Đồ án môn học năng lượng tái tạo
GVHD Nguyễn Hữu Đức
Mục lục
a,Tiềm năng năng lượng gió tại mặt đất....................................................................4
b, Tiềm năng năng lượng gió tại các độ cao..............................................................5
c, Tiềm năng năng lượng gió ở độ cao 20m trên mặt đất..........................................6
d. Tiềm năng năng lượng gió ở độ cao 40m trên mặt đất..........................................6
e. Tiềm năng năng lượng gió ở độ cao 60m trên mặt đất..........................................7
Đề xuất khu vực xây dựng điện gió cho Việt Nam........................................................9
Tình hình năng lượng gió ở Việt Nam:........................................................................10
a, Đi đầu trong lĩnh vực điện gió tỉnh Bình Thuận:..................................................11
Nhà máy điện gió REVN 1-Bit (tuy phong)...........................................................11
Nhà máy điện gió đảo Phú Quý..............................................................................12
Nhà máy điện gió Phú Lạc ..................................................................................14
b, dự án điện gió tại tỉnh Ninh Thuận :....................................................................16
Nhà Máy Điện Gió Việt Hải...................................................................................16
Dự án nhà máy điện gió Trung Nam.......................................................................18
c, Dự án nhà máy điện gió tại Bình Định :...............................................................19
Nhà Máy Điện Gió Phương Mai I:.........................................................................19
Nhà máy điện gió Phương Mai 3............................................................................21
d, dự án điện gió tại tỉnh Lâm Đồng:.......................................................................22
e, Dự án điện gió tại Tây Nguyên............................................................................22
f, Dự án điện gió tại tỉnh Trà Vinh:..........................................................................23
g, Dự án điện tại tỉnh Bạc Liệu:...............................................................................24
h, Dự án điện gió tại Huyện đảo Côn Đảo – Bà Rịa Vũng Tàu...............................25
i, Dự án điện gió Cà Mau.........................................................................................26
k, Dự án điện gió tại phía Bắc: Mẫu Sơn- Lạng Sơn...............................................26
Kỳ vọng phát triển năng lượng tái tạo..........................................................................27
Các mặt hạn chế của năng lượng gió...........................................................................29
Nhưng khó khăn khi phát triển điện gió tại Việt Nam hiện nay...................................30
Những thách thức và chính sách ưu đãi đối với các nhà đầu tư điện gió tại Việt Nam31
Thách thức chính khiến cho „hàng loạt nhà đầu tư bỏ chạy“ là :............................31
Tiềm năng lớn, khai thác ít......................................................................................31
Những ưu đãi được khuyến khích của chính phủ trong phát triển điện gió :..........32
Kết luận ,kiến nghị.......................................................................................................32
Nhóm 1 – Đ8 Nhiệt
1
Đồ án môn học năng lượng tái tạo
GVHD Nguyễn Hữu Đức
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, em đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ nhiệt tình
của quý thầy cô trường Đại học Điện Lực. Trước hết, em xin chân thành cảm ơn
đến quý thầy cô đã tận tình dạy bảo trong thời gian học tập tại trường.
Đồng thời cũng cảm ơn các tác giả của các tài liệu tham khảo đã cung cấp cho
em nguồn thông tin giúp em thực hiện đề tài tốt hơn.
Tuy rất cố gắng thực hiện bằng sự nhiệt tình của mình nhưng do kinh nghiệm
còn rất hạn chế nên việc sai sót là hoàn toàn không thể tránh khỏi. Do đó rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô cũng như các đọc giả quan
tâm.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn các thầy cô và các bạn đã giúp đỡ em trong
thời gian thực hiện đề tài này
Xin chân thành cảm ơn
Hà Nội, ngày 19 tháng 10 năm 2016
Nhóm sinh viên thực hiện
Nhóm 1 lớp D8 nhiệt
Nhóm 1 – Đ8 Nhiệt
2
Đồ án môn học năng lượng tái tạo
GVHD Nguyễn Hữu Đức
• Tổng quan
Thế kỷ 20 đã trải qua với bao tiến bộ vượt bậc của loài người. Một thế kỷ trong
đó con người đã làm nên những điều kỳ diệu, phát minh ra vô vàn những công
cụ máy móc giúp nâng cao năng suất lao động, giúp đáp ứng những nhu cầu
không ngừng của con người. Nhưng bên cạnh sự phát triển và tiến bộ đó thì con
người cũng phải đối mặt với những mặt trái của sự phát triển không bền vững
của kinh tế thế giới. Môi trường bị hủy hoại, tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt, áp
lực công việc ngày càng lớn với mỗi người và hàng loạt những mặt trái khác.
Trong thế kỷ 21 con người phải đối diện với một loạt các thách thức mang tính
toàn cầu.chẳng hạn như: năng lượng, môi trường sống bị hủy hoại, bùng nổ dân
số, chiến tranh, y tế, v.v. Trong đó vấn đề năng lượng vẫn là vấn đề được xem là
quan trọng nhất và cấp thất nhiết trong thế kỷ 21. Năng lượng hóa thạch ngày
càng cạn kiệt, tranh chấp lãnh thổ, tạo ảnh hưởng để duy trì nguồn cung cấp
năng lượng là những mối họa tiềm ẩn nguy cơ xung đột. Năng lượng hóa thạch
không đủ cung cấp cho cỗ máy kinh tế thế giới đang ngày càng phình to làm
kinh tế trì trệ dẫn đến những cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế. Bất ổn
chính trị rất có thể sẽ xảy ra tại nhiều nơi trên thế giới. Bên cạnh đó việc sử dụng
quá nhiều năng lượng hóa thạch khiến một loạt các vấn đề về môi trường nảy
sinh. Trái đất có thể ấm lên, đất canh tác bị thu hẹp, môi trường bị thay đổi, dịch
bệnh xuất hiện khó lường và khó kiểm soát hơn, thiên tai ngày càng mạnh hơn
khó lường hơn, mùa màng thất thu ảnh hưởng đến vấn đề lương thực. Tất cả
những điều đó tiềm ẩn một thế giới hỗn độn, tranh chấp, không kiểm soát.
Từ những điều trên, để duy trì một thế giới ổn định, không cách nào khác là
chúng ta phải tìm ra những nguồn năng lượng tái sinh thay thế cho nguồn năng
lượng hóa thạch đang ngày càng cạn kiệt. Chúng ta- những con người thế kỷ 21phải thực hiện một loạt những hành động nhưng quan trọng nhất vẫn là tìm ra
một nguồn năng lượng có thể thay thế cho năng lượng hóa thạch để đáp ứng cho
nhu cầu của thế giới.
Hàng loạt các năng lượng mới hứa hẹn trong thế kỷ 21 này như: năng
lượng mặt trời, năng lượng gió, năng lượng địa nhiệt, năng lượng sinh khối và
những nguồn năng lượng khác. Bằng những tiến bộ trong khoa học kỷ thuật và
xu hướng tất yếu của thế giới , các năng lượng tái sinh đang được nghiên cứu và
sử dụng ngày càng nhiều. Năng lượng gió là một trong những nguồn năng lượng
tái sinh quan trọng nhất đang và sẽ đóng góp ngày càng lớn vào sản lượng năng
lượng của thế giới.
•
Tiềm năng điện gió của Việt Nam
Nằm trong khu vực cận nhiệt đới gió mùa với bờ biển dài, Việt Nam có một
thuận lợi cơ bản để phát triển năng lượng gió. So sánh tốc độ gió trung bình
trong vùng biển Đông Việt Nam và các vùng biển lân cận cho thấy gió tại biển
Đông khá mạnh và thay đổi nhiều theo mùa.
