BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ TP.HCM
BÀI TIỂU LUẬN THUYẾT TRÌNH MÔN
NHỮNG NGUYÊN LÝ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI 6-LỚP XH61:
Nguyên Lý Chủ Nghĩa Mác-Lênin Về Vấn Đề Văn Hóa
Giảng Viên Hướng Dẫn: TS.Nguyễn Khánh Vân
NHÓM SINH VIÊN
STT
Họ và tên
Phần trăm
đóng góp
1
Triệu Yến Anh
100%
2
Mạc Thủy Tiên
90%
3
4
5
6
7
Lê Hoàng Kim Khánh
Vũ Minh Thư
Bùi Đông Duy
Huỳnh Khoa Nguyên
Đàm Kiều Trinh
Phân công
Làm tiểu luận
Tìm tài liệu
Tóm tắt
Tổng hợp bài luận
Làm word
Lập dàn bài
Làm power point
Viết tiểu luận
Tổng lại bài
Làm word
Làm power point
90%
Làm word
Tóm tắt
Kiểm tra, soát lại bài
90%
Tóm tắt
Làm power point
Thuyết trình
90%
Làm word
Thuyết trình
Tóm tắt
90%
Làm word
Tóm tắt
Kiểm tra, soát lại bài
90%
Làm word
Thuyết trình
Tóm tắt
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
ĐIỂM
2
Ký tên
3
MỤC LỤC
A – NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC VỀ VĂN HOÁ..
I/KHÁI NIỆM VỀ VĂN HOÁ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ..................................................5
1.Khái niệm văn hoá.....................................................................................................................5
2.Khái niệm về văn hoá xã hội chủ nghĩa.....................................................................................6
3.Đặc trưng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa......................................................................................
II/TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA7
III/NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG THỨC XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA............................................................................................................................ 8
1.Những nội dung cơ bản của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.......................................................8
2.Phương thức xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa...............................................................11
B – VỀ VẤN ĐỀ VĂN HOÁ VIỆT NAM..............................................................13
I/ SỰ RA ĐỜI CỦA VĂN HOÁ VIỆT NAM..................................................................13
II/THỰC TRẠNG VĂN HOÁ.........................................................................................18
1.Thành tựu...................................................................................................................................18
2.Hạn chế......................................................................................................................................20
3. Nguyên nhân.............................................................................................................................22
III/PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM...23
1.Phương hướng............................................................................................................................23
2.Giải pháp....................................................................................................................................25
C – KẾT LUẬN.......................................................................................................30
D – TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................31
A – NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC VỀ VĂN HOÁ
4
I/ KHÁI NIỆM VỀ VĂN HOÁ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Khái niệm văn hoá và nền văn hóa
Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất tinh thần do con người sáng tạo ra bằng lao động và
hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình: biểu hiện trình độ phát triển của xã hội
trong từng thời kì lịch sử nhất định.
Khi nghiên cứu quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã khái quát các hoạt động cơ bản là “sản xuất vật chất” và “sản xuất tinh thần”. Do đó, văn hóa
bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Văn hóa vật chất là năng lực sáng tạo của con người được thể hiện và kết tinh trong sản phẩm
vật chất. Văn hóa tinh thần là tổng thể các tư tưởng, lý luận và giá trị được sáng tạo ra trong đời
sống tinh thần và hoạt động tinh thần của con người. Đó là những giá trị cần thiết cho hoạt động
tinh thần, những tiêu chí, nguyên tắc chi phối hoạt động nói chung và hoạt động tinh thần nói
riêng, chi phối hoạt động ứng xử, những tri thức, kỹ năng, giá trị khoa học, nghệ thuật được con
người sáng tạo và tích lũy trong lịch sử của mình; là nhu cầu tinh thần, thị hiếu của con người và
những phương thức thỏa mãn nhu cầu đó.
Như vậy, nói văn hóa là nói tới con người; là nói tới việc phát huy những năng lực bản thân
của con người nhằm hoàn thiện con người. Do đó, văn hóa có mặt trong mọi hoạt động của con
người, trên mọi lĩnh vực hoạt động thực tiễn và sinh hoạt tinh thần của xã hội.
Tuy nhiên, với tư cách là hoạt động tinh thần, thuộc về ý thức con người nên sự phát triển của
văn hóa bao giờ cũng chịu sự quy định của cơ sở kinh tế, chính trị của mỗi chế độ xã hội nhất
định. Tách rời khỏi cơ sở kinh tế, chính trị ấy sẽ không thể hiểu được nội dung, bản chất của văn
hóa. Do đó, văn hóa trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng mang tính giai cấp. Đấy cũng là quy
luật của xã hội có giai cấp, vì rằng phương thức sản xuất tinh thần, văn hóa không thể phản ánh
và không bị chi phối bởi phương thức sản xuất vật chất. Điều kiện sinh hoạt vật chất của mỗi xã
hội và của mỗi giai cấp khác nhau, đặc biệt là giai cấp thống trị, là yếu tố quyết định các nền văn
hoá khác nhau.
Nói đến văn hóa là nói đến các khía cạnh ý thức hệ của văn hóa, tính giai cấp của văn hóa và
trên cơ sở đó hiểu rõ sự vận động của văn hóa trong xã hội có giai cấp. Với cách tiếp cận như
vậy, có thể quan niệm: nền văn hóa là biểu hiện cho toàn bộ nội dung, tính chất của văn hóa được
hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế - chính trị của mỗi thời kì lịch sử, trong đó ý thức hệ
của giai cấp thống trị chi phối phương hướng phát triển và quyết định hệ thống các chính sách,
pháp luật quản lí các hoạt động văn hóa.
Mọi nền văn hóa trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng có tính giai cấp và gắn với bản chất
của giai cấp cầm quyền. Văn hóa luôn có tính kế thừa, sự kế thừa trong văn hóa luôn mang tính
5
giai cấp và được biểu hiện ở nền văn hóa của mỗi thời kỳ lịch sử trên cơ sở kinh tế, chính trị của
nó.
Một nền kinh tế lành mạnh, được xây dựng trên những nguyên tắc công bằng, thật sự vì đời
sống của người lao động sẽ là điều kiện để xây dựng một nền văn hóa tinh thần lành mạnh, và
ngược lại, một nền kinh tế được xây dựng trên cơ sở bất bình đẳng của chế độ tư hữu với sự phân
hóa sâu sắc thì sẽ không có được nền văn hóa lành mạnh.
Nền kinh tế là cơ sở vật chất của nền văn hoá, thì chính trị là yếu tố quy định khuynh hướng
phát triển của một nền văn hóa, tạo nên nội dung ý thức hệ của văn hóa.
Trong xã hội có giai cấp, các giai cấp thống trị của mỗi thời kì lịch sử đều in dấu ấn của nó
trong lịch sử phát triển của văn hóa và tạo ra nền văn hóa của xã hội đó.
2. Khái niệm nền văn hóa của xã hội chủ nghĩa
Chế độ mới của xã hội chủ nghĩa được xác lập với hai tiền đề quan trọng là tiền đề chính trị
và tiền đề kinh tế. Từ hai tiền đề chính trị và kinh tế đó, tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa
tiếp tục được phát triển trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội chủ nghĩa.
Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Một là, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là nội dung cốt lõi giữ vai trò chủ đạo, quyết định
phương hướng phát triển nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong xã hội có giai cấp, ý thức hệ giai cấp là nội
dung cốt lõi, giữ vai trò chủ đạo, quyết định phương hướng phát triển nền văn hóa. Trong mọi
thời đại, tư tưởng của giai cấp thống trị trở thành tư tưởng thống trị của thời đại đó. Chính vì vậy,
sau khi giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền thì ý thức hệ của nó trở thành nhân tố
giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội.
Đặc trưng nói trên phản ánh bản chất giai cấp công nhân của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Mọi
sự coi nhẹ, xa rời nội dung khoa học, cách mạng của ý thức hệ giai cấp công nhân đều nhận định
dẫn đến kết cục là không thể xây dựng được nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Hai là, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc
sâu sắc. Đặc trưng này thể hiện mục đích và động lực nội tại của quá trình xây dựng nền văn hóa
xã hội chủ nghĩa, quá trình xây dựng xã hội mới. Trong các xã hội cũ, giai cấp thống trị bóc lột
độc quyền chiếm hữu tư liệu sản xuất và trên cơ sở đó cũng độc quyền chi phối đời sống tinh
thần, nền văn hóa của xã hội. Chúng độc quyền mọi phương diện sáng tạo và sản phẩm của hoạt
động tinh thần nhằm, một mặt, tạo ra cái gọi là “văn hóa thượng lưu’’ phục vụ giai cấp thống trị,
áp bức bóc lột; mặt khác, nhằm nô dịch tinh thần, ý thức của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, giam hãm họ trong tình trạng ngu tối và nô lệ.
