CHƯƠNG I : Giới thiệu về sử thi Mahabharata và Ramayamana
1. 1 Khái niệm
Sử thi, còn gọi là anh hùng ca – là những bài ca lịch sử, bài ca ca
ngợi các anh hùng,, nó gắn liền với những sự kiện đặc biệt của lịch sử
dân tộc trong một thời kì nhất định. Các sự kiện quan trọng, có ý
nghĩa sống còn đối với lịch sử các dân tộc là đối tượng của anh hùng
ca.
Sử thi là sản phẩm tinh thần của một thịi kì lịch sử đặc biệt: thời kì
chuyển giao lịch sử, thời kì bước ngoặt ở đó nhân loại chia tay với
quá khứ dã man dể bước vào thời đại văn minh. Đây cũng là bước
ngoặt lịch sử tất yếu gắn liền với sự tan rã của chế độ công xã nguyên
thuỷ và sự ra đời của Nhà nước chiếm hữu nơ lệ. ở thời kì này, chiến
tranh diễn ra liên miên. Chiến tranh giữa các bộ lạc thời cổ đại, ngoài
ý nghĩa là một phương thức tăng trưởng kinh tế, cịn là một hình thức
phá vỡ tính chất nhỏ bé của các bộ lạc, thị tộc riêng rẽ để tạo ra một
hình thức liên kết ở cộng đồng mới với một quy mô mới, lớn lao hơn.
Tuy nhiên tính chất của các cuộc chiến tranh bộ lạc này lại rất khó
minh định. Khơng thể kết luận đó là chiến tranh chính nghĩa hay
chiến tranh phi nghĩa. Bởi lẽ đây là cuộc chiến tranh giữa “bộ lạc
chúng ta” với “bộ lạc chúng nó”. Đây cũng chính là biến cố lịch sử
quan trọng nhất, liên quan tới sự tổn vong của các bộ lạc, các tộc
người, các cộng đồng dân cư thời cổ đại. Sứ thi tái hiện g các biến cố
lịch sử mang tính đột biến trọng đại ấy. Từ đó, sử thi trở thành bài thơ
lịch sử, trớ thành tác phẩm tự sự bằng thơ kể lại quá trình hình thành
của đất nước, của dân tộc, của cộng đồng.
Yếu tố tự sự ra đời trong xã hội chưa có giai cấp và trở thành
phương thức phán ánh các mặt của xã hội này. Đề tài của sử thi là các
quan hệ thị tộc, là các cuộc chiến tranh bộ lạc. Sử thi tái hiện các cuộc
chiến tranh giành giật dát dai giữa các bộ lạc. Sư thi cũng sử dụng đề
tài tranh chiếm người đẹp – cuộc chiến tranh giành phụ nữ – vốn rất
phổ biến trong thời cổ đại. Khi phan ánh các sự kiện, biến cố ấy, sử
thi, qua các hình tượng mà nó xây dựng được, đã tạo ra khả năng khái
quát cao các lĩnh vực khác nhau của cuộc sống thời xa xưa.
Đồng thời khi phản ánh các hiến cố trọn (đại liên quan tới lịch sử
dân tộc ấy, sử thi thể hiện tập trung tính chất cộng đồng, sử thi trở
thành tiếng nói dặc biệt của cộng đồng. Sử thi miêu tả và đánh giá
hiện thực trên lập trường của cộng đồng, của dân tộc. Cụ thể là thông
qua các hình tượng mà sứ thi xây dựng với đặc điểm là chưa miêu tả
rõ nét cá tính nhăn vật, sử thi tập trung ca ngợi phẩm chất anh hùng
của các nhăn vật, sứ thi xây dựng lí tưởng vê cái chung, về cái cộng
đồng, lí tưởng vê chủ nghĩa anh hùng tập thể. sử thi ca ngợi tinh thẩn
dấu tranh cho cơng lí, cho lợi ích tồn dân, lợi ích tập thể. Xét từ
phương diện này, sứ thi có tác dụng giáo dục dạo đức và bồi dưỡng lí
tưởng anh hùng tập thể. Điều này gắn liền với tính chất dặc biệt của
các cuộc chiến tranh bộ lạc của thời đại lịch sử này.