Nhóm 1 – Đ8 Nhiệt
3
Đồ án môn học năng lượng tái tạo
GVHD Nguyễn Hữu Đức
Trong chương trình đánh giá về năng lượng cho Châu Á, Ngân hàng Thế giới
đã có một khảo sát chi tiết về năng lượng gió khu vực Đông Nam Á, trong đó có
Việt Nam .Theo tính toán của nghiên cứu này, trong bốn nước
được khảo sát thì Việt Nam có tiềm năng gió lớn nhất và hơn
hẳn các quốc gia lân cận là Thái Lan, Lào và Campuchia. Trong
khi Việt Nam có tới 8.6% diện tích lãnh thổ được đánh giá có
tiềm năng từ “tốt” đến “rất tốt” để xây dựng các trạm điện gió
cỡ lớn thì diện tích này ở Campuchia là 0.2% ở Lào là 2,9%, và ở
Thái Lan cũng chỉ là 0.2%. Tổng tiềm năng điện gió của Việt Nam ước đạt
513.360 MW tức là bằng hơn 200 lần công suất của thủy điện Sơn La, và hơn 10
lần tổng công suất dự báo của ngành điện vào năm 2020. Nếu xét tiêu chuẩn
để xây dựng các trạm điện gió cỡ nhỏ phục vụ cho phát triển
kinh tế ở những khu vực khó khăn thì Việt Nam có đến 41% diện
tích nông thôn có thể phát triển điện gió loại nhỏ. Nếu so sánh
con số này với các nước láng giềng thì Campuchia có 6%, Lào có
13% và Thái Lan là 9% diện tích nông thôn có thể phát triển
năng lượng gió .Tất nhiên, để chuyển từ tiềm năng lý thuyết thành tiềm năng
có thể khai thác, đến tiềm năng kỹ thuật, và cuối cùng, thành tiềm năng kinh tế là
cả một câu chuyện dài; nhưng điều đó không ngăn cản việc chúng ta xem xét
một cách thấu đáo tiềm năng to lớn về năng lượng gió ở Việt Nam.
• Phân bố năng lượng gió trên lãnh thổ Việt Nam
Để đánh giá tài nguyên năng lượng gió, đã nghiên cứu sự phân
bố tổng năng lượng gió cả năm và hai mùa (nóng, lạnh) trên
toàn lãnh thổ tại các mức độ cao đã nêu.
a,Tiềm năng năng lượng gió tại mặt đất
Ở mặt đất, tiềm năng năng lượng gió củaViệt Nam nhìn chung
nhỏ.
Trên
phần
lớn lãnh thổ tổng năng lượng gió cả năm không vượt quá
200Kwh/m2. Chỉ trên các hải đảo, các vị trí nằm sát biển và trên
các núi cao mới có tiềm năng khả quan. Khu vực Bắc Bộ, nơi có
tiềm năng đáng kể là duyên hải từ Cẩm Phả đến Ninh Bình và
phần đồng bằng tiếp giáp với duyên hải này. Nhiều vị trí nằm sát
biển của các tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ, tổng năng lượng năm
có thể đạt tới 500Kwh/m2 Một số nơi trên dãy núi cao Hoàng
Liên Sơn, tổng năng lượng năm lớn hơn 500Kwh/m2 tại vùng núi
phía Đông Lạng Sơn, năng lượng do gió mang lại rất phong phú.
Ngoài ra, trên các núi cao biên giới phía Bắc và vùng núi cao
nguyên Mộc Châu gió cũng có tiềm năng đáng kể. Ở nửa phía
Bắc Trung Bộ, tiềm năng khá nghèo. Chỉ có dải duyên hải hẹp
của Hà Tĩnh, các tỉnh vùng Bình Trị Thiên và núi cao trên dãy
Trường Sơn mới có tiềm năng khá hơn. Tuy nhiên cũng chỉ ở mức
300 đến 400Kwh/m2. Phần lớn diện tích của nửa phía Nam Trung
Nhóm 1 – Đ8 Nhiệt
4
Đồ án môn học năng lượng tái tạo
GVHD Nguyễn Hữu Đức
Bộ là vùng núi và cao nguyên Tây Nguyên. Đây là vùng có tiềm
năng khả quan rộng lớn nhất trên lãnh thổ; trừ vùng đất thấp
phía Tây giáp Campuchia và vùng núi thấp phía Đông thuộc các
tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định có tiềm năng nhỏ, các nơi khác có
tiềm năng khá phong phú; đặc biệt là vùng núi phía Đông Nam
nối tiếp với biển (thuộc các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận và
Đồng Nai) có nhiều nơi tổng năng lượng năm đạt tới
500Kwh/m2. Duyên hải Nam Bộ có tiềm năng phong phú. Đặc
biệt là duyên hải phía Tây từ Hà Tiên đến mũi Cà Mau, nơi chịu
ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa Tây Nam, trong thời kỳ nóng có
năng lượng gió rất lớn. Phần đồng bằng Nam Bộ nằm sâu trong
đất liền có tiềm năng nhỏ.
Trên các hải đảo phía Đông lãnh thổ, tổng năng lượng gió năm
từ 700Kwh/m2 tại các hải đảo gần bờ, tăng dần khi càng ra xa
bờ. Tại đảo Trường Sa là 2058Kwh/m2 và Bạch Long Vĩ là
3064Kwh/m2. Trên các dảo phía Nam lãnh thổ tiềm năng nhỏ
hẳn, tại Côn Đảo là 302Kwh/m2 và Phú Quốc là 440Kwh/m 2.
b, Tiềm năng năng lượng gió tại các độ cao
Mức độ tăng của tốc độ gió, do đó mức độ tăng của năng lượng
gió
theo
độ
cao
phụ thuộc vào độ gồ ghề mặt đệm. Độ gồ ghề mặt đệm càng
lớn hay địa điểm càng bị che chắn nhiều thì độ tăng của năng
lượng
gió
theo
độ
cao
càng
lớn.
Căn cứ trên số liệu tính toán cho 150 trạm trong mạng lưới khí
tượng
toàn
quốc
có thể xác định các loại hình chủ yếu phụ thuộc vào tính chất
địa hình và vị trí địa lý như sau:
Loại hình 1: các nơi thấp trong vùng núi có độ chia cắt lớn.
Loại hình 2: Trung du và các vị trí tương đối thoáng trong
các vùng núi.
Loại hình 3: Đồng bằng.
Loại hình 4: Cao nguyên và các vị trí cao ít bị che chắn
trong các vùng núi.
Loại hình 5: Duyên hải.
Loại hình 6: Hải đảo.
Độ lớn của năng lượng gió tại các độ cao Wzi tại các độ cao Zi=
20m, 40m,
60m so với mặt đất (Z = 10m) W10 được đánh giá bằng tỉ số
Wzi/ W10 trong bảng dưới đây.
Nhóm 1 – Đ8 Nhiệt
5
Đồ án môn học năng lượng tái tạo
GVHD Nguyễn Hữu Đức
Loại hình
20 m
40 m
60 m
1
2,3 – 2,5
4,5 - 4,8
6,2 - 6,6
2
2,2
4,0 - 4,4
5,6 - 6,1
3
1,9 - 2,1
3,1 - 3,9
4,1 - 5,5
4
1,7 - 1,8
2,8 - 3,0
3,4 - 4,0
5
1,6
2,4 - 2,7
2,9 - 3,3
6
1,4 - 1,5
2,0 - 2,3
2,4 - 2,8
c, Tiềm năng năng lượng gió ở độ cao 20m trên mặt đất
Theo bảng trên, so với độ cao 10m thì tiềm năng năng lượng
gió ở độ cao 20m tại phần lớn các vùng trên lãnh thổ cao gấp 2
÷ 2.5 lần. Trên các cao nguyên và tại các vị trí núi cao tương đối
thoáng năng lượng ở độ cao 20m cũng lớn gấp 1.7÷1.8 lần so
với độ cao 10m. Tỉ lệ này giảm đi còn 1.6 ở các vùng duyên hải,
1.5 tại các hải đảo gần bờ và 1.4 tại các đảo xa bờ. Khu vực có
tiềm năng khả quan, tổng năng lượng năm lớn hơn 500Kwh/m2
là các dãy núi cao Hoàng Liên Sơn, biên giới phía Đông tỉnh
Lạng Sơn, duyên hải huộc đồng bằng Bắc Bộ; vùng núi cao và
phần cao nguyên cao nằm kế tiếp khá rộng lớn của Tây Nguyên
kéo xuống phía Nam lan rộng ra tận duyên hải Ninh Thuận –
Bình Thuận của Trung Bộ và duyên hải Nam Bộ.