6
Trong tiến trình cách mạng xã hội cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội, hoạt
động sáng tạo và hưởng thụ văn hóa không còn là đặc quyền đặc đặc lợi của thiểu số giai cấp bốc
lột. Giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ
văn hóa. Công cuộc cải cách biến cách mạng toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội từng bước tạo ra tiền đề vật chất, tinh thần để đông đảo nhân dân tham gia xây dựng
nền văn hóa mới. Chính trong quá trình đó, văn hoá hướng tới nhân dân, dân tộc và mọi thành
tựu văn hóa trở thành tài sản của nhân dân.
Văn hóa luôn có sự kế thừa. Trong bất cứ thời kỳ nào của lịch sử, văn hóa đều đồng thời bao
gồm việc kế thừa, sử dụng di sản quá khứ và sáng tạo ra những giá trị mới. Sự kế thừa và sáng
tạo của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa luôn mang tính giai cấp công nhân với tư tưởng chính trị
tiên tiến của thời đại và hướng tới nhân dân, dân tộc. Đông đảo nhân dân và cả dân tộc là chủ thể
của văn hóa. Do đó, nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa mang tính nhân dân rộng rãi và
tính dân tộc sâu sắc, kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống và tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại.
Ba là nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa được hình thành, phát triển một cách tự
giác, đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua tổ chức đảng cộng sản, có sự quản lí
của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa không hình thành và phát triển một cách tự phát. Trái lại, nó phải
được hình thành và phát triển một cách tự giác, có sự quản lí của nhà nước và có sự lãnh đạo của
chính đảng của giai cấp công nhân. Mọi sự coi nhẹ hoặc phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng cộng
sản và vai trò quản lí của nhà nước đối với sống tinh thần của xã hội, đối với nền văn hóa chủ
nghĩa đều nhất định sẽ làm cho đời sống văn hóa tinh thần của xã hội mất phương hướng chính
trị.
II/ Tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
Tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa xuất phát từ những căn cứ sau
đây:
Thứ nhất, tính triệt để, toàn diện của cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải thay đổi phương
thức sản xuất tinh thần, làm cho phương thức sản xuất tinh thần phù hợp với phương thức sản
xuất mới của xã hội chủ nghĩa.
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, phương thức sản xuất vật chất quyết định phương thức
sản xuất tinh thần, do đó khi phương thức sản xuất cũ, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa bị
xóa bỏ, phương thức mới sản xuất xã hội chủ nghĩa ra đời thì việc xây dựng nền văn hóa mới xã
hội chủ nghĩa cũng đồng thời diễn ra nhằm thay đổi bản chất của ý thức xã hội, xây dựng ý thức
xã hội mới phù hợp với sự thay đổi về chất đã tạo ra việc xác lập quyền lực kinh tế và quyền lực
chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
7
Thứ hai, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là tất yếu trong quá trình cải tạo tâm lý, ý
thức đời sống tinh thần của chế độ cũ để lại nhằm giải phóng nhân dân lao động thoát khỏi ảnh
hưởng tư tưởng, ý thức xã hội cũ lạc hậu. Mặt khác xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa còn
là một yêu cầu cần thiết trong việc đưa quần chúng nhân dân thực sự trở thành chủ đề sáng tạo
và hưởng thụ văn hóa tinh thần. Đó là một nhiệm vụ cơ bản, phức tạp, lâu dài của quá trình xây
dựng nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa. Về thực chất đây cũng chính là cuộc đấu tranh giai cấp
trên lĩnh vực văn hóa, đấu tranh giữa hai hệ tư tưởng tư sản và hệ tư tưởng vô sản trong quá trình
phát triển xã hội.
Thứ ba, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là tất yếu trong quá trình nâng cao trình độ
văn hóa cho quần chúng nhân dân lao động. Đây là điều kiện cần thiết để đông đảo nhân dân lao
động chiến thắng nghèo nàn lạc hậu. Nâng cao trình độ và nhu cầu văn hóa của quần chúng.
Trong quá trình chỉ đạo thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga, V.I.Lênin đã chỉ ra ba
kẻ thù của chủ nghĩa xã hội là bệnh kiêu ngạo cộng sản, nạn mù chữ và nạn hối lộ. Đồng thời,
Người cũng khẳng định chỉ có làm cho tất cả mọi người đều phải có văn hóa, phải nâng cao trình
độ văn hóa của quần chúng nhân dân thì mới có thể chiến thắng được những kẻ thù.
Thứ tư, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan, bởi vì văn hóa vừa
là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa phải nhằm
mục tiêu văn hóa, vì một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vì sự phát triển tự do toàn diện
của con người. Văn hóa vừa là kết quả phát triển của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời
cũng là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa tạo ra những tiêu đề quan trọng nâng cao phẩm chất, năng
lực, học vấn, giác ngộ chính trị cho quần chúng nhân dân lao động, tạo cơ sở nâng cao năng suất
lao động... Văn hóa xã hội chủ nghĩa với nền tảng là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trở
thành điều kiện tinh thần của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và là động lực, mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội.
III/ Nội dung và phương thức xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
1.Những nội dung cơ bản của quá trình xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
Việc xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa bao gồm những nội dung chính sau đây:
Một là, cần phải nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức của xã hội mới.
Theo V.I.Lênin , “ Chủ nghĩa xã hội sinh động sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng
nhân dân”. Quần chúng nhân dân càng được chuẩn bị tốt về tinh thần, trí lực, tư tưởng... càng có
ảnh hưởng tích cực đến tiền trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó nâng cao trình độ dân trí,
hình thành đội ngũ trí thức mới trở thành nội dung cơ bản của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Trí
8
tuệ khoa học và cách mạng là yếu tố quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Do đó, nâng cao dân trí, đào tạo nguồn lao động có chất lượng và bồi dưỡng nhân tài, hình thành
và phát triển đội ngũ tri thức xã hội chủ nghĩa vừa là nhu cầu cấp bách,vừa là nhu cầu lâu dài của
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Hai là, xây dựng con người phát triển toàn diện.
Con người là sản phẩm của lịch sử, nhưng chính hoạt động của con người đã sáng tạo ra lịch sử.
Thực tiễn lịch sử đã cho thấy, trong mọi thời đại, sự hình thành và phát triển con người luôn gắn
liền với sự hình thành và phát triển của xã hội. Mỗi xã hội với những nấc thang phát triển khác
nhau của sự tiến bộ đều cần đến những mẫu người nhất định, có năng lực đáp ứng nhu cầu của sự
phát triển. Chính vì vậy, giai cấp cầm quyền của mỗi thời kì lịch sử khác nhau khi đã ý thức được
về xã hội mà mình tạo dựng, thì trước tiên giai cấp đó phải quan tâm đến việc xây dựng con
người.
Khi giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền, việc xây dựng con người đáp ứng nhu cầu
của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trở thành một yêu cầu tất yếu. Do đó, xây dựng con
người phát triển toàn diện của xã hội mới là một trong những nội dung cơ bản của văn hóa vô
sản, của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Con người xã hội chủ nghĩa được xây dựng là con người phát triển toàn diện. Đó là con người
có tinh thần và năng lực xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; là con người lao động mới; là
con người có tinh thần yêu nước chân chính và tinh thần quốc tế trong sáng; là con người có lối
sống tình nghĩa, có tính cộng đồng cao.
Ba là, xây dựng lối sống xã hội chủ nghĩa.
Lối sống là dấu hiệu biểu thị sự khác biệt giữa những cộng đồng người khác nhau; là tổng thể
các hình thái hoạt động của con người, phản ánh điều kiện vật chất, tinh thần và xã hội của con
người; là sản phẩm tất yếu của một hình thái kinh tế - xã hội và có tác động đến hình thái kinh tế
- xã hội đó. Lối sống xã hội chủ nghĩa là một đặc trưng có tính nguyên tắc của xã hội xã hội chủ
nghĩa và việc xây dựng lối sống tất yếu trở thành nội dung của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Lối sống xã hội chủ nghĩa được xây dựng, hình thành trên những điều kiện cơ bản của nó. Đó là:
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất,trong đó sở hữu toàn dân giữ vai trò chủ đạo; nguyên tắc
phân phối theo lao động; quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; hệ tư tưởng cách mạng và khoa
học của giai cấp công nhân giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội; xóa bỏ tình
trạng bất bình đẳng dân tộc, giới tính, thể hiện công bằng, mở rộng dân chủ...
Bốn là, xây dựng gia đình văn hóa.
