LỜI CAM ĐOAN
Đề tài: “ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy chính tả cho học sinh
lớp 3 ” được thực hiện từ tháng 10 năm 2014 đến tháng 8 năm 2015 thì hoàn
thành. Để hoàn thành được đề tài ngoài sự nổ lực, cố gắng của bản thân, phải còn
nói đến sự tận tình hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ tận tình của quý thầy, cô trong
Ban giám hiệu, khoa giáo dục Tiểu học, mà trực tiếp là . Đồng thời, tôi cũng xin
chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và tạo điều kiện của Ban giám hiệu, thầy cô , tỉnh
giúp cho tôi nghiên cứu và hoàn thành đề tài.
Lần đầu tiên được tiếp xúc với việc nghiên cứu đề tài nghiệp vụ sư phạm –
Phương pháp dạy học Tiếng Việt, bản thân tôi còn nhiều bỡ ngỡ, hạn chế về
phương pháp, năng lực, nội dung,….nên đề tài ít nhiều khó trách khỏi những
thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được sự đóng góp của quý thầy, cô và các
bạn đồng nghiệp chia sẻ bổ sung ý kiến giúp cho đề tài hoàn thiện hơn để tài áp
dụng vào thực tế tại đơn vị đạt kết quả cao. Tôi xin cam đoan đề tài: “ Một số
biện pháp nâng cao hiệu quả dạy chính tả cho học sinh lớp 3 ” là của riêng tôi
và xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
1.1.Yêu cầu của xã hội:
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đòi hỏi có sự đổi mới về nội dung
phương pháp dạy học. Đòi hỏi người chủ nhân tương lai của Đất nước vừa giỏi
chuyên môn vừa phải có đạo đức, phẩm chất và nhân cách tốt. Như bất kì môn
học nào khác, ở môn Tiếng Việt cũng có sự điều chỉnh về nội dung, phương pháp
dạy học để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.
Tiếng Việt là một môn học rất quan trọng đối với bậc Tiểu học nói riêng, trong
hệ thống giáo dục phổ thông ở Việt Nam nói chung, nó góp phần đắc lực thực
hiện mục tiêu đào tạo giáo dục thế hệ trẻ ở Tiểu học theo đặc trưng bộ môn của
mình. Môn Tiếng Việt cung cấp cho học sinh những hiểu biết về cách thức sử
dụng Tiếng Việt như một công cụ giao tiếp và tư duy; học sinh được rèn luyện
các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết để sử dụng có hiệu quả Tiếng Việt trong học tập
và đời sống hàng ngày. Trên cơ sở những mục tiêu cơ bản của môn Tiếng việt,
phân môn chính tả giải quyết vấn đề dạy cho trẻ em biết chữ để học tiếng, dùng
chữ để học các môn học khác và để sử dụng trong giao tiếp. Vì vậy, dạy học
chính tả ở Tiểu học là một trong những vấn đề rất được quan tâm nhằm nâng cao
chất lượng của môn học Tiếng Việt. Đồng thời, góp phần giữ gìn, bảo tồn sự
trong sáng của Tiếng Việt.
1.2. Mục tiêu môn học:
Mục tiêu môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Chính tả nói riêng là rèn cho
học sinh một số kĩ năng, nghe, đọc, viết...Đặc biệt là kỹ năng viết, viết là một
dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển lời nói có âm thanh sang hình thức
chữ viết. Theo một số từ điển thì: Chính tả là viết đúng, là lối viết hợp chuẩn. Cụ
thể, chính tả là hệ thống các quy tắc về cách viết thống nhất cho các từ của một
ngôn ngữ, cách viết hoa tên riêng, cách phiên âm tên riêng nước ngoài. Phân
môn Chính tả giúp học sinh hình thành năng lực, thói quen viết đúng chính tả, đó
là thói quen viết đúng Tiếng Việt văn hóa, Tiếng Việt chuẩn mực, đồng thời nó
còn là cơ sở của những môn học khác trong chương trình Tiểu học. Phân môn
Chính tả được dạy liên tục trong chương trình Tiếng Việt Tiểu học từ lớp 1 đến
lớp 5 với hai kiểu dạng bài chính tả như: Chính tả đoạn bài, chính tả âm - vần.
Tùy yêu cầu của mỗi dạng bài khác nhau nhưng tất cả đều chú ý đến cách trình
bày bài chính tả, viết chữ đẹp và đúng chính tả.
2
Môn Tiếng Việt bước đầu dạy cho học sinh nhận biết được những tri thức sơ
giản, cần thiết bao gồm ngữ âm, chữ viết, từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ pháp, chính
tả. Trên cơ sở đó rèn luyện các kỹ năng ngôn ngữ: Nghe, nói, đọc, viết, nhằm
giúp học sinh sử dụng Tiếng Việt có hiệu quả trong suy nghỉ và trong giao tiếp.
Dạy học tiếng Việt nhằm phát triển các năng lực trí tuệ và phát huy tính tích
cực hoạt động của học sinh. Thông qua môn Tiếng Việt dạy cho học sinh những
thao tác tư duy cơ bản, dạy cách học tập và rèn luyện những thói quen cần có ở
Tiểu học.
Môn Tiếng Việt cần gợi mở cho học sinh cảm nhận cái hay, cái đẹp của ngôn
ngữ từ Tiếng Việt và hiểu được phần nào cuộc sống xung quanh. Môn Tiếng Việt
bồi dưỡng cho học sinh những tình cảm chân chính, lành mạnh như: tình cảm gia
đình, tình thầy trò, tình bạn, tình yêu quê hương, đất nước, con người, đồng thời
hình thành và phát triển ở học sinh những phẩm chất tốt đẹp của người công dân.
Chương trình Tiếng Việt tiểu học mới đưa ra mục tiêu giao tiếp bằng tiếng Việt
hình thành kỹ năng nghe, nói, đọc, viết lên hàng ưu tiên. Những kiến thức về
tiếng Việt cùng với các kiến thức về xã hội, tự nhiên và con người, văn hóa, văn
học cũng được cung cấp cho học sinh một cách sơ giản. Trong chương trình mới,
hoạt động giao tiếp là mục đích số một, vừa là phương tiện của dạy học Tiếng
Việt. Chú trọng hơn đến kỹ năng sử dụng tiếng Việt, Chương trình tiểu học mới (
ban hành theo Quyết định ngày 09/11/2001 của Bộ Giáo dục và Đào tạo) xác
định mục tiêu như sau:
Môn Tiếng Việt ở tiểu học nhằm:
- Hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng tiếng Việt ( nghe,
nói, đọc, viết ) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa
tuổi. Thông qua việc dạy và học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các tao tác tư
duy.
- Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và những hiểu
biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, văn hóa, văn học của Việt Nam ra
nước ngoài.
- Bồi dưỡng tình yêu tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng,
giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã
hội chủ nghĩa trong thời đại mới.
1.3. Nhiệm vụ của phân Chính tả:
Phân môn Chính tả có một vị trí rất quan trọng ở bậc Tiểu học vì giai đoạn
Tiểu học là giai đoạn then chốt trong quá trình hình thành kĩ năng chính tả cho
học sinh. Chính tả được bố trí thành một phân môn độc lập, có tiết dạy riêng
trong khi bậc trung học cơ sở không có.
Phân môn chính tả trong nhà trường có nhiệm vụ giúp học sinh nắm vững các
quy tắc chính tả và hình thành kĩ năng chính tả, nói cách khác giúp học sinh hình
thành năng lực và thói quen viết đúng chính tả (đúng về phụ âm đầu, vần, âm
cuối, dấu thanh, độ cao thấp của từng con chữ). Từ đó giúp học sinh viết đẹp,
viết nhanh, nét chữ đều đặn, mềm mại. Qua phân môn chính tả còn rèn luyện cho
3
các em một số phẩm chất như: Tính kỉ luật, tính cẩn thận, óc thẩm mĩ, đồng thời
bồi dưỡng cho học sinh lòng yêu quý Tiếng Việt. Cách biểu thị tình cảm đó trong
việc viết đúng chính tả.
Phân môn chính tả ở chương trình Tiểu học có hai kiểu bài là chính tả đoạn
bài và chính tả âm - vần. Nội dung các bài chính tả âm vần là luyện viết đúng
chữ ghi tiếng có âm, vần, dấu thanh dễ viết sai chính tả. Thời gian dành cho bài
tập chính tả âm - vần dù là rất ngắn so với chính tả đoạn bài, song việc rèn kĩ
năng qua bài tập đó có ý nghĩa rất lớn đối với học sinh. Qua các bài tập chính tả
âm - vần các em được rèn luyện để tránh việc viết sai chính tả các chữ ghi tiếng
có âm, vần, dấu thanh dễ lẫn nhằm đạt mục tiêu môn học.
Tính chất nổi bật của phân môn chính tả là thực hành bởi vì chỉ có thể hình
thành các kĩ năng kĩ xảo cho học sinh thông qua thực hành, luyện tập.