Trên các đỉnh cao của Hoàng Liên Sơn và Tây Nguyên, tổng
năng
lượng
năm
2
vượt 700Kwh/m . Mức giá trị này còn xuất hiện tại duyên hải
thuộc đồng bằng Bắc Bộ, một phần duyên hải các tỉnh Nam
Trung Bộ và dải duyên hải phía Tây Nam Bộ. Trên các hải đảo
phía Đông lãnh thổ tổng năng lượng năm từ 1000 ÷
1100Kwh/m2 ở Bạch Long Vĩ. Trên các đảo phía Nam lãnh thổ
tổng năng lượng chỉ 500 ÷ 700kwh/m2 năm.
d. Tiềm năng năng lượng gió ở độ cao 40m trên mặt đất
Theo bảng trên, so với độ cao 10m thì tiềm năng năng lượng
gió
ở
độ
cao
40m
tại các vùng trung du, núi thấp và các vị trí thấp trong vùng núi
cao
lớn
gấp
4
÷
5
Nhóm 1 – Đ8 Nhiệt
6
Đồ án môn học năng lượng tái tạo
GVHD Nguyễn Hữu Đức
lần; ở đồng bằng, cao nguyên và núi cao khoảng 2.8 ÷ 4 lần;
duyên hải 2.4 ÷ 2.7 lần và tại các hải đảo 2 ÷ 2.3 lần. Với mức
tăng của năng lượng gió theo độ cao như vậy thì tại độ cao 40m
trên mặt đất khoảng nửa diện tích lãnh thổ đã có tiềm năng lớn
hơn 400kwh/m2 năm.
Những vùng nghèo tiềm năng tổng năng lượng năm chưa
vượt được 400kwh/m2 là các vùng núi thấp, trung du và phần
đồng bằng Bắc Bộ nằm sâu trong đất liền, vùng phía Bắc Trung
Bộ (tới Hà Tĩnh), vùng núi thấp trung Trung Bộ, vùng đất thấp
phía Tây Tây Nguyên và phần đồng bằng Nam Bộ nằm sâu trong
đất liền.
Tại nhiều vùng duyên hải, một số vùng núi cao ở Bắc Bộ,
vùng núi và cao nguyên Tây Nguyên tổng năng lượng gió năm
đạt hơn 700kwh/m2. Tổng năng lượng năm lớn hơn 1000kwh/m2
xuất hiện trên các dãy núi cao Hoàng Liên Sơn, vùng núi cao Tây
Nguyên, duyên hải các tỉnh thuộc đồng bằng Bắc Bộ, duyên hải
Tây Nam Bộ và một số nơi trên duyên hải Thuận Hải và duyên
hải phía Đông Nam Bộ. Trên các hải đảo phía Đông lãnh thổ tiềm
năng năng lượng khoảng 1500Kwh/m2 năm tại các đảo gần bờ,
tăng lên tới hơn 6000Kwh/m2 năm tại các đảo xa bờ. Trên các
đảo phía Nam lãnh thổ tiềm năng năng lượng chỉ
700÷1000Kwh/m2 năm.
e. Tiềm năng năng lượng gió ở độ cao 60m trên mặt
đất
Theo bảng trên, so với độ cao10m thì tiềm năng ở độ cao 60m
tại
các
vùng
trung du, núi thấp và tại các thung lũng sông suối lớn gấp 6.5 ÷
6.6 lần, ở đồng bằng khoảng 4.1 ÷ 5.5 lần, duyên hải từ 2.9 ÷
3.3
lần,
hải
đảo
từ
2.4
÷
2.8
lần.
Tại độ cao này, nhiều vùng trên lãnh thổ có tiềm năng rất phong
phú (xem hình 2d). Ở Bắc Bộ, nhiều nơi có tổng năng lượng năm
lớn hơn 600Kwh/m2. Trên bờ biển Bắc Bộ, nhiều nơi tổng năng
lượng năm có thể đạt tới 1300Kwh/m2. Ở Trung Bộ, tổng năng
lượng năm lớn hơn 900Kwh/m2 có trên dải bờ biển hẹp từ Nghệ
An đến các tỉnh khu vực Bình Trị Thiên. Vùng Tây Nguyên có
tiềm năng rất phong phú; nhiều nơi tổng năng lượng năm lớn
hơn 1400Kwh/m2 như Buôn Mê Thuột, Đà Lạt, Đắc Nông, An
Khê,... đặc biệt vùng có tổng năng lượng năm lớn hơn
1300Kwh/m2 phía Nam Tây Nguyên khá rộng lớn kéo dài tới bờ
biển Nam Trung Bộ.
Nhóm 1 – Đ8 Nhiệt
7
Đồ án môn học năng lượng tái tạo
GVHD Nguyễn Hữu Đức
Duyên hải Nam Bộ có tiềm năng phong phú, vùng có tổng
năng
lượng
năm
2
lớn hơn 900Kwh/m tương đối rộng. Đặc biệt ở phía Tây Nam Bộ,
dải năng lượng này nằm khá sâu trong đất liền. Tại nhiều vị trí
ven biển, tổng năng lượng năm tới hơn 1500Kwh/m2.
Trên các hải đảo phía Đông lãnh thổ, tổng năng lượng năm
khoảng 900÷1000Kwh/m2 ở gần bờ, tăng lên khi xa bờ, tại
Trường Sa là xấp xỉ 5000Kwh/m 2 và hơn 7000Kwh/m2. Trên các
đảo phía Nam lãnh thổ, tổng năng lượng năm chỉ 800 ÷
1200Kwh/m2.
Hình 1: tài nguyên gió off shore trên Biển Đông
Nhóm 1 – Đ8 Nhiệt
8
Đồ án môn học năng lượng tái tạo
GVHD Nguyễn Hữu Đức
Hình 2: Tài nguyên gió on shore Việt Nam
• Đề xuất khu vực xây dựng điện gió cho Việt Nam
Ở Việt Nam, các khu vực có thể phát triển năng lượng gió
không trải đều trên toàn bộ lãnh thổ. Với ảnh hưởng của gió
mùa thì chế độ gió cũng khác nhau. Nếu ở phía bắc đèo Hải Vân
thì mùa gió mạnh chủ yếu trùng với mùa gió đông bắc, trong đó
các khu vực giàu tiềm năng nhất là Quảng Ninh, Quảng Bình, và
Quảng Trị. Ở phần phía Nam đèo Hải Vân, mùa gió mạnh trùng
với mùa gió Tây Nam, và các vùng tiềm năng nhất thuộc cao
nguyên Tây Nguyên, các tỉnh ven biển đồng bằng sông Cửu
Long, và đặc biệt là khu vực ven biển của hai tỉnh Bình Thuận,
Ninh Thuận.