Gia đình là một hình thức cộng đồng đặc biệt, ở đó con người gắn bó với nhau bởi hai mối quan
hệ cơ bản là quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết thống. Khi nghiên cứu về các phương thức tồn
tại của con người, C.Mác đã viết: “...hằng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người
9
bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi, nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và
con cái, đó là gia đình.
Quan hệ tình cảm tâm lý (hôn nhân) và quan hệ huyết thống (cha, mẹ và con cái...) là hai mối
quan hệ cơ bản của cộng đồng gia đình. Tuy nhiên gia đình có những mối quan hệ khác khiến nó
tồn tại không chỉ là tổ chức cộng đồng tình cảm – huyết thống mà còn là cộng đồng kinh tế, văn
hóa – giáo dục, có một cơ cấu – thiết chế và cách thức vận động riêng.
Gia đình là một giá trị văn hóa của xã hội. Văn hóa gia đình luôn gắn bó, tương tác với văn hóa
cộng đồng dân tộc, giai cấp và tầng lớp xã hội trong mỗi thời kì lịch sử nhất định của mỗi quốc
gia dân tộc nhất định.
Thực tế lịch sử cho thấy: những điều kiện kinh tế xã hội khác nhau là nhân tố quy định nên các
hình thức tổ chức gia đình khác nhau. Xã hội loài người đã trải qua các hình thức cộng đồng gia
đình: gia đình huyết tộc, gia đình đối ngẫu, gia đình một vợ một chồng.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa là tiền đề quan trọng để xây dựng gia đình văn hóa mới xã hội chủ
nghĩa. Muốn xây dựng gia đình văn hóa, điều trước tiên là phải xây dựng được cơ sở kinh tế xã
hội của nó.
Gia đình văn hóa từng bước được xây dựng cùng với tiến trình phát triển của công cuộc cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình đó, cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và
văn hóa có tác động trực tiếp và nền văn hóa xã hội chủ nghĩa có nhiệm vụ quyết định nhất đến
việc xây dựng gia đình văn hóa.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là trong thời kì quá độ, các yếu tố mới và cũ
còn tồn tại đan xen vào nhau. Xã hội với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và cơ cấu giai cấp
không thuần nhất, nên gia đình chịu sự chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau từ tâm lí, tình cảm,
tư tưởng của các giai tầng khác nhau trong xã hội. Do đó gia đình cũng có vai trò không giống
nhau đối với sự phát triển của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy xây dựng gia
đình văn hóa là một yêu cầu tất yếu của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Thực chất của việc xây dựng gia đình văn hóa là nhằm góp phần xây dựng nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa. Quan điểm này xuất phát từ mối quan hệ gia đình và xã hội. Gia đình là “ tế bào” của
xã hội, mỗi gia đình hòa thuận, hạnh phúc, ổn định sẽ góp phần cho sự phát triển ổn định, lành
mạnh của xã hội; và ngược lại, xã hội phát triển ổn định, lành mạnh sẽ tạo điều kiện cho gia đình
ấm no hạnh phúc. Hơn nữa xét về mối quan hệ lợi ích thì trong chủ nghĩa xã hội, lợi ích của gia
đình và lợi ích của xã hội có sự phù hợp về cơ bản.
Gia đình văn hóa là gia đình được xây dựng, tồn tại và phát triển dựa trên cơ sở giữ gìn và phát
huy giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, xóa bỏ những yếu tố lạc hậu, những tàn tích của chế độ
hôn nhân và gia đình phong kiến, tư bản chủ nghĩa, đồng thời tiếp thu những giá trị tiến bộ của
nhân loại và gia đình.
10
Gia đình văn hóa là gia đình tiến bộ, đánh dấu bước phát triển của các hình thức gia đình trong
lịch sử nhân loại. Xây dựng gia đình văn hóa đem lại lợi ích cho cả cá nhân và xã hội. Con người
của xã hội mới khi tạo dựng hạnh phúc gia đình cũng là góp phần cho sự phát triển của xã hội.
Với ý nghĩa đó, việc xây dựng gia đình văn hóa trở thành một nội dung quan trọng của nền văn
hóa xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa so với các nền văn
hóa trước nó.
Có nhiều nội dung quan trọng cần phải thực hiện trong quá trình xây dựng gia đình văn hóa. Tuy
nhiên, với tính chất cơ bản của gia đình trong chủ nghĩa xã hội, thì việc xây dựng mối quan hệ
giữa các thành viên trong gia đình và giữa gia đình với xã hội là nội dung quan trọng nhất. Mối
quan hệ trong gia đình là một bộ phận của quan hệ xã hội, đồng thời là biểu hiện của quan hệ xã
hội. Phải tạo dựng mối quan hệ vợ chồng bình đẳng, thương yêu, giúp đỡ nhau về mọi mặt. Bình
đẳng, thương yêu, tôn trọng nhau là những yếu tố gắn bó mật thiết với nhau trong quan hệ vợ
chồng. Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em trong gia đình là mối quan hệ huyết
thống, tình cảm của tình thương yêu và trách nhiệm.
2.Phương thức xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
Để thực hiện được những nội dung chính yếu của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, cần phải thực
hiện các phương thức cơ bản sau đây:
Thứ nhất: giữ vững và tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng giai cấp công nhân trong
đời sống tinh thần của xã hội.
Qúa trình tư tưởng diễn ra không ngừng cùng với quá trình sản xuất vật chất. Trong đời sống văn
hóa tinh thần, quá trình đó diễn ra với tất cả tính đa dạng, phức tạp của nó. Chính vì thế, trong
quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân với tư cách là giai cấp cầm quyền, phải
bằng mọi phương pháp thông qua đội ngũ những nhà tư tưởng và các thiết chế tư tưởng của mình
để tác động, chi phối các quan hệ tư tưởng, quá trình tư tưởng nhằm giữ vững, tăng cường vai trò
chủ đạo của hệ tư tưởng của mình trong đời sống tinh thần xã hội, bởi “Những tư tưởng thống trị
của một thời đại bao giờ cũng chỉ là những tư tưởng của giai cấp thống trị”.
Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là hoạt động có mục đích của giai cấp công nhân thông
qua sự lãnh đạo của đảng cộng sản và quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhằm xây dựng và
phát triển hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, làm cho hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trở thành hệ
tư tưởng chủ đạo trong xã hội. Do đó, giữ vững và tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng
giai cấp công nhân trong đời sống tinh thần xã hội là phương thức quan trọng để xây dựng nền
văn hóa xã hội chủ nghĩa. Đây là phương thức cơ bản để giữ vững đặc trưng, bản chất của nền
văn hóa đó. Phương thức này được tiến hành thông qua việc truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp
công nhân trong tầng lớp nhân dân bằng những phương pháp và hình thức thích hợp.
11
Thứ hai: không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của đảng cộng sản và vai trò quản lý của nhà
nước xã hội chủ nghĩa đối với hoạt động văn hóa.
Sự lãnh đạo của đảng cộng sản và quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với mọi hoạt động
văn hóa là phương thức có tính nguyên tắc, là nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng
nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Phương thức này được coi là sự bảo đảm về chính trị, tư tưởng để
nền văn hóa xây dựng trên nền tảng của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân đi đúng quỹ đạo và
mục tiêu xác định. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, thực chất đây là sự tăng
cường chuyên chính vô sản trong hoạt động văn hóa. Thiết lập chuyên chính vô sản thì mới có
tiền đề chính trị cho việc xây dựng nền văn hóa vô sản. Giữ vững và không ngừng tăng cường
chuyên chính vô sản là sự bảo đảm cho thắng lợi của quá trình xây dựng nền văn hóa vô sản.
Đảng lãnh đạo xây dựng nền văn hóa bằng cương lĩnh, đường lối, chính sách văn hóa của mình
và sự lãnh đạo của đảng phải được thể chế hóa trong hiến pháp, pháp luật, chính sách. Nhà nước
thực hiện quản lý văn hóa theo đúng các nguyên tắc, quan điểm, chủ trương của đảng cộng sản.
Thứ ba: xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phải theo phương thức kết hợp giữa việc kế
thừa những giá trị trong di sản văn hóa dân tộc với tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của văn
hóa nhân loại.
Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa không hình thành từ hư vô, trái lại nó được hình thành trên cơ sở
kế thừa những giá trị văn hóa của dân tộc. Văn hóa dân tộc là nền móng và trên cơ sở đó tiếp thu
tinh hoa văn hóa nhân loại. V.I. Lênin từng nói: Văn hóa vô sản là sự phát triển hợp quy luật của
tổng số những kiến thức mà loài người tích lũy được, đó là con đường “đang và sẽ tiếp tục đưa
tới văn hóa vô sản, cũng như chính trị kinh tế học do Mác hoàn chỉnh lại.”
