CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ KẾ THỪA QUỐC GIA TRONG LUẬT
QUỐC TẾ
1. Khái quát chung về kế thừa quốc gia
1.1.
Khái niệm quốc gia và kế thừa quốc gia
1.1.1. Khái niệm quốc gia và yếu tố cấu thành quốc gia
Quốc gia là khái niệm để chỉ về một lãnh thổ có chủ quyền, một chính quyền và những con
người của các dân tộc có trên lãnh thổ đó; họ gắn bó với nhau bằng luật pháp, quyền lợi, văn hóa, tôn
giáo, ngôn ngữ, chữ viết qua quá trình lịch sử lập quốc; cùng chịu sự chi phối của chính quyền, chia
sẻ quá khứ cũng như hiện tại và cùng nhau xây dựng một tương lai chung trên vùng lãnh thổ có chủ
quyền.
Xét về phương diện công pháp quốc tế, quốc gia là chủ thể pháp lý bao gồm các yếu tố cấu
thành như: lãnh thổ, dân cư ổn định, có hệ thống chính quyền và có chủ quyền quốc gia. Quốc gia là
chủ thể căn bản nhất của Luật quốc tế.
1.1.2. Khái niệm kế thừa quốc gia
Theo Điểm b Khoản 1 Điều 2 Công ước Viên 1978:“Sự kế thừa của quốc gia là thuật ngữ dùng
để chỉ sự thay thế của một quốc gia này cho một quốc gia khác trong việc gánh chịu trách nhiệm vê
quan hệ quốc tế đối với lãnh thổ nào đó”.
Theo Từ điển Luật quốc tế xuất bản tại Mátxcơva năm 1982 thì “Kế thừa quốc gia là việc dịch
chuyển các quyên và nghĩa vụ của một quốc gia này cho một quốc gia khác”.
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ KẾ THỪA QUỐC GIA VIỆT NAM TỪ ĐẦU THỂ KỶ XX ĐẾN
NAY
Từ đầu thế kỉ XX đến nay Việt Nam đã trải qua các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc,
bảo vệ đất nước, các cuộc cách mạng xã hội, … dẫn đến những biến đổi quan trọng trong xã hội Việt
Nam, thậm chí là thay đổi tư cách chủ thể của đất nước trên trường quốc tế. Sự thay đổi tư cách chủ
thể đó (kế thừa quốc gia) được đặt ra trong những hoàn cảnh đặc biệt của đất nước trong tiến trình lịch
sử và được biểu hiện ở những giai đoạn lịch sử nhất định.
1. Giai đoạn đầu thế kỷ XX – năm 1945
1.1.
Sơ lược sự kiện lịch sử
Vào đầu thế kỷ XX, Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ (1914) nhằm lập lại trật tự thế giới
mới. Theo Báo dư luận tháng 8/1914 toàn quyền Đông Dương đã tuyên bố: “Nhiệm vụ chủ yếu của
Đông Dương là phải cung cấp cho chính quốc tối đa nhân lực, vật lực, tài lực” đã chứng tỏ ý đồ của
Pháp đối với kinh tế đối với Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng là: vơ vét của cải để gánh
đỡ những tổn thất và thiếu hụt của Pháp trong chiến tranh. Và chính sách thống trị của Pháp đã khiến
1
cho dân chúng Đông Dương hết sức phẫn nộ. Mặc dù sự tác động của chiến tranh và những chính
sách khai thác, bóc lột ráo riết của thực Pháp đã làm cho nền kinh tế, xã hội Việt Nam có nhiều
chuyển biến, song nó không đủ để tạo ra một bước ngoặt lớn đối với phong trào yêu nước chống Pháp
của nhân dân ta.
Sự bế tắc về đường lối đã đòi hỏi sự ra đời của những tổ chức đóng vai trò lãnh đạo. Từ năm
1925 – 1930, Việt Nam lần lượt xuất hiện các tổ chức cách mạng hoạt động song song với nhau. Đó là
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (6/1925), Tân việt cách mạng đảng (7/1928), Việt Nam quốc dân
Đảng (12/1927); các tổ chức cộng sản năm 1929 Bắc, Trung, Nam Kỳ.... và đặc biệt là Đảng Cộng sản
Việt Nam từ việc hợp nhất các tổ chức cộng sản năm 1929 (2/1930). Đây là sự chuẩn bị tất yếu đầu
tiên có tính quyết định cho những bước phát triển nhảy vọt mới trong lịch sử phát triển của dân tộc
Việt Nam ta. Nó chứng tỏ giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức mạnh của thời đại làm nên
những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu
tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, thực dân Pháp mất quyền Đông Dương. Ngày 11/3, vua
Bảo Đại tuyên bố chấm dứt chế độ bảo hộ của Pháp đối với Việt Nam. Với sự ủng hộ của nhóm thân
Nhật, Trần Trọng Kim thành lập nội các đầu tiên của nước Việt Nam độc lập. Nhưng trên thực tế, nền
độc lập Việt Nam chỉ là trên giấy tờ.
Từ ngày 13 đến ngày 15-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng cộng sản Đông Dương họp tại
Tân Trào (Tuyên Quang) nhận định cơ hội cho nhân dân Việt Nam giành độc lập đã tới, những điều
kiện cho cuộc khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi. Và ngay trong đêm 13-8-1945, Uỷ ban khởi
nghĩa toàn quốc đã gửi Quân lệnh số 1 cho đồng bào chiến sĩ cả nước nhanh chóng vùng dậy giành
quyền độc lập.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hơn 20 triệu nhân dân Việt Nam từ Bắc đến Nam đã đồng loạt
vùng dậy tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa, giải phóng toàn bộ đất nước. Chỉ trong vòng 12 ngày đêm
(từ ngày 13 đến ngày 25) trên đất nước Việt Nam, chính quyền của bọn đế quốc và phong kiến tay sai
thống trị gần một trăm năm đã bị dập tan và chế độ quân chủ tồn tại hàng ngàn năm đã bị xoá bỏ vĩnh
viễn, chế độ thuộc địa nửa phong kiến sụp đổ.
Cách mạng Tháng Tám (1945) thành công, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt
Nam – Kỷ nguyên của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Với cách mạng tháng Tám, nhân dân Việt
Nam đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân, đế quốc, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà –
Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội),
trước cuộc mít tinh lớn của hàng chục vạn nhân dân đủ các tầng lớp thủ đô và các vùng lân cận, Chủ
2
tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố với toàn
thể quốc dân và thế giới: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời”
Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đứng lên làm chủ đất nước,
làm chủ vận mệnh của mình. Chính cuộc cách mạng xã hội này đã đặt ra vấn đề về kế thừa quốc gia
từ tay thực dân, đế quốc.
1.2.
Kế thừa quốc gia ở Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX – năm 1945
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập sau cách mạng tháng Tám năm 1945 được
kế thừa toàn bộ lãnh thổ, ranh giới hành chính giữa các xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Ai Lao được hai
nước Việt Nam – Lào thỏa thuận là đường biên giới quốc gia.
Quốc tịch công dân vẫn không thay đổi.
Vê tài sản, Việt Nam kế thừa toàn bộ tài sản trong phạm vi lãnh thổ và tài sản nước ngoài có
nguồn gốc từ Việt Nam sau khi giành được độc lập: tài sản còn lại trong phạm vi lãnh thổ là thuộc địa,
tài sản trong phạm vi lãnh thổ thuộc chủ quyền của triều đình phong kiến và tài sản từ nước ngoài có
nguồn gốc từ lãnh thổ này theo “Sắc lệnh của Chủ tịch nước” số ngày 3/10/1945 – Chủ tịch lâm thời
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà:
“Nay bãi bỏ tất cả các công sở và các cơ quan trước thuộc Phủ Toàn quyền Đông Dương (các
Sở lớn chung cho toàn hạt Đông Dương và các Sở phụ thuộc Phủ Toàn quyền) đã thiết lập hoặc Hà
Nội, hoặc Sài Gòn, hoặc Đà Lạt, hoặc các nơi khác thuộc địa hạt Bắc bộ, Trung bộ và Nam bộ nước
Việt Nam.Những bất động sản và động sản (dinh thự, nhà cửa, của cải, đồ đạc, hàng hoá, khí cụ, tài
liệu, đồ dùng phòng giấy, v.v...) của tất cả những công sở kể trên đều phải giữ nguyên vẹn và chuyển
giao, cùng với những nhân viên hiện tòng sự tại đấy, sang các Bộ của Chính phủ lâm thời Việt Nam...”