Nhóm 1 – Đ8 Nhiệt
9
Đồ án môn học năng lượng tái tạo
GVHD Nguyễn Hữu Đức
Theo nghiên cứu của NHTG, trên lãnh thổ Việt Nam, hai vùng
giàu tiềm năng nhất để phát triển năng lượng gió là Sơn Hải
(Ninh Thuận) và vùng đồi cát ở độ cao 60-100m phía tây Hàm
Tiến đến Mũi Né (Bình Thuận). Gió vùng này không những có
vận tốc trung bình lớn, mà còn có một thuận lợi khác, đó là số
lượng các cơn bão khu vực ít và gió có xu thế ổn định. Đây là
những điều kiện rất thuận lợi để phát triển năng lượng gió. Trong
những tháng có gió mùa, tỷ lệ gió nam và đông nam lên đến
98% với vận tốc trung bình 6-7m/s, tức là vận tốc có thể xây
dựng các trạm điện gió công suất 3 - 3,5 MW. Thực tế là người
dân khu vực Ninh Thuận cũng đã tự chế tạo một số máy phát
điện gió cỡ nhỏ nhằm mục đích thắp sáng. Ở cả hai khu vực này
dân cư thưa thớt, thời tiết khô nóng, khắc nghiệt, và là những
vùng dân tộc đặc biệt khó khăn của Việt Nam.
Mặc dù có nhiều thuận lợi như đã nêu trên, nhưng chúng ta cần
phải lưu ý một số điểm đặc thù của năng lượng gió để có thể
phát triển nó một cách có hiệu quả nhất. Nhược điểm lớn nhất
của năng lượng gió là sự phụ thuộc vào điều kiện thời tiết và chế
độ gió. Vì vậy khi thiết kế, cần nghiên cứu hết sức chi tiết về chế
độ gió, địa hình cũng như loại gió không có các dòng rối (có ảnh
hưởng không tốt đến máy phát). Cũng vì những lý do có tính
phụ thuộc vào điều kiện môi trường như trên, năng lượng gió tuy
ngày càng phổ biến và quan trọng nhưng không thể là nguồn
năng lượng chủ lực. Tuy nhiên, khả năng kết hợp giữa điện gió
và thủy điện tích năng lại mở ra cơ hội cho Việt Nam, một mặt
đa dạng hóa được nguồn năng lượng trong đó kết hợp những
nguồn năng truyền thống với những nguồn lượng tái tạo sạch
với chi phí hợp lý; mặt khác khai thác được thế mạnh, đồng thời
hạn chế của mỗi nguồn năng lượng, và tận dụng các nguồn
năng lượng này trong mối quan hệ bổ sung lẫn nhau. Một điểm
cần lưu ý nữa là khả năng các trạm điện gió sẽ gây ô nhiễm
tiếng ồn trong khi vận hành, cũng như có thể phá vỡ cảnh quan
tự nhiên và có thể ảnh hưởng đến tín hiệu của các sóng vô
tuyến nếu các yếu tố về kỹ thuật không được quan tâm đúng
mức. Do vậy, khi xây dựng các khu điện gió cần tính toán
khoảng cách hợp lý đến các khu dân cư, khu du lịch để không
gây những tác động tiêu cực.
• Tình hình năng lượng gió ở Việt Nam:
Tiềm năng gió của Việt Nam rất lớn, vì thế việc nghiên cứu phát triển năng
lượng gió là một công việc cần thiết. Sự nghiên cứu triển khai năng lượng gió ở
Việt Nam đã đi những bước đầu tiên. Nhưng cơ bản sự phát triển năng lượng gió
trong nước còn nhỏ lẻ, còn khá khiêm tốn so với tiềm năng to lớn của Việt Nam.
Cho đến nay, có khoảng 48 dự án điện gió đã đăng ký trên toàn bộ lãnh thổ Việt
Nhóm 1 – Đ8 Nhiệt
10
Đồ án môn học năng lượng tái tạo
GVHD Nguyễn Hữu Đức
Nam, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Trung và Nam bộ, với tổng công suất
đăng ký gần 5.000 MW, quy mô công suất của các dự án từ 6 MW đến 250 MW.
Nguồn điện gió này sẽ kết nối với hệ thống điện lưới quốc gia và sẽ được phân
phối và quản lý bởi Tổng Công Ty Điện Lực Việt Nam. Ngoài các dự án điện gió
lớn ra Trung Tâm Năng Lượng Tái Tạo và Thiết Bị Nhiệt (RECTARE) Đại học
Bách Khoa tp Hồ Chí Minh đã lắp đặt trên 800 tua bin gió trong hơn 40 tỉnh
thành với sự tài trợ của Hiệp hội Việt Nam – Thụy Sĩ tập trung nhiều nhất gần
Nha Trang, trong đó có gần 140 tua bin gió đã hoạt động. Ở Cần Giờ thành phố
Hồ Chí Minh với sự hỗ trợ của Pháp cũng đã lắp đặt được 50 tua bin gió. Tuy
nhiên những tua bin gió trên đều có công suất nhỏ khoảng vài KW mức độ thành
công không cao vì không được bảo dưỡng thường xuyên theo đúng yêu cầu.
a, Đi đầu trong lĩnh vực điện gió tỉnh Bình Thuận:
Nhà máy điện gió REVN 1-Bit (tuy phong)
Tháng 8-2008 Fuhrlaender AG, một tập đoàn sản xuất tua bin gió hàng đầu
của Đức đã bàn giao 5 tổ máy (cánh quạt gió) sản xuất điện gió đầu tiên cho dự
án điện gió tại Tuy Phong , Bình Thuận với mỗi tổ máy có công suất 1.5MW
(cũng xin ghi nhận nơi đây thời tiết ở Tuy Phong rất khô khan, nhưng có nhiều
nắng vá gió. Tốc độ gió trung bình ở đây là 6.7 m/s) . Tổ máy đầu tiên được lắp
đặt vào tháng 11-2008 và chính thức hòan thành kết nối vào điện lưới quốc gia
vào tháng 8 năm 2009 (xem Hình 3).
Hình 3 : Năm tổ máy của nhà máy điện gió tầm cỡ MW đầu tiên ở Việt Nam
ở xã Bình Thạnh, huyện Tuy Phong , tỉnh Bình Thuận.
Chiều cao của mỗi cái tháp là 103.75 m và đường kính của cánh quạt là 37,5 m.
Hiện dự án đã hoàn thành giai đoạn 1 với 20 tua-bin có tổng công suất 30
MW. Từ khi phát thử nghiệm vào tháng 9/2009 đến nay, mỗi năm dự án sản xuất
Nhóm 1 – Đ8 Nhiệt
11
Đồ án môn học năng lượng tái tạo
GVHD Nguyễn Hữu Đức
85 triệu kWh điện và được hòa vào lưới điện quốc gia, đồng thời giảm phát thải
58.000 tấn CO2/năm.. Thời gian hoạt động của dự án là 49 năm. Nhà máy được
xây dựng trên diện tích 328ha. Theo kế hoạch giai đoạn 2 sẽ mở rộng sau đó với
công suất lên 120MW.
Hình 4: Nhà máy điện gió REVN 1-Bit
Để tối ưu hóa chi phí sản xuất thì từ tua-bin thứ 06 cột tháp (chiếm tới 26,3% chi
phí) trở đi đã đã được nội địa hóa (14 cột tháp tiếp theo được hãng UBI Tower có
trụ sở tại Hải Dương cung cấp).Cột tháp điện gió đã được sản xuất trong nước,
giảm đáng kể chi phí so với nhập khẩu. Ngoài ra khi Nhà máy lắp ráp thiết bị
phong điện của Công ty Fuhrlander đi vào hoạt động, tương lai các dự án phong
điện tại Bình Thuận sẽ được nội địa hóa với tỷ lệ cao, giảm được chi phí đầu
tư.Tua-bin thứ 6 có công suất giống như 5 tua-bin lắp đặt trước đó (1.500kW), có
chiều cao cột tháp 85m, đường kính cánh quạt 77m, do Fuhrlander AG (Đức).
Gia đoạn 1 với 20 trụ, với tổng công suất hoạt động của dự án lên 30MW, tổng
vốn đầu tư hơn 1.200 tỷ đồng, sản lượng điện hàng năm đạt khoảng 91,6 triệu
kWh. Kể từ cột tháp điện gió thứ 6 trở về sau thuộc dự án sẽ do Việt Nam (Công
ty UBI-TOWER tại Hải Dương) gia công chế tạo với thiết bị và công nghệ được
nhập khẩu và chuyển giao từ các nước tiên tiến trên thế giới. Chất lượng của các
trụ tháp đã được các chuyên gia của Tập đoàn Fuhrlander xác nhận và sử dụng
cho toàn dự án.Đây là điều đáng mừng bởi sẽ giảm được khoảng 30% chi phí so
với cột tháp nhập khẩu từ nước ngoài.