1.4. Thực trạng dạy học Chính tả:
Qua quá trình giảng dạy thực tế và tìm hiểu, học hỏi ở đồng nghiệp đi trước có
nhiều kinh nghiệm trọng công tác giảng dạy chính tả ở lớp 3 ở trường nói riêng
và học sinh lớp 3 ở huyện Duyên Hải nói chung. Nhìn chung bài viết của học
sinh còn mắc rất nhiều lỗi chính tả, nhất là trường hợp những cặp phụ âm đầu dễ
lẫn lộn như: l/n; s/x; ch/tr; r/d/gi…, phổ biến nhất là hai âm l/n các vần khó như:
ưu; iu, ươu; uơ; uê; êu;… sai về âm cuối như: i/y; ch/nh; về thanh điệu đó là
những thanh khó phân biệt như thanh (?); (~), các em viết còn sai rất nhiều…
Bởi vậy việc tìm hiểu, khảo sát các lỗi viết sai chính tả của học sinh để từ đó có
những biện pháp, phương hướng khắc phục các lỗi sai cho học sinh. Đó là một
việc làm có ý nghĩa đối với việc nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt nói
chung và việc dạy học chính tả cho học sinh lớp 3 nói riêng, đặc biệt tìm ra
những biện pháp nâng cao hiệu quả dạy chính tả cho học sinh lớp 3 là vấn đề rất
cần thiết. Quá trình dạy chính tả cho học sinh không chỉ sử dụng một phương
pháp mà phải sử dụng phối hợp nhiều phương pháp một cách hợp lí nhằm đạt tới
hiệu quả dạy học cao. Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn và nghiên cứu đề
tài: “ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy chính tả cho học sinh lớp 3 ”.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
Nhìn vào thực trạng dạy chính tả hiện nay cho thấy: Để nâng cao chất lượng
dạy chính tả còn là một việc làm rất hạn chế. Việc rèn luyện kĩ năng viết chưa
được chú ý đúng mức nên học sinh còn viết sai rất nhiều lỗi và chữ viết còn chưa
được đẹp. Qua khảo sát điều tra thực tiễn tôi đã thu thập được một số vấn đề lưu
ý sau:
2.1. Về chương trình: ở bậc Tiểu học, chương trình của môn chính tả có nhiều
dạng từ đơn giản đến phức tạp theo lứa tuổi của học sinh. Đồng thời chương
trình chính tả ở các lớp cũng có tính đồng tâm. Càng lên lớp trên càng được mở
rộng, nâng cao dần và phức tạp hơn. Ở lớp 3 phân môn chính tả một tuần có hai
tiết với ba hình thức chính tả là: Chính tả Tập chép, chính tả Nghe - viết, Chính
tả Nhớ - viết. Với yêu cầu chữ viết đều nét, rõ ràng, sạch sẽ, không mắc lỗi thông
thường, tốc độ viết 70 chữ trong 15 phút. Bài viết dài khoảng 60 chữ. Các yêu
4
cầu và nội dung hình thức của chương trình lớp 3 đòi hỏi học sinh cao hơn hẳn
so với các khối lớp 1,2.
2.2. Thực tiễn của giáo viên: Trong thực tiễn, mỗi buổi lên lớp, giáo viên phải
dạy nhiều tiết, soạn giảng nhiều môn, lớp lại có nhiều học sinh nên thường giáo
viên chỉ truyền thụ cho học sinh hết kiến thức quy định chép (viết), ít có thời
gian để rèn luyện kĩ năng cho học sinh. Không ít giáo viên chỉ dạy qua loa, chiếu
lệ, chứ không đi sâu vào các quy tắc, mẹo luật chính tả, để giúp học sinh viết
thông thạo. Tiết chính tả nhớ - viết, yêu cầu học sinh phải học thuộc lòng ( thuộc
đoạn trích viết chính tả từ bài tập đọc đã học ) nhớ được cả các dấu thanh, các
loại dấu câu. Bản thân giáo viên phát âm cũng phải đọc cho học sinh thật chuẩn.
2.3. Về phía học sinh: Trên thực tế, đã có một số học sinh có sự chuẩn bị chu
đáo, tích cực nên đã học tốt môn chính tả. Cơ bản nắm được quy tắc, mẹo luật
chính tả nên đã vận dụng tốt vào các bài tập làm văn, sử dụng câu văn đúng ngữ
pháp, viết đúng chính tả. Tuy nhiên vẫn còn một số em chưa ý thức được tầm
quan trọng của môn học chính tả. Nên các em chưa có sự chuẩn bị và phương
pháp học tập tốt. Nhìn chung phân môn chính tả ở bậc tiểu học chưa được giáo
viên và học sinh nhận thức đúng tầm quan trọng của nó trong nhà trường. Mặt
khác một số bài còn chưa thực tế và cũng chưa phù hợp với địa phương, các
dạng bài tập cũng chưa thực sự kích thích được học sinh học tốt hơn.
Từ những vấn đề lưu ý đã nêu trên để đề tài “ Một số biện pháp nâng cao hiệu
quả dạy chính tả cho học sinh lớp 3 ” đạt kết quả bản thân tôi đưa ra một số
biện pháp để nâng cao hiệu quả dạy chính tả cho học sinh lớp 3 trường như sau:
- Khảo sát phân loại lỗi chính tả của học sinh lớp 3B.
- Tìm ra nguyên nhân của các lỗi chính tả mà học sinh thường mắc phải.
- Một số biện pháp thích hợp để khắc phục các lỗi chính tả của học sinh như:
luyện phát âm, phân tích so sánh, giải nghĩa từ, giúp học sinh nhớ mẹo luật chính
tả, giúp học sinh viết đúng chính tả qua các bài tập, giúp học sinh viết đúng
chính tả qua các môn học khác.
3. Giả thiết khoa học:
Nếu những biện pháp mà bản thân đề xuất và thực nghiệm dạy chính tả cho
học sinh lớp 3 tại đơn vị, thì đề tài sẽ có kết quả trong việc nâng cao hiệu quả
dạy chính tả cho học sinh, mà còn giúp cho học sinh rèn luyện kỹ năng nghe,
nói, đọc, viết, rèn luyện tính cẩn thận, óc thẩm mỹ, đức tính cần cù, sáng tạo,
nâng cao việc học tập các môn học khác có liên quan… đồng thời giúp cho các
em thêm yêu quý tiếng Việt, góp phần bảo tồn, giữ gìn sự trong sáng của tiếng
nói, chữ viết của dân tộc.
4. Bố cục của đề tài:
CHƯƠNG I
Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
1.1. Cơ sở lý luận:
1.1.1. Cơ sở khoa học của việc dạy chính tả:
5
Để việc giảng dạy chính tả cho học sinh lớp 3 đạt được mục tiêu người giáo
viên cần phải căn cứ vào các cơ sở sau:
a) Cơ sở ngôn ngữ, văn học của việc dạy chính tả:
Tiếng Việt là một ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập – âm tiết tính. Trong hệ
thống các đơn vị âm ngữ tiếng Việt, âm tiết có vị trí đặc biệt quan trọng. Âm tiết
biểu hiện tập trung nhất, đầy đủ nhất những đặc điểm của tiếng Việt về mặc ngữ
âm. Đồng thời, âm tiết là đơn vị cơ bản trên bình diện biểu hiện của hệ thống các
đơn vị ngữ pháp và hệ thống các đơn vị từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt.
Âm tiết tiếng Việt có thể trực tiếp mang nghĩa và có kích thước giới hạn trùng
với kích thước giới hạn của các đơn vị từ vựng và ngữ pháp: hình vị, từ, câu,..
Cấu trúc âm tiết tiếng Việt chặt chẽ thường bao gồm các thành phần âm vị có vị
trí cố định kết hợp theo một trật tự không thay đổi. Trên chữ viết, mỗi âm tiết
tiếng Việt được ghi thành một khối, tách rời với âm tiết đứng trước và đứng sau
bằng khoảng cách gián đoạn, cho dù âm tiết đó có thể chỉ là một thành tố của cấu
trúc hình vị hay từ. Cấu trúc chữ - âm tiết có sự tương ứng với từng phần trong
cấu trúc âm tiết. Nếu cấu trúc âm tiết bao gồm 5 thành phần: âm đầu, âm đệm,
âm chính, âm cuối và thanh điệu thì cấu trúc chữ - âm tiết cũng bao gồm 5 thành
phần: chữ phụ âm, chữ bán âm, chữ nguyên âm, chữ phụ âm ( hoặc bán âm) và
dấu thamh.
Như vậy, chính tả tiếng Việt về cơ bản là chính tả âm tiết. Viết đúng chính tả
tiếng Việt chủ yếu là biết viết đúng các tổ hợp chữ cái ghi âm tiết. Do đó việc lựa
chọn chữ - âm tiết làm đơn vị để dạy trong quá trình dạy tiếng Việt nói chung,
dạy chính tả nói riêng, cần được coi là vấn đề hiển nhiển, rõ ràng.
Về cơ bản, chính tả Tiếng Việt là chính tả ngữ âm, nghĩa là mỗi âm vị được
ghi bằng một con chữ. Nói cách khác, giữa cách đọc và cách viết thống nhất với
nhau. Đọc như thế nào viết như thế ấy, nếu đọc sai sẽ dẫn đến viết chữ sai. Trong
giờ học chính tả học sinh sẽ xác định được cách viết đúng, (đúng chính tả) bằng
việc tiếp nhận chính xác âm thanh của lời nói. (Ví dụ: Hình thức chính tả nghe viết). Cơ chế của cách viết đúng là xác lập được mối liên hệ giữa âm thanh và
chữ viết. Giữa đọc và viết, giữa tập đọc và viết chính tả (chính tả nghe - viết) có
mối quan hệ mật thiết với nhau, nhưng lại có quy trình hoạt động trái ngược
nhau. Nếu tập đọc là sự chuyển hoá văn bản viết thành âm thanh thì chính tả lại
là sự chuyển hoá văn bản dưới dạng âm thanh thành văn bản viết. Tập đọc có cơ
sở chuẩn mực là chính âm, còn tập viết (viết chính tả) có cơ sở là chính tự (chính
tự là biểu hiện của quy tắc chính tả ở một đơn vị “từ,...” một từ xét về mặt chính
tả được gọi là một chính tự).