1. 2 . Nguồn gốc sử thi Ấn Độ
Sau Thần Thoại xưa nhất của văn học Âns Độ , tiếp đến giai đoạn
Sử Thi . Sử Thi ra đời trên cơ sở xã hội Ấn Độ đã phát triển qua chế
độ phong kiến nhiều vương quốc đã được hình thành , Sử Thi là bức
tranh sinh động phản ánh dời sống tư tưởng của nhân dân Ấn Độ qua
những cuộc xung đột vũ trang của các vương quốc , giữa những
chủng tộc sống trên đất Ấn Độ . Sử thi còn là bài ca vĩ đại ca ngợi
những chiến cơng hiển hách , khí phách hào hùng của các anh hùng ,
lí tưởng mà nhân dân Ấn Độ cổ xưa ngưỡng mộ và tôn thờ .
Các dân tộc Ấn Độ để lại cho kho tàng văn học Ấn Độ , những
bản anh hùng ca viết bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau .Trong đó
Mahabharata và Ramayana được viết bằng tiếng sanskrit mang tầm
cỡ to lớn và sâu sắc nhất , chúng trở thành tài sản tinh thần vô giá của
nhân dân Ấn Độ . Mahabharata được gọi là thể loại sử thi cổ điiển
đích thực , cịn Ramayana là sử thi văn chương ( Kavia) . Hai bộ sử
thi này đã mở ra thời đại hoàn kim trong lịch sử văn học Ấn Độ .
Xã hội Ấn Độ đã phát triển qua chế độ quân chủ phong kiến. Nhiều
vương quốc được hình thành (xung đột, chiến tranh tranh giành lãnh
thổ…)
NỘI DUNG KHÁI QUÁT CỦA SỬ THI ẤN ĐỘ:
Là bức tranh sinh động phản ánh đời sống của nhân dân Ấn Độ
(xung đột vũ trang, xung đột chủng tộc, truyền thống, văn hóa, tơn
giáo, sinh hoạt, lao động). Là bài ca ca ngợi chiến công hiển hách của
người anh hùng lí tưởng ( khí phách, anh dũng, hào hùng,…)
NGƠN NGỮ VIẾT:
Các tác phẩm của Ấn Độ được viết bằng nhiều ngơn ngữ khác nhau.
Trong số đó Ramayana và Mahabharata được viết bằng tiếng Sanskrit.
PHÂN LOẠI SỬ THI:
Mahabharata là sử thi cổ điển đích thực. Ramayana là loại sử thi văn
chương.
1.3 Các đặc trưng của sử thi Ấn Độ
1.3.1 . Tính quy mơ đồ sộ
Trên thế giới ít có bộ sử thi nào có quy mơ đồ sộ như hai bộ sử thi
mahabharata và ramayata của Ấn Độ . Mahabharata dài 22 vạn câu ,
gấp 7 lần Iliat và Ôlixê của Hi Lạp cộng lại , Ramayana dài 5 vạn câu.
Có được tính quy mơ đồ sộ như vậy , trước hết là người Ấn Độ có
thói quen suy nghĩ triền miên , giàu óc tưởng tượng . Hai nữa là Ấn
Độ rộng lớn , nhiều truyền thuyết , có nhiều huyền thoại . Các nghệ
nhân kể chuyện thường sưu tập các truyện lan truyền trong các địa
phương xâu chuỗi lại làm cho nội dung thêm phong phú và được kéo
dài . Mahabharata và Ramayana có sức khái quát rộng lớn và bối
cảnh hoành tráng . Mahabharata được xem như “ cuốn bách khoa
tồn thư’’. Người Ấn Độ đã nói : “ cái gì có trên Ấn Độ đều có trong
Mahabharata , cái gì khơng có trong đó cũng khơng thấy có trên đất
Ấn Độ ” .
1.3.2. Tính giáo huấn sâu đậm
Sử thi của dân tộc nào cũng mang tính giáo huấn , nó là
“cuốn sách giáo khoa” về đạo đức , luân lí của dân tộc . Sử thi Ấn Độ
mang đậm tính chất này hơn sử thi các nước khác .