Sự gắn kết giữa giữ gìn, kế thừa văn hóa dân tộc, tiếp thu giá trị văn hóa nhân loại với quá trình
sản sinh giá trị mới tạo nên sự thống nhất biện chứng của hai mặt giữ gìn và sáng tạo văn hóa.
Đây được coi là phương thức nhằm xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phong phú, đa dạng.
Cùng với quá trình này là những phương pháp thích hợp nhằm đưa ra những giá trị văn hóa vào
đời sống xã hội để đông đảo nhân dân được hưởng thụ văn hóa do mình sáng tạo ra.
Thứ tư: tổ chức và lôi cuốn quần chúng nhân dân vào các hoạt động và sáng tạo văn hóa.
Trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhân
dân lao động đã trở thành chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Tuy nhiên, để phát huy tối đa
tính chủ động, sáng tạo của quần chúng, đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải tổ
chức nhiều phong trào nhằm lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia vào các hoạt động và sáng tạo
văn hóa.
B – VỀVẤN ĐỀ VĂN HOÁ VIỆT NAM
I/ SỰ RA ĐỜI CỦA VĂN HOÁ VIỆT NAM
12
Các dân tộc trên thế giới đều có những nền văn hoá riêng biệt. Văn hoá dân tộc là thành tựu
của cả dân tộc đi cùng lịch sử của dân tộc đó. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc bình đằng với tất
cả các dân tộc trên thế giới, có chủ quyền, độc lập và toàn vẹn về lãnh thổ, có lịch sử dựng nước
và giữ nước. Thế nên, dân tộc Việt Nam có nền văn hoá riêng, mang phong cách, bản sắc độc đáo
của khu vực Á-Đông.
Văn hoá dân tộc Việt Nam là thành tựu của cả dân tộc Việt Nam, được hình thành trong quá
trình đấu tranh với thiên nhiên, chống xâm lược và thực tiễn lao động sản xuất. Văn hoá gắn liền
với lịch sử phát triển của dân tộc và Việt Nam là một trong những khu vực loài người có mặt từ
rất sớm, một trong những cái nôi của loài người.
Văn hoá thời Tiền sử
Các quốc gia trên thế giới đều có nền văn hoá riêng biệt. Các quốc gia trên thế giới đều có nền
văn hoá riêng biệt. Với những phát hiện di cốt người - vượn trong các hang Thẩm Khuyên, Thẩm
Hai (Lạng Sơn) và hang Thẩm Ồm (Nghệ An), và những phát hiện di cốt người hiện đại trong
hang Hùm (Yên Bái) và hang Kéo Lèng (Lạng Sơn). Một loạt nền văn hóa tiền sử từ thời đại đá
cũ qua thời đại đá mới đến đầu kim khí như: Văn hóa Núi Đọ, Văn hóa Sơn Vi, Văn hóa Hòa
Bình, Văn hóa Bắc Sơn, Văn hóa Quỳnh Văn Đặc trưng của nền văn hoá này là săn bắt, hái
lượm, dùng đá làm công cụ sản xuất. Thời kỳ này người nguyên thuỷ đã biết dùng lửa. Từ thế
giới quan triết học phải thừa nhận rằng, hành vi chôn người chết của người nguyên thuỷ biểu hiện
một quan niệm duy tâm-tôn giáo. Chính việc chôn người chết kèm theo những vật dụng ngay nơi
cư trú là thể hiện niềm tin về một thế giới khác sau khi lìa bỏ thế giới sống trần tục. Đây cũng
được xem là một quan niệm nhân văn, nhân đạo sâu sắc của tổ tiên người Việt.
Thời kỳ đá mới đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lối sống của con người. Con người
đã nhận biết, tận dụng và sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu từ đá, đất sét, sừng, tre, nứa, gỗ,.. để
làm công cụ sản xuất. Đặc biệt hơn, họ đã biết làm gốm, thuần dưỡng động vật, biết trồng cây,
biết quy hoạch định cư thành từng nhóm, dân số theo đó cũng tăng lên,..Chính phương thức sống
này đã đẩy văn hoá phát triển lên một tầm cao mới, tiêu biểu cho sự tiến bộ đó là những đặc trưng
của nền văn hoá Hoà Bình.
Văn hoá thời Sơ sử: với ba nền văn hoá ở cả 3 miền
-Văn hoá Đông Sơn hình thành và phát triển ở các lưu vực sông Hồng, sông Cả, sông Mã ở miền
Bắc. Nền văn hoá Hoà Bình ở một trình độ cao hơn. Vào thời kỳ này, cư dân tiền Đông Sơn đã
biết trồng lúa nước, chăn nuôi gia súc làm thức ăn, làm phương tiện chuyên chở hàng hoá,... Tuy
nhiên việc tìm thấy vật liệu đồng thau đã gây ra sự tác động lớn đến đời sống kinh tế-xã hội thời
kỳ này. Chính nguyên vật liệu từ đồng đã thúc đẩy nghề đúc đồng phát triển. Phần lớn những
công cụ sản xuất, vũ khí được đúc bằng đồng với kỷ thuật tinh xảo. Đặc biệt những chiếc trống
đồng là sản phẩm đằng sau kỹ thuật đỉnh cao của nghệ nhân thời Đông Sơn đã trở thành biểu
13
tượng
của
văn
hoá
dân
tộc.
Thời kỳ Đông Sơn đã có sự phân khu, phân tầng văn hoá, đồng thời cũng diễn ra sự giao lưu văn
hoá giữa các bộ lạc bởi vì đã có hoạt động trao đổi kinh tế, tặng vật phẩm tín ngưỡng tôn giáo,...
Chính những hoạt động này đã thể hiện tư duy sáng tạo trong đời sống tín ngưỡng của con người.
Văn hoá, nghệ thuật thời kỳ này cũng rất đa dạng và phong phú với những nhạc cụ âm nhạc sinh
động từ vật liệu thiên nhiên, đặc biệt là đồng với những chiếc trống đồng, cồng chiêng,… tạo nên
những âm thanh không thể thiếu trong ngày lễ hội. Nghi lễ, tín ngưỡng của cư dân gắn liền với
nghề trồng lúa nước. Vì vậy, thần Mặt trời là vị thần chủ đạo được thờ phụng nhằm cầu may cho
mùa màng tốt tươi để cư dân được no ấm, an bình,...
-Văn hoá Sa Huỳnh có không gian phân bố rộng lớn trải dài khắp miền Trung, từ Bình Trị Thiên
kéo dài tới lưu vực sông Đồng Nai.
Nếu văn hoá Đông Sơ với đặc trưng lớn nhất là những cộng cụ, vật dụng bằng đồng, phục vụ cho
sản xuất thì nền văn hoá Sa Huỳnh lấy sắt làm nguyên liệu chủ yếu để chế tạo ra những cộng cụ
phục vụ cho nền sản xuất nông nghiệp lúa nước, cùng các loại cây ăn quả, củ khác. Nếu cư dân
Đông Sơn hãnh diện về kỷ thuật đúc đồng thì cư dân Sa Huỳnh cùng tự hào về kỷ thuật đúc sắt.
Những công cụ bằng sắt của cư dân Sa Huỳnh nhiều không kém công cụ bằng đồng của cư dân
Đông Sơn. Thậm chí còn nhiều hơn.
Ngoài ra cư dân Sa Huỳnh còn nổi tiếng với truyền thống dệt vải, đúc đồ gốm, làm trang sức
bằng nhiều chất liệu từ thiên nhiên. Điều đó chứng tỏ tư duy của người Sa Huỳnh đã phát triển ở
tâm cao, tạo ra một nền văn hoá tiến bộ, chủ động khai phá, cải biến tự nhiên.
Sự phát triển về đời sống vật chất, tinh thần của cư dân Sa Huỳnh tạo điều kiện cho vùng đất
Nam Trung Bộ trở thành một trung tâm phát triển và có ảnh hưởng ở khu vực, hình thành một
nền văn minh lớn với sự ra đời của vương quốc Chămpa (ra đời sau nước Âu Lạc khoảng hơn 3
thế kỷ).
-Văn hoá Đồng Nai là nền văn hoá của cư dân vùng Nam Bộ ở miền Nam. Đặc điểm của nền
văn hoá này gắn liền điều kiện tự nhiên, sản xuất nông nghiệp và nghề thủ công là chủ yếu.
Nếu cư dân Đông Sơn dùng nguyên liệu đồng, cư dân Sa Huỳnh dùng sắt để chế tạo cộng cụ sản
xuất, thì cư dân Đồng Nai sử dụng đá làm nguyên liệu chính để chế tác ra những công cụ sản xuất
và thậm chí cả những hàng trang sức để phục vụ đời sống tinh thần.