Ta thường nói rằng chính tả Tiếng Việt là chính tả ngữ âm học, giữa cách đọc
và cách viết thống nhất với nhau là nói về nguyên tắc chung, còn trong thực tế,
sự biểu hiện của mối quan hệ giữa đọc (phát âm) và viết (viết chính tả) khá
phong phú và đa dạng, mà chính tả Tiếng Việt không dựa hoàn toàn vào cách
phát âm thực tế của các phương ngữ đều có những sai lệch so với chính âm, nên
không thể thực hiện phương châm “Nghe như thế nào, viết như thế ấy” được.
6
Mặc dù chính tả Tiếng Việt là chính tả ngữ âm học, nhưng trong thực tế muốn
viết đúng chính tả thì việc nắm nghĩa của từ rất quan trọng. Hiểu nghĩa của từ là
một trong những cơ sở giúp người học viết đúng chính tả: Ví dụ: Nếu giáo viên
đọc một từ có hình thức ngữ âm là “Za” thì học sinh có thể lúng túng trong việc
xác định hình thức chữ viết của từ này. Nhưng nếu đọc là “gia đình” hoặc “da
thịt” hay “ ra vào ” (đọc trọn vẹn từ, mỗi từ gắn với một nghĩa xác định) thì học
sinh dễ dàng viết đúng chính tả. Vì vậy, có thể hiểu rằng chính tả Tiếng Việt còn
là loại chính tả ngữ nghĩa. Đây là một đặc trưng quan trọng về phương tiện ngôn
ngữ của chính tả Tiếng Việt.
b) Cơ sở tâm lý học của việc dạy chính tả:
Chính tả tiếng Việt thuộc loại chính tả ngữ âm. Viết chính tả tiếng Việt chủ
yếu là ghi âm tiết, thể hiện các thành phần âm vị trong cấu trúc âm tiết thành chữ
- âm tiết. Các chữ cái biểu tượng âm thanh, nói đúng hơn là biểu tưởng thính
giác âm thanh, được tiếp nhận qua thính giác lời nói. Bên cạnh biểu tượng thính
giác âm thanh, viết đúng chính tả còn là sự tái tạo các mẫu chữ, là kỹ năng ghi
nhớ các biểu tượng thị giác về chữ - âm tiết và cách viết âm tiết. Biểu tượng thị
giác về dạng thức viết có quan hệ với nhau. Mối liên hệ chữ - nghĩa được phản
ánh trong qua trình tiếp nhận, ghi nhớ và thể hiện bằng chữ viết. Như vậy, lí luận
tâm lí học hiện đại đề cao vai trò của ý thức, phát huy tính tích cực tự động hóa
trong việc hình thành kỹ năng chính tả ( theo D.N Bôgôiavlenxki, Các nguyên
tắc tâm lí của việc dạy chính tả, người dịch Lê A). Xuất phát từ cơ sở tâm lí học,
trong dạy học chính tả cần sử dụng phương pháp thích hợp có tác dụng khiêu gợi
và kích thích sự chú ý, tích cực hóa hoạt động tư duy của học sinh, làm cho học
sinh nhận thức được đầy đủ ý nghĩa thực tiễn của chính tả trong hoạt động giao
tiếp bằng ngôn ngữ viết. Những yêu cầu của kỹ năng chính tả được học sinh tiếp
nhận và tự giác rèn luyện để ứng dụng có hiệu quả trong thực tiễn.
1.1.2. Phương pháp, nguyên tắc dạy học của việc dạy chính tả:
a) Nguyên tắc dạy học chính tả theo khu vực:
Nguyên tắc này đòi hỏi nội dung dạy chính tả phải sát với phương ngữ, nghĩa
là xuất phát từ tình hình thực tế mắc lỗi chính tả của học sinh ở từng khu vực,
từng Miền để hình thành nội dung giảng dạy. Có xác định được những trọng
điểm chính tả cần dạy cho từng khu vực, từng địa phương thì mới tối ưu hóa việc
dạy chính tả. Chẳng hạn:
- Phương ngữ Bắc Trung Bộ: Chưa phân biệt rõ hai thanh hỏi (?) và thanh (~).
- Phương ngữ Nam Bộ: Có hiện tượng đồng hóa hai phụ âm đầu v và z khi phát
âm. Cũng tương tự, đồng hóa hai cặp phụ âm cuối: n và ng, t và c.
Từ những nguyên tắc trên giáo viên bên cạnh nắm vững các trọng điểm chính tả,
giáo viên cần có sự miền dẻo, linh hoạt, sáng tạo trong giảng dạy những nội dung
cụ thể sao cho sát hợp với đối tượng học sinh mình dạy.
b) Nguyên tắc kết hợp giữa chính tả có ý thức và không có ý thức của việc dạy
chính tả:
7
Như chúng ta đã biết, mục đích của việc dạy chính tả là hình thành cho học sinh
năng lực viết thành thạo, thuần thục chữ viết Tiếng Việt theo các chuẩn mực
chính tả, nghĩa là giúp học sinh hình thành các kĩ xảo chính tả.
Hình thành cho học sinh kĩ xảo chính tả là giúp học sinh viết đúng chính tả
một cách tự động hoá, không cần phải trực tiếp nhớ tới các quy tắc chính tả. Để
đạt được điều này có thể tiến hành theo hai cách:
* Có ý thức và không có ý thức:
- Cách không có ý thức (còn gọi là phương pháp máy móc cơ giới): Chủ trương
dạy chính tả không cần đến sự tồn tại của các quy tắc chính tả, không cần hiểu
mối quan hệ giữa ngữ âm và chữ viết, những cơ sở từ vựng và ngữ pháp của
chính tả mà chỉ đơn thuần là việc viết đúng từng trường hợp, từng từ cụ thể:
Cách dạy học này tốn nhiều thời gian công sức, không thúc đẩy được sự phát
triển của tư duy chỉ củng cố trí nhớ máy móc ở một mức độ nhất định.
- Cách có ý thức (còn gọi là phương pháp có ý thức, có tính tự giác): Chủ trương
cần phải bắt đầu từ việc nhận thức các quy tắc, các mẹo luật chính tả.
Trên cơ sở đó tiến hành luyện tập và từng bước đạt tới các kĩ xảo chính tả. Việc
hình thành kĩ xảo chính tả bằng con đường có ý thức sẽ tiết kiệm được thời gian
công sức. Đó là con đường ngắn nhất và có hiệu quả cao. Đối với học sinh Tiểu
học, cần vận dụng cả hai cách có ý thức và không có ý thức. Trong đó: Cách
không có ý thức chủ yếu được sử dụng ở các lớp đầu cấp. Cách có ý thức cần
được sử dụng thích hợp ở các lớp cuối cấp của bậc Tiểu học.
1.2.Cở sở thực tiễn:
1.2.1. Nội dung dạy học chính tả:
Ở chương trình Tiểu học nội dung dạy học chính tả được phân bố như sau:
a) Phân bố chương trình dạy chính tả:
Chương trình sách giáo khoa ở Tiểu học gồm hai quyển sách giáo khoa Tiếng
Việt 3 ( Tập 1, Tập 2) được phân bố ở 35 tuần học, có 04 tuần giành cho ôn tập
( tuần 9: ôn tập giữa học kỳ I, tuần 18: ôn tập cuối học kỳ I, tuần 27: ôn tập giữa
học kỳ II, tuần 35: ôn tập cuối học kỳ II), được bố trí xen kẽ với các phần Tập
đọc, Luyện từ và câu, Tập làm văn theo từng tuần. Trong đó phân môn chính tả
được phân bố 02 tiết / tuần / năm học ( 31 tuần x 2 tiết = 62 tiết, có 04 tiết chính
tả tập chép, mỗi tuần xen kẻ 01 tiết chính tả tập chép ở tuần 1, 3, 5, 7, có 06 tiết
chính tả nhớ viết, mỗi tuần xen kẻ 01 tiết chính tả nhớ viết ở tuần 8, 16, 21, 28,
30, 31 và 50 tiết chính tả nghe viết. Nội dung chương trình sách giáo khoa mới
đã thể hiện khá đầy đủ các nội dung chính tả tiếng Việt. Đó là việc giải quyết các
vấn đề cụ thể:
- Trước hết, phải “ chính tả” hình nét các chữ. Mỗi chữ ( gọi là chữ cái, con chữ,
tương đương với một âm vị, chữ, tương đương với âm tiết ) được thể hiện bằng
hình nét thành dạng chữ, kiểu chữ.
- Trong trường hợp giữa âm và chữ có sự tương ứng 1 - 1 thì chính tả phải đảm
bảo sự tương ứng đó, nghĩa là biểu hiện một âm bằng một chữ cái tương ứng.
8
- Thực hiện các quy tắc viết hoa cho tất cả các trường hợp viết hoa của chữ viết
tiếng Việt hiện đại, các quy tắc phiên âm, dùng dấu câu,…
Với các nội dung chủ yếu này, hệ thống bài tập trong sách giáo khoa hiện nay
nhìn chung đã kế thừa những ưu điểm của sách giáo khoa chương trình cải cách
giáo dục về nội dung, các yêu cầu kỹ năng chính tả cũng như cách trình bài các
bài chính tả. Nội dung chính tả trên được phản ánh qua việc phân bố của chương
và sách giáo khoa Tiểu học ở lớp 3 như sau:
* Các mức độ rèn luyện:
- Chính tả đoạn, bài: Nghe – viết, nhớ – viết một bài hoặc một đoạn bài có độ
dài trên dưới 60 chữ ( tiếng).
- Chính tả âm, vần: Phân biệt các âm tiết dễ lẫn phụ âm, vần, thanh, viết theo vị
trí nhớ viết các bài học thuộc lòng.
* Các chỉ tiêu cần đạt:
- Viết đúng mẫu chữ, đúng chính tả, không mắc quá 05 lỗi/ 1 bài/ 60 tiếng ( chữ).
Học sinh không vừa đánh vần, vừa viết, có ý thức phân biệt các âm, vần dễ lẫn
trên chữ viết.
- Đạt tốc độ viết từ 60 – 70 chữ / 15 phút.
- Bồi dưỡng cho học sinh một số đức tính, thái độ cần thiết trong công việc như:
cẩn thận, chính xác, có óc thẩm mĩ, lòng tự trọng và tinh thần trách nhiệm.
b) Sách giáo khoa:
Ở chương trình Tiểu học nội dung dạy chính tả ở sách giáo khoa được biên
soạn theo cấu trúc kiến thức, yêu cầu tăng dần lên từng lớp từ lớp một đến lớp
năm. Sự khác biệt và các yêu cầu về kiến thức cũng như kỹ năng của từng khối
lớp được thể hiện thông qua các bài dạy cụ thể của sách giáo khoa:
- Phần chính tả trong sách giáo khoa lớp 3 được bố trí xen kẽ với các phần Tập
đọc, Luyện từ và câu, Tập làm văn theo từng tuần.
- Cấu tạo một bài chính tả trong sách giáo khoa nhìn chung gồm các phần sau:
+ Chính tả đoạn – bài: Quy định khối lượng bài học sinh phải viết trong giờ học
chính tả. Ví dụ: Dạy Chính tả (Nghe - viết): Chiếc áo len - Viết đoạn 4 (TV3-Tập
1, trang 22).
+ Chính tả âm – vần : Luyện viết các âm, vần khó hay các âm, vần dễ lẫn do ảnh
hưởng tiêu cực của các phát âm địa phương. Mỗi bài tập chính tả âm – vần
thường gồm nhiều bài tập nhỏ đồng dạng. Tùy theo từng đối tượng học sinh cụ
thể, giáo viên có thể lượt bớt 1 hoặc 2 bài tập nhỏ đồng dạng hoặc giao cho mỗi
nhóm học sinh làm một bài rồi chữa chung để tất cả học sinh đều nắm được cách
viết. Bài tập khắc phục lỗi chính tả do ảnh hưởng tiêu cực của phát âm địa
phương là kiểu bài tập lựa chọn. Giáo viên cần tiến hành điều tra co bản, khảo
sát tình hình mắc lỗi chính tả của học sinh địa phương mình để xác định được
các trọng điểm chính tả.
Ví dụ: Bài tập 3b) - TV3, Tập 1, trang 132
Chọn từ thích hợp trong ngoặc đơn điền vào chỗ trống trong các câu sau:
- (bão, bảo) : Mọi người ….. nhau dọn dẹp đường làng sau cơn …..
9
- (vẽ, vẻ) : Em ….. mấy bạn …..mặt tươi vui đang trò chuyện.
- (sữa, sửa): Mẹ em cho em bé uống ….. rồi …..soạn đi làm.
1.2.2. Hoạt động dạy học chính tả:
Đặc điểm tình hình chung của trường, lớp khi thực hiện đề tài: “ Một số biện
pháp nâng cao hiệu quả dạy chính tả cho học sinh lớp 3 ” đạt kết quả bản thân
tôi thấy có những thuận lợi và khó khăn như sau:
a) Thuận lợi:
- Sĩ số học sinh không quá đông, thuận lợi cho việc kiểm tra (chấm bài viết chính
tả thường xuyên, phát hiện lỗi sai kịp thời để học sinh sữa chữa và khắc phục
viết đúng).
- Học sinh có đầy đủ vở chính tả và vở bài tập Tiếng Việt (ghi đầy đủ nội dung
bài tập chính tả).
- Giáo viên có kế hoạch rèn học sinh viết đúng chính tả ngay từ tuần đầu năm
học (thống kê phân loại học sinh học yếu chính tả để theo dõi thường xuyên vào
những giờ chính tả).
b) Khó khăn:
- Tình hình thực tế học sinh lớp ba ở đây vốn từ các em còn hạn chế. Các em chỉ
hiểu nghĩa của các từ ngữ ở mức độ đơn giản trong khi từ ngữ Tiếng Việt vô
cùng phong phú.
- Đa số gia đình các em sống về nghề nông còn nghèo, cha mẹ còn lo đi làm
đồng để kiếm sống, chưa thực sự quan tâm đến việc học của các em.
- Phần đông học sinh lớp chưa có ý thức về học chính tả.
1.2.2.1 Khảo sát thực trạng:
Để xây dựng được kế hoạch thực hiện nghiên cứu đề tài:“ Một số biện pháp
nâng cao hiệu quả dạy chính tả cho học sinh lớp 3 ” cho học sinh của lớp, tôi
đã tiến hành khảo sát tình hình thực tế việc viết chính tả của học sinh ngay từ đầu
năm học. Qua khảo sát đầu năm tôi thống kê học sinh còn mắc lỗi chính tả rất
nhiều, có một số học sinh viết sai 14 lỗi trong một bài chính tả. Cụ thể khảo sát
chất lượng môn Tiếng Việt đầu năm trong đó có bài viết chính tả tôi thống kê số
lỗi chính tả như sau:
Tổng số
HS đầu
năm
Học lực phân môn chính tả đầu năm
Giỏi
Khá
Số
lượng
Tỷ
lệ
Số
lượng
Tỷ
lệ
6
21,4 %
4
14,2 %
Trung bình
Số
Tỷ
lượng
lệ
Yếu
Số
lượng
Tỷ
lệ
13
46,4 %
28
5
17,8 %
Cụ thể qua bài chính tả khảo sát đầu năm số lỗi học sinh còn mắc lỗi rất nhiều
(có 2 em mắc đến 14 lỗi). Số lỗi học sinh sai qua bài viết: sai 0 - 1 lỗi (4 em),
10
2 - 3 lỗi (8 em), 4 - 5 lỗi (6 em), 6 - 10 lỗi (7 em), 11- 14 lỗi (7 em) trong đó: một
em mắc 11 lỗi, một em mắc 12 lỗi và hai em mắc 14 lỗi.
Điều đó cho thấy kĩ năng viết của các em còn hạn chế làm ảnh hưởng tới kết quả
học tập ở môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác.
1.2.2.2 Nhận định nguyên nhân học sinh thường mắc lỗi chính tả:
- Học sinh viết sai chính tả chủ yếu do các em bị mất căn bản từ lớp dưới, chưa
nắm vững âm, vần, chưa phân biệt được cách phát âm của giáo viên, chưa hiểu
rõ nghĩa của từ, chưa có ý thức tự học, tự rèn ở nhà, chưa chú ý khi viết chính tả.
- Học sinh viết sai chính tả do một số lỗi sau:
+ Lỗi do vô ý, chưa cẩn thận (như thiếu dấu phụ, thiếu dấu thanh).Ví dụ: mong
muôn ( thiếu dấu sắc).
+ Lỗi về các vần khó (uya, uyu, uênh, oang, oeo, ươu, uyên, uyêt, uêch, …).
+ Lỗi do phát âm sai (at/ac, et/ec, an/ang, iu/iêu, iêc/iêt, ươc/ươt, …).
+ Lỗi do không hiểu nghĩa của từ (để dành/tranh giành, dở dang/giang sơn, …).
+ Lỗi do không nắm được quy tắc chính tả (g chỉ được ghép với a, ă, â, o, ô, ơ, u,
ư và gh, ngh chỉ ghép với e, ê, i ).
Qua thống kê các loại lỗi, tôi thấy học sinh thường mắc các loại lỗi sau:
a) Về thanh điệu: Học sinh chưa phân biệt được hai thanh hỏi và thanh ngã.
* Ví dụ: nghĩ hè (từ đúng: nghỉ hè ); suy nghỉ (từ đúng: suy nghĩ ); sữa lỗi (từ
đúng: sửa lỗi ), …
b) Về âm đầu:
- Học sinh còn viết lẫn lộn một số chữ cái ghi các âm đầu sau đây:
+ g/ gh: đua ge, gi bài
+ ng/ ngh: ngỉ nghơi.
+ c/ k: céo cờ, cẹp tóc
+ s/ x : sẻ gỗ, chim xẻ.
+ d/ gi: dữ gìn, da vị .
