Tải bản đầy đủ (.pdf) (229 trang)

Về các tổng tư lệnh chiến trường nhật pháp trong cuộc chiến tranh xâm lược việt nam t2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.89 MB, 229 trang )

27 6

VỂ CÁC TỔNG T ư LỆNH, T ư LỆNH CHlẾN TRƯỜNG...

đêm, Trung đoàn 36 diệt 5 cứ điểm ngoại vi cỡ trung đội, mở
đường cho một đơn vị biệt kích được trang bị gọn nhẹ thuộc
Đại đội Cẩm Lý của Tiểu đoàn 84 do Chu Tẩh và Lê Quang Tý
chỉ huy lọt vào trung tâm thị xã, phá hủy một trận địa gồm 4
pháo lOSmm, bắt sống tên quan ba chỉ huy, hạn chế hỏa lực chi
viện của địch, góp phần giảm bớt thương vong cho đơn vị bạn
tiến hành công kích Pheo.
Hôm sau, ngày 9-1, một máy bay Dakota của địch hạ cánh
xuống sân bay. Do trục trặc kỹ thuật, máy bay không cất cánh
được. Trung đoàn chỉ thị cho Đại đội 43 tranh thủ đánh ngay
trong đêm không để chúng sửa chữa. Chính ưị viên Lê Đăng
Dần đã giao cho tiểu đội ữưởng Thân Văn Năm ữang bị toàn
tiểu liên yểm trỢ cho Trịnh Quốc Oai, Diệp và Dược mang bộc
phá vào diệt máy bay. Từ bé anh em chỉ được trông thấy máy
bay ưên ữời, chưa một lần được đến gần máy bay. Quan sát khi
nó đỗ ữên sân chỉ thấy máy bay vừa cao, vừa dài không biết lên
xuống chỗ nào và bằng cách nào để đặt bộc phá gây cộng lực
phá hoại lớn nhâl. Mang theo thang vượt qua bãi trống cồng
kềnh rất dễ bị lộ khi địch tăng cường bảo vệ sân bay. Lê Đăng
Dần gỢi ý: c ứ đặt bộc p h á đánh gãy càng trước, m áy bay mất
thăng bằng sẽ đ ổ sập xu ố n g không ph ải trèo leo g ì cả. Phương
án được thực hiện và y như rằng sau khi bộc phá phát nổ, máy
bay địch đã gục xuốhg sân bay. Cho đến khi địch rút lui khỏi
Hòa Bình, chiếc máy bay vẫn nằm nguyên tại chỗ, toàn bộ động
cơ bị phá hủy.
Hơn một tháng tiếp đó, các đơn vị thuộc Trung đoàn 36
đã 225 lần đánh địch bằng mọi hình thức. Pháo, súng cối của


ta nã vào các mục tiêu hoặc tập kích bằng những lực lượng
nhỏ, bắn tỉa những tên địch xuâl hiện, diệt gần 400 tên, phá
hủy 3 máy bay.


Chương5:T)E LATTRE DE TASSIGNY

277

Vào thời điểm gay cấh nhất, De Lattre de Tassigny bị bạo
bệnh phải về nước và chết vào ngày 11-1-1952. Vừa bị bao vây
nghẹt thở ở Hòa Bình, vừa bị đánh tơi bời ở các mặt trận phối
hợp tại đồng bằng Bắc Bộ, Salan lên thay De Lattre nắm quyền
Tổng chỉ huy vội vã ra lệnh rút khỏi Hòa Bình, kết thúc thảm
hại chiến dịch phản công do De Lattre chủ trương. Cuộc rút lui
mang tên Amarante bắt đầu từ 19 giờ ngày 22-2-1952. Dọc
đường chúng thiết lập 10 điểm tựa gồm 1 tiểu đoản bộ binh, 2
liên đoàn thiết giáp, một số đơn vị công binh, tăng cường hoạt
động phi pháo lên gâ'p nhiều lần mà phải mất hai ngày trầy vẩy
chúng mới tới Xuân Mai. Bọn từ Hà Nội lên đón và bọn từ Hòa
Bình về gặp nhau đều thở phào vì không phải chung số phận
như hai binh đoàn Charton - Le Page ở Cao - Bắc - Lạng. Một sĩ
quan cao cấp của địch đã nói: "Thống c h ế De La1±re đã chết
đ ú n g thời điểm đ ể khỏi chứng kiến cuộc rú t lu i nàỷ'.
Kết cục chiến dịch Hòa Bình, địch bị loai gần 7.000 tên, kể
cả các măt trân phối hợp là 15.000 tên. Ta giải phóng thêm
l.OOOkm^ đất và 20 van dân. Địch bị đông càng lún sâu vào thế
bị đông. Đây là môt thất bai chiến lươc của De Lattre.
Jules Roy, nhà báo Pháp, đã mô tả tâm trạng ngao ngán của
Navarre ưước di sản mà De Lattre và êkíp của ông ta để lại cho

người k ế nhiệm: “Đó lả m ột đội quân đã quá m ệt m ỏi trước m ột
đối thủ m ềm dẻo, khó nắm bắt đến độ n gu y hiểm , có m ặt khắp
nơi và có tất cả. K hông ở đâu là hậu ph ươn g, tất cả đều bị đe
dọa và chết người. H ầu h ết các cú đánh của quân viễn chinh
n h ư đâm vào không k h í”.
Có người còn hạ một câu xanh rờn: “Thời Thống ch ê'D e
Lattre ch ỉ còn lại m ột p h ò n g tuyến lô cốt đúc bằng bêtông
nhằm p h á vỡ các đợt tiến công của đôi p h ư ơ n g ở châu thổ.
N gườ i ta tống đến các lô cốt ấy bọn xuẩn ngốc và bọn đầu óc


278

VỀ CÁC TỔNG T ư LỆNH, T ư LỆNH CHIẾN TRƯỜNG...

lạ c h ậ u ” (họ ví lô cô"t của De Lattre giống như tòa nhà Katignon

xây năm 1721 ở phố Varenne, Paris dành làm nơi họp Hội đồng
Bộ trưởng Pháp, ám chỉ nên dùng nó để nhốt các thành viên
Hội đồng Bộ trưởng xuẩn ngốc của Pháp).
Bốh năm sau khi De Lattre chết, Điện Biên Phủ thất thủ,
người ta vẫn cho De Lattre phải chịu một phần trách nhiệm vì
ông đã đưa de Casưies - một đại tá gắn chiến tranh với đàn bà
và ngựa - vào êkíp của mình để đến nỗi phải giương cờ trắng
đầu hàng.
Năm 1972, những người viết sử quân lực Việt Nam Cộng
hòa thuộc Bộ Tổng tham mưu ngụy cũng phải thừa nhận tôi ác
lớn nhất của De Lattre de Tassigny là đ ă c ố ý k é o d à i, m ỏ
r ô n g c h iế n tra n h ở V iêt N a m b ằ n g đ ô la , v ũ k h í M ỹ và x ư ơ n g
m á u đ ổ n g lo a i, tro n g k h ỉ H ô i đ ổ n g B ô trư ở n g , B ô trư ở n g

Q u ố c p h ò n g , C h ủ tịch H ô i đ ổ n g tham m ư u trư ở n g q u y ế t
đ ịn h r ú t v ề N a m v ĩ tu y ến 1 6 và c ố th ủ p h á o lũ y đ ư ợ c th iết
lâ p q u a n h H ả i P h ò n g , c h ỉ đ ể g ià n h lầ y h à o q u a n g c h iế n
th ắ n g của cá n h â n , k h iế n n ư ớ c P h á p tiế p tu c b ị sa lầ y trên
c h iế n trư ờ n g V ỉê t N am .