Nhà máy điện gió đảo Phú Quý
Sau Dự án Tuy Phong đã hòa mạng lưới điện quốc gia giai đoạn 1 và giai
đoạn 2, Nhà máy điện gió đảo Phú Quý do PVPower RE (Công ty Trách nhiệm
Nhóm 1 – Đ8 Nhiệt
12
Đồ án môn học năng lượng tái tạo
GVHD Nguyễn Hữu Đức
hữu hạn Một thành viên Năng lượng tái tạo Điện lực Dầu khí Việt Nam) xây
dựng vào cuối năm 2010.Nhà máy có 3 tua-bin gió mỗi tua-bin có công suất là
2MW tổng công suất là 6MW với tổng mức đầu tư trên 335 tỉ đồng. Đến thời
điểm này các hạng mục công trình đã hoàn thành bao gồm cả trạm biến áp 22kV
và đường dây cao thế 22kV. Hệ thống đo lường điện năng, hệ thống cáp quang
cũng đã được lắp đặt hoàn chỉnh. Các tua-bin gió vận hành bảo đảm các thông số
kỹ thuật theo tiêu chuẩn.Theo ông Phạm Cương, Giám đốc PVPower RE, đây là
hệ thống hỗn hợp Điện gió – diesel đầu tiên của Việt Nam và trên thế giới cũng
chưa có công trình nào có hệ thống tương tự, chính vì thế công tác thiết kế hệ
thống gặp khá nhiều khó khăn. Nên cần thêm thời gian vận hành thực tế để điều
chỉnh độ chính xác.Điện từ máy Điện gió đảo Phú Quý sẽ hòa vào hệ thống điện
của đảo cùng với nhà máy điện Diesel hiện tại, khi vận hành chính thức Nhà máy
điện gió đảo Phú Quý sẽ cung cấp điện 24/24 giờ cho đảo Phú Quý.Theo dự kiến
nguồn điện từ nhà máy điện gió Phú Quý sẽ cung cấp sản lượng điện bình quân
là 25 triệu kWh/năm.Trước đây nguồn điện trên đảo Phú Quý chủ yếu được cung
cấp từ Nhà máy điện Diesel của Công ty Điện lực Bình Thuận với tổng công suất
3.000kWh, chỉ phát điện được 16 giờ/ngày (từ 7h30′ đến 23h30′), sản lượng điện
hàng năm ước tính khoảng trên 8,2 triệu kWh.Nhà máy điện gió Phú Quý đi vào
hoạt động sẽ góp phần giải quyết tình hình thiếu điện sinh hoạt và điện sản xuất
cho hơn 27.000 người dân trên đảo.
Hình 5: nhà máy điện gió trên đảo Phú Quý
Hiện nay nhà máy điện gió trên đảo Phú Quý đã đi vào vận hành và cung
cấp điện cho huyện đảo Phú Quý.
Nhóm 1 – Đ8 Nhiệt
13
Đồ án môn học năng lượng tái tạo
GVHD Nguyễn Hữu Đức
Nhà máy điện gió Phú Lạc
Tháng 10-2008 tại Hà Nội đã diễn ra lễ ký kết giữa Tổng Công Ty Điện
Lực Dầu Khí Việt Nam (PV Power) thuộc Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam và Tập
Đoàn Luyện Kim của Argentina Industrias Metallurgica Pescamona S.A.I.yF
(IMPSA) thỏa thuận chi tiết về việc sản suất và phát triển các dự án điện gió và
thủy điện tại Việt Nam. Hai bên đã đồng ý góp vốn để kinh doanh và thương mại
hóa tua bin gió, phát triển và quản lý các dự án điện gió, cung cấp các dịch vụ
bảo trì, sửa chữa các thiết bị điện gió ở Việt Nam. Hai bên cũng đã kí thỏa thuận
hợp tác triển khai nhà máy điện gió công suất 1 GW trên diện tích 10.000 ha nằm
cách xã Hòa Thắng huyện Bắc Bình tỉnh Bình Thuận khoảng 6 km về hướng
đông bắc. Nhà máy sẽ được lắp đặt tua bin gió IMPESA Unipower IWP –Class
II công suất 2,1MW các tổ máy gồm nhiều tua bin gió cho phép sản xuất
5,5Gwh/năm. Dự kiến tổng vốn đầu tư cho dự án là 2,35 tỷ USD trong 5 năm.
Hai bên cũng thỏa thuẩn về dự án sản suất tua bin gió công suất 2MW có sải
cánh quạt dài 80m cho Việt Nam và cho xuất khẩu.
Tiếp theo Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận đã cấp Giấy chứng nhận đầu tư
cho dự án đầu tư xây dựng Nhà máy điện gió Phú Lạc (giai đọan 1) tại xã Phú
Lạc, huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận do Công ty Cổ phần Phong điện
Thuận Bình làm chủ đầu tư. Quy mô diện tích khảo sát Nhà máy Điện gió
Phú Lạc là 400 ha. trong đó, diện tích chiếm đất vĩnh viễn của dự án Nhà máy
Điện gió Phú Lạc khoảng 11,5 ha và diện tích chiếm đất tạm thời 8,6 ha.
Đây là dự án thứ 3 thuộc lĩnh vực điện gió trên địa bàn tỉnh Bình Thuận được
chấp thuận đầu tư. Với loại hình dự án năng lượng sạch, công nghệ cao, mang
lại hiệu quả kinh tế xã hội cho địa phương, góp phần bảo vệ môi trường, bảo
vệ hệ thống khí hậu, giảm thải hiệu ứng phát thải khí nhà kính và phát triển
bền vững, khi dự án được triển khai và đi vào hoạt động sẽ góp phần giải
quyết nhu cầu thiếu hụt năng lượng điện hiện nay của đất nước và thúc đẩy
kinh tế địa phương phát triển, giải quyết công ăn việc làm cho người lao
động.
Dự án Nhà máy Điện gió Phú Lạc đã được Sở Công Thương góp ý thẩm định
thiết kế cơ sở để chủ đầu tư hoàn thiện hồ sơ và triển khai thực hiện đầu tư.
Sở Công Thương cũng đã tham mưu Ủy ban nhân dân tỉnh có văn bản gởi Bộ
Tài nguyên và Môi trường để xem xét tài liệu ý tưởng dự án, xác nhận và phê
duyệt dự án theo cơ chế phát triển sạch (CDM) trong khuôn khổ Nghị định
thư Kyoto. Song song đó, dự án đang được Sở Công Thương thẩm định hồ sơ
Nhóm 1 – Đ8 Nhiệt
14
Đồ án môn học năng lượng tái tạo
GVHD Nguyễn Hữu Đức
quy hoạch bổ sung báo cáo UBND tỉnh trình Bộ Công Thương phê duyệt, tạo
điều kiện thuận lợi cho dự án Nhà máy Điện gió Phú Lạc được triển khai thực
hiện sớm.
Tháng 02/2014 nhà máy điện gió Phú Lạc đã được khởi công gấp rút.
Vào lúc 14 giờ ngày 1/9/2016, Công ty Cổ phần Phong điện Thuận Bình tiến
hành chạy thử nghiệm tổ máy đầu tiên của Dự án điện gió Phú Lạc, tỉnh Bình
Thuận. Dòng điện sau khi qua trạm biếp áp Phú Lạc được hòa chính thức vào
đường dây 110KV Ninh Phước – Tuy Phong của hệ thống điện lưới quốc gia,
cung cấp nguồn điện bổ sung cho địa bàn Bình Thuận và các tỉnh phía Nam.