Đời sống tín ngưỡng của cư dân vùng này còn nặng tín ngưỡng bái vật giáo được thể hiện qua
nghệ thuật tạo hình: các di vật như tượng lợn rừng, rùa bằng sa thạch, tượng chó săn mồi bằng
đồng, tượng Trút Long giao bằng đồng. Họ tin rằng người chết là bắt đầu một cuộc sống khác.
14
Cư dân Đồng Nai sống ven cửa sông, kênh, biển nên đã hình thành tính phóng khoáng, rộng rãi,
hiếu khách.
Văn hóa Việt Nam đầu công nguyên
Văn hoá Bắc thuộc là nền văn hoá phụ thuộc vào sự thống trị của phong kiến Trung
Quốc ở phương Bắc. Thời kỳ này văn hoá Việt Nam vào thế cam go phải đấu tranh với sự
đô hộ của phong kiến phương Bắc.
Các triều vua Trung Quốc kế tiếp nhau thi hành chính sách đồng hóa, thống trị tàn bạo, bóc lột
ráo riết nhân dân ta (bóc lột bằng cống nạp, nộp tô thuế và lao dịch).
Phong kiến phương còn kéo theo văn hoá bản địa là đạo Nho, Lão-Trang với những nội dung
phục vụ cho mục đích đồng hoá.
Không khuất phục trước sức mạnh và lượng lượng đông đảo, dân tộc Việt Nam phất cao ngọn cờ
đấu tranh để bảo vệ bản sắc, bảo vệ dân tộc, chống đồng hóa, tiếp tục phát huy giá trị văn hóa dân
tộc, giải phóng đất nước.
Tuy nhiên, những nội dung mang đậm tính nhân văn của đạo Nho rất gần gũi với nếp sống của
người Việt. Cho nên, Phong kiến Trung Quốc đã biết lợi dụng điều đó mà truyền giáo.
Bên cạnh Nho giáo, Phật Giáo cũng ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến thời
Ngô - Đinh - Tiền Lê, nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh, được coi là quốc
giáo, ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống. Đến đời nhà Hậu Lê thì Nho
giáo được coi là quốc giáo và Phật giáo đi vào giai đoạn suy thoái. Đến cuối thế kỷ XVIII,
vua Quang Trung cố gắng chấn hưng đạo Phật, chỉnh đốn xây chùa, nhưng vì mất sớm
nên việc này không có nhiều kết quả. Đến thế kỷ 20, mặc dù ảnh hưởng mạnh của phong
trào chấn hưng Phật giáo của các nước, Phật giáo Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi
đầu từ các đô thị miền Nam. Những lời dạy, lời truyền bá của đạo Phật đã góp phần hình
thành nếp sống tốt đẹp. Nó phù hợp với lối sống hướng thiện, vị tha, nhân hậu của người
Việt. Cho nên văn hoá Việt Nam tiếp biến đạo Phật là góp thêm phần đa dạng, phong phú
và nhân đạo của một truyền thống lâu đời.
Với sự thống trị triều đình nhà Nguyễn, vào thế kỷ thứ XVI, cho phép thương buôn đi lại
buôn bán. Thế nên, một tôn giáo có nguồn gốc từ Phương tây đã xâm nhập vào văn hoá
Việt Nam. Đó chính là Thiên Chúa Giáo.
Giáo lý dạy: Con người là một sinh linh vô cùng nhỏ bé, khi sinh ra đã mang nặng tội tổ tông. Vì
vậy, sống kiếp làm người phải ăn năn, xám hối, chuộc lỗi với Chúa, cầu mong Chúa cứu rỗi, ban
ơn,...Sự nghiệp trần thế của con chiên là phụng dưỡng ý đồ cứu độ của Thiên Chúa để khi chết
không bị đầy xuống tuyền đài mà được trở về với Thiên đường sống hạnh phúc bên Thiên Chúa
vô vàn tôn kính.
15
Lý tưởng của Kinh Thánh mang lại cho cuộc sống của những người nghèo khổ, bần hàng có được
sự tin tưởng vào cuộc sống của họ. Khi du nhập vào Việt Nam đã được dân tộc tiếp biến, cải
biên cho phù hợp với truyền thống văn hoá dân tộc. Từ đó, văn hoá Việt Nam được bổ một nội
dung văn hoá tôn giáo mới, tăng thêm phần đa dạng và sâu sắc.
Với vị trí địa lí giao điểm của các luồng văn hóa, quá trình phát triển lịch sử - xã hội của Việt
Nam đã bị chi phối mạnh mẽ bởi các quan hệ giao lưu văn hóa rộng rãi với Đông Nam Á, Trung
Hoa, Ấn Độ và phương Tây. Tuy nhiên, văn hoá dân tộc Việt Nam vẫn giữ được các yếu tố riêng
thuộc về bản sắc và những phẩm chất văn hoá độc đáo.
Văn hoá Việt Nam đặt dưới sự thống trị của thực dân.
Dưới sự chèo lái của triều đình nhà Nguyễn,"dân tộc Việt Nam đã đánh mất hành động độc lập
trong lịch sử”. Lúc này, văn hoá Việt Nam mang hai nội dung chủ yếu là: “Tiếp xúc và giao thoa
văn hóa Việt Pháp; và giao lưu văn hóa tự nhiên Việt Nam với thế giới Đông tây”. Đặc biệt lĩnh
vực văn hoá vật chất được thực dân Pháp phát triển trên lãnh thổ Việt Nam, làm phai mờ tính
đậm đà, bản sắc của văn hoá dân tộc và thay vào đó bằng văn hoá xa lạ với văn hoá cổ truyền
của dân tộc.
Vì vậy, trước khi cách mạng tháng 8 thành công, năm 1943 Đảng Cộng Sản Việt Nam đã xây
dựng bản Đề cương văn hoá, vạch ra tình trạng "Văn hoá Việt Nam hiện nay về hình thức là
thuộc địa, về nội dung là tiền tư bản. Chiến tranh và xu trào văn hoá hiện nay: Ảnh hưởng của
văn hoá Phát xít làm cho tính chất phong kiến, nô dịch trong văn hoá Việt Nam mạnh lên, những
đồng thời chịu ảnh hưởng của văn hoá tân dân chủ, xu trào văn hoá mới của Việt Nam đang cố
vượt hết mọi trở lực để nẩy nở". Xuất phát từ thực trạng văn hoá này, đảng ta đã đề ra nhiệm vu
xây dựng nền văn hoá mang nội dung: Dân tộc, Khoa học và Đại chúng.
Văn hóa Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến nay
- Năm 1945, cách mạng tháng tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, đánh dấu
cột mốc vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên của độc lập, tự chủ, xây
dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa. Từ đây, những nội dung của bản Đề cương văn hoá dân
dần được bổ sung, phát triển theo tỉnh hình cách mạng của dân tộc.
- Sau năm 1955, đất nước ta bị chia cắt làm hai miền: Miền bắc xây dựng, phát triển kinh tếchính trị, văn hoá-xã hội xã hội chủ nghĩa; Miền nam còn chịu ách thống trị của thực dân – đế
quốc Mỹ, do đó văn hoá Miền nam bị ảnh hưởng nhiều bởi lối sống của văn hoá Phương tây.
- Năm 1975, Miền nam hoàn toàn giải phóng, đất nước độc lập, giang sơn thu về một mối, văn
hoá Việt Nam thống nhất phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
16
- Trải qua một thời kỳ văn hoá bao cấp, năm 1986 Đẳng ta đổi mới tư duy phát triển nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng đời sống mới. Từ đây, cùng với các lĩnh
vực khác, văn hoá được Đảng ta trú trọng quan tâm bằng những quyết sách cụ thể.
- Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá V) tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI chỉ rõ: "Công tác văn hoá, văn học, nghệ thuật phải được nâng cao chất lượng. Mỗi
hoạt động văn hoá, văn nghệ đều phải tính đến hiệu quả xã hội, tác động tốt đến tư tưởng, tâm lý,
tình cảm, nâng cao trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ thẩm mỹ của nhân dân. Quan
tâm đáp ứng nhu cầu, thị hiếu lành mạnh của các tầng lớp xã hội và các lứa tuổi".
- Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng (khoá VI) tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII vạch ra nhiệm vụ của cách mạng văn hoá Việt Nam là: "Tiếp tục xây dựng và phát
triển sự nghiệp văn hoá Việt Nam, bảo tồn và phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của các dân
tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Vận động toàn dân thực hiện lối sống cần, kiệm, văn
minh, lịch sự. Phổ biến rộng rãi trong nhân dân những kiến thức văn hoá cần thiết cho sản xuất và
đời sống. Thực hiện nam nữ bình đẳng, bảo vệ nhân phẩm phụ nữ. Phát động phong trào quần
chúng bài trừ mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội khác".
- Đại Hội lần thứ VIII của Đảng tiếp tục khẳng định: "Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội,
vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội. Cùng với khoa học và công
nghệ, giáo dục và đào tạo, các hoạt động văn hoá, văn nghệ có vị trí quan trọng trong việc hình
thành nhân cách, làm phong phú đời sống tinh thần con người Việt Nam. Bản sắc dân tộc và tính
chất tiên tiến của nền văn hoá phải được thấm đậm không chỉ trong công tác văn hoá-văn nghệ,
mà cả trong mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu khoa học, công
nghệ, giáo dục và đào tạo sao cho trong mọi lĩnh vực chúng ta có cách tư duy độc lập, có cách
làm vừa hiện đại vừa mang sắc thái Việt Nam". Do đó, "Mọi hoạt động văn hoá, văn nghệ phải
nhằm xây dựng và phát triển văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt
Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh
cho sự phát triển xã hội". Đồng thời, "kế thừa và phát huy các giá trị tinh thần, đạo đức và thẩm
mỹ, các di sản văn hoá, nghệ thuật của dân tộc".
- Tiếp tục đường hướng nói trên, năm 1998 Đảng ta tổ chức Hội nghị trung ương V, chuyên bàn
về vấn đề văn hoá. Xác định xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
trong giai đoạn phát triển mới.Nền văn hoá tiên tiến không có nghĩa là xoá bỏ truyền thống mà nó
là nền văn hoá mang những đặc trưng cụ thể như: Yêu nước, tiến bộ, độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-lênin, tư tưởng Hồ Chí minh; nhân văn; phong phú cả về
nội dung và hình thức.Tính chất tiên tiến phải đảm bảo được nội dung nhân văn, nhân đạo sâu
sắc, nhưng đồng thời phải thể hiện sự đa dạng và phong phú về hình thức.Tính chất đậm đà của
nền văn hoá dân tộc đảm bảo giữ gìn và phát huy những giá trị mang bản sắc dân tộc như lòng
yêu nước, tinh thần nhân ái, sự bao dung, độ lượng, quý trọng nghĩa tình, đạo lý, dũng cảm và
17
đặc biệt giữ gìn tinh thần đoàn kết dân tộc. Để xây dựng nền văn hoá vừa tiên tiến vừa đậm đà,
Hội Nghị trung ương V đã xác định:
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế-xã hội;
Nền văn hoá mà chúng ta xây dựng là nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam;
Xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội
ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng;
Văn hoá là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hoá là một sự nghiệp cách mạng lâu
dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
Sau 20 năm đất nước đổi mới, văn hoá Việt Nam đang trên đà tiến bước cùng sự phát triển của
lịch sử dân tộc. Bên cạnh sự tăng trưởng về kinh tế, ổn định về chính trị, phát triển về giáo
dục,...văn hoá nghệ thuật đã gặt hái được nhiều thành tựu góp phần đưa đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân lên một tầm cao mới.Tuy nhiên, với thời đại ngày càng phát triển như vũ bảo,
guồng máy phát triển của thế giới được bôi trơn bởi nền tri thức vượt bậc của nhân loại. Xu
hướng toàn cầu hoá đã cuốn hút tất cả các nền văn hoá dân tộc trên thế giới vào quỹ đạo chung.
Chính quá trình này đã diễn ra sự "đụng độ" giữa các nền văn minh, và văn hoá của các dân tộc
có cơ hội được "cọ sát".
Toàn cầu hoá là cơ hội để Việt Nam tiếp cận nền tri thức của thế giới. Từ đó học hỏi, tiếp thu
có chọn lọc những tinh hoa văn hoá nhân loại. Nhưng toàn cầu hoá cũng là một thách thức không
nhỏ, bởi vì nếu không vững lập trường sẽ rất dễ đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc. Vì vậy, phải
xác định: "Hoà nhập nhưng không hoà tan".
II/ THỰC TRẠNG VĂN HOÁ
1. Những thành tựu
Tư tưởng, đạo đức và lối sống là những lĩnh vực then chốt của vǎn hóa, đã có những chuyển
biến quan trọng. Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được vận dụng và phát triển
sáng tạo ngày càng tỏ rõ giá trị vững bền làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng và của cách mạng nước ta, nhân tố hàng đầu bảo đảm cho đời sống tinh thần xã hội phát
triển đúng hướng.
Ý thức phấn đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tinh thần trách nhiệm và nǎng lực tổ
chức thực tiễn của cán bộ, đảng viên được nâng lên một bước. Nhiều nét mới trong giá trị vǎn
hóa và chuẩn mực đạo đức từng bước hình thành. Tính nǎng động và tính tích cực công dân được
phát huy, sở trường và nǎng lực cá nhân được khuyến khích. Không khí dân chủ trong xã hội
tǎng lên. Thế hệ trẻ tiếp thu nhanh những kiến thức mới và có ý chí vươn lên lập thân, lập
nghiệp, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
18
Những việc làm thiết thực hướng về cội nguồn, về cách mạng và kháng chiến, tưởng nhớ các
anh hùng dân tộc, quý trọng các danh nhân vǎn hóa, đền ơn đáp nghĩa những người có công,
giúp đỡ những người hoạn nạn... trở thành phong trào quần chúng. Tự do tín ngưỡng và không
tín ngưỡng được tôn trọng.
Sự nghiệp giáo dục, khoa học thu được những thành tựu quan trọng, góp phần nâng cao dân
trí, trình độ học vấn của nhân dân, làm tǎng thêm sức mạnh nội sinh.
Trên lĩnh vực vǎn học, nghệ thuật, các hoạt động sáng tạo có bước phát triển mới. Nhiều bộ
môn nghệ thuật truyền thống được gìn giữ. Có thêm nhiều tác phẩm có giá trị về đề tài cách
mạng và kháng chiến, về công cuộc đổi mới. Nhiều bộ sưu tập công phu từ kho tàng vǎn hóa dân
gian và vǎn hóa bác học Việt Nam trong nhiều thế kỷ được xuất bản, tạo cơ sở cho việc nghiên
cứu, bảo tồn và phát huy những giá trị tư tưởng, học thuật và thẩm mỹ của dân tộc. Hoạt động lý
luận, phê bình đã đạt được những kết quả tích cực, khẳng định mạnh mẽ vǎn nghệ cách mạng và
kháng chiến, đẩy lùi một bước những quan điểm sai trái.
Số đông vǎn nghệ sĩ được rèn luyện và thử thách trong thực tiễn cách mạng, có vốn sống, giàu
lòng yêu nước; trước những biến động của thời cuộc và những khó khǎn của đời sống vẫn giữ
gìn được phẩm chất, kiên định quan điểm sáng tác phục vụ nhân dân, làm sứ mệnh người nghệ sĩ
- chiến sĩ. Nhiều vǎn nghệ sĩ tuy tuổi cao, vẫn tiếp tục sự nghiệp sáng tạo, lớp trẻ có nhiều cố
gắng tìm tòi cái mới.
Vǎn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số có bước tiến đáng kể. Đội ngũ những nhà vǎn hóa
người dân tộc thiểu số phát triển cả về số lượng, chất lượng, đã có những đóng góp quan trọng
vào hầu hết các lĩnh vực vǎn học, nghệ thuật.
Thông tin đại chúng phát triển nhanh về số lượng và quy mô, về nội dung và hình thức, về in,
phát hành, truyền dẫn, ngày càng phát huy vai trò quan trọng trong đời sống vǎn hóa tinh thần
của xã hội. Hệ thống mạng thông tin trong nước và quốc tế được thiết lập, tạo khả nǎng lựa chọn,
khai thác các nguồn thông tin bổ ích phục vụ đông đảo công chúng. Đội ngũ các nhà báo ngày
càng đông và có bước trưởng thành về chính trị, tư tưởng và nghiệp vụ.
Giao lưu vǎn hóa với nước ngoài từng bước được mở rộng. Chúng ta có dịp tiếp xúc rộng rãi
với những thành tựu vǎn hóa nhân loại, đồng thời giới thiệu với nhân dân các nước những giá trị
tốt đẹp, độc đáo của vǎn hóa Việt Nam.
Hệ thống thể chế vǎn hóa được xây dựng tuy chưa hoàn chỉnh, nhưng về cǎn bản bảo đảm
được sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Thể chế vǎn hóa mới khuyến khích
nhân dân lao động tham gia sự nghiệp xây dựng vǎn hóa trên cả hai mặt sáng tạo và hưởng thụ;
giúp đội ngũ vǎn nghệ sĩ chuyên nghiệp làm tốt vai trò nòng cốt trong việc sáng tạo các giá trị
vǎn hóa mới; tạo điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ giữ gìn và phát huy bản sắc vǎn hóa dân tộc
kết hợp với tiếp thu tinh hoa vǎn hóa thế giới.
19
Đảng và Nhà nước đã quan tâm tǎng cường bộ máy tổ chức, ban hành những vǎn bản pháp
luật nhằm điều chỉnh hoạt động của ngành vǎn hóa.
Một bộ phận quan trọng thiết chế vǎn hóa (nhà vǎn hóa, câu lạc bộ, bảo tàng, thư viện, cửa
hàng sách báo, khu vui chơi giải trí...), gần đây đã có những phương thức hoạt động mới có hiệu
quả.
2. Những hạn chế
Nổi lên trước hết ở nhận thức tư tưởng, trong đạo đức và lối sống.
Trước những biến động chính trị phức tạp trên thế giới, một số người dao động, hoài nghi về
con đường xã hội chủ nghĩa, phủ nhận thành quả của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới,
phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; phủ nhận lịch sử cách mạng Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Không ít người còn mơ hồ, bàng quan hoặc mất cảnh giác trước
những luận điệu thù địch xuyên tạc, bôi nhọ chế độ ta.
Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị vǎn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực
dụng, cá nhân vị kỷ... đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì
đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp.
Buôn lậu và tham nhũng phát triển. Ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác gia tǎng. Nạn mê
tín dị đoan khá phổ biến. Nhiều hủ tục cũ và mới lan tràn, nhât là trong việc cưới, việc tang, lễ
hội...
Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền. Nạn tham nhũng, dùng tiền của Nhà nước tiêu xài
phung phí, ǎn chơi sa đọa không được ngǎn chặn có hiệu quả. Hiện tượng quan liêu, cửa quyền,
sách nhiễu nhân dân, kèn cựa địa vị, cục bộ, địa phương, bè phái, mất đoàn kết khá phổ biến.
Những tệ nạn đó gây sự bất bình của nhân dân, làm tổn thương uy tín của Đảng, của Nhà nước.
Nhiều biểu hiện tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo làm cho xã hội lo lắng như sự suy
thoái đạo lý trong quan hệ thầy trò, bè bạn, môi trường sư phạm xuống cấp; lối sống thiếu lý
tưởng, hoài bão, ǎn chơi, nghiện ma túy... ở một bộ phận học sinh, sinh viên; việc coi nhẹ giáo
dục đạo đức, thẩm mỹ và các bộ môn chính trị, khoa học xã hội và nhân vǎn.
Đời sống vǎn học, nghệ thuật còn những mặt bất cập. Rất ít tác phẩm đạt đỉnh cao tương xứng
với sự nghiệp cách mạng và kháng chiến vĩ đại của dân tộc và thành quả của đổi mới. Trong sáng
tác và lý luận, phê bình, có lúc đã nảy sinh khuynh hướng phủ nhận thành tựu vǎn học cách
mạng và kháng chiến, đối lập vǎn nghệ với chính trị, nhìn xã hội với thái độ bi quan. Một vài tác
phẩm viết về kháng chiến đã không phân biệt chiến tranh chính nghĩa với chiến tranh phi nghĩa.
Xu hướng "thương mại hóa", chiều theo những thị hiếu thấp kém, làm cho chức nǎng giáo dục tư
tưởng và thẩm mỹ của vǎn học, nghệ thuật bị suy giảm.
20
Nghị quyết 04 của Trung ương (khóa VII) về vǎn hóa - vǎn nghệ được đại bộ phận vǎn nghệ
sĩ đồng tình. Một số có nhận thức lệch lạc đã trở lại với cái đúng; các khuynh hướng xấu từng
bước bị đẩy lùi. Tuy vậy, một số quan điểm sai trái vẫn xuất hiện. Các loại vǎn hóa phẩm độc hại
vẫn còn xâm nhập vào xã hội và các gia đình. Nhiều cơ sở in, quảng cáo, quán ǎn, khách sạn, sàn
nhảy mở tràn lan, chạy theo đồng tiền, hoạt động tùy tiện, không tuân thủ những quy định của
pháp luật; các cơ quan quản lý nhà nước không có biện pháp hữu hiệu để xử lý.
Tiềm lực đội ngũ sáng tác, nghiên cứu, lý luận, phê bình về vǎn học nghệ thuật còn yếu. Nhà
nước chậm ban hành các chính sách để phát huy những nǎng lực hiện có. Một số ngành nghệ
thuật như điện ảnh, sân khấu, đặc biệt là sân khấu truyền thống gặp rất nhiều khó khǎn. Việc giáo
dục thẩm mỹ, giáo dục thị hiếu nghệ thuật cho thanh niên, thiếu niên, nhi đồng, học sinh chưa
được coi trọng.
Lãnh đạo quản lý trong xuất bản vǎn học, nghệ thuật còn nhiều sơ hở. Thiếu sự đầu tư trọng
điểm và lâu dài cho sự ra đời những tác phẩm lớn, cho việc giữ gìn và phát triển những ngành
nghệ thuật truyền thống.
Về thông tin đại chúng, còn nhiều sản phẩm chất lượng thấp, chưa kịp thời phát hiện và lý
giải những vấn đề lớn do cuộc sống đặt ra. Báo chí chưa biểu dương đúng mức những điển hình
tiên tiến trên các lĩnh vực, cũng như thiếu sự phê phán kịp thời những việc làm trái với đường lối
của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đạo đức xã hội. Không ít trường hợp thông tin thiếu chính
xác, làm lộ bí mật quốc gia. Khuynh hướng "thương mại hóa", lạm dụng quảng cáo để thu lợi
còn khá phổ biến. Một số ít nhà báo đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thông tin thiếu trung thực,
gây tác động xấu đến dư luận xã hội, nhưng chưa được xử lý kịp thời theo pháp luật.
Giao lưu vǎn hóa với nước ngoài chưa tích cực và chủ động, còn nhiều sơ hở. Số vǎn hóa
phẩm độc hại, phản động xâm nhập vào nước ta còn quá lớn, trong khi đó, số tác phẩm vǎn hóa
có giá trị của ta đưa ra bên ngoài còn quá ít.
Lực lượng hoạt động vǎn hóa - vǎn nghệ trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiện
nay không nhỏ, đã có những công trình nghiên cứu, tác phẩm vǎn học, nghệ thuật tốt hướng về
Tổ quốc. Song chúng ta còn thiếu những biện pháp tích cực giúp đồng bào tìm hiểu sâu vǎn hóa
dân tộc, liên hệ mật thiết với quê nhà, góp phần đấu tranh với những hoạt động chống phá đối
với Tổ quốc.
Việc xây dựng thể chế vǎn hóa còn chậm và nhiều thiếu sót. Chính sách xã hội hóa các hoạt
động vǎn hóa chậm được ban hành. Bộ máy tổ chức ngành vǎn hóa chưa được sắp xếp hợp lý để
phát huy cao hơn hiệu lực lãnh đạo và quản lý.
Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý vǎn hóa chưa đáp ứng yêu cầu, còn hẫng
hụt cán bộ vǎn hóa ở các vị trí quan trọng.
21
Chính sách khuyến khích và định hướng đầu tư xã hội cho phát triển vǎn hóa còn chưa rõ. Hệ
thống các thiết chế vǎn hóa cần thiết nói chung bị xuống cấp và sử dụng kém hiệu quả.
Ở nhiều vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng
cǎn cứ cách mạng, kháng chiến trước đây, đời sống vǎn hóa còn quá nghèo nàn.
3. Những nguyên nhân
Những thành tựu trong sự nghiệp xây dựng vǎn hóa một mặt chứng tỏ đường lối và chính
sách của Đảng và Nhà nước ta đã và đang phát huy tác dụng tích cực, định hướng đúng đắn cho
sự phát triển đời sống vǎn hóa xã hội; mặt khác đó là kết quả của sự tham gia tích cực của nhân
dân và những nỗ lực to lớn của các lực lượng hoạt động trên lĩnh vực vǎn hóa.
Tuy nhiên những mặt chưa được còn nhiều, thậm chí có mặt nghiêm trọng, nhất là trong lĩnh
vực tư tưởng, đạo đức và lối sống. Nguyên nhân của tình trạng yếu kém đó là:
Về khách quan:
- Sự sụp đổ ở Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã gây xáo động lớn về tư
tưởng, tình cảm trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
- Các thế lực thù địch ráo riết chống phá ta trên mặt trận tư tưởng vǎn hóa nhằm thực hiện "diễn
biến hòa bình".
- Cơ chế thị trường và sự hội nhập quốc tế, bên cạnh những tác động tích cực to lớn, cũng đã bộc
lộ mặt trái của nó, ảnh hưởng tiêu cực đến ý thức tư tưởng, đạo đức, lối sống của nhân dân ta.
- Nước ta còn nghèo, nhu cầu vǎn hóa của nhân dân rất lớn nhưng khả nǎng đáp ứng còn hạn chế
do thiếu những điều kiện và phương tiện vật chất cần thiết.
Về chủ quan:
- Trong khi tập trung sức vào nhiệm vụ kinh tế, Đảng chưa lường hết những tác động tiêu cực nói
trên, từ đó chưa đặt đúng vị trí của vǎn hóa, chưa coi trọng công tác giáo dục về tư tưởng, đạo
đức và lối sống, thiếu các biện pháp cần thiết trên cả hai mặt "xây" và "chống" trên lĩnh vực vǎn
hóa. Công tác nghiên cứu lý luận chưa làm rõ nhiều vấn đề có liên quan đến vǎn hóa trong quá
trình đổi mới, trong việc xác định những giá trị truyền thống cũng như hệ giá trị mới cần xây
dựng, trong việc xử lý các mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, vǎn
hóa và chính trị, vǎn hóa và kinh tế... Chưa xây dựng được chiến lược phát triển vǎn hóa song
song với chiến lược phát triển kinh tế.
- Việc xử lý những phần tử thoái hóa biến chất trong Đảng và bộ máy Nhà nước chưa nghiêm.
Tinh thần tự phê bình và phê bình sa sút ở nhiều cấp bộ đảng. Nội dung giáo dục tư tưởng, chính
trị trong sinh hoạt đảng và các đoàn thể rất yếu. Những điều đó làm suy giảm niềm tin của nhân
22
dân vào đội ngũ cán bộ, nhưng Trung ương và Bộ Chính trị, Chính phủ chưa có những biện pháp
khắc phục hữu hiệu.
- Trong lãnh đạo và quản lý có những biểu hiện buông lỏng, né tránh, hữu khuynh. Trong hoạt
động kinh tế, chưa chú ý đến các yếu tố vǎn hóa, các yêu cầu phát triển vǎn hóa tương ứng. Mức
đầu tư ngân sách cho vǎn hóa còn thấp. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ cán bộ
làm công tác vǎn hóa còn nhiều bất hợp lý. Những lệch lạc và việc làm sai trái trong vǎn hóa,
vǎn nghệ chưa được kịp thời phát hiện, việc xử lý bị buông trôi hoặc có khi lại dùng những biện
pháp hành chính không thích hợp.
- Chưa có cơ chế và chính sách phát huy nội lực của nhân dân; chưa tạo được phong trào quần
chúng mạnh mẽ tham gia phát triển vǎn hóa, xây dựng nếp sống vǎn minh, bảo vệ vǎn hóa dân
tộc. Chưa coi trọng bồi dưỡng, giáo dục và phát huy khả nǎng của tuổi trẻ là lực lượng chính, là
đối tượng chủ yếu của hoạt động vǎn hóa.
III/ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NỀN VĂN HOÁ VIỆT
NAM
1. Phương hướng
Phương hướng chung của sự nghiệp vǎn hóa nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và
truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền vǎn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
tiếp thụ tinh hoa vǎn hóa nhân loại, làm cho vǎn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động
xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi
lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình
độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, vǎn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa
xã hội.
Những quan điểm chỉ đạo cơ bản:
1 - Vǎn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát
triển kinh tế-xã hội.
Chǎm lo vǎn hóa là chǎm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến
bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ
và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu vǎn hóa, vì xã hội công bằng, vǎn minh, con
người phát triển toàn diện Vǎn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển
kinh tế. Các nhân tố vǎn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi
23
phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương,... biến thành nguồn lực nội sinh quan
trọng nhất của phát triển.
2- Nền vǎn hóa mà chúng ta xây dựng là nền vǎn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội theo chủ nghĩa Mác- Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì
hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa
giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà
cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn nǎm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng
yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá
nhân-gia đình-làng xã-Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần
cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống... Bản sắc vǎn hóa
dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo.
Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái
hay, cái tiến bộ trong vǎn hóa các dân tộc khác. Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống
lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán, lề thói cũ.
3 - Nền vǎn hóa Việt Nam là nền vǎn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam.
Hơn 50 dân tộc sống trên đất nước ta đều có những giá trị và sắc thái vǎn hóa riêng. Các giá trị
và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền vǎn hóa Việt Nam và củng cố sự thống nhất
dân tộc là cơ sở để giữ vững sự bình đẳng và phát huy tính đa dạng vǎn hóa của các dân tộc anh
em.
4 - Xây dựng và phát triển vǎn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội
ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Mọi người Việt Nam phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, vǎn minh đều tham gia
sự nghiệp xây dựng và phát triển nền vǎn hóa nước nhà. Công nhân, nông dân, trí thức là nền
tảng khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển vǎn hóa
dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Đội ngũ trí thức gắn bó với nhân dân giữ vai
trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển vǎn hóa.
5 - Vǎn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển vǎn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu
dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng.
Bảo tồn và phát huy những di sản vǎn hóa tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên những giá trị vǎn hóa
mới, xã hội chủ nghĩa, làm cho những giá trị ấy thấm sâu vào cuộc sống toàn xã hội và mỗi con
24
người, trở thành tâm lý và tập quán tiến bộ, vǎn minh là một quá trình cách mạng đầy khó khǎn,
phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian. Trong công cuộc đó, "xây" đi đôi với "chống", lấy "xây" làm
chính. Cùng với việc giữ gìn và phát triển những di sản vǎn hóa quý báu của dân tộc, tiếp thu
những tinh hoa vǎn hóa thế giới, sáng tạo, vun đắp nên những giá trị mới, phải tiến hành kiên trì
cuộc đấu tranh bài trừ các hủ tục, các thói hư tật xấu, nâng cao tính chiến đấu, chống mọi mưu
toan lợi dụng vǎn hóa để thực hiện "diễn biến hòa bình".
2. Giải pháp
I - Mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu nước gắn với thi đua yêu nước và phong trào
"toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống vǎn hoá"
- Bằng nhiều hình thức phong phú, tuyên truyền giáo dục làm chuyển biến nhận thức trong toàn
xã hội, trước hết trong các cấp ủy đảng, đảng viên, cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ các đoàn thể
quần chúng về tầm quan trọng, sự cần thiết cấp bách của sự nghiệp xây dựng, phát triển vǎn hóa,
về trách nhiệm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ vǎn hóa trong thời kỳ mới.
- Giáo dục chủ nghĩa yêu nước phải gắn chặt với phong trào thi đua yêu nước và giáo dục về chủ
nghĩa xã hội, về nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước thoát nghèo nàn lạc hậu;
làm cho mọi người thấm nhuần truyền thống lịch sử và cách mạng của dân tộc, đóng góp xứng
đáng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới. Các hoạt động tuyên
truyền giáo dục phải gắn với quản lý xã hội bằng pháp luật, phát huy sức mạnh dư luận xã hội,
gắn với các phong trào hành động của quần chúng.
- Phát động phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống vǎn hóa", huy động mọi lực lượng
nhân dân và cả hệ thống chính trị từ trên xuống, từ trong đảng, cơ quan Nhà nước, các đoàn thể
ra ngoài xã hội tích cực tham gia phong trào.
Phong trào đó bao gồm các phong trào hiện có như: Người tốt việc tốt, Uống nước nhớ nguồn,
Đền ơn đáp nghĩa, Xóa đói giảm nghèo, Xây dựng gia đình vǎn hóa, làng, xã, phường vǎn hóa,
Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở các khu dân cư... và toàn bộ các phong trào ấy đều
hướng vào cuộc thi đua yêu nước "Tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
vǎn minh".
II – Xây dựng, ban hành lựât pháp và các chính sách văn hoá
1 - Xây dựng, ban hành luật pháp
Xây dựng các luật, pháp lệnh, các vǎn bản pháp quy điều chỉnh các hoạt động trên lĩnh vực vǎn
hóa. Bổ sung những luật đã ban hành cho phù hợp với tình hình mới. Nghiên cứu xây dựng Luật
di sản vǎn hóa dân tộc, Luật quảng cáo, Pháp lệnh thư viện... Xây dựng quy chế về giải thưởng,
tặng thưởng trong lĩnh vực vǎn hóa - vǎn nghệ, báo chí; quy chế kỷ niệm các sự kiện lịch sử và
danh nhân (trong nước và thế giới), đặt tên đường phố, lập nhà bảo tàng, xây dựng tượng đài, v.v.
25