện chiến trường, quyết
chiến quyết thắng". Ngày 23/10 hằng năm trở thành ngày truyền thống mở “Đường Hồ
Chí Minh trên biển” và thành lập Lữ đoàn 125 Hải quân.
Những bài học kinh nghiệm của Đường Hồ Chí Minh trên biển đến nay vẫn còn nguyên
giá trị. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi Quân chủng Hải quân đảm đương sứ mệnh
là lực lượng nòng cốt và trực tiếp trong quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền vùng biển,

đảo, thềm lục địa của Tổ quốc.
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo vệ chủ quyền biển, đảo
thiêng liêng của Tổ quốc, các lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam đã phấn đấu thực
hiện có hiệu quả các nhiệm vụ. Đặc biệt, lực lượng vận tải quân sự đường biển của Hải
quân đã phát huy truyền thống của “Đoàn tàu không số” vượt qua khó khăn, thử thách,
mưu trí, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu vận chuyển trong giai đoạn mới, luôn hoàn thành
nhiệm vụ vận chuyển, góp phần xây dựng, bảo vệ biển, đảo vững mạnh. Bên cạnh đó, các
tàu hải quân còn thực hiện tốt nhiệm vụ phòng chống bão, lụt, cứu hộ, cứu nạn trên biển,


giúp đỡ ngư dân, góp phần giữ vững truyền thống tốt đẹp của quân chủng Hải quân anh
hùng, sáng ngời phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”- người chiến sĩ Hải quân trong lòng nhân
dân.
Lịch sử Đường Hồ Chí Minh trên biển thực sự là minh chứng sống động về tầm quan
trọng của chiến lược biển trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong điều kiện
hiện nay, khi các nước trên thế giới đang bước vào cuộc chạy đua vươn ra biển, nghiên
cứu thăm dò, khai thác các nguồn lợi từ biển để làm giàu thì trách nhiệm của lực lượng
vũ trang, mà trực tiếp là lực lượng Hải quân ngày càng nặng nề, phức tạp và khó khăn
hơn. Dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương 4 về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm
2020”, nhất là những chủ trương nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, gắn với quốc
phòng, an ninh và hợp tác quốc tế, những chiến công và bài học kinh nghiệm về hoạt
động của Đường Hồ Chí Minh trên biển sẽ tiếp tục được nhân lên gấp bội.
Đối với quân chủng Hải quân, bên cạnh vai trò là lực lượng nòng cốt bảo vệ chủ quyền
biển đảo thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc, Hải quân nhân dân Việt Nam đã phát huy
những lợi thế của biển, đã kết hợp giữa an ninh quốc phòng với phát triển kinh tế. Trong
những năm qua, Quân chủng Hải Quân là đơn vị đi đầu phát triển một số lĩnh vực của
kinh tế biển, triệt để tận dụng mọi khả năng (nhất là con người, cơ sở vật chất, phương
tiện hiện có), trong điều kiện cho phép, đẩy mạnh các hoạt động lao động sản xuất, kinh
doanh trong những lĩnh vực, ngành nghề có thế mạnh, như: Dịch vụ cảng biển, vận tải
biển, xây dựng các công trình biển.

Điển hình như Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn với lợi thế và những trụ cột hết sức
khoa học, hiệu quả đã đưa dịch vụ khai thác cảng biển vào trong Top 40 cảng biển lớn
nhất thế giới và chiếm tới 80% thị phần container của các cảng biển phía Nam, điều này
cho thấy sự kết hợp giữa quốc phòng và kinh tế là hết sức hiệu quả, đúng đắn. Mặt khác,
phát triển ngành vận tải biển nội địa, dịch vụ logictic tạo thành những điểm mạnh của
ngành kinh tế biển hiện nay. Bên cạnh đó lực lượng Hải quân còn rất chú trọng đề xuất
hiện đại hóa phát triển các khu kinh tế quốc phòng trên biển, để không những bảo vệ tốt
mà chúng ta còn tạo điều kiện cho ngư dân cho nhân dân định cư sinh sống, làm ăn lâu
dài trên vùng biển, nhất là các vùng biển ở xa. Quân chủng Hải quân còn thực hiện tốt
nhiệm vụ tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn tàu thuyền, giúp đỡ nhân dân khi bị thương bị nạn,
khi gặp khó khăn, thiên tai, bão tố trên biển.
Đường Hồ Chí Minh trên biển đã đi vào lịch sử, những bến tàu trên tuyến đường này
như bến tàu không số K15 Đồ Sơn (Hải Phòng), bến tàu không số Lộc An (Bà Rịa –
Vũng Tàu), bến tàu không số Vũng Rô (Phú Yên), bến Vàm Lũng (Cà Mau) đã trở thành
những khu di tích lịch sử thu hút nhiều du khách và một số nơi đã được Bộ Văn hóa, Thể


thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử Quốc gia. Tại Đồ Sơn (Hải Phòng) có khu di
tích cảng quân sự bí mật K15 đánh dấu cột mốc Hải lý đầu tiên của đường Hồ Chí Minh
trên biển, với tượng đài “Bến Tàu không số” ở thung lung Xanh dưới chân đồi Nghinh
Phong. Tại Cà Mau, tượng đài chiến thắng Đường Hồ Chí Minh trên biển đã được xây
dựng tại Vàm Lũng, xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển. Ngoài ra, khu tượng đài còn có nhà
trưng bày truyền thống lịch sử để du khách tìm hiểu về con đường huyền thoại này.

C. Kết luận
Cùng với Ðường Hồ Chí Minh xuyên Trường Sơn, Ðường Hồ Chí Minh trên biển là
hiện thân của sự kết nối bền vững hai miền Nam-Bắc; sự gắn bó chặt chẽ giữa hậu
phương lớn với tiền tuyến lớn. Ðó thật sự là biểu hiện sinh động nhất của chủ nghĩa anh
hùng cách mạng và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc vì mục tiêu chung giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước.

Chúng ta mãi mãi tự hào về Ðường Hồ Chí Minh trên biển - con đường đã đồng hành
cùng với đường mòn xuyên dãy Trường Sơn, trở thành "huyết mạch" hết sức trọng yếu
chi viện cho chiến trường để quân và dân ta đánh thắng kẻ thù xâm lược, hoàn thành sự
nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Hai con đường chiến lược trên bộ và
trên biển mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại mãi mãi là dấu ấn sâu đậm trong trang
lịch sử hào hùng, vẻ vang của dân tộc ta.
Từ hoạt động thực tiễn phong phú, sinh động, rực rỡ chiến công của "Ðường Hồ Chí
Minh trên biển", trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Hải quân nhân dân Việt
Nam đã và đang kế thừa, vận dụng, phát huy nhiều bài học kinh nghiệm quý báu về công
tác tổ chức xây dựng lực lượng, giáo dục, huấn luyện; phối hợp hiệp đồng và phát triển
nghệ thuật vận tải quân sự đường biển; nghiên cứu âm mưu thủ đoạn và khả năng chống
phá của địch...

Bài thảo luận của nhóm 11 đến đây là kết thúc. Xin cảm ơn cô giáo và cả lớp đã cùng
lắng nghe bài thuyết trình của nhóm em.


D. Tài liệu tham khảo
Giáo trình “Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam”


×