Nhà máy điện gió Phú Lạc giai đoạn 1 có tổng công suất 24MW sử dụng công
nghệ tua-bin gió của hãng Vestas Đan Mạch với 12 trụ điện gió. Dự án có
tổng mức đầu tư gần 1.100 tỷ đồng, trong đó 85% là vốn vay của Ngân hàng
Tái Thiết Đức. Đây là dự án đầu tiên Công ty Cổ phần Phong điện Thuận
Bình vay vốn từ Chính phủ Cộng hòa Liên bang Đức thông qua Ngân hàng
Tái thiết Đức.
Trạm biến áp Phú Lạc 110kV trung chuyển nguồn điện gió vào lưới quốc gia.
Nhóm 1 – Đ8 Nhiệt
15
Đồ án môn học năng lượng tái tạo
GVHD Nguyễn Hữu Đức
b, dự án điện gió tại tỉnh Ninh Thuận :
Nhà Máy Điện Gió Việt Hải
Theo Ngân hàng thế giới thì Ninh Thuận là một trong những tỉnh của Việt Nam
có tiềm năng gió khá lớn và phù hợp cho việc phát triển các nhà máy điện gió.
đó là một tiền đề rất thuận lợi cho Nhà máy điện gió Việt Hải tại Ninh Thuận
Dưới đây là hình ảnh về hệ thống cột đo gió cao 80m thiết bị của Mỹ được lắp
đặt phục vụ dự án:
Nhóm 1 – Đ8 Nhiệt
16
Đồ án môn học năng lượng tái tạo
GVHD Nguyễn Hữu Đức
Hình 6 Cột đo gió nhà máy điện gió Việt Hải tại Ninh Thuận
Nhóm 1 – Đ8 Nhiệt
17
Đồ án môn học năng lượng tái tạo
GVHD Nguyễn Hữu Đức
Sau khi nhận được công văn cấp phép lắp dựng cột đo gió của Cục tác chiến
Bộ quốc phòng, hệ thống cột đo gió được công ty cổ phần tư vấn xây dựng điện
gió Việt Nam VIWICO xác định địa điểm đặt cột tại 11° 39′ 43.20″ N, 109° 3′
0.96″ E trên địa bàn xã Phương Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận. Hệ thống
cột đo sẽ thu thập số liệu trong vòng ít nhất 12 tháng để có kết quả tốc độ gió
trung bình năm sau khi tiến hành các bước phát triển dự án tiếp theo cho Nhà
máy điện gió Việt Hải tại Ninh Thuận.Dự án Nhà máy điện gió Việt Hải tại Ninh
Thuận sẽ được xây mới toàn bộ. Quỹ đất tại địa điểm xã Bắc Phong huyện
Thuận Bắc, xã Phương Hải, Tân Hải huyện Ninh Hải dành cho dự án xây dựng
Nhà máy điện gió Việt Hải tại Ninh Thuận khoảng 522 Ha sẽ lắp đặt 33 tuabin
gió công suất 1,5MW đạt tổng công suất lắp đặt là 49,5MW.
Tháng 4/2016, UBND tỉnh Ninh Thuận đã phải hủy bỏ chủ trương đầu tư xây
dựng nhà máy điện gió tại hai huyện Ninh Phước và Thuận Nam đối với nhà đầu
tư IMPSA Singapore Pte. Lý do là nhà đầu tư đã vi phạm tiến độ hoàn tất thủ
tục, hồ sơ đăng ký đầu tư theo các cam kết được đưa ra từ năm 2011, khi UBND
tỉnh Ninh Thuận chấp thuận chủ trương đầu tư cho IMPSA.
Dự án nhà máy điện gió Trung Nam
Mới đây sáng 27/8/2016, tại tỉnh Ninh Thuận, trước khi dự Hội nghị xúc tiến
đầu tư vào tỉnh, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã tới dự, phát lệnh khởi công dự
án nhà máy điện gió Trung Nam
Hình 7: Thủ tướng dự lễ khởi công Nhà máy Điện gió Trung Nam tại Ninh Thuận
Nhóm 1 – Đ8 Nhiệt
18
Đồ án môn học năng lượng tái tạo
GVHD Nguyễn Hữu Đức
Đây là các dự án có ý nghĩa quan trọng trong việc phát huy các tiềm năng, thế
mạnh của tỉnh về năng lượng tái tạo và du lịch để thúc đẩy phát triển kinh tế-xã
hội.Dự án Nhà máy Điện gió Trung Nam tại Ninh Thuận là dự án điện gió đầu
tiên tại tỉnh Ninh Thuận, có vốn đầu tư lên đến hơn 3.965 tỷ đồng do Công ty CP
Đầu tư Xây dựng Trung Nam (Trungnam Group) làm chủ đầu tư.Với tổng công
suất 90 MW, dự án được khởi công hôm nay (27/8), trên địa bàn 2 xã Bắc Phong
và Lợi Hải, huyện Thuận Bắc với 45 tuabine gió công suất 2 MW/chiếc đặt trên
tháp đỡ tuabine cao 95 m. Đây sẽ là dấu mốc mới hướng đến nguồn năng lượng
sạch, năng lượng tái tạo đang trở thành xu hướng của thế giới và được Chính phủ
khuyến khích đầu tư, phát triển.
Giai đoạn 1 của dự án dự kiến hoàn thành vào quý IV/2017 và sau khi đưa vào
vận hành, nhà máy điện gió Trung Nam có nhiệm vụ chính là phát điện cung cấp
cho hệ thống điện quốc gia.Theo chủ đầu tư, với 14 vùng gió trải rộng gần 8.000
ha, Ninh Thuận là một trong những tỉnh đầy tiềm năng trong phát triển điện gió.
Vào những tháng gió mùa, Ninh Thuận đạt tỉ lệ gió Nam và Đông Nam lên đến
98% với vận tốc trung bình gần 6-7 m/s ở độ cao 65 m, tạo điều kiện hoạt động
thuận lợi cho các cột điện gió công suất từ 2-3,5 MW.
Cho đến nay Bình Thuận có chín nhà đầu tư trong và ngoài nước đã và
đang xin giấy phép khảo sát thực địa và đầu tư cho 11 công trình điện gió.
Ninh Thuận có gần 10 nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài đã lập
trạm đo sức gió, lập bản đồ và thu thập các số liệu về gió của vùng quanh
năm có nắng chói chang và gió lồng lộng nhiều nhất nước.
c, Dự án nhà máy điện gió tại Bình Định :
Nhà Máy Điện Gió Phương Mai I:
Bình Định là tỉnh duyên hải miền Trung của Việt Nam, địa hình trải dài theo
hướng Bắc - Nam, có hơn 100 km bờ biển, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió
mùa cộng với sự phức tạp của địa hình nên gió mùa khi vào đất liền đã thay đổi
hướng và cường độ gió khá mạnh, nhất là các vùng ven biển. Đây là điều kiện
thích hợp để Bình Định hướng tới sử dụng nguồn năng lượng gió để gia tăng
nguồn điện, hạn chế phụ thuộc vào nguồn năng lượng truyền thống đang dần cạn
kiệt và ảnh hưởng xấu tới môi trường.Những ưu điểm như điện gió có giá thành
thấp, có sức cạnh tranh với điện từ nhiên liệu hóa thạch, tiết kiệm được tài
nguyên, điện gió ít tổn hại tới môi trường (1GWh điện gió chỉ sản sinh ra khoảng
10 tấn CO2, trong khi 1GWh nhiệt điện than là 830-920 tấn), thời gian xây dựng
dự án điện gió ngắn hơn nhiều so với điện truyền thống, công nghệ sử dụng đã
Nhóm 1 – Đ8 Nhiệt
19
Đồ án môn học năng lượng tái tạo
GVHD Nguyễn Hữu Đức
phát triển đến mức hoàn thiện.Với ưu thế và tầm quan trọng của điện gió cộng
với tài nguyên năng lượng gió phong phú tại địa phương, vừa qua Bộ Công
Thương đã ban hành Quyết định số 5358/QĐ-BCT, ngày 17/10/2011 điều chỉnh,
bổ sung dự án nhà máy điện gió Phương Mai I vào “Quy hoạch phát triển điện
lực tỉnh Bình Định giai đoạn 2006-2010, có xét đến 2015”.