Mahabharata và Ramayana đều đề cao lí tưởng đạo đức và
bổn phận của Ksatrya hướng con người vào điều thiện chống cái ác ,
sống theo đạo lí cơng bằng , bác ái ( Dharma ) . Người Ấn Độ xem hai
bộ sử thi này như Kinh thánh cứu rỗi linh hồn và khuyên răn con
người tu luyện . Họ cho rằng “ Chừng nào sông chưa cạn , đá chưa
mịn thì Ramayana cịn làm say mê lịng người và cứu họ thốt khỏi
vịng tội lỗi ”. Cịn Krixna Dvaipayana , tác giả của bộ sử thi
Mahabharata nói rằng : “ Những ai đã nghe sử thi này thì moi tội lỗi
đã phạm trong hành động , ý nghĩa và lời nói đều được tẩy rửa “. Có
đặc trưng trên là do Ấn Độ có nhiều tơn giáo . Dân tộc Ấn Độ làDân
tộc mộ đạo , giáo lí các tôn giáo được phản ánh khá sâu sắc trong các
bộ sử thi . Điều này làm cho chất giáo huấn , kinh lễ thêm sâu đậm
trong sử thi .
1.3.3 . Tính xung đột gay gắt về đạo lí
Sử thi Mahabharata và Ramayana không coi trọng miêu tả
chiến tranh mà chú trọng miêu tả sự xung đột giữa cái thiện và cái ác ,
giữa đạo lí và phi đạo lí ( Dharma và Adharma ) . Nếu có xung đột
với nhau , trước tiên phải hịa giải , nếu khơng thành mới tiến hành
chiến tranh . Điều luật của chiến tranh là phải đảm bảo lẽ cơng bằng ,
mang tính nhân đạo . Mục đích cuối cùng của chiến tranh là hịa hợp ,
hịa bình . đó là tinh thần của Ấn Độ .
1.3.4. Tính đa dạng của hệ thống nhân vật
Nhân vật trong sử thi Ấn Độ rất phong phú và đa dạng : người anh
hùng , đạo sĩ , người phụ nữ thần thánh , ma quỷ , quái vật ...Phần lớn
các nhân vật đã xuất hiện trong thần thoại , truyền thuyết như Rama ,
Sita , Hanuman chẳng hạn .
Nhân vật thường biến dạng , hóa thân nữa thần , nữa người .
Nhân vật thường xuất thân từ thần linh , con vật thường mang
cốt cách người . Dặc điểm này bắt nguồn từ quan niệm nghiệp báo
(Karma ) , luân hồi tái sinh (Samsara ) có trong tơn giáo Ấn Độ . Nếu
người anh hùng trong sử thi Hi Lạp được ca ngợi về sức mạnh của trí
tuệ , lịng dũng cảm , là con người tồn vẹn thì người anh hùng trong
sử thi Ấn Độ được ca ngợi về sức mạnh của đạo đức , của lịng từ
thiện . Đó là mẫu người “ tài cao đức trọng ”.
1.4 . Thi pháp sử thi Ấn Độ
a. Hiện thực và tưởng tượng trong sử thi
Hiện thực và tưởng tượng trong sử thi thần thoại tương ứng
với tính chất của mối quan hệ giữa hiện thực và tưởng tượng trong thể
loại thần thoại và truyền thuyết suy nguyên. Theo Meletinsky thì
“Nguồn gốc chủ yếu của việc hình thành các sử thi cổ đại là các cổ
tích tráng ca (truyền thuyết anh hùng – LĐL) và đặc biệt là huyền
thoại và truyện cổ tích nói về các bậc thuỷ tổ -anh hùng văn hoá-nhân
vật trung tâm của văn học dân gian thời nguyên thuỷ”. Hiện thực
trong sử thi anh hùng là hiện thực lịch sử bộ lạc và các cuộc chiến
tranh giành đất đai và người đẹp của các thủ lĩnh bộ lạc. Meletinsky
viết tiếp: “Khi chuyển từ huyền thoại sang sử thi anh hùng, nổi lên
bình diện thứ nhất là những mối quan hệ của các bộ lạc và các quốc
gia cổ đại …Các truyền thuyết thực ra là có tính lịch sử vẫn là ngọn
nguồn thứ yếu của sự phát triển sử thi, ở mức độ nhất định, chúng tồn
tại bên cạnh nhau và hầu như khơng hồ lẫn vào nhau”.