279

CHƯƠNG 6

RAOUL SALAN

45 NĂM GỒNG MÌNH TÌM LẠI “NHỮNG NGÀY SUNG
SƯỚNG NHẤT” CỦA c u ộ c ĐỜI THỰC DÂN BẰNG HÀNG
VẠN SINH MẠNG CỦA BINH sĩ DƯỚI QUYỂN
LIÊN TỤC THẤT BẠI TỪ CHIẾN DỊCH NÀY ĐẾN CHIẾN
DỊCH KHÁC. CUỐI ĐỜI NHẬN BẢN ÁN TỬ HÌNH, 76
THÁNG TÙ GIAM VÀ Đươc THA ở T u ổ l 70

Raoul Salan


281

S

au khi De Lattre chết, Chính phủ Pháp cử Raoul Salan làm
Tổng tư lệnh đội quân viễn chinh Pháp, cựu Toàn quyền


Gauthier giữ chức vụ Cao ủy Đông Dương, nội tình nước Pháp
lục đục. Chính phủ Queuille sup đổ vào giữa tháng 2-1952.
Chính phủ mới do Pinay làm thủ tướng vẫn giữ nguyên chính
sách cũ, kiên quyết chiếm đóng Đông Dương và dứt khoát chọn
Salan làm Tổng tư lệnh. Chức vụ Cao ủy được giao cho
Letourneau, Bộ trưởng các quốc gia liên kết kiêm nhiệm từ
ngày 1-4-1952. Tuy không được giao quyền hành rộng rãi rứiư
tướng De Lattre nhưng thực tế Salan được coi như nắm vai trò
chủ yếu tại Đông Dương, mọi công việc đều nằm trong tay ông.
Trong tám đời Tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp tái
chiếm Việt Nam, đại tướng Raoul Salan là người có thâm niên
lâu nhất. Hai mươi tư tuổi đời, với quân hàm trung úy ông ta
đã có mặt ưong các đạo quan binh xứ Bắc Kỳ, hoạt động từ
Nguyên Bình (Cao Bằng), Lạng Sơn, Đình Lập (Móng Cái) rồi
Mường Sinh tận Thượng Lào suốt 13 năm liên tục.
Trở về Pháp một thời gian, từ năm 1945 đến năm 1953, ông
lại thường xuyên có mặt tại Việt Nam. Salan rất hài lòng về
những tháng năm từ 1924 đến 1937 và cho đó là “quãng đời
sung sướng nhâV’ của ông.
Bắt nguồn từ chính sách thống trị bằng biện pháp quân sự
nhằm đàn áp hữu hiệu các cuộc khởi nghĩa và nổi dậy của nhân


282

VỂ CÁC TỔNG T ư LỆNH, T ư LỆNH CHIẾN TRƯỜNG...

dân Việt Nam vùng thượng du, ngày 6-8-1891 Toàn quyền
Đông Dương đã ra nghị định tổ chức trên lãnh thổ Bắc Kỳ bốn
đạo quan binh: đạo thứ nhất - Phả Lại, đạo thứ hai - Lạng Sơn,

đạo thứ ba - Yên Bái, đạo thứ tư: Sơn La, một phần lãnh thổ Lai
Châu thuộc đạo quan binh thứ năm - Thượng Lào.
Mỗi đạo quan binh do một sĩ quan cấp tá người Pháp làm
Tư lệnh, có quyền dân sư ngang Thống sứ Bắc Kỳ, có quyền mở
các cuộc hành quân đánh phá trong phạm vi cai quản, chỉ chịu
sư chỉ đạo của Tổng tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương. Mãi
tới ngày 16-4-1908 mới quy đỊnh lại: về dân sự, người đứng đầu
đạo ngang quyền công sứ (quan cai trị đứng đầu một tỉnh), về
quân sự chịu sự chỉ huy của Tư lệnh chiếm đóng Bắc Kỳ; bãi bỏ
tiểu khu, thay bằng đại lý do một sĩ quan cấp úy đứng đầu.
Vì vậy, là sĩ quan cấp thấp nhimg Salan nắm trong tay
quyền sinh, quyền sát như một bạo chúa tha hồ làm mưa, làm
gió ở các địa phương thuộc quyền cai quản.
Do môi trường sống và hoạt động, Salan đã thông thạo
tiếng Việt, tiếng Quảng Đông, tiếng Lào. Sau này trở về Pháp
làm ở phòng nhì thuộc Bộ Thuộc địa nơi có đến tám chi nhánh
đóng ở khắp nơi từ Hà Nội, Thượng Hải đến Noumea, Dibuti...
chuyên ăn cắp thông tin tình báo và do thám các nước trong
vùng, ông ta thông thạo và thi đậu bằng ngôn ngữ Thái Lan.
Dưới thời Toàn quyền Albert Sarraut, “người cha hiền” của dân
bản xứ được tiếng là rât “quý mến” dân “An Nam", đã chỉ thị
cho các công sứ, quan cai trị đầu tỉnh phải tận tình giúp đỡ nha
Thương chừủì đặt đại lý bán lẻ thuôL phiện ở khắp các xã, ấp,
trong đó 1.000 làng thì có đến 1.500 đại lý bán thuốc phiện.
Salan cũng thuộc dân nghiền ả phù dung. Một nhà báo Pháp đã
viết: “Ông xài thuốc phiện như một dân bản địa, mọi sáng kiêh
k ế hoạch của Salan đều hìrứi thành trong khói thuốc phiện”.