Vê kế thừa điêu ước quốc tế, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có quyền kế thừa quốc gia theo
những quy chế pháp lý quốc tế. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã nêu quan điểm chính thức của mình
về các điều ước đang có hiệu lực vào thời điểm kế thừa với tư cách là một quốc gia vừa mới giành độc
lập và được ghi nhận trong Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945: “Bởi thế cho nên, chúng tôi, lâm thời Chính
phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp,
xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp
trên đất nước Việt Nam”.
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cũng từ chối các quyền và nghĩa vụ của nhà nước phong kiến
trước đó vì nó mâu thuẫn với bản chất của nhà nước mới. Tuy nhiên Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
vẫn tôn trong các quy định trong các điều ước về lãnh thổ của nhà nước phong kiến.
3
Vê quy chế thành viên, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phải thiết lập lại tư cách chủ thể và
có thể được kết nạp lại hoặc không. Liên Hợp Quốc đã giải quyết vấn đề kế thừa đó bằng cách kết nạp
quốc gia mới giành được độc lập vào tổ chức của mình.
Với mong muốn trở thành thành viên chính thức của tổ chức Liên Hợp Quốc, ngay từ những
ngày đầu lập nước, ngoại giao đa phương đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, coi trọng như một
mũi tiến công sắc bén trên mặt trận tổng hợp đấu tranh vì độc lập dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nhân danh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nộp đơn xin gia nhập Liên Hợp quốc nhưng do tương
quan lực lượng và trên thực tế khi đó, Việt Nam chưa được quốc gia nào trên thế giới công nhận nên
việc gia nhập Liên Hợp quốc chưa thể thực hiện được.
Mặc dù các yếu tố chính trị và lịch sử chưa cho phép Việt Nam có thể sớm gia nhập Liên Hợp
quốc, nhưng cuộc đấu tranh chính nghĩa và anh hùng của nhân dân Việt Nam vì độc lập, tự do và
thống nhất đất nước cùng những đóng góp to lớn của Việt Nam đối với phong trào hòa bình, dân chủ
và tiến bộ xã hội trên thế giới đã tạo cho Việt Nam có được sự ủng hộ to lớn và rộng rãi trên toàn thế
giới.
2. Giai đoạn 1946 – 1954
2.1.
Sơ lược sự kiện lịch sử
Năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thông qua. “Đó là
bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch sử nước nhà, một vết tích lịch sử đầu tiên trong cõi Á Đông” (Chủ
tịch Hồ Chí Minh).
Trong giai đoạn này, công việc khẩn cấp là kháng chiến và kiến quốc, đẩy mạnh cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Đầu tháng 12-1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng chủ trương
mở chiến dịch đánh bại địch ở Điện Biên Phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: “Chiến dịch này là một
chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước
mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được”.
Trải qua ba đợt chiến đấu gay go và gian khổ, liên tục trong 55 ngày đêm, ngày 7-5-1954, quân
và dân Việt Nam đã tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, chiến
dịch Điện Biên Phủ toàn thắng.
Ngày 8-5-1954, Hội nghị Giơnevo về Đông Dương khai mạc. Trải qua 8 phiên họp toàn thể và
23 phiên họp hẹp căng thẳng, ngày 20-7-1954, các bản Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào,
Campuchia được ký kết. Theo đó, nước Pháp công nhận độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ và sự
thống nhất của nước Việt Nam. Lấy sông Bến Hải ở vĩ tuyến 17, làm giới tuyến quân sự tạm thời chia
Việt Nam thành 2 vùng tập kết quân sự. Chính quyền và quân đội Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tập
trung về miền Bắc, chính quyền và quân đội khối Liên Hiệp Pháp tập trung về miền Nam.
4
Khi đó, Việt Nam được xem là có hai quốc gia (two states), Bắc Việt và Nam Việt. Tính chính
danh của hai quốc gia Nam – Bắc Việt Nam trên phương diện công pháp quốc tế trong giai đoạn
4/1975-7/1976 được thể hiện qua Tuyên bố của chính phủ Úc vào tháng 10/1975:
“Việc thống nhất giữa Bắc và Nam Việt Nam hiện tại vẫn chưa xảy ra, và như thế vẫn có hai
nhà nước tiếp tục vận hành riêng biệt với nhau. Sự hiện diện của hai nhà nước riêng biệt (tại Việt
Nam) đã được ít nhất 75 quốc gia công nhận. Việc vận hành riêng biệt cũng như sự chấp nhận bởi
cộng đồng quốc tế đối với hai quốc gia này, Việt Nam dân chủ Cộng hoà và Cộng hoà miền Nam Việt
Nam, được thể hiện rõ qua việc họ tham gia vào Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization –
WHO) và Tổ chức Khí tượng Thế giới (World Meteorological Organization – WMO) với tư cách là
hai quốc gia thành viên khác nhau tại thời điểm này.”
“Khi Việt Nam được chia đôi vào năm 1954, hai quốc gia đã được thành lập và hai nhà nước
được hình thành. Nhà nước Úc đã công nhận từ rất lâu việc hiện hữu của hai quốc gia và vẫn đang có
mối quan hệ với cả hai nhà nước, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở miền Bắc Việt Nam và nhà
nước Việt Nam Cộng hoà ở miền Nam Việt Nam” (Tuyên bố của Bộ Ngoại giao Úc năm 1974)
Sau ngày 30/4/1975, cả Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở miền Bắc và Cộng hoà miền Nam Việt
Nam ở miền Nam đã khẳng định một lần nữa trước quốc tế rằng họ là hai quốc gia độc lập.
Như vậy, sau khi ký kết Hiệp định Giơnevo năm 1954, Việt Nam bị chia cắt bởi vĩ tuyến 17, hai
quốc gia Bắc Việt – Nam Việt là Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Cộng hoà miền Nam Việt Nam song
song tồn tại và đặt ra vấn đề kế thừa khi bị chia tách thành hai quốc gia độc lập như vậy.
2.2.
Kế thừa quốc gia ở Việt Nam trong giai đoạn 1946 – 1954
Hai quốc gia Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Cộng hoà miền Nam Việt Nam được kế thừa toàn
bộ lãnh thổ do quốc gia Việt Nam để lại, công dân được kế thừa quốc tịch của mình.
Vê kế thừa tài sản, miền Bắc do nhân dân ta tiếp quản, ở miền Nam thuộc chính phủ thân Mỹ,
Hoa Kỳ viện trợ tiền và hàng hoá quân sự cho Việt Nam Cộng hoà với mục đích xây dựng một quốc
gia phi Cộng sản và đối trọng với Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ở miền Bắc.
Vê kế thừa điêu ước quốc tế, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập ở miền Bắc nhưng
không đại diện cho quốc gia Việt Nam ở các định chế quốc tế. Hai chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà và Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã ký kết các hiệp ước của Công ước Geneva 1949 (Geneva
Conventions of 1949) về các vấn đề bảo vệ nạn nhân chiến tranh.
Vê kế thừa quy chế thành viên, Hội đồng Bảo an đã đồng thuận chấp nhận và đề cử với Đại Hội
đồng Liên hợp quốc cho cả hai quốc gia được tham gia Liên hợp quốc một cách riêng biệt. Hai quốc
gia này đều tham gia làm thành viên của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Tổ chức Khí tượng Thế
giới (WMO), Cộng hoà miền Nam Việt Nam là thành viên của các định chế tài chính quốc tế: Ngân
hàng Thế giới (World Bank – WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International Monetary Fund – IMF), và
Ngân hàng Phát triển Châu Á (Asian Development Bank – ADB).
5
3. Giai đoạn 1955 – 1975
3.1.
Sự kiện lịch sử
Năm 1955, Ngô Đình Diệm đã thành lập một quốc gia mới với chế độ cộng hòa dưới tên gọi
Việt Nam Cộng hòa. Chính quyền này từ chối hiệp thương tổng tuyển cử tự do. Đến ngày 23/3/1959,
Ngô Đình Diệm tuyên bố đặt Miền Nam trong tình trạng chiến tranh. Ngày 1/11/1963, cuộc đảo chính
lật đổ gia đình Diệm – Nhu của nhóm tướng lĩnh Sài Gòn do Dương Văn Minh cầm đầu, được tiến
hành với sự ủng hộ của Mỹ. Dư luận lên án cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ngày càng gay gắt. Tại
Brusells (Bỉ), Tòa án quốc tế đã xét xử tội ác chiến tranh của Mỹ Việt Nam.
Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam ra đời năm 1969 và công khai
đối lập với chế độ Việt Nam Cộng hoà.
Vào thời điểm tháng 11/1969, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam
đã được 28 nước công nhận và luôn luôn công nhận sự độc lập và tự chủ về lãnh thổ quốc gia tại miền
Nam Việt Nam.
Hiệp định Paris 1973 công nhận có hai chính quyền (two governments) song song tồn tại và đối
lập với nhau tại miền Nam Việt Nam: chính quyền Sài Gòn của Việt Nam Cộng hoà và Chính phủ
Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Cả hai chính quyền đều có cơ quan hành chính
và quân đội riêng, kiểm soát các phần lãnh thổ khác nhau tại miền Nam. Cả hai đều có các nghĩa vụ
quốc tế riêng.
Ngày 6-4-1972, Đế quốc Mỹ mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai bằng máy bay, tàu
chiến đối với miền Bắc. Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ra Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ
cả nước “nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng kiên quyết chiến đầu vì độc lập, tự do của Tổ quốc,
vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, tiến tới hoà bình thống nhất
nước nhà”.
Trải qua 12 ngày đêm chiến đấu (từ đêm 18 đến ngày 29 tháng 12 năm 1972) quân và dân Thủ
đô Hà Nội đã lập nên chiến thắng Điện Biên Phủ trên không, bẻ gãy âm mưu của chính quyền
Níchxơn hòng buộc Việt Nam trở lại Hội nghị Paris với thế yếu trong cuộc đàm phán.
Ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris được ký kết chính thức giữa bốn bên là Hoa kỳ, Việt Nam
Cộng hòa, Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt
Nam. Ngày 29/3/1973, quân nhân Mỹ cuối cùng rời Việt Nam, chấm dứt mọi sự can thiệp của Hoa Kỳ
đối với vấn đề Việt Nam.
Sau khi quân đội Hoa Kỳ rút hết vào cuối tháng 3 năm 1973, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chuẩn bị cho việc đánh dứt điểm chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Trong hai năm 1973 – 1974, quân và dân miền Nam đã đánh bại hầu hết các cuộc hành quân lấn
6
chiếm của địch, giữ vững và mở rộng vùng giải phóng, đẩy địch vào thế phòng ngự bị động. Chiến
dịch Hồ Chí Minh từ ngày 9-4 đến ngày 30-4-1975 với mục tiêu giải phóng Sài Gòn đã nổi dậy mạnh
mẽ, buộc Tổng thống nguỵ quyền Dương Văn Minh phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện.
Đúng 11 giờ 30 ngày 30-4-1975, lá cờ Cách mạng được cắm trên nóc Dinh Độc lập. Đây là thời
điểm đánh dấu Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, Sài Gòn được giải phóng, miền Nam nước ta
hoàn toàn giải phóng. Và Chính phủ lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam tuyên bố: “Chính phủ
cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam hiện nay thực hiện chủ quyền trên toàn vẹn lãnh
thổ của mình trên toàn bộ miền Nam Việt Nam, là người đại diện chân chính và hợp pháp duy nhất
của nhân dân miền Nam Việt Nam, có đầy đủ quyền hành giải quyết những vấn đề quốc tế của miền
Nam Việt Nam”.
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã chính thức thực hiện quyền
kế thừa quốc gia đối với Việt Nam Cộng hòa, đặc biệt là kế thừa chủ quyền của Việt Nam Cộng hòa
đối với lãnh thổ miền Nam Việt Nam. Sự kiện này đã làm cho cục diện nước ta hoàn toàn thay đổi và
vấn đề kề thừa quốc gia cũng được đặt ra sau cuộc cách mạng giải phóng dân tộc này.
3.2.
Kế thừa quốc gia ở Việt Nam trong giai đoạn 1955-1975
Vê lãnh thổ, ngay khi Việt Nam Cộng hoà thua trận vào ngày 30-4-1975, Chính phủ Cách mạng
lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã lập tức khẳng định tư cách quản lý lãnh thổ miền Nam
Việt Nam trước quốc tế bằng việc nêu rõ tính độc lập và quyền tự chủ của mình và quốc tịch của công
dân vẫn là quốc tịch Việt Nam.
Ngay sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam 30-4-1975, “Bộ Ngoại giao Chính phủ Cách
mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố tất cả tài sản miền Nam Việt Nam cũng như
nước ngoài, những bất động sản, tiền tệ, vàng bạc, các phương tiện giao thông... trước thuộc chính
quyền Sài Gòn từ nay thuộc về nhân dân miền Nam Việt Nam và do chính quyền cách mạng lâm thời
Cộng hòa miền Nam Việt Nam quản lý. Đây là quyền kế thừa vê tài sản bất khả xâm phạm của Chính
phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được pháp luật quốc tế công nhận”.
Hoặc trong tuyên bố ngày 1/5/1975 của Bộ Ngoại giao Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam khẳng
định mọi tài sản, bao gồm cả tài liệu, hồ sơ lưu trữ, tài khoản ngân hàng, trụ sở , phương tiện giao
thông và tất cả những tài sản khác của các cơ quan đại diện của Việt Nam Cộng hoà nước ngoài (Đại
sứ quán, Lãnh sự quán, Cơ quan đại diện bên cạnh các tổ chức quốc tế...) là tài sản của nhân dân miền
Nam Việt Nam và phải do Cộng hoà miền Nam Việt Nam quản lý...
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được kế thừa điêu ước các tổ
chức quốc tế mà Việt Nam Cộng hoà đã ký trước đó sẽ được áp dụng theo nguyên tắc Rebus-sic-
7
stantibus, không nhất thiết phải tôn trọng các điều ước quốc tế đang có hiệu lực vào thời điểm kế thừa
tại lãnh thổ, trừ trường hợp thừa kế lãnh thổ và biên giới, vì quốc gia độc lập không tham gia vào việc
ký kết điều ước quốc tế, quốc gia để lại kế thừa mới là chủ thể phải thực hiện điều ước đó.
Với tư cách Bộ trưởng Bộ ngoại giao của Chính phủ Cộng hoà Miền Nam Việt Nam (Republic
of South Vietnam), bà Nguyễn Thị Bình đã gửi thư đến Liên hợp quốc và nêu rõ tính độc lập và quyền
tự chủ của Cộng hoà Miền Nam Việt Nam, đồng thời tuyên bố tư cách kế thừa quy chế thành viên của
chính quyền Việt Nam Cộng hoà tại Liên hợp quốc và tại các tổ chức quốc tế, cũng như các định chế
tài chính quốc tế.
4. Giai đoạn từ năm 1976 – nay
4.1.
Sự kiện lịch sử
Từ ngày 15-11 đến ngày 21-11-1975, tại Sài Gòn – Gia Định đã diễn ra Hội nghị Hiệp thương
chính trị bàn về thống nhất nước nhà và quyết định Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của nước Việt
Nam thống nhất (ngày 25-6-1976)
Sau khi hai miền Nam Bắc đồng ý thống nhất và trở thành Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
vào tháng 7-1976, chính phủ mới đã gửi thông báo đến hai tổ chức này trong năm 1977 để yêu cầu
hợp nhất Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Cộng hoà miền Nam Việt Nam thành Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam. Từ đó đến nay, nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tiếp tục duy trì, ổn định
chính trị, phát triển đất nước, vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa.
Sự kiện hợp nhất hai quốc gia bị chia cắt năm 1954-1975 đã làm thay đổi tình hình đất nước,
đặt ra vấn đề kế thừa quốc gia trên nhiều phương diện.
4.2.
Kế thừa quốc gia ở Việt Nam giai đoạn 1976 – nay
Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam được kế thừa toàn bộ lãnh thổ mà các quốc gia
trước để lại, quốc tịch của công dân vẫn là quốc tịch Việt Nam.
Về kế thừa tài sản, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được kế thừa cả tài sản của Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà và Cộng hoà miền Nam Việt Nam.
Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tiếp tục công nhận một số điêu ước mà Việt Nam Cộng
hoà đã ký kết trước ngày 30/4/1975.
Ngày 16/12/1976, nhà nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã đệ trình đơn phê chuẩn
Công ước Viễn thông Quốc tế 1973 (1973 International Telecommunication Convention) mà chính
phủ Việt Nam Cộng hoà đã ký kết vào ngày 25/10/1974 tại Hội nghị Málaga-Torremolinos nhưng
8
chưa kịp phê chuẩn. Đơn đệ trình của Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam nêu rõ là việc phê chuẩn
được dựa trên những ký kết mà Việt Nam Cộng hoà đã thực hiện trước đó.
Vào tháng 7/1974, chính phủ Việt Nam Cộng hoà đã ký kết các văn bản liên quan đến Các Quy
chế chung (General Regulations) và Công ước Liên minh Bưu chính Lausanne (Universal Postal
Convention) của Liên minh Bưu chính Quốc tế (Universal Postal Union – UPU) nhưng chưa kịp phê
chuẩn. Ngày 27/10/1976, Quốc hội của Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã phê chuẩn các văn
bản này và đệ trình lên tổ chức UPU với yêu cầu được thừa kế (succession) tư cách của Việt Nam
Cộng hoà.
Ngoài ra, vào ngày 4/7/1976, chỉ 2 ngày sau khi được thành lập, Bộ Ngoại giao của nhà nước
Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã gửi công hàm đến chính phủ Thụy Sỹ và tuyên bố khẳng
định tiếp tục tham gia vào các hiệp ước của Công ước Geneva 1949 (Geneva Conventions of 1949) đã
ký kết trước đó về các vấn đề bảo vệ nạn nhân chiến tranh.
Về kế thừa quy chế thành viên, sau khi được thành lập vào tháng 7- 1976, Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã trình thư xin thay thế (substitution) tư cách thành viên của Việt Nam Cộng hoà tại
các định chế tài chính nói trên, chứ không phải là đơn xin gia nhập làm thành viên mới.
Cụ thể là khi thay thế tư cách thành viên của Việt Nam Cộng hoà với Ngân hàng Phát triển
Châu Á (ADB), Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tiếp quản 3.000 cổ phần của chính phủ Việt
Nam Cộng hoà tại ngân hàng này.
Đồng thời, tiếp tục được nhận tất cả các khoản vay mà Việt Nam Cộng hoà đã được ADB chấp
thuận cho vay trong những năm trước đó. Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng bảo đảm sẽ chịu
trách nhiệm chi trả cho những khoản vay này.
Ngoài ra, Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn tiếp tục thay thế tư cách thành viên của Việt
Nam Cộng hoà với các tổ chức như: Tổ chức Lao động Quốc tế (International Labour Organization –
ILO), Tổ chức Viễn thông Quốc tế (International Telecommunication Union – ITO), Liên minh Bưu
chính Quốc tế (Universal Postal Union – UPU), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp
quốc (United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization – UNESCO) và Cơ quan
Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (International Atomic Energy Agency – IAEA). Đây là những tổ chức
mà trước đó Việt Nam Cộng hoà tham gia làm thành viên.
9
10