Qua thực tế giảng dạy trong nhiều năm tôi nhận thấy lỗi về s/ x ; g/gh; ng/ngh;
d/gi là phổ biến hơn cả.
c) Về âm chính:
Học sinh hay mắc lỗi khi viết chữ ghi các âm chính trong các vần sau đây:
+ ai/ay/ây: máy bây (máy bay).
+ ao/au/âu: lâu bàn ghế (lau bàn ghế).
+ oe/eo: sức khẻo (sức khỏe).
+ iu/êu/ iêu: kì dịu (kì diệu).
+ ăm/âm: đỏ thấm (đỏ thắm); tối tâm (tối tăm).
+ăp/âp: gập gỡ (gặp gỡ).
+ ip/iêp: nhân diệp (nhân dịp).
+ ui/ uôi: cuối đầu (cúi đầu); cúi cùng (cuối cùng).
+ ưi/ ươi: trái bửi (trái bưởi); khung cưỡi (khung cửi).
+ ưu/ươu: mươu trí (mưu trí); con hưu (con hươu).
d) Về âm cuối:
11
Học sinh thường viết lẫn lộn chữ ghi âm cuối trong các vần sau đây:
+ at/ac: đất các (đất cát).
+ an/ang: cái bàng (cái bàn).
+ ăt/ăc: mặt quần áo (mặc quần áo).
+ ăn/ăng: khăng quàng (khăn quàng).
+ ât/âc: gậc đầu (gật đầu).
+ ân/âng: vân lời (vâng lời).
+ êt/êch: lệch bệt (lệt bệt)
+ ên/ênh: bện tật (bệnh tật).
+ iêt/iêc: thiếc tha (thiết tha).
+ uôn/uông: mong muống (mong muốn).
+ uôt/uôc: suốc đời (suốt đời).
+ ươn/ương: vường rau (vườn rau).
e) Lỗi viết hoa:
Đây là loại lỗi phổ biến và trầm trọng nhất trong các bài viết của các em, trong
tất cả bài viết của học sinh trong lớp thì chỉ có một em duy nhất không sai lỗi
nào đó là em: Võ Hoàng Linh.
Lỗi viết hoa của các em thường gặp ở 2 dạng:
• Không viết hoa đầu câu, danh từ riêng (tên riêng), tên địa danh:
*Ví dụ: Dạy Chính tả (Nghe - viết): Chiếc áo len - Viết đoạn 4 (TV3-Tập 1,
trang 22).
- Câu: Nằm cuộn tròn trong chiếc chăn bông ấm áp, Lan ân hận quá. Học sinh
viết: “Nằm cuộn tròn trong chiếc chăn bông ấm áp, lan ân hận quá”.
• Viết hoa tùy tiện: có 12/28 em.
* Ví dụ: Nghe – viết: Người mẹ (TV3 - Tập 1), trang 30
- Câu: Thần không hiểu rằng: vì con người mẹ có thể làm được tất cả. Học sinh
lại viết: “Thần không hiểu rằng: Vì con, Người Mẹ có thể làm được tất cả”.
Ngoài ra ở một số bài viết, học sinh trong lớp còn mắc các lỗi khác như: Trình
bày chưa sạch, chữ viết còn thiếu nét, thừa nét (ví dụ: “mềm” lại viết là “mền”;
“miền Nam” lại viết “miềm Nam”).
Qua khảo sát thống kê tôi thấy hầu hết các loại lỗi chính tả các em đều mắc
(kể cả học sinh khá, giỏi) số lỗi mà các em mắc nhiều nhất là lỗi viết hoa, lỗi phụ
âm đầu và lỗi âm chính. So với yêu cầu về kĩ năng viết chính tả (không quá 5 lỗi
trong một bài) thì trình độ kĩ năng viết chính tả của học sinh còn quá thấp (số bài
có từ 6 lỗi trở lên chiếm 41%: khảo sát chính tả đầu năm).
Thực trạng trên đây là rất đáng lo ngại. Vì vậy, bản tôi tiến hành nghiên cứu và
chọn đề tài:“ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy chính tả cho học sinh
lớp 3 ” đề tìm ra nhiều biện pháp giúp đỡ cho học sinh khắc phục lỗi chính tả.
Sau đây tôi xin đề xuất một số biện pháp dạy học chính tả cho học sinh lớp ba
được thể hiện ở chương 2 của đề tài.
CHƯƠNG II
Đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy chính tả cho
12
học sinh lớp 3 trường , huyên Duyên Hải
2.1. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy chính tả cho học sinh:
Trước tình hình học sinh lớp viết còn sai nhiều lỗi chính tả, tôi đã áp dụng một
số biện pháp khắc phục như sau:
2.1.1. Biện pháp luyện phát âm:
Muốn học sinh viết đúng chính tả, trước hết giáo viên phải chú ý luyện phát âm
cho mình và cho học sinh để phân biệt các thanh, các âm đầu, âm chính, âm cuối
vì chữ Quốc ngữ là chữ ghi âm, giữa cách đọc và cách viết thống nhất với nhau.
Nếu giáo viên chưa phát âm chuẩn, do ảnh hưởng của cách phát âm ở địa phương,
sinh ra và lớn lên trong môi trường phát âm như vậy nên các em cũng có thói quen
phát âm sai dẫn đến hiện tượng viết sai chính tả.
* Ví dụ: ăn cơm - en cơm; hoa sen - hoa xen; cái vung - cái dung; cái kéo - cái
kếu; đồng bào - đồng bồ,… Giáo viên phải phát âm rõ ràng, tốc độ vừa phải mới
có thể giúp học sinh viết đúng chính tả.
2.1.2. Biện pháp phân tích so sánh:
Ngoài cách luyện phát âm cho học sinh của giáo viên, khâu phân tích so sánh
tiếng, từ cũng rất quan trọng trong giờ học chính tả: với những tiếng khó, giáo
viên áp dụng biện pháp phân tích cấu tạo tiếng, so sánh. Với những tiếng dễ lẫn
lộn, giáo viên cần nhấn mạnh những điểm khác để học sinh ghi nhớ.
* Ví dụ : Dạy bài Chính tả (Tập chép): Cậu bé thông minh – TV3 -Tập 1, trang 6
Cho học sinh nhìn bảng viết đoạn 3: từ “Hôm sau …đến xẻ thịt chim”.Trước khi
viết bài, giáo viên phân tích cho học sinh hiểu nghĩa một số tiếng dễ lẫn lộn như:
+ rèn ≠ rằn. Giúp học sinh hiểu nghĩa rèn trong câu là làm cho con dao sắc bén
còn rằn là rằn ri. Nếu học sinh khó hiểu có thể cho học sinh đặt câu để hiểu rõ hơn
(Mẹ tôi rèn chiếc dao này thật bén – Cu Tuấn mặc bộ đồ rằn đỏ).
+ sắc ≠ sắt: sắc là sắc bén còn sắt là thanh sắt (vật kim loại).
+ xẻ (thịt chim) ≠ sẻ: xẻ là mổ xẻ, bổ ra còn sẻ là chim sẻ, san sẻ.
Qua phần bài tập: Điền vào chỗ trống vần an hay ang?
- đ .`… hoàng.
- đ .`… ông.
- s……loáng.
Học sinh tiến hành làm bài tập, sau đó giáo viên sửa bài và cho học sinh phân
tích từ:
- đàng hoàng ≠ đàn (tiếng đàn)
- đàn ông ≠ đàng (đường)
- sáng loáng ≠ sán (sán: giun, lãi) nghĩa khác là tiến đến gần.
* Dạy bài: Nghe – viết: Ông ngoại - (TV3 - Tập 1, trang 35) – Chép đoạn 3
Trong đoạn viết có câu: “Trong cái vắng lặng của ngôi trường cuối hè, …trong
đời đi học của tôi sau này”.
Khi viết tiếng “ lặng ” học sinh dễ lẫn lộn với tiếng “ lặn ”, giáo viên yêu cầu học
sinh phân tích cấu tạo hai tiếng này:
- Lặng = L + ăng + thanh nặng
13
- Lặn = L + ăn + thanh nặng
So sánh để thấy sự khác nhau, tiếng “ lặng ” có âm cuối là “ ng ” còn tiếng “ lặn
” có âm cuối là “ n ”. Học sinh ghi nhớ cách phát âm và cách viết sẽ không viết
sai.
2.1.3. Giải nghĩa từ:
Do phương ngữ của từng vùng miền khác nhau, cách phát âm đôi khi chưa thống
nhất với chữ viết nên học sinh cần nắm rõ nghĩa của từ để viết cho đúng.
* Dạy Chính tả (Tập chép): Chị em - (TV3 – Tập1, trang 27)
Học sinh viết: Để chị trải chiếu, buông màn cho em.
Học sinh đọc “buôn màn” nhưng viết “buông màn”, do đó học sinh cần hiểu
“buông” có nghĩa là thả màn xuống, còn “buôn” là buôn bán, vì vậy phải viết là
“buông màn”.
* Dạy Chính tả (Nghe – viết): Người mẹ (TV3 – Tập 1, trang 30)
Nội dung viết: Nhờ Thần Đêm Tối chỉ đường, bà vượt qua bao nhiêu khó khăn,
hi sinh cả đôi mắt của mình để giành lại đứa con đã mất.
Học sinh đọc “dành” nhưng viết “giành”. Giáo viên giúp học sinh hiểu nghĩa:
giành là tranh giành, giành phần hơn về mình còn dành là để dành (dành dụm, dỗ
dành).
Việc giải nghĩa từ thường được thực hiện trong tiết Tập đọc, Luyện từ và câu,
Tập làm văn, nhưng nó cũng là việc làm rất cần thiết trong tiết chính tả khi mà học
sinh không thể phân biệt từ khó dựa vào phát âm hay phân tích cấu tạo tiếng. Có
nhiều cách để giải nghĩa từ cho học sinh. Giáo viên chú giải từ mới ở phân môn
Tập đọc kết hợp đặt câu. Nếu học sinh đặt câu đúng tức là học sinh đã hiểu nghĩa
từ; tìm từ cùng nghĩa, trái nghĩa, miêu tả đặc điểm hoặc sử dụng vật thật, mô hình,
tranh ảnh,… Với những từ nhiều nghĩa giáo viên phải đặt từ đó trong từng hoàn
cảnh cụ thể để giải nghĩa từ cho học sinh hiểu và nắm.
2.1.4. Giúp học sinh ghi nhớ mẹo luật chính tả:
Ngay từ lớp Một, các em đã được làm quen với luật chính tả đơn giản như các
âm đầu : k, gh, ngh chỉ kết hợp với âm i, e, ê và âm g chỉ kết hợp với : a, ă, â, o, ô,
ơ, u, ư. Giáo viên còn có thể cung cấp thêm cho học sinh một số mẹo luật khác
như sau:
a) Phân biệt âm đầu s/x : Đa số các từ chỉ tên cây và tên con vật đều bắt đầu
bằng s (sắn, sung, sầu riêng, sứ, sả, sim, sậy, …; sáo, sên, sâu, sán, sóc, sói, sư tử,
…).
b) Phân biệt âm đầu tr/ch : Đa số các từ chỉ đồ vật trong nhà và tên con vật đều
bắt đầu bằng ch (chổi, chum, chén, chảo, chai, chày, chăn, chiếu,…; chó, chuột,
châu chấu, chuồn chuồn, chào mào, chiền chiện,…).
c) Luật trầm – bổng (luật hỏi – ngã trong từ láy) :
Có thể cho học sinh học thuộc hai câu thơ sau:
Chị Huyền mang Nặng Ngã đau
Anh Ngang, Sắc thuốc Hỏi đau chỗ nào.
Nghĩa là: Thanh Huyền, Nặng, Ngã kết hợp với dấu Ngã.
14
Thanh Ngang, Sắc, Hỏi kết hợp với dấu Hỏi.
* Ví dụ: Âm trầm
+ Huyền – Ngã: vững vàng, vẽ vời, vồn vã, lững lờ, sẵn sàng,…
+ Nặng – Ngã: đẹp đẽ, nhẹ nhõm, mạnh mẽ, lạnh lẽo, vội vã,…
+ Ngã – Ngã: dễ dãi,, nhõng nhẽo, lỗ lã, nghễnh ngãng,…
* Ví dụ: Âm bổng
+ Huyền – Hỏi: vui vẻ, nho nhỏ, lẻ loi, trong trẻo,…
+ Sắc – Hỏi: vắng vẻ, mát mẻ, nhắc nhở, trắng trẻo, sắc sảo, vất vả,…
+ Hỏi – Hỏi: hổn hển, lỏng lẻo, thỏ thẻ, thủ thỉ, rủ rỉ,…
Cũng có thể cung cấp thêm cho học sinh mẹo luật sau:
Từ có âm đầu là M, N, Nh, V, L, D, Ng thì viết là dấu ngã (Mình Nên Nhớ Viết
Là Dấu Ngã).
*Ví dụ: M: mĩ mãn, mã lực, từ mẫu, cần mẫn,…
N: nỗ lực, trí não, truy nã, nữ giới,…
Nh: nhẫn nại, nhẵn bóng, quấy nhiễu, nhõng nhẽo,…
V: vĩnh viễn, vỗ về, vũ trang, võ nghệ, vũ trụ,…
L: lễ phép, lữ hành, kết liễu, thành lũy, lạnh lẽo, …
D: dã man, dã tràng, dũng cảm, dỗ dành, hướng dẫn, diễm lệ,…
Ng: ngưỡng mộ, hàng ngũ, ngữ nghĩa, ngôn ngữ, ngỡ ngàng, ngã (té),..
Ngoài 7 âm đầu trên các từ Hán Việt đều viết dấu hỏi:
* Ví dụ: ảm đạm, ẩm thực, ủy ban, quỷ quyệt, xả thân, kỉ niệm, tỉ mỉ,..
Ngoại lệ: quỹ đạo, thủ quỹ, xã hội, kĩ thuật, mĩ thuật,…
2.1.5. Biện pháp giúp học sinh viết đúng chính tả qua các bài tập:
Các dạng bài tập chính tả thường gặp ở lớp ba trong HKI là các dạng bài: Bài
tập điền vào chỗ trống (Bài tập điền khuyết); Bài tập tìm từ; Bài tập tìm tiếng; Bài
tập giải câu đố; Bài tập lựa chọn. Sang HKII có thêm dạng Bài tập đặt câu (Bài tập
phân biệt hai từ trong từng cặp từ).
Mỗi bài viết chính tả giáo viên cần luyện học sinh phát âm từ khó, phân tích so
sánh tiếng, từ khó, giải nghĩa từ, ghi nhớ mẹo luật chính tả. Ngoài nhiệm vụ trên
giáo viên còn hướng dẫn học sinh làm các bài tập khác nhau để giúp học sinh tập
tận dụng các kiến thức đã học, làm quen với việc sử dụng từ trong văn cảnh cụ thể.
Sau mỗi bài tập, giáo viên giúp các em rút ra các qui tắc chính tả để ghi nhớ.
a) Bài tập điền vào chỗ trống: Với dạng bài tập này thường giúp học sinh điền
đúng âm đầu, vần vào chỗ chấm:
* Ví dụ: Bài tập 2 a) – TV3, Tập 1, trang 22
Điền vào chỗ trống tr hay ch ?
- Cuộn …òn, …ân thật, chậm …ễ
* Bài tập 3a) –TV3, Tập 1, tr.48
Điền vào chỗ trống s hay x ?
Giàu đôi con mắt, đôi tay
Tay ……iêng làm lụng, mắt hay kiếm tìm
Hai con mắt mở, ta nhìn
15
Cho sâu, cho ……áng mà tin cuộc đời.
Xuân Diệu
* Dạy Chính tả (Nghe – viết) : Ông ngoại (đoạn 3) - TV3, Tập 1, trang 35
Nội dung viết: Ông còn nhấc bổng tôi trên tay, cho gõ thử vào mặt da loang lổ
của chiếc trống trường.
Một số học sinh viết sai lỗi “da” viết là “gia”, cũng có em viết là “ra”. Tôi phân
biệt cho các em biết nghĩa của hai từ da và gia: da viết là d – với các nghĩa có liên
quan tới “da thịt”, trong “da diết”; còn gia viết là gi trong các trường hợp còn lại,
với các nghĩa là “nhà” (ví dụ: gia đình), chỉ người có học vấn, chuyên môn (ví dụ:
chuyên gia), nghĩa khác (gia vị, gia súc,…) Sau phần bài viết tôi tự ra bài tập để
các em hiểu thêm. Nội dung bài tập như sau:
* Điền vào chỗ trống r, d hay gi ?
- …a vào; …a dẻ;…a đình.
- …a rả; …a thịt, tham …a.
* Điền vào chỗ trống en hay eng ? (BT 2b) – TV 3, tập 1, trang 41)
Tháp Mười đẹp nhất bông s……
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ.
Bảo Định Giang
Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây ch……đá lá ch……hoa .
Bà Huyện Thanh Quan
* Điền vào chỗ trông iên hay iêng ? (Bài tập 2b) – TV3, Tập 1, trang 56)
Trên trời có g….. nước trong.
Con k….. chẳng lọt, con ong chẳng vào.
( Là quả gì)
* Điền vào chỗ trống en hay oen ? (Bài tập 2 – TV3, Tập 1, trang 60)
- nhanh nh..., nh….. miệng cười, sắt h….gỉ, h.... nhát.
b) Bài tập tìm từ:
Học sinh tìm từ ngữ chứa âm, vần dễ lẫn qua gợi ý nghĩa của từ, qua gợi ý từ
cùng nghĩa, trái nghĩa:
* Bài tập 3a) - TV3, Tập 1, trang 52
Tìm các từ chứa tiếng bắt đầu bằng s hoặc x có nghĩa như sau:
- Cùng nghĩa với chăm chỉ : …..
- Trái nghĩa với gần : …..
- (Nước) chảy rất mạnh và nhanh : …..
* Bài tập 3b) - TV3, Tập 1 trang 31
Tìm các từ chứa tiếng có vần ân hoặc âng có nghĩa như sau:
- Cơ thể của người: …..
- Cùng nghĩa với nghe lời: …..
- Dụng cụ đo trọng lượng (sức nặng) : …..
c) Bài tập tìm tiếng :
* Bài tập 2b) - TV3,Tập 1, trang 18
16
Tìm những tiếng có thể ghép với mỗi tiếng sau:
- gắn, gắng
- nặn, nặng
- khăn, khăng
Giúp học sinh ghép đúng:
- gắn: gắn bó, hàn gắn, gắn kết,…
- gắng: cố gắng, gắng sức, gắng lên,…
- nặn: nặn tượng, nặn óc nghĩ, nhào nặn,….
- nặng: nặng nhọc, nặng nề, nặng cân,…
- khăn: khăn tay, khăn quàng, cái khăn,…
- khăng: khăng khăng, khăng khít,…
d) Bài tập giải câu đố:
* Bài tập 2b) - TV3, Tập 1, trang 22
Đặt trên chữ in đậm dấu hỏi hay dấu ngã ? Giải câu đố sau:
Vừa dài mà lại vừa vuông
Giúp nhau ke chỉ, vạch đường thăng băng
(Là cái gì?)
Ngoài ra giáo viên phải kết hợp cho học sinh biết xây dựng cái đúng, loại bỏ cái
sai. Bên cạnh việc cung cấp cho học sinh những qui tắc chính tả, hướng dẫn học
sinh thực hành, luyện tập nhằm hình thành kĩ xảo chính tả, cần đưa ra những
trường hợp viết sai để hướng dẫn học sinh phát hiện sửa chữa rồi từ đó hướng học
sinh đi đến cái đúng.
e) Bài tập lựa chọn:
* Bài tập 3b) - TV3, Tập 1, trang 132
Chọn từ thích hợp trong ngoặc đơn điền vào chỗ trống trong các câu sau:
- (bão, bảo) : Mọi người ….. nhau dọn dẹp đường làng sau cơn …..
- (vẽ, vẻ) : Em ….. mấy bạn …..mặt tươi vui đang trò chuyện.
- (sữa, sửa): Mẹ em cho em bé uống ….. rồi …..soạn đi làm.
g) Bài tập đặt câu (Bài tập phân biệt):
Với dạng bài tập này sang HKII, học sinh làm quen với bài tập: tập đặt câu để
phân biệt hai từ trong từng cặp từ để hiểu nghĩa của từng cặp từ.
* Bài tập 3b) - TV3, Tập 2, trang 48 (Tuần 23).
Đặt câu phân biệt hai từ trong từng cặp từ sau:
+ trút – trúc; lụt – lục
* Ví dụ: + trút: Trời mưa như trút nước.
+ trúc: Bố em có cây sáo trúc.
+ lụt: Năm nay ở nước ta có nhiều lũ lụt.
+ lục: Bé lục tung đồ đạt trong nhà.
h) Một số bài tập ngoài giờ học chính khóa :
Ngoài các bài tập trên, giáo viên còn tổ chức cho học sinh tham gia trò chơi
viết đúng chính tả qua các buổi học phụ đạo với các dạng bài tập ngoài bài. Nội
17
dung các bài tập giáo viên đưa ra phải phù hợp với từng đối tượng học sinh nhằm
gây sự hứng thú trong giờ học, cụ thể các bài tập sau:
● Bài tập trắc nghiệm :
Khoanh tròn vào chữ cái trước từ ngữ viết đúng chính tả:
a - suy nghỉ
b - nghĩ hè
c - nghỉ phép
d - im lặn
e - lặn lội
g - vắng lặn
h - muối cam
i - hạt múi
k - sương muối
Đáp án: khoanh vào c, e, k
● Bài tập điền Đúng – Sai :
Điền chữ Đ vào ô trống trước những chữ viết đúng chính tả và chữ S vào ô trống
trước những chữ viết sai chính tả:
a chim xẻ
mổ xẻ
Đáp án: S chim xẻ
Đ mổ xẻ
dìu dắt
dìu biếc
mải miết
mãi mãi
Đ dìu dắt
S dìu biếc
Đ mải miết
Đ mãi mãi
● Bài tập nối tiếng :
Nối các tiếng ở cột A với các tiếng ở cột B để tạo thành những từ viết đúng chính
tả:
Cột A
Cột B
a
mong
1
tròn
b
rau
2
khổ
c
cuộn
3
muốn
d
khuôn
4
cau
e
buồng
5
muống
Đáp án: a - 3 ( mong muốn); b – 5 ( rau muống); c – 1 ( cuộn tròn); d – 2 (khuôn
khổ) ; e – 4 (buồng cau).
● Bài tập phát hiện:
Tìm từ sai chính tả trong các câu sau và sửa lại cho đúng:
- Dẫu các cháu không dúp gì được, nhưng ông cũng thấy lòng nhẹ hơn.
- Một ngôi xao chẳng sáng đêm.
- Chỉ có vần trăng vẫn thao thức như canh gát trong đêm.
- Anh cảm thấy dễ chiệu và đầu óc bớt căng thẳng.
- Hôm đó, ông lão đang ngồi sưỡi lửa thì con đem tiền về.
2.1.6. Giúp học sinh viết dúng chính tả qua các môn học khác:
Không những giúp học sinh viết đúng chính tả ở các giờ học chính tả mà
chúng ta còn giúp học sinh viết đúng chính tả trong các môn học khác như: Tập
làm văn, Luyện từ và câu, Đạo đức, Tự nhiên và xã hội, Toán, Thủ công,… Đối
với các môn học ghi bài vào vở, học sinh thường ghi đề sai, giáo viên thường
xuyên theo dõi vở học hằng ngày để phát hiện lỗi sai và sửa chữa kịp thời.
* Ví dụ: + Đạo đức: Tự làm lấy việc của mình
18
Học sinh lại viết: Tự làm lấy việt của mình
+ Tự nhiên và xã hội: Hoạt động nông nghiệp
Có học sinh viết: Hoạt động nông ngiệp
+ Dạy Thủ công: Gấp, cắt, dán bông hoa
Học sinh lại viết: Gấp, cắt, dáng bông hoa
+ Dạy Toán : Khi giải bài toán học sinh thường viết sai tên đơn vị như:
“tuổi” lại viết “tủi”, “mét” lại viết “mết". Giáo viên cần sửa chữa kịp thời để các
em không mắc lại lần nữa
Giáo viên còn sửa chữa lỗi sai trong vở bài tập Luyện từ và câu và nhất là phân
môn Tập làm văn, giáo viên cần chú ý hơn vì nếu các em viết văn sai âm, vần,
thanh thì nghĩa sẽ khác đi, bài văn đó sẽ không hoàn hảo và người đọc sẽ không
hiểu ý bài văn viết gì.
Giáo viên cần khuyến khích học sinh không sai lỗi trong vở học sẽ được khen
thưởng bằng những phần thưởng nhỏ như: cục tẩy, nhãn tên, viên phấn,…Với
những em vở được xếp loại A cuối mỗi tháng, giáo viên tuyên dương trước lớp
để cả lớp nêu gương.
2.2. Thiết kế Kế hoạch bài học minh họa dạy học chính tả:
KẾ HOẠCH BÀI DẠY
TUẦN 6
TIẾT 12
CHÍNH TẢ ( Nghe – viết )
BÀI: NHỚ LẠI BUỔI ĐẦU ĐI HỌC
I/ MỤC TIÊU:
1. Kiến thức:
- Nghe - viết trình bài đúng một văn trong bài Nhớ lại buổi đầu đi học. Biết
viết hoa các chữ đầu dòng, đầu câu; ghi đúng các dấu câu.
- Phân biệt được cặp vần khó eo/oeo ( Bài tập 2 ); phân biệt cách viết một số
tiếng có âm đầu hoặc vần dễ lẫn ( s/x, ươn / ương) .( Bài tập 3.b)
2. Kỹ năng: Học sinh viết được đoạn viết trong bài Nhớ lại buổi đầu đi học,
làm đúng bài tập điền vào chổ trống vần eo/oeo, tìm được tiếng có chứa vần ươn/
ương.
3. Thái độ: Giáo dục học sinh có ý thức rèn chữ viết, giữ gìn sách, tập vở.
II/ CHUẨN BỊ:
1. Giáo viên: SGK, Bảng phụ viết sẵn các bài tập chính tả ( Bài tập 2, 3.b).
2. Học sinh: Bảng con, vở, bút, thước.
III/ CÁC HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC:
HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO VIÊN
HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH
1/ Ổn định:
- Giáo viên cho tập thể lớp hát vui: Bài ca đi học - Lớp trưởng bắt giọng cho cả lớp hát
nhạc và lời: Phan Trần Bảng
vui.
19
2/ Kiểm tra bài cũ:
- Giáo viên gọi 02 học sinh lên bảng viết 04 từ:
lẻo khoẻo, bỗng nhiên, nũng nịu, khỏe khoắn. cả
lớp viết bảng con.
- Giáo viên nhận xét, tuyên dương.
3/ Bài mới:
3.1. Giới thiệu bài và nêu mục tiêu, yêu cầu của
tiết học.
3.2. Hướng dẫn nghe - viết:
* Phương pháp: Luyện phát âm, phân tích so
sánh, giải nghĩa từ:
- Giáo viên đọc mẫu 01 lần đoạn văn viết chính tả
trong bài Nhớ lại buổi đầu đi học.
- Giáo viên gọi một, hai học sinh đọc lại đoạn viết
chính tả.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh nhận xét và nêu
câu hỏi tìm hiểu đoạn văn viết chính tả:
+ Tâm trạng của đám học trò mới như thế nào?
+ Hình ảnh nào cho em thấy điều đó ?
+ Đoạn văn có mấy câu ?
+ Trong đoạn văn chữ nào viết hoa ?
- Giáo viên cho học sinh luyện viết từ khó:
+ Giáo viên đọc HS viết bảng con: bỡ ngỡ, quãng
trời, ngập ngừng, rụt rè. (Hướng dẫn phân tích
cho học sinh lỗi phổ biến dễ sai )
- Giáo viên yêu cầu học sinh nêu những lưu ý khi
viết chính tả.
- Giáo viên đọc HS viết đoạn chính tả vào vở.
+ Giáo viên đọc thông thả từng câu, cụm từ.
+ Giáo viên theo dõi, uốn nắn, giúp đỡ học sinh.
- Giáo viên đọc lại đoạn chính tả cho học sinh dò
lại bài.
- Giáo viên chấm sửa bài:
+ Giáo viên yêu cầu học sinh tự chữa lỗi bằng viết
chì.
+ Giáo viên nhận xét bài viết của học sinh.
3.3. Hướng dẫn học sinh làm bài tập:
* Mục tiêu: Giúp học sinh phân biệt được cặp vần
khó eo/oeo ( Bài tập 2 ); phân biệt cách viết một
số tiếng có âm đầu hoặc vần dễ lẫn ( s/x, ươn /
ương) .( Bài tập 3.b)
20
- 02 học sinh lên bảng viết: lẻo khẻo,
bỗng nhiên, nũng nịu, khỏe khoắn,
Cả lớp viết bảng con.
- Học sinh lắng nghe.
- Học sinh lắng nghe.
- 02 Học sinh đọc lại đoạn văn viết
chính tả.
- Mấy cậu học trò mới rất bỡ ngỡ.
- Hình ảnh: đứng nép bên người thân,
đi từng bước nhẹ,…….
- Đoạn viết có 3 câu.
- Những chữ đầu câu.
- HS viết bảng con.
- HS nêu cách ngồi, tư thế, khoảng
cách,…. .
- HS viết chính tả.
- HS dò lại bài.
- HS thực hiện sửa chữa bài.
- HS nhận xét, lắng nghe.
* Hình thức: Tổ chức cho sinh làm cá nhân,
nhóm.
* Phương pháp: Giúp học sinh ghi nhớ mẹo luật
chính tả, Biện pháp giúp học sinh viết đúng chính tả
qua các bài tập:
- Bài tập 2:
- 1HS đọc yêu cầu bài tập.
+ Giáo viên yêu cầu học sinh đọc yêu cầu bài tập 2 - HS làm vào vở bài tập – 04 HS lên
+ Giáo viên tổ chức cho học sinh làm cá nhân.
bảng làm bài tập.
- Học sinh nhận xét và đọc lại lời
+ Giáo viên nhận xét, chốt lại lời giải đúng và giải, ghi vào vở bài tập.
tuyên dương.
- nhà nghèo; đường ngoằn ngoèo;
cười ngặt nghẽo; ngoẹo đầu.
- Bài tập 3. b):
-1HS đọc bài tập.
+ Giáo viên yêu cầu học sinh đọc yêu cầu bài tập
3.b)
- Các nhóm tự làm bài .
+ Giáo viên tổ chức cho học sinh làm nhóm.
- Đại diện các nhóm lên bảng trình
bài kết quả thảo luận.
+ Giáo viên nhận xét, chốt lại lời giải đúng và - Học sinh nhận xét và đọc lại lời
tuyên dương.
giải, ghi vào vở bài tập.
- Lời giải : mướn, thưởng, nướng.
4/ Củng cố - dặn dò:
- Học sinh lắng nghe.
- Giáo viên nhận xét tiết học.
- Giáo viên biểu dương những học sinh viết đẹp và
làm bài tập tốt.
- Học sinh thực hiện yêu cầu của
- Giáo viên yêu cầu học sinh xem lại bài tập và giáo viên.
viết lại từ khó.
- Chuẩn bị cho tiết chính tả tập chép: Trận bóng
dưới lòng đường.
KẾT LUẬN
1. Những vấn đề chính đã được giải quyết trong đề tài:
1.1. Phân tích cơ sở lý luận của đề tài:
Qua việc trình bày cơ sở lý luận, tìm hiểu thực trạng dạy và học chính tả, cơ
sở thực nghiệm… có thể cho phép nêu ra những giả định bước đầu về tính khoa
học, đúng đắn của đề tài: :“ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy chính tả
cho học sinh lớp 3 ”.
Theo kinh nghiệm, trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm của mỗi giáo viên
có những phương pháp, thủ thuật riêng trong giảng dạy và rèn luyện năng lực
chính tả cho học sinh của lớp mình. Ở đây, bản thân tôi xin nêu một số điều cần
lưu ý trong việc dạy và học chính tả như sau:
21
+ Cũng như những môn học khác, nhất là xu thế xã hội phát triển hiện nay
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đòi hỏi có sự đổi mới về nội dung
phương pháp dạy học. Đòi hỏi người chủ nhân tương lai của Đất nước vừa giỏi
chuyên môn vừa phải có đạo đức, phẩm chất và nhân cách tốt. Như bất kì môn
học nào khác, ở môn Tiếng Việt cũng có sự điều chỉnh về nội dung, phương pháp
dạy học để đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội.
+ Đặc biệt xem trọng yêu cầu thực hành trong quá trình học tập kết hợp việc
rèn luyện cả bốn kỹ năng: Nghe – nói – đọc – viết cho học sinh.
+ Nhận thức và xác định thật nghiêm túc vai trò, vị trí, nhiệm vụ của việc dạy
chính tả cho học sinh ở trường Tiểu học, góp phần bảo tồn và giữ gìn trong sáng
của tiếng Việt.
+ Phải nắm vững các phương pháp dạy chính tả ở trường Tiểu học, đồng thời
tuân thủ các bước có tính nguyên tắc khi rèn các khâu của quá trình rèn luyện
chính tả như: Chú trọng phát âm theo phương ngữ kết hợp chính tả có ý thức và
chính tả không có ý thức.
+ Cần phát triển các năng lực tư duy cho học sinh, chống áp đặt máy móc.
+ Giáo viên cần trang bị kiến thức về âm vị học, từ vựng học… và cả ngữ pháp,
văn bản, đặc biệt là những kiến thức hỗ trợ cho việc dạy học chính tả ở trường
Tiểu học.
1.2. Tìm hiểu chương trình Sách giáo khoa, sách giáo viên Tiếng Việt ( Tập
1, 2 ) lớp 3:
Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài người giáo viên phải nắm chặt chẽ
cấu trúc, nội dung, chương trình của Sách giáo khoa, sách giáo viên Tiếng Việt
( Tập 1,2 ) lớp 3, vở bài tập Tiếng Việt ( Tập 1,2 ) lớp 3 và sách tham khảo làm
tài liệu để làm căn cứ cho giảng dạy và áp dụng những kiến thức để thực hiện đề
tài nghiên cứu.
1.3. Khảo sát thực tiễn dạy học chính tả cho học sinh lớp 3 tại đơn vị:
Để có cơ sở và căn cứ để bản thân thực hiện đề tài: :“ Một số biện pháp nâng
cao hiệu quả dạy chính tả cho học sinh lớp 3 ”. Tôi đã không ngừng học hỏi
kinh nghiệm dạy học chính tả ở đồng nghiệp, ở những giáo viên có nhiều kinh
nghiệm trong công tác tại đơn vị mà còn ở một số đơn vị trường trong huyện
Duyên Hải, tham khảo tài liệu, thực tế giảng dạy chính tả của bản thân. Từ đó,
bản thân rút ra kinh nghiệm thực tế để áp dụng thành công của đề tài.
1.4. Đề tài: :“ Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy chính tả cho học sinh
lớp 3 ” đã đề xuất một số biện pháp như sau:
- Biện pháp luyện phát âm.
- Biện pháp phân tích so sánh.
- Giải nghĩa từ.
- Giúp học sinh ghi nhớ mẹo luật chính tả.
- Biện pháp giúp học sinh viết đúng chính tả thông qua các bài tập.
- Giúp học sinh viết đúng chính tả thông qua các môn học khác.
1.5. Thiết kế kế hoạch dạy học minh họa cho đề tài:
22
- Chính tả ( Nghe – viết ): Bài: Nhớ lại buổi đầu đi học ( từ Cũng như tôi......đến
hết) ; ở tuần 6, tiết 12, SGK Tiếng Việt 3 ( Tập 1 trang 52).
2. Một số đề nghị về cách sử dụng kết quả nghiên cứu của đề tài:
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê A. Đỗ Xuân Thảo, Giáo trình Tiếng Việt 1, NXB Giáo dục, 2009.
2. Lê A. Đỗ Xuân Thảo, Giáo trình Tiếng Việt 2, NXB Giáo dục, 2009.
3. Lê A. Phan Phương Dung, Đặng Kim Nga, Giáo trình Tiếng Việt 3, NXB Giáo
dục, 2009.
4. Đặng Thị Lanh ( chủ biên), Hỏi đáp về sách giáo khoa Tiếng Việt 1, NXB
Giáo dục.
5. Lê Phương Nga ( chủ biên), Lê A, Đặng Kim Nga, Đỗ Xuân Thảo, Phương
pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học 1, NXB Đại học Sư phạm, 2009.
6. Lê Phương Nga, Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học 2, NXB Đại học
Sư phạm, 2009.
7. Nguyễn Minh Thuyết ( chủ biên ), Hỏi đáp về dạy học Tiếng Việt 2,3,4,5, NXB
Giáo dục.
23
24