Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Sinh lý thận 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.38 KB, 6 trang )

Sinh lý thận

Nephron - Đơn vị cấu tạo thận
Mỗi thận được cấu tạo từ một đến hai triệu nephron

Nephron gồm 2 phần chính: cầu thận và ống thận.
Cầu thận gồm các mao mạch và bao Bowman bao bọc ở bên
ngoài. Có 2 loại mao mạch: mao mạch đến: mang dòng máu đến


lọc ở cầu thận, mao mạch đi mang các chất không được lọc và các
dưỡng chất được tái hấp thu từ ống thận quay trở lại hệ tuần hoàn.
Ống thận là một hệ thống gồm nhiều ống: ống lượn gần, ống
lượn xa, quai Hê-len, ống góp, có vai trò tái hấp thu dưỡng chất
cũng như đào thải các chất không cần thiết tạo thành nước tiểu.

Thận có vai trò gì?
Quá trình chuyển hóa protein ở gan tạo ra amoniac NH3 gây
độc, sau đó gan lại chuyển amoniac thanh ure và acid uric. Trong
khi đó, sự co cơ thải ra creatinin. Ure, acid uric, creatinin cần được
đưa ra ngoài để không gây độc cho cơ thể và thận giúp chúng ta thải
các chất này qua đường nước tiểu.


Quá trình tạo nước tiểu
Bước 1: Máu vào các mao mạch đến của cầu thận diễn ra quá
trình lọc. Áp lực của dòng máu đẩy phần lớn huyết tương (nước,
ure, acid uric, glucose, acid amin, ion Na+, K+ …) qua thành của
mao mạch. Các tế bào máu (hồng cầu, bạch cầu…), protein do kích
thước to nên không thể qua được thành mao mạch. Phần máu
không qua được thành mao mạch trong tiểu cầu thận sẽ được


chuyển đến các mao mạch đi về tĩnh mạch thận rồi quay trở lại hệ
tuần hoàn. Phần huyết tương được lọc (qua được thành mao mạch)
gọi là dịch lọc, kế tiếp dịch lọc xuống ống lượn gần.


Bước 2: Tại ống lượn gần, các tế bào biểu mô lót mặt trong
ống lượn gần tái hấp thu các dưỡng chất: glucose, acid amin, các
ions, các chất được tái hấp thu sẽ vào mao mạch đi đến tĩnh mạch
thận và vào hệ tuần hoàn. Nước, ure, acid uric cũng được tái hấp
thu. Tỷ lệ tái hấp thu các chất: glucose (100%), acid amin (100%),
ion K+ (100%), HCO3- (99%), Na+ (65%), ure (50 – 60%). Ion Na+
sẽ tiếp tục được hấp thu ở các ống kế tiếp.

Bước 3: Từ ống lượn gần, dịch lọc tiếp tục xuống quai Hê-len.
Nước và ure được tái hấp thu ở nhành xuống quai Hê-len trong khi
ion Na+ được tái hấp thu ở nhành lên.

Bước 4: Qua khỏi quai Hê-len, dịch lọc tiếp tục được tái hấp
thu ở ống lượn xa và ống góp. Dưới tác động của Aldosteron, ion
Na+ được tái hấp thu đồng thời ion K+ (từ các mô xung quanh ống


lượn) bị bài tiết. Bên cạnh đó ion HCO3- được tái hấp thu, đồng thời
ion H+ bị thải vào nước tiểu.

Bước 5: Khi dịch lọc đến tận cùng của ống góp, phần lớn các
dưỡng chất đã được tái hấp thu và được đưa quay trở lại hệ tuần
hoàn, chỉ còn các sản phẩm thải và một ít nước tạo thành nước tiểu.
Nước tiểu từ các ống góp cùng đổ ra bể thận, sau đó xuống niệu
quản và được chứa trong bàng quang.


Bình thường các tế bào máu và protein không thể qua được
màng lọc cầu thận. Tuy nhiên ở bệnh nhân mắc bệnh lý về thận:
viêm cầu thận, hội chứng thận hư màng lọc cầu thận bị tổn thương
làm các tế bào máu và protein qua được → xuống ống lượn rồi bài


tiết ra ngoài cùng nước tiểu, do vậy xét nghiệm nước tiểu ở các
bệnh nhân mắc bệnh này sẽ thấy có protein hay các tế bào máu
trong nước tiểu (gọi là protein niệu, hồng cầu niệu …).
Ngoài ra do protein bị mất qua nước tiểu nên protein trong
máu giảm → áp lực keo giảm → bệnh nhân bị phù (ở tay, chân, mặt
hay thậm chí tràn dịch màng phổi).
Phù của bệnh lý thận do giảm protein (chủ yếu là Albumin)
nên dùng thuốc lợi tiểu ở các bệnh nhân này thường không hết phù
(vì không giải quyết được nguyên nhân gốc). Bệnh nhân cần ăn bổ
sung đạm và được truyền thêm Albumin.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×