Sự tưởng tượng trong sử thi thần thoại thể hiện trong sự lý giải về
nguồn gốc vũ trụ và con người, thần thánh hoá các nhân vật khai
sáng. Ước mơ trong sử thi anh hùng là sự thần tượng hoá nhân vật thủ
lĩnh bộ lạc về tài năng của họ, cấp cho họ những phẩm chất tuyệt hảo
mà người thường không có. Tài năng của nhân vật anh hùng một phần
là chính bản thân những nhân vật xuất chúng trong lịch sử bộ lạc
nhưng phần khác là sự khái quát hoá, lý tưởng hố những tài năng của
nhiều người anh hùng thời đó, tập trung lại cho một người, người anh
hùng thành nhân vật điển hình, lý tưởng tuyệt vời cho tráng sĩ của bộ
lạc, dân tộc.
b. Cốt truyện của sử thi
Cốt truyện đa dạng, phức tạp hơn cốt truyện thần thoại và truyền
thuyết. Nó là dạng cốt truyện kết hợp giữa thần thoại và truyền thuyết
nên có hai cách xây dựng cốt truyện. Cách xây dựng theo cốt truyện
thần thoại là bao quanh nhân vật thần, lý giải nguồn gốc dân tộc và
cách xây dựng cốt truyện truyền thuyết là bao quanh nhân vật anh
hùng. Cách xây dựng cốt truyện sử thi anh hùng có điểm giống cách
xây dựng cốt truyện truyền thuyết, chỉ khác nhau mức độ, phạm vi và
quy mô.
c. Đặc trưng nhân vật sử thi
Nhân vật trung tâm của sử thi là nhân vật anh hùng: Anh hùng văn
hóa và anh hùng chiến trận. So với thần thoại và truyền thuyết, nhân
vật sử thi có nhiều lớp người, nhiều thế hệ.
d. Đặc trưng ngôn ngữ thể loại sử thi
Ngôn ngữ sử thi thể hiện sinh động của ngôn ngữ kể chuyện.
g. Khơng gian sử thi
Khơng gian sử thi có hai dạng: Không gian của sử thi thần thoại
mang đặc điểm của không gian thần thoại và truyền thuyết suy
nguyên. Khơng gian sử thi anh hùng có cả khơng gian truyền thuyết
anh hùng và khơng gian cổ tích thần kì. Đó là khơng gian cộng đồng,
khơng gian bao gồm tất cả mọi khía cạnh: khơng gian thiên nhiên,
khơng gian xã hội. Khơng gian thiên nhiên là núi non, sơng ngịi, cây
cỏ, chim chóc, thú vật, sản vật. Khơng gian xã hội là bản làng, sinh
hoạt lao động sản xuất và chiến đấu. Khơng gian sử thi có chiều sâu
và chiều rộng. Chiều sâu không gian kéo dài từ quá khứ đến hiện tại,
trải qua nhiều loại hình xã hội từ hồng hoang đến công xã nguyên
thủy rồi công xã thị tộc, tiếp cuối cùng là xã hội phụ quyền. Chiều
rộng là không gian bao quát từ làng quê đến bộ lạc, từ nông thôn đến
núi rừng, từ mặt đất đến bầu trời, từ cảnh người đến cảnh vật và cảnh
trời.
h, Thời gian sử thi
Thời gian sử thi là thời gian kéo dài nhiều triều đại, nhiều biến
cố. Đó là thời gian lịch sử một dân tộc, bộ lạc, thời gian lịch sử của
một dòng họ, một chế độ. Trong suốt thời gian dài có những khoảng
thời gian ngắn tương ứng với từng thời kỳ, từng cuộc đời, từng số
phận con người. Có khoảng thời gian xác định như thời gian của cuộc
đời nhân vật nhưng cũng có khoảng thời gian khơng xác định đó là
thời gian thời kỳ hồng hoang, thời kỳ hình thành dân tộc. Như vậy là
ở sử thi có hai loại thời gian: thời gian thần thoại là thời gian không
xác định và thời gian truyền thuyết là thời gian xác định, tất cả đều là
thời gian quá khứ.