Chương 6: RAOUL SALAN


283

Tháng 1-1940, Salan rời Bộ Thuộc địa xuống làm Tiểu đoàn
trưởng một tiểu đoàn Senegal ở gần Bordeau. Trong Chiến
tranh thế giới thứ hai, thời gian đầu Salan phục vụ Chính phủ
Vichy, sau đó theo De Gaulle sang châu Phi, làm trung đoàn
trưởng thuộc đạo quân của Tassigny chiến đấ"u trên các mặt
trận phía nam nước Pháp.
Kết thúc chiến tranh Pháp - Đức, Salan mang quân hàm đại
tá. Ngày 12-2-1945, Tassigny gọi “bé con" Salan tới, giao tổ chức
chỉ huy Sư đoàn 14 và gắn cho hai sao cấp tướng.
Tháng 6-1945, Leclerc nhận chức Tổng tư lệnh quân đội viễn
chiiìh Pháp ở Đông Dương. Đang thiếu cán bộ khung để hình
thành CEPEO ngày 28-6, Leclerc gửi thư đề nghị Salan sang
Đông Dương. Salan không muốn đi vì muốn nghỉ ngơi, nhưng
ngày 15-9 Diethelm gọi đến nói: Đô đô"c d’Argenlieu và tướng
Leclerc rất muốn tướng quân trở lại Bắc Kỳ, nơi đang diễn ra
nhiều sự kiện. Salan đành phải chấp nhận. Leclerc được Salan
nhận lời, giao luôn cho Salan làm đại diện Bộ Tổng tư lệnh
quân đội Pháp ở Đông Dương cạnh tướng Lư Hán - người sắp
sửa đưa quân Tàu - Tưởng vào tước khí giới quân Nhật từ vĩ
tuyến 16 trở ra, đồng thời làm Tư lệnh quân đội Pháp ở Trung
Quốc và Bắc Kỳ, thực chất là thu nhặt bọn tàn quân chạy sang
nương náu Tàu - Tưởng sau ngày 9-3-1945 và tổ chức lại những
quân nhân cởi áo lính trà trộn trong kiều dân Pháp tá túc ở các
tỉnh từ H uế trở ra thành một lực lượng sẵn sàng hỗ trỢ cho đại
quân Leclerc khi đổ bộ ra miền Bắc.
Ngày 7-11-1945, Salan sang Côn Minh, tập hỢp được
khoảng trên 5.000 quân của các trung đoàn thuộc địa, lính

Rahdê, lính khố xanh được Tưởng cho tạm trú dọc tuyến đường
sắt từ Mông Tự đến giáp giới Lào Cai trong tình trạng thiếu vũ


284

VỂ CÁC TỔNG T ư LỆNH, T ư LỆNH CHIẾN TRƯỜNG.

khí, thiếu quân trang, quân dụng, thiếu tiền. Salan trở về báo
cáo và được Leclerc đáp ứng mọi nhu cầu. Khi Salan đề nghị Lư
Hán cho bọn này ữở về Bắc Kỳ, Lư Hán chỉ ậm ừ không dám
châ'p nhận, mặc dầu Salan đưa cả Thống đốc ngân hàng Đông
Dương sang để gạ gẫm vì Lư Hán sỢ họ sẽ trở thành lực lượng
cản trở mưu đồ biến Đông Dương thành thuộc quốc của Trung
Hoa dân quốc. Nhờ sự can thiệp của chính quốc, Tưởng đồng ý
cho bọn này chuyển về Bắc Lào. Nhưng trên thực tế những
cánh quân của Droniou Gaucher, Quylichini, Le Page đã vượt
sông Hồng đánh chiếm Lai Châu, Phong Thổ, Tuần Giáo, Điện
Biên vào tháng 2-1946.
Salan cũng đã nắm được số người Pháp còn lại ở Bắc Đông
Dương là 17.611 người gồm cả đàn ông, đàn bà, trẻ em. Riêng ở
Hà Nội, ông ta đã phân loại được 582 sĩ quan, 1.468 hạ sĩ quan,
cộng cả binh sĩ là 4.411 người, đủ khôi phuc một tiểu đoàn của
9*" RIC, một tiểu đoàn của 19‘" RIC, một tiểu đoàn của s*" REI,
Trung đoàn pháo binh thuộc địa số 4, một đại đội vận tải và
một số thuộc các binh chủng hải quân, không quân, ơ Hải
Phòng cũng tìm được 30 sĩ quan, 96 hạ sĩ quan, 106 lính cộng
232 trong sô" 1.160 người Pháp, ơ H uế là 7 sĩ quan, 28 hạ sĩ
quan, 33 lứứi cộng 68 ưong số 1.892 người có mặt,


V.V..

Đây có

thể coi là lực lượng nằm vùng răt lợi hại vì quen thung thổ. Sau
ngày 6-3-1946, bọn chúng được tái vũ trang trở nên râ"t hung
hăng với những hành vi khiêu khích làm mâ"t trật tự an ninh
của thủ đô, châm ngòi cho ngọn lửa chiến tranh.
Có thể nói Salan đã hoàn thành hai nhiệm vụ quan trọng
mà Leclerc giao.
Sau khi Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946 được ký kê"t, ngày
24-3 Chủ tịch Hồ Chí Minh tới Vịnh Hạ Long theo lời mời của
Cao ủy Pháp d’Argenlieu. D’Argenlieu đề nghị nên có một


Chương 6: RAOUL SALAN

285

cuộc họp trù bị, tiếp đó là một cuộc họp chính thức hai bên
Việt - Pháp tại Đà Lạt để chính thức hóa Hiệp định sơ bộ ngày
6-3-1946.
Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn đưa vâ"n đề khỏi tầm với của
một tên thầy tu phá giới hiếu chiến nên yêu cầu cuộc họp
được tiến hành tại Paris. D’Argenlieu sỢ vai trò của Chủ tịch
Hồ Chí Minh với tư cách là nguyên thủ quốc gia sang nước
Pháp sẽ gây ảnh hưởng tới dư luận Pháp vốn dao động một
cách thât thường sau Chiến tranh th ế giới thứ hai nên không
tán thành. Nhưng ý kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tranh
thủ đưỢc sự nhâ"t trí của Leclerc và Sainteny nên d’Argenlieu

phải miễn cưỡng chấp thuận.
Sáng ngày 30-5, lễ tiễn Chủ tịch Hồ Chí Minh đi Pháp
được tổ chức với trên 5 vạn người tham dự. Sáng 31-5, sau khi
cùng Valluy hướng dẫn Chủ tịch Hồ Chí Minh duyệt đội quân
danh dự, Salan đã tháp tùng Người đi Pháp với tư cách là
khách mời darứi dự của Chính phủ Pháp (không phải là đại
biểu chính thức trong phái đoàn đàm phán giữa hai chính phủ
Việt - Pháp).
ơ Pháp đang tiến hành tống tuyến cứ, không có người
đứng đầu nhà nước chính thức đihìg ra đón Chủ tịch Hồ Chí
Minh nên chuyến đi Pháp của Người bị trì hoãn nhiều lần.
Đe bảo đảm cho tổng tuyển cử kết thúc trước khi đoàn đến
Paris, Người đã dừng lại Myanmar, Calcutta, ngày 4-6 tới
Agra, rồi Carachi, Ai Cập, Algeria và tạm nghỉ tại Barritz,
miền nam nước Pháp. Từ ngày 12-6 đến ngày 22-6, khi
George Bidault được cử làm người đimg đầu Chính phủ
Pháp, Người mới tới Paris.
Suốt dọc cuộc hành trình của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Salan
đóng vai một hướng dẫn viên du lịch râ"t đắc lực. Ngày 6-7,


28 6

VỀ CÁC TỔNG T ư LỆNH, T ư LỆNH CHIẾN TRƯỜNG...