Sáng ngày 3.4.2012 tại khu vực đồi thông thuộc xã Cát Chánh (Phù Cát) nằm
trong khu B6 của Khu Kinh tế Nhơn Hội, Công ty CP. Phong điện Phương Mai
khởi công xây dựng Nhà máy Phong điện Phương Mai 1. Ông Hồ Quốc Dũng –
Phó Chủ tich UBND tỉnh đã đến dự
Theo kế hoạch, Nhà máy hoàn thành, đưa vào sử dụng tháng 4/2013. Tuy nhiên
do nhiều lý do mà dự án bị châm tiến độ.
Theo đó, bổ sung dự án nhà máy điện gió Phương Mai I, quy mô công suất
30MW, bao gồm 12 tuabin gió tại Khu kinh tế Nhơn Hội, TP Quy Nhơn, tỉnh
Bình Định, dự án được chia làm 2 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Lắp đặt 6 tuabin gió có quy mô 2,5MW/tuabin – tổng công suất là
15MW, dự kiến vận hành năm 2012.
Nhóm 1 – Đ8 Nhiệt
20
Đồ án môn học năng lượng tái tạo
GVHD Nguyễn Hữu Đức
- Giai đoạn 2: Lắp đặt thêm 6 tuabin gió có quy mô 2,5MW/tuabin – tổng công
suất tăng thêm là 15MW, dự kiến vận hành năm 2015.
Điều chỉnh phương án đấu nối nhà máy điện gió Phương Mai I từ phương án đấu
nối vào cấp điện áp 110 kV về phương án đấu nối vào cấp điện áp 22 kV cụ thể
xây dựng mới các tuyến đường dây 22kV để đấu nối nhà máy điện gió Phương
Mai I vào hệ thống điện quốc gia.
Được biết, Nhà máy phong điện Phương Mai 1 có tổng diện tích mặt bằng 143
ha được xây dựng tại đồi cát không có dân cư thuộc 2 huyện Tuy Phước và Phù
Cát, nằm trong khu vực B6 của bản đồ quy hoạch chung khu kinh tế Nhơn Hội.
Nhà máy có công suất thiết kế 30MW, gồm 12 tổ máy, mỗi tổ 2,5 MW, có 12
trạm máy biến thế loại 12.000KVA – 0,669/22kv, 1 máy biến thế 40
MVA/22/110kv. Tổng mức đầu tư của dự án là 60.250.000 USD. Trong đó, giá
thiết bị là 42.000.000 USD, giá xây lắp là 18.250.000USD từ nguồn vốn tự có
của chủ đầu tư 30%, vốn vay trong nước và quốc tế 70%./
Nhà máy điện gió Phương Mai 3
Dự án được xã Cát Chánh và Cát Tiến huyện Phú Cát thuộc Khu kinh tế Nhơn
Hội .Nằm trong khu vực có tốc độ gió trung bình khoảng 6,5 m/s, Nhà máy điện
gió Phương Mai 3 – công ty phong điện Miền Trung có tiềm năng tốt để phát
triển dự án.Dự án Nhà máy Phong điện Phương Mai 3 được xây dựng mới toàn
bộ. Quỹ đất tại Khu kinh tế Nhơn Hội dành cho dự án Nhà máy điện gió Phương
Mai 3 – công ty phong điện Miền Trung là 140ha nên quy mô của dự án Nhà
máy điện gió Phương Mai 3 – công ty phong điện Miền Trung có Tổng công suất
lắp đặt 21 MW.Dự án Nhà máy điện gió Phương Mai 3 – công ty phong điện
Miền Trung gồm 14 tua-bin gió, mỗi tua bin có công suất 1,5MW. Tổng công
suất Nhà máy điện gió Phương Mai 3 – công ty phong điện Miền Trung là 21
MW, 01 trạm biến áp 22/110kV- 2×16 MVA và 17 km đường dây 110kV mạch
đơn để đấu nối nhà máy với lưới điện quốc gia
Tháng 12/2013 Công ty cổ phần tư vấn xây dựng Điện gió Việt Nam (Viwico)
cũng đã phối hợp với chủ đầu tư thuyết trình Báo cáo đầu tư tại Bộ Công
Thương. VIWICO thay mặt chủ đầu tư lập hồ sơ, xin bổ sung dự án Nhà máy
điện gió Phương Mai 3 – công ty phong điện Miền Trung vào quy hoạch phát
triển điện lực tỉnh Bình Định giai đoạn 2011-2015 có xét tới 2020 và đã nhận
được công văn chấp thuận. Đó là những bước đi tuần tự và thành công của dự án
Nhà máy điện gió Phương Mai 3 – công ty phong điện Miền Trung.
Nhóm 1 – Đ8 Nhiệt
21
Đồ án môn học năng lượng tái tạo
GVHD Nguyễn Hữu Đức
Theo thiết kế, nhà máy có công suất 61,1 MW, giai đoạn 1 công suất là 30,55
MW vận hành năm 2016 và giai đoạn 2 nâng tổng công suất lên 61,1 MW vào
năm 2020. Nhà máy được đấu nối vào hệ thống điện ở cấp điện áp 110 KV,
chuyển tiếp trên đường dây 110 KV Nhơn Hội – Phước Sơn.
Như vậy, hiện tại Khu kinh tế Nhơn Hội đã có ba dự án điện gió được cấp phép
đầu tư với tổng công suất hơn 111 MW.
d, dự án điện gió tại tỉnh Lâm Đồng:
Với vận tốc đạt 6-8,5 m/s, tài nguyên gió ở Lâm Đồng hội đủ các yếu tố để phát
triển điện gió. Hai dự án nhà máy phong điện tại Đà Lạt và Đức Trọng đang
được triển khai để có thể khai thác điện gió vào năm 2013.
Dự án điện gió Cầu Đất được nghiên cứu xây dựng tại xã Trạm Hành (Đà Lạt) có
công suất 300MW, được chia làm 10 giai đoạn, mỗi giai đoạn 30MW. Theo tiến
độ, dự án sẽ được khởi công giai đoạn I (30MW) vào tháng 12/2011, thời gian
xây dựng dự kiến trong vòng 24 tháng.
Nhà máy điện gió Ninh Loan ở huyện Đức Trọng sẽ tiến hành đo gió tại vị trí dự
án vào tháng 7/2011 và khởi công xây dựng vào năm 2013.
Sau khi đi vào hoạt động các Dự án điện gió Cầu Đất và Ninh Loan sẽ mang lại
nguồn năng lượng sạch phục vụ nhu cầu đời sống, góp phần phát triển kinh tế,
tạo công ăn việc làm cho lao động địa phương và nhiều nguồn lợi cộng sinh khác
như giảm phát khí thải, đặc biệt dưới các trụ gió bà con nông dân vẫn có thể
canh tác nông nghiệp được.Về mặt kinh tế xã hội, do việc đầu tư xây dựng điện
gió chiếm diện tích đất ít nên không phải di dân tái định cư, đền bù nhiều vì
không ảnh hưởng lớn đến đời sống sinh hoạt của dân cư quanh vùng dự án mà
còn giúp tạo công ăn việc làm cho người lao động, tăng nguồn ngân sách cho địa
phương.
e, Dự án điện gió tại Tây Nguyên
Ngày 6/3/2015, dự án “Trang trại phong điện Tây Nguyên” tại xã Đliê-Yang,
huyện Ea H’leo (Đắk Lắk) đã được khởi công.
Nhóm 1 – Đ8 Nhiệt
22
Đồ án môn học năng lượng tái tạo
GVHD Nguyễn Hữu Đức
Hình 8: Lễ khởi công "“Trang trại phong điện Tây Nguyên”
Dự án “Trang trại Phong điện Tây Nguyên” do Công ty TNHH Giải pháp năng
lượng gió HBRE (HBRE Wind Power Solution) làm chủ đầu tư với tổng công
suất thiết kế là 120 MW, tổng mức đầu tư khoảng 6.000 tỷ đồng. Sản lượng điện
cung cấp hàng năm trên 450 triệu Kwh/năm. Dự án được chia làm 3 giai đoạn.
Dự kiến, giai đoạn 1 sẽ hoàn thành và hòa vào điện lưới quốc gia vào năm 2016,
với công suất là 28 MW và đến năm 2020 sẽ hoàn thành toàn bộ giai đoạn.
f, Dự án điện gió tại tỉnh Trà Vinh:
Woojin Construction Co.Ltd (Hàn Quốc) đã được UBND tỉnh Trà Vinh chấp
thuận để triển khai tiếp giai đoạn II Dự án Nhà máy Điện gió Hàn Quốc - Trà
Vinh.Dự án có vốn đầu tư hơn 4.952 tỷ đồng (tương đương hơn 247,6 triệu
USD), dự kiến được xây dựng tại thị xã Duyên Hải (tỉnh Trà Vinh) trên diện tích
2.445 ha mặt nước và 2,5 ha mặt đất, công suất 96 MW, bao gồm 48 tuabin gió,
công suất mỗi tuabin 2 MW, sản lượng hơn 332.438 MWh/năm.
Trước dự án này, Woojin đã đầu tư xây dựng Nhà máy Điện gió Hàn Quốc - Trà
Vinh giai đoạn I. Dự án có công suất thiết kế 48 MW với tổng vốn đầu tư 130
triệu USD (tương đương 2.800 tỷ đồng).Giai đoạn I của Dự án được cấp chứng
nhận đầu tư từ tháng 6/2015, dự kiến đến tháng 2/2017, đi vào hoạt động, tạo sản
lượng điện hơn 173.000 MWh/năm.Cả hai dự án này của Woojin đều nằm trong
Nhóm 1 – Đ8 Nhiệt
23
Đồ án môn học năng lượng tái tạo
GVHD Nguyễn Hữu Đức
quy hoạch phát triển điện gió đến năm 2020, có xét đến năm 2030. Theo đó, mục
tiêu đến năm 2020 công suất lắp đặt của Trà Vinh đạt khoảng 270 MW, sản
lượng điện gió tương ứng 634 triệu kWh.
Hiện tại, Trà Vinh đã quy hoạch 6 dự án nhà máy điện gió tại 6 bãi bồi ven biển
thuộc huyện Duyên Hải và thị xã Duyên Hải; trong đó, có 3 nhà máy tại xã
Trường Long Hòa, 2 nhà máy tại xã Hiệp Thạnh và 1 nhà máy tại xã Đông Hải.
g, Dự án điện tại tỉnh Bạc Liệu:
Nhà máy điện gió Bạc Liêu là một dự án xây dựng nhà máy sản xuất điện dùng
năng lượng gió đặt tại xã Vĩnh Trạch Đông, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc
Liêu.Dự án xây dựng Nhà máy điện gió Bạc Liêu được chia làm 2 giai đoạn.
Giai đoạn 1 khởi công ngày 09 tháng 9 năm 2010. Dự kiến, sau khi hoàn thành
cả 2 giai đoạn, sẽ có 62 tuabin điện gió với tổng công suất là 99MW và điện
năng sản xuất mỗi năm khoảng 320 triệu kWh.Cả 62 cột tháp và tuabin điện gió
của Nhà máy điện gió Bạc Liêu đều được đặt trên biển. Mỗi tuabin có công suất
xấp xỉ 1,6MW do hãng General Electrics (GE) cung cấp, cấu tạo thép đặc biệt
không gỉ, cao 80m, đường kính 4 m, nặng trên 200 tấn, cánh quạt được làm bằng
nhựa đặc biệt, dài 42 m, có hệ thống điều khiển tự gập lại để tránh hư hỏng khi
bão lớn.Loại tuabine này có chất lượng công nghệ cao, đã được GE nghiên cứu
nhiệt đới hóa. Toàn bộ hệ thống được xây dựng trên biển, vùng có điều kiện địa
chất công trình phức tạp với chiều dày lớp đất yếu lớn. Công ty nghiên cứu thiết
kế móng trụ tuabine là Công ty CP tư vấn thiết kế XD Giao thông thủy (TEDI
WECCO) thuộc TCT Tư vấn thiết kế Giao thông vận tải (TEDI), một trong số
các tư vấn giàu kinh nghiệm trong thiết kế công trình biển.Chủ đầu tư dự án là
Công ty trách nhiệm hữu hạn Xây dựng – Thương mại và Du lịch Công Lý. Quy
mô vốn đầu tư ước khoảng 5000 tỷ đồng.
Sau 48 tháng triển khai xây dựng, Nhà máy điện gió Bạc Liêu đã hoàn thành,
đưa vào vận hành, đấu nối và phát điện hòa vào lưới điện quốc gia, cung cấp sản
lượng điện 320 triệu KWh/năm.
Ngày 17-1-2014, tại vùng bãi bồi ven biển xã Vĩnh Trạch Đông, TP Bạc Liêu,
tỉnh Bạc Liêu, Nhà máy điện gió Bạc Liêu chính thức được khánh thành, đưa
vào hoạt động 62 tuabine gió có tổng công suất 99,2 MW.
Nhóm 1 – Đ8 Nhiệt
24
Đồ án môn học năng lượng tái tạo
GVHD Nguyễn Hữu Đức
Hình 9 Nhà máy điện gió Bạc Liêu
Trong thời gian tới, tỉnh Bạc Liêu sẽ xúc tiến lập báo cáo tiền khả thi triển khai
giai đoạn tiếp theo cho 71 trụ tuabine gió loại 2MW với tổng công suất 142MW,
tổng mức đầu tư dự kiến 8.850 tỷ đồng. Thời gian thực hiện 36 tháng, dự kiến
cuối năm 2018 hoàn thành đưa vào vận hành, hòa vào hệ thống điện quốc gia,
biến nơi đây thành cánh đồng điện gió lớn nhất ĐBSCL.
h, Dự án điện gió tại Huyện đảo Côn Đảo – Bà Rịa Vũng Tàu
Dự án Nhà máy điện gió huyện Côn Đảo được UBND tỉnh cấp Giấy chứng nhận
đầu tư từ tháng 5-2013. Hơn 1 năm sau, vì nhiều lý do khác nhau, dự án đã phải
thay đổi quy mô. Theo đó, dự án có tổng mức đầu tư 378 tỷ đồng (tăng thêm 33
tỷ đồng so với số vốn đầu tư ban đầu), công suất 4MW tua bin gió và 2,4MW
Diesel (đấu nối bằng giải pháp đồng bộ Wind- Diesel) do Công ty CP Phát triển
công nghệ tài nguyên xanh (Greenmade) làm chủ đầu tư. Nhà máy được xây
dựng tại vịnh Côn Sơn, huyện Côn Đảo, với diện tích đất dự kiến 3 ha ở đất liền
và 9 ha mặt biển. Dự án bao gồm các hạng mục chính: 2 tua bin gió trên biển,
công suất 2x2MW, tuyến cáp ngầm biển 22kV dài 2,5km đưa điện từ tua bin gió
vào bờ, hệ thống điều khiển, thông tin liên lạc của nhà máy, trung tâm điều hành
công nghệ cao, các cơ sở hạ tầng và hệ thống phụ trợ cho nhà máy…
Nhóm 1 – Đ8 Nhiệt
25