1.5 . Nguồn gốc sử thi Mahabharata và Ramayana
1.5.1 Nguồn gốc sử thi Mahabharata
Mahabharata là một trong hai cuốn sử thi tiếng Phạn ( shankrit )
Ấn Độ cổ . Cái tên Mahabharata có thể được dịch thành :Bharth (vĩ
đại ) mang nghĩa Ấn Độ Vĩ Đại hay còn được hiểu là “ Câu chuyện vĩ
đại về triều vua Bharath ”.
Theo truyền thuyết cuốn Mahabharata được coi là tác phẩm
của Vyasa , cũng là một trong những ông tổ của các nhân vật trong sử
thi ( Vyasa có nghĩa là sưu tập ) . Vyasa đã thức dậy bình minh suốt ba
năm rịng để hồn thành tác phẩm tuyệt diệu này . Cũng theo một
truyền thuyết khác , sử thi Mahabharata ra đời khi đạo sĩ Vyasa theo
lệnh của thần sáng tạo Brahma suốt ba năm ròng đọc cho thần Chữ
viết dùng ngà viết lại tác phẩm vĩ đại dược hình thành trong tâm trí
ơng . Với độ dài đáng kinh ngạc , những nghiên cứu ngữ văn về cuốn
sử thi có một lịch sử dài làm sáng tỏ những đầu mối về sự phát triển
và những lớp ngữ nghĩa . Tuy cịn nhiều tranh cãi , có thể kết luận câu
chuyện được lưu truyền từ thế kỉ V TCN về sau được bổ sung liên tiếp
, nhiều người ghi chép , chỉnh biến cho mãi đến thế kỉ V sau CN vào
triều đại Gupta ( 320-530 ).
Nguyên bản lúc đầu có lúc lên đến hàng vạn câu thơ nhưng đến nay
chỉ sưu tầm được 110.000 Slooka ( câu thơ đơi ) gồm 22 vạn dịng ,
dài bằng 7 lần 2 tác phẩm Ôđixê và Iliatcủa Hi Lạp cộng lại .
Bản viết bằng tiếng Xăngcơrit đầu tiên được in ra ở Cancuta
vào 1834. Bản dịch ra tiếng Anh đầu tiên là bản của Pratopchandra
Roy in năm 1883 . Bản dịch ra tiếng Việt đầu tiênhiện nay là dự vào
bản tóm tắt cốt truyện bằng Anhvăn của C. Rajagopalachari.
1.5.2 .Nguồn gốc sử thi Rayamana
Theo phỏng đoán của nhiều nhà nghiên cứu văn học Ấn Độ , sử thi
Ramayana được truyền tụng từ thế kỉ III-II trước CN . Trong khoảng
thời gian nghìn năm đã có biết bao nhiêu thi sĩ vô danh ghi chép , gọt
dũa , thêm bớt và làm cho tác phẩm trở thành tuyệt tác .
Theo truyền thuyết truyền lại của ngườu làm thơ sớm nhất là
Vanmiki , được người Ấn Độ coi là nhà thơ đầu tiên ( Adikavi ) trong
văn học Ấn Độ . Cuộc đời của Vanmiki được kể như sau :
Ông sống vào khoảng thế kỉ V trước CN , xuất thân trong một gia
đình đẳng cấp Bàlamơn , bị cha mẹ ruồng bỏ , phải trốn vào rừng sâu
làm nghề trộm cướp . Trong lúc sa chân vào con đường tội lỗi thì gặp
Narada đến khuyên răn cải tà quy chính và bày vẽ cho ơng phép tu
hành . Vanmiki vâng lời làm theo . Ngày ngày ông ngồi yên lặng
trong rừng sâu tu luyện . Sau một thời gian đắc đạo ông được tôn làm
đạo sĩ . Vanmiki vốn là người thơng minh có trí nhớ kì lạ , ăn nói lưu
lốt , xuất khẩu thành thơ . Nhờ biệt tài đó mà thần Narada kể cho
Vanmiki nghe về kì tích của hồng tử Rama .Sau khi đã nhập tâm câu
chuyện ông đem kể cho các môn đệ của ông nghe bằng những vần thơ
tuyệt diệu của mình . Từ đó những nghệ nhân hát rong đem truyện thơ
Vanmiki đem kể khắp làng xóm , phố phường ở Ấn Độ .