Hội nghị Pontainebleau khai mạc, trong đoàn của Pháp có Max
André, Pignon, Toren, Messmer và cả Salan.
Hôm sau, vào khoảng 12 giờ Salan dẫn vỢ con đến chào
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cho đến ngày 16-9, khi Chủ tịch Hồ
Chí Minh rời Toulon lên tàu Dumont d’Urville về Hải Phòng,

Salan mới kết thúc công việc tháp tùng mặc dù trong quyết
định ngày 29-5-1946, d’Argenlieu chỉ giao cho ông nhiệm vụ đại
diện Cao ủy Pháp và Tổng tư lệnh quân đội Pháp ở Đông
Dương dư Hội nghị Paris, ký các thỏa thuận về quân sự trong
khuôn khổ của Hội nghị giữa hai bên.
Nhiều năm sau, ông còn giữ được tấm ảnh Chủ tịch Hổ Chí
Minh tặng có dòng chữ: A m onsieur le G énéral Salan M eilleurs
amitiés 7-4-1946 (Tặng tướng Salan vì tình bạn tốt đẹp). Tấm
ảnh được ữì trang trọng trong cuốn hồi ký của Salan xuâl bản
năm 1970.
Tât nhiên, lâp trường của Salan vẫn là lâp trường thưc dân.
Muc tiêu của ông ta không ngoài viêc phuc vu cuôc chiến
tranh xâm lược của Pháp ở V iêt Nam.


287

II

S

au thâ"t bại ưong cuộc tấh công lên Việt Bắc, ngày 15-51948, Salan bị rút về Pháp làm nhiệm vụ theo dõi quân đội

thuộc địa. Biết Salan từ những trận đánh ở Toulon nên khi sang
Việt Nam làm Cao ủy kiêm Tổng tư lệnh, Tassigny đã kéo Salan
sang Đông Dương làm phụ tá hành quân cho mình.
Trong chiến dịch Trung du cuối năm 1950 đầu năm 1951,
Vữìh Yên nằm ữong tầm súng của Quân đội ta. Trước sự uy
hiếp của đối phương, Allard và Salan đã kịp lập một cầu hàng
không đưa 4 tiểu đoàn từ Nam ra Bắc cứu nguy Vĩnh Yên, đỡ

đòn cho Tassigny.
Sau những đợt hoạt động của ta ở đường 18 và đồng bằng
Hà Nam Ninh, tuy hiệu suât không cao song đã khiến cho các
tướng lữứì Pháp hình thành hai quan điểm: Một phía thấy cần
tập trung lưc lượng giữ cho được đồng bằng Bắc Bộ, phía khác
đòi phải đánh ra vùng căn cứ địa của ta để giành thế chủ động.
Tassigny đã chọn biện pháp “cứng”, tiến công vào thị xã Hòa
Bình rủiằm cắt Khu 3, Khu 4 với Việt Bắc, thu hút và bẻ gãy chủ
lực của ta. Âm mưu lâu dài là lập xứ Mường tự trị.
Tassigny đã giao nhiệm vụ chỉ huy chiến dịch cho Salan
cùng với tướng Allard. Biết Hòa Bình không có tổ chức phòng
ngự từ trước, Salan vẫn thốt lên: “Tôi thật sư kinh ngạc, nếu
không nói là hoảng hốt”. Thấy ta đánh mạnh ở Nghĩa Lộ, phía
Pháp tưởng chủ lực ta hoạt động chủ yếu ở Tây Bắc, Tassigny


288

VỀ CÁC TỔNG T ư LỆNH, T ư LỆNH CHIẾN TRƯỜNG...

ra lệnh bắt đầu chiến dịch Tulip. Salan đưa 12 tiểu đoàn, 5 đơn
vị pháo nống ra Chợ Bến. Không gặp phản ứng của chủ lực ta,
Salan mở tiếp chiến dịch lấy tên Lotus, tập kết 18 tiểu đoàn
trong đó có 8 đơn vị pháo, 2 đơn vị chiến xa, 2 tiểu đoàn công
binh chia hai ngả; một theo đường sông Đà tiến lên thị xã Hòa
Bình, một theo đường số 6 kết hỢp với 3 tiểu đoàn dù được
ném xuống Hòa Bình ngày 14-11-1951.
Tassigny bị ung thư giai đoạn cuối, phải có hai người xốc
hai bên đến tham dự cuộc họp báo đêm 15-11. ô n g trực tiếp
thông tin chiến thắng và tuyên bố: “Với trận tiến công Hòa

Bình, ta đã gây khó khăn lớn cho đối phương. Tiến công Hòa
Bình có nghĩa là ta đã bắt buộc đôì phương phải xuâl trận. Trận
Hòa Bình có ảnh hưởng quốc tế lớn”. Hôm sau ông tổ chức một
cuộc diễu binh với sự tham dự của Bảo Đại để khoe khoang
chiến tích và “mừng khu tự trị Mường ra đời!”. Ngày 19-11,
Tassigny gắng gượng lên máy bay đến Hòa Bình chỉ thị cuối
cùng cho thuộc hạ trước khi về chết trên đẩt mẹ. Toàn bộ gánh
nặng đè lên vai Salan.
Trên mặt trận chính, đêm 10-12-1951, Trung đoàn 88 và
Tiểu đoàn 80 của Trung đoàn 36 tấn công đồn Tu Vũ bên tả
ngạn sông Đà. Đồn có hai điểm tựa phía nam và phía bắc ngăn
cách bởi con ngòi Lát. Mỗi điểm do 1 đại đội Bắc Phi đóng giữ.
Điểm phía nam có thêm 1 chi đội gồm 4 chiến xa M24. Trước
cuộc tấh công một ngày, địch biết tin quân ta tới đánh đã mở
cuộc hành quân câ"p liên đoàn để sục sạo và ngăn chặn nhưng
không phát hiện được ta nên đã tăng cường thêm lực lượng lên
đến một tiểu đoàn. Ta tấn công mở đầu bằng pháo kích, tiếp đó
dùng đại bác bắn thăng vào đồn. 22 giờ 10 phút, các đơn vị
xung kích của ta xung phong vào điểm tưa phía bắc. Pháo của
địch từ núi Chẹ, Đá Chông bắn câ"p tập vào hàng rào kẽm gai


Chương 6: RAOUL SALAN

289

nhưng không ngăn nổi lực lượng ta. Tới 23 giờ 40 phút cùng
ngày ta chiếm được điểm tựa phía bắc. Bọn sống sót lội ào qua
ngòi Lát sang điểm tựa phía nam. 3 giờ sáng 11-12, ta mở đợt
xung phong vào điểm tựa phía nam. Bốn chiến xa của địch vừa

chà xát khu vực cửa mở vừa bắn cản dữ dội vào lực lượng xung
kích, cả 4 chiếc xe của địch bị ta đốt cháy, không một tên lính
nào trên thiết giáp sống sót. Một số binh sĩ Bắc Phi bơi qua sông
Đà núp trên cồn cát giữa sông nhưng không mẩy tên thoát chết.
MỞ màn chiến dịch, ta diệt gọn một tiểu đoàn Âu - Phi được xe
tăng và pháo binh yểm trợ tối đa. (Trận này địch bắn 5.000 phát
đại bác trong 5 giờ liền để ngăn chặn các mũi tiến công của ta.
Ta đã mất những cán bộ tiểu đoàn ưu tú: Tiểu đoàn trưởng Vũ
Phương, chứứi trị viên tiểu đoàn Lê Bình và nhiều cán bộ, chiến
sĩ thương vong).
Các đại đoàn 308, 304, 312 đã “biến đường số 6 thành
đường số 4 năm xưa”, “biến sông Đà thành sông Lô lịch sử”.
Ngày 22-12-1951, ta đánh một đoàn tàu tiếp tế do hải đoàn
xung phong của địch hộ tống trên sông Đà, đánh đắm 4 sà lan,
bắn hỏng 1 LSSL, 1 LCM trúng mìn. Ngày 29-12-1951, một đại
đội lê dương bị trúng mìn trên đường sô" 6, chê"t 130 trong tổng
số 200 tên. Quân Pháp ở Hòa Bình nằm trong thê bị bao vây
chặt. Lính của Salan kêu là bị đẩy vào “đông phân" và “sa
xuông địa ngục” vì vừa thiếu thốn mọi thứ trong sinh hoạt, cả
ngày lẫn đêm bị các cỡ đạn dội xuống đầu, có thể thương vong
bẫt cứ lúc nào.
Đồng chí Nguyễn Chí Thanh - Chủ nhiệm Tổng cục Chính
trị đến thăm Trung đoàn 36 đang phục kích địch ở bờ sông Đà
đã nhắc anh em phải râ"t kiên trì “Càng ninh, càng kỹ, càng
nhừ, càng ngon”. Địch liều đưa 5 tàu từ Hòa Bình xuôi sông Đà
lấy hàng tiếp tế. Đến Lạc Song thì rơi vào trận địa phục kích


290


VỀ CÁC TỔNG T ư LỆNH, T ư LỆNH CHlẾN TRƯỜNG...

của Trung đoàn 36, cả đoàn tàu cùng một đại đội lính đi áp tải
bị diệt. Ta thu 3 khẩu pháo, 3 súng 12,7mm, bắn rơi tại chỗ
một máy bay. Sau trận này, địch không dám xuất hiện trên
sông Đà.
Trên đường sô" 6, dưới những triền núi hiểm hở, xác xe các
loại của địch bị các đơn vị của Đại đoàn 304 tiêu diệt nằm ngổn
ngang. Phía sau lưng bị Đại đoàn 316, Đại đoàn 320 đánh sập
từng mảng, phong trào du kích phát triển rộng khắp các tỉnh
đồng bằng.
Đêm 7-1-1952, năm cứ điểm ngoại vi thị xã bị diệt, h ận địa
pháo 105 ở trung tâm bị phá hủy. Phía hữu ngạn sông Đà,
Trung đoàn 102 cùng các đơn vị phối thuộc tấh công vị trí
Pheo nằm trên đường số 6, cách thị xã 6km do tiểu đoàn lê
dương (2 /1 3 DBLB) chiếm giữ. Địch bố trí ở làng Pheo hai đại
đội, một đại đội ở đồi Miều, một đại đội và sở chỉ huy tiểu
đoàn ở đồi Pheo. Trung đoàn Thủ đô thừa khả năng diệt địch
nhưng “say” không khí chiến thắng chung đã thiếu thận trọng
trong công tác chuẩn bị chiến đâu nên trận đánh không giành
đưỢc thắng lợi. Khi đứng ở điểm cao bên tả ngạn rứììn sang thì
thây từ bờ sông dẫn tới Pheo toàn là bãi cỏ xanh mướt phảng
lỳ, nhưng khi tới nơi đó lại là những vũng lầy, ao nước cản trở
đội hình tiến công. Khi đánh lên sở chỉ huy địch - điểm phòng
ngự chính của chúng, ta dùng hai mũi, nhưng mũi phụ gặp
phải vách đồi dựng đứng không lên được, thành ra chỉ có một
mũi đánh theo một hướng. Trong khi đó ở phía đông có một
điểm cao hơn đồi Pheo, lối lên không khó khăn gì. Nếu điều
tra tỉ mỉ, đưa mũi phụ sang phía đông, đánh từ trên đè dập
đầu địch xuống thì tình th ế sẽ khác. Trận đánh đã diễn ra

quyết liệt từ 0 giờ 30 phút đến 4 giờ sáng ngày 8-1-1952. Tên
thiếu tá Roux được sự yểm trỢ của pháo binh đã liều mạng


Chương 6: RAOƯL SALAN

291

chống trả. Địch thú nhận hầu hết bọn sĩ quan của Đại đội 5
chết và bị thương, chỉ còn mấy tên lê dương sống sót cố thủ
trong công sự bắn ra.
“Ống thưc quản ướt” vận chuyển theo đường sông Đà bị
cắt đứt. Nguồn tiếp tế tăng viện dồn vào “ống thưc quản khô”
là đường số 6 không an toàn. Tiếp tục chiếm giữ Hòa Bình thì
đói khát, tổn thất ngày càng nhiều. Rút lui là một cuộc phiêu
lưu. Nhưng trước sự áp đảo của ba đại đoàn chủ lực 304, 308,
312 tại mặt trận Hòa Bình và hai đại đoàn 320, 316 ở vùng sau
lưng từ tả ngạn, hữu ngạn đến trung du, từ nam phần Bắc
Ninh xuông Quảng Yên, sáng 23-2 Salan ra lệnh rút quân.
Trên đường rút theo kiểu cuốn chiếu, địch bắn đến 3 vạn phát
đại bác mà ba ngày sau về đến Xuân Mai còn run vì vừa thoát
khỏi tình trạng bị bắt sống cả lũ như Charton - Le Page ở biên
giới. Lại một lần Salan mất 6.000 quân, 9 máy bay, 18 tàu
xuồng, 12 xe tăng, 24 pháo.
Đánh giá thất bại lần này, các nhà sử học Pháp Jean
Lacouture và Philippe Devillers cho rằng: “T ừ đ â y n ư ớ c P h áp
h o à n toàn m ấ t q u y ề n c h ủ đ ô n g , b u ô c p h ả i q u a y v ề p h ò n g
n g ừ '. Người Pháp còn nói: "D e L attre c h ế t đ ú n g lú c đ ể k h ô n g
p h ả i trô n g th ấ y s ư p h á sẩ n và thất b a i h o à n toàri'.



2 92

III

N

ắm quyền Tổng tư lệnh, trong báo cáo gửi Chính phủ
Pháp, Salan viết: “Trong bảy năm chiến tranh ngày càng

ác liệt, quân đội ta hy sinh quá nhiều, ta vẫn không tiêu diệt
được địch. Nếu để địch thắng thì cả Đông Nam Á bị nhuộm đỏ.
Đối phương của ta có những dâu hiệu mệt mồi nhxmg ta không
dễ gì đánh ngã được họ nếu không thưc hiện được một nỗ lưc
đặc biệt.
Đổ đối phó với một kẻ địch hiện có 5 sư đoàn chính quy tại
miền Bắc đưỢc Trung Quốc Cộng sản viện trỢ dồi dào’ không
những có khả năng đánh du kích mà còn đánh cả trận địa, ta
phải có một đạo quân thiện chiến ít ra phải ngang địch và phải
có một ưu thế tuyệt đối về quân sô' để đập tan các đơn vị chủ
lực địch mới vãn hồi ư ật tự lâu dài cho Đông Dương”.
Theo ông ta: “Một khi lực lượng chính quy này bị tiêu diệt,
các cơ sở quân chírủì khác của địch sẽ bị tan rã nhanh chóng,
các căn cứ của họ sẽ bị thanh toán không khó khăn gì. Qua kinh
nghiệm chiến dịch 1951 - 1952 cho thấy với quân số hiện hữu ta

1. Về phía ta, tiếp theo sự ra đời của các Đại đoàn 308, 304, 312, Đại
đoàn 320 được thành lập ngày 16-1-1951 tại Nho Quan, Đại đoàn 316 được
thành lập ngày 1-5-1951 tại Lạng Sơn, Đại đoàn công pháo 351 được thành
lập ngày 27-3-1951, Đại đoàn 325 được thành lập ngày 5-12-1952, và Trung

đoàn pháo cao xạ 367 được thành lập ngày 1-4-1953.


Chương 6: RAOUL SALAN

293

không thể thắng được địch. Họ được cung cấp nhân vật lực sau
mỗi trận đánh, trong khi đó ta chưa vãn hồi được an ninh ỏ hậu
tuyến và phải phân tán quân để giữ nhiều khu vực lãnh thổ bị
uy hiếp .
Salan đã đề ra một k ế hoach hành động trong vòng hai
năm rưỡi từ năm 1953 đến tháng 9-1955 bành trướng ngụy
quân lên 100.000 tên, thành lập được tại Bắc Việt 19 tiểu đoàn
khinh quân (Commando), tại Trung Việt 14 tiểu đoàn và tại
Nam Việt 21 tiểu đoàn.
Hành động sơ khởi từ tháng 4, 5-1953 đến tháng 12-1953:
- Bình định hữu hiệu tât cả những khu vực đã chiếm đóng,
đồng thời kiểm soát tâ't cả những tài nguyên để không rơi vào
tay địch.
- Tiếp tục mở chiến dịch phụ để chiếm đóng các khu vực
kinh tế và đông dân, phá vỡ địa bàn chính trị của địch.
- Nếu các tiểu đoàn khinh quân đang được xúc tiến thành
lập có thể đảm trách hiệu quả từ cuối năm 1953 thì khởi sự bàn
giao lãnh thổ ngay, nhãt là tại miền Nam để tạo ra một binh
đoàn chủ lực không bị ràng buộc bởi sự giữ đất
Salan dư định: “Nếu năm 1954 có sư tiến triển thích đáng sẽ
đánh chiếm vùng đất giữa miền Trung (Liên khu 5), bình định
trọn vẹn những vùng mới chiếm đóng, đồng thời chiếm miền
Bắc. Đầu năm 1955 phải có một đạo quân chủ động gồm các

đơn vị lưu động được huấh luyện và ữang bị đầy đủ để tung ra
chiến trường vào mùa thu. Trước khi tung đạo quân này vào
trận cuối cùng, phải bít tất cả cửa ngõ của địch trông ra biển để
ngăn cản địch lấy người và thóc lúa tại miền Thanh - Nghệ Tĩnh, tôl thiểu phải chiếm được Thanh Hóa. Khả năng phát
động các cuộc hành quân chiếm cứ này tùy thuộc ở đà tiến triển
của ta lúc ây và cũng tùy thuộc vào yếu tố sẵn sàng của binh


294

VỂ CÁC TỔNG T ư LỆNH, T ư LỆNH CHIẾN TRƯỜNG...

đoàn cơ động kể trên”. Salan gọi đây là thời kỳ chuẩn bị tổng
tấn công để đánh những đòn quyết định.
K ế hoạch đại quy mô còn đang được hoạch định thì chính
ngay bản thân Salan đâ mất sáng kiến chủ đông trước cuôc tấn
công bất ngờ của đối phương vào miền Thái diễn ra đột ngột
vào giữa tháng 10-1952 khiến ngay từ phút đầu, tất cả hệ thống
phòng ngự của Pháp ở vùng Tây Bắc hầu như sụp đổ.
Từng đứng đầu đạo quan binh Mường Sinh bao gồm cả
lãnh thổ vùng Tây Bắc, Salan không biết nhiều nhà địa lý và
du khách nhiều nước ca ngợi Tây Bắc là sơn nguyên đẹp có
một không hai trên thế giới, con sông Đà chia Tây Bắc làm hai
vùng, có đến 187 sông suối chảy vào là nguồn tài nguyên đặc
thù nhưng trải qua các chiến trường, Salan thừa biết thế mạnh
của bộ đội ta là tác chiến trên vùng rừng núi nên ông ta rủìận
thức rõ vùng Tây Bắc chiếm một vị trí chiến lược rất quan
trọng không những đối với miền Bắc Việt Nam mà cả đối với
Lào. Đây cũng là nơi dễ bị ta uy hiếp, nên Salan đã thiết lập
bốn phân khu: Lai Châu, Sông Đà, Nghĩa Lộ, Sơn La và ba tiểu

khu độc lập: Thuận Châu, Phù Yên, Tuần Giáo, hợp thành khu
tự trị Tây Bắc gọi tắt là ZANO (Zone Autonome Nord - Ouest)
với 144 cứ điểm lớn nhỏ, 8 tiểu đoàn và 43 đại đội chiếm đóng,
chưa kể các lực lượng bán vũ trang của bọn thổ ty, lang đạo
phản động địa phương.
Do ta tổ chức nghi binh dưới nhiều hình thức: làm đường
sá, lập kho tàng bến bãi, huy động dân công điều chỉnh lực
lượng hướng về phía đồng bằng, nhân dân và bộ đội lại có ý
thức giữ bí mật, Salan đoán chắc thu đông năm 1952 quân ta sẽ
đánh vào đồng bằng Bắc Bộ. Trong khi đó ta lai chủ trương
mở chiến dịch tấn công vào Tây Bắc nhằm tiêu diêt sinh lưc
địch, tranh thủ nhân dân và giải phóng môt bô phân đất đai.


Chương 6: RAOUL SALAN

295

Các Đại đoàn 308, 312, 316, Đại đoàn công pháo 351 và Trung
đoàn 148 đưỢc sử dụng vào mặt trận chính. Vùng địch hậu
Liên khu 3 ta mở mặt trận phối hỢp do các Đại đoán 320 và
304 thực hiện.
Gần 6 vạn bộ đội và dân công chia làm bốn mũi vượt sông
Thao ưên một chiều dài 40km trong ba đêm, mang theo cả bò,
lợn làm thực phẩm mà địch không hay biết.
Có câ"u tạo đủ năm dạng địa hình, các vùng trũng kết tạo
giữa núi hình thành ỏ Tây Bắc hơn hai chuc cánh đồng lớn nhỏ
trong đó có bốn vựa lúa gồm Mường Thanh (Điện Biên),
Mường Lò (Nghĩa Lộ), Than Uyên và Quang Huy được xếp
hạng như sau: nhất Điện, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc.

Nghĩa Lô thường gọi là Mường Lò, được chon là mũi điểm
của chiến dịch. Đây là một thung lũng dài khoảng 15km, rộng
từ 3 - 6km. Giữa thung lũng là thị trấh có khoảng 300 nóc nhà
của đồng bào Thái, một số ít được xây gạch, lợp ngói. Phía tây
nam cuối thị trân là cứ điểm Nghĩa Lộ, ta vẫn gọi là Nghĩa Lô
phố được xây dựng ngay tại trại lính khố xanh cũ do tên quan
tư Tririlon, một tên ác ôn cáo già sống ữong vùng từ rửiững
năm 1940 thông thạo tiếng Thái nắm quyền chỉ huy. Từ Nghĩa
Lộ phô" đến chân núi Pú Chạng là đồn Pú Chạng được đặt trên
đồi cao, ta vẫn gọi là Nghĩa Lô đồn. Sau chiến dịch Lý Thường
Kiệt, địch củng cố lại hệ thống phòng ngự khá vững chắc gồm 8
lô cốt, 15 ụ súng có hầm ngầm và 3 - 4 hàng rào dây thép gai
xen kẽ các bãi mìn dày đặc. Tririlon đã tuyên bố; Phải 5 năm
nữa Việt Minh m ớ i có khả năng đánh Pú Chạng. Khi chiến dịch
Tây Bắc mở màn, hắn đã vội vã chuyển sở chỉ huy từ Nghĩa Lộ
phố lên Nghĩa Lộ đồn để bảo đảm an toàn.
Tại Hội nghị phổ biến k ế hoạch chiến dịch ngày 9-9-1952,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lội suối nước đang chảy xiết sau đêm


296

VỀ CÁC TỔNG T ư LỆNH, T ư LỆNH CHIẾN TRƯỜNG...

mưa lũ gặp gỡ cán bộ và chỉ thị: “Chiến dịch này gian khổ, có
nhiều khó khăn nhvmg nhất định phải đánh cho thắng”.
Điểm mới trong chỉ huy, chỉ đạo chiến dịch này là một tiểu
đoàn thuộc trung đoàn chủ lực của Tây Bắc đã được đưa vào
hoạt động phía sau lưng địch, buộc chúng phải đối phó trên hai
hướng: phía trước là Nghĩa Lộ - Phù Yên, phía sau là cả một

vùng rừng núi trùng điệp từ hữu ngạn sông Hồng đến vùng đất
phía tây sông Đà.
Sau khi qua sông, mũi thọc sâu của chiến dịch nhất thiết
phải vượt qua Khau Vác - một ngọn núi đá pha đâ"t, nhánh cuối
của dãy Hoàng Liên Sơn cao 1.200 - l.SOOm, quanh năm mây
mù che phủ, nhiều đoạn dốc đứng, tuy đã được lực lượng công
binh bạt bớt độ dốc, sửa thêm bậc nhưng chân người bước
trước vẫn chạm mũi người leo sau. Những nhà thổ nhưỡng xác
định vành đai đất Peralit vàng đỏ có mùn chiếm ưu thế, đất ẩm
ít kết vón, càng lên cao độ ẩm mùn càng nhiều, bộ đội hành
quân vào những ngày mưa tầm tã, bùn đất nhão nhoét, mỗi
bước đi là mỗi bước gian nan, nhâl là đối với các đơn vị pháo.
Mỗi khẩu sơn pháo 75mm phải tháo ra làm 7 bộ phận, 4 bộ
phận nặng nhâl mỗi bộ phận ngót một tạ, phải khiêng tư, hai
bánh xe và lá chắn thì khiêng đôi. Trời tạnh ráo trên đường
bằng khiêng pháo đã khó, vượt Khau Vác dưới mưa càng khó
hơn. Vậy mà bộ đội ta đã hành quân liên tuc suốt một tuần
không nghỉ để kịp thời gian nổ súng.
MỞ màn chiến dịch, ngày 14-10-1952, các Đại đoàn 316, 312
tiến công tiêu diệt các vị trí Sài Lương, Ca Vịnh. Trung đoàn 36
theo đường sô' 13 vượt qua Ca Vịnh vừa được mở tiến vào bao
vây cửa Nhì, tiền đồn phân khu Nghĩa Lộ. Trung đoàn 88 và
Trung đoàn 102 được tăng cường 1 tiểu đoàn của Đại đoàn 312,
1 tiểu đoàn sơn pháo 75m m , 1 tiểu đoàn pháo cối 120m m ,


Chương 6: RAOƯL SALAN

297


2 đại đội phòng không của các Đại đoàn 312, 316, tranh thủ
trời sương mù hình thành thế bao vây Nghĩa Lộ phố và Nghĩa
Lộ đồn.
Suốt ngày 17-10, 3 tốp máy bay tiêm kích Hellcat, 1 tốp B.26
của địch thay nhau hoạt động ữên vùng trời. Đúng 17 giờ,
trong khi máy bay địch vẫn oanh kích thì các mũi tiến công của
Trung đoàn 102 nổ súng đánh Pú Chạng. Trận đánh diễn ra rất
ác liệt. Hai máy bay địch bị bắn cháy; bên ta có 34 cán bộ, chiến
sĩ, trong đó có Trung đoàn phó Hùng Sinh thương vong khi
bom napalm của địch rơi ưúng đội hình xuâl phát xung phong.
Đến khi mở cửa qua bãi mìn, thêm 12 cán bộ, chiến sĩ hy sinh.
Mặc dù vậy, quân ta vẫn kiên quyết tấn công. Đến 20 giờ cùng
ngày, Trung đoàn 102 đã làm chủ cứ điểm Pú Chạng, bắt 177
tên lính Âu - Phi, trong đó có cả tên quan tư Tririlon. Đúng lúc
ta thu dọn chiến trường, địch tiếp tuc ném bom, tiểu đoàn
trưởng Vũ Phương đã hy sinh tại chân đồn.
Theo k ế hoạch, ta sẽ đánh Nghĩa Lộ phố vào đêm 18-10,
nhimg thấy Trung đoàn 102 có khả năng dứt điểm Pú Chạng
sớm, Đại đoàn trưởng Vương Thừa Vũ lệnh cho Trung đoàn 88
ngay trong đêm 17-10 đánh Nghĩa Lộ phố, không chờ bộ binh và
pháo bmh từ hướng Pú Chạng về chi viện.
Một điều trùng hỢp khá lý thú, Đại đoàn trưởng Vương
Thừa Vũ chính là người tù cũ của thực dân Pháp ở Nghĩa Lộ,
vượt ngục sau một cuộc khởi nghĩa không thành, giờ là người
chỉ huy tiêu diệt đồn binh Pháp trên đất Nghĩa Lộ.
Trung đoàn 88 lập tức chia ba mũi tiếp cận đồn địch.
Đại đội sơn pháo 753 được lệnh đưa pháo từ Nghĩa Lộ đồn
về yểm trỢ Trung đoàn 88 đánh Nghĩa Lộ phố đã lợi dung
ánh sáng đèn dù do máy bay Dakota của địch thả trên vùng
trời vượt qua cánh đồng lúa, chiếm lĩnh xong trận địa trước



29 8

VỀ CÁC TỔNG T ư LỆNH, T ư LỆNH CHIẾN TRƯỜNG...

2 giờ 20 phút sáng 18-10. Khẩu đội bố ưí gần mục tiêu nhất,
cách khoảng 150m.
Bố phòng của địch ở Nghĩa Lộ phô" không có những hàng
rào dây thép gai tầng tầng lớp lớp và cũng không có những
lô cốt chìm kiên cố, mà chỉ là những u súng máy, những lỗ
châu mai đuc trên tường nhà ngủ của binh lính. Mỗi lần hỏa
điểm của địch xuâ"t hiện ở đâu là pháo ta ngắm bắn trưc tiê"p
vào đó, tạo điều kiện thuận lợi cho xung lưc của ta nhanh
chóng chiếm lĩnh tung thâm của địch. 8 giờ sáng 18-10, 3 đại
đội địch đã bị tiêu diệt và mâ"t ý chí đề kháng, 253 tên bị ta
bắt sống, trong đó có tên đại úy Barbaree - chỉ huy đơn vị vừa
đến tăng viện cho Nghĩa Lộ. Bộ đội pháo binh sau trận này có
thêm vốn, đó là 2 khẩu pháo 105mm và hàng ngàn viên đạn
chiến lợi phẩm.
Cùng lúc đơn vị bạn công kích Nghĩa Lộ, Trung đoán 36
áp sát bao vây đồn cửa Nhì do một đại đội địch chiếm đóng
trên một điểm cao. Thực hiện chính sách nhân đạo, ta gọi
hàng nhưng chiều 18-10 địch thả thêm quân tăng viện, dùng
máy bay bắn phá, ném bom napalm vào các vị trí nghi có
quân ta (Vũ Mộng Bút và cả dàn pháo côi 81m m của 35K đã
bị bom napalm ném trúng), lợi dụng đêm tối chuẩn bị rút
chạy. Bám sát hành động của địch, Đại đội trưởng Dương
Thế Minh nắm quyền tiểu đoàn trưởng thay đồng chí Cao Lưu
bị ô"m và Tiểu đoàn phó Tường “kính” vừa hy sinh đã ra lệnh

nổ súng diệt ngót 100 tên, bắt sống cả đồn trưởng, đồn phó
và 80 tên khác.
Trên các hướng, các đồn Nậm Mười, Gia Hội, Tú Lệ, Bản
Trại, Bản Mơ lần lượt bị tiêu diệt. Chỉ trong 13 ngày đêm, toàn
bộ quân giặc ở Nghĩa Lộ và Phù Yên bị quét sạch. Kết quả đơt I,
khoảng 1.500 tên địch bị loai khỏi vòng chiến đấu, trong đó


Chương 6: RAOUL SALAN

299

môt phần năm là lính Âu - Phi. Vùng giải phóng mở rông
gồm huyên Văn Chấn - Than Uyên (Yên Bái), huyên Phù Yên,
môt phần huyên Mường La (Sơn La).

Trên chiếc máy bay cùng De Linares ửiị sát vùng Tây Bắc,
Salan ngao ngán dùng điện đài gọi Bigeard - chỉ huy Tiểu đoàn
dù sô' 6 (ó*" BPC) đưỢc 15 máy bay Dakota đổ xuống Tú Lệ trong
ngày 16-10 cứu nguy cho đồng bọn, bị đánh tơi tả chỉ còn 2 /5
đang chạy về It Ong, Mường Chén - phải tìm mọi cách vượt
sông Đà để ữánh bị tiêu diệt.
Trước sức ép của chính quô'c, ông vội vàng ra lệnh cho
De Linares thực hiện ngay k ế hoạch Lorraine, huy động 3 vạn
thủy lục không quân đánh lên Phú Thọ - Yên Bái, tiêu diệt
hậu phương trực tiếp phục vụ chiến dịch của đối phương, thu
hút lực lượng chủ lực của Việt Minh và để đỡ đòn cho mặt
trận Tây Bắc.
Nhà báo Bernard Pall, trong cuốn Chiến tranh Đ ông D ương
đã viết; “Xét tình hình năm 1952, thì Lorraine ngay từ đầu đã là

một sư mạo hiểm vượt quá xa khả năng tấh công của quân đội
viễn chinh Pháp. Giả thiết là nó thành công cũng chỉ là sự “đánh
bạc” một cách nguy hiểm các chiến dịch khác đang diễn ra ở
Đông Dương”.
Salan cũng đã nảy ra sáng kiên thiết lập một pháo lũy, sau
này ta gọi là tâp đoàn cứ điểm tại Nà sản, để ngăn chặn sự tấh
công ồ ạt của các đơn vị chủ lưc Việt Minh.
Theo quan điểm của các nhà quân sự Pháp thì pháo lũy có
nhiều ưu điểm để đánh bại đô'i phương. Nó gồm những công sự


30 0

VỀ CÁC TỔNG T ư LỆNH, T ư LỆNH CHIẾN TRƯỜNG..

hầ m h ố h ìn h th à n h m ộ t hệ th ố n g đ iể m tựa có khả nă n g hỗ trỢ
cho nh a u và đư ợc th iế t lậ p cạnh sân bay để th u ậ n tiệ n cho việc
tiế p tế. T ừ pháo lũ y này, qu â n trú p h ò n g có th ể đ i ra được,
th á m th ín h đư ợc, đ i xa được. K h i qu â n đ ố i p h ư ơ n g tớ i đ ô n g và
m ạ n h th ì qu â n trú p h ò n g sẽ dựa vào pháo lũ y đá n h ra, nếu
n g u y cấp sẽ đưỢc tă n g v iệ n bằng k h ô n g quân, th ủ y vận, bộ
b in h từ bên n g o à i tớ i. N hững pháo lũỵ này nằm trên nh ững

vùng chiến lược quan trọng sẽ khiêh đối p h ư ơ n g phải chấp
nhận n h ữ n g trận đánh tại chỗ, n h ữ n g trận đánh lâu dài đắt giá,
khó khăn, phải hu y động quân s ố lớn, d ễ làm m ồi ngon cho các
cuộc không kích.
Nà sản là một thung lũng dài khoảng 2km, bề ngang gần
Ikm , xung quanh có 24 ngọn đồi bao bọc và có nhiều đặc điểm
quân sự, nằm trên đường liên tỉnh số 41, giữa các đường tiến

quân từ mặt đông và mặt bắc qua mặt tây và mặt nam miền
Thái. Tại đây có một sân bay có thể dùng hạ, cất cánh cho các
phi cơ vận tải, rât thuận lợi cho việc lập cầu hàng không lớn. về
phương diện chiến thuật, những ngọn đồi bao quarửi là những
trở ngại thiên nhiên để ngăn chặn sức tiến công của đối
phương. Trước khi thành pháo lũy, Nà sản là một đồn do một
đại đội thân binh đóng giữ và một hạ sĩ quan Pháp chỉ huy.
Thiết lập pháo lũy Nà sản, Salan nhằm ba mục đích:
- Đón các đoàn quân rút lui từ các đồn bốt bị cô lập ở tây
bắc và đông nam về để tránh khỏi bị tiêu diệt.
- Cấp thời ngăn chặn đối phương đang phát huy chiến
thắng Nghĩa Lộ tiến sang Lai Châu và nếu ngăn chặn hữu hiệu
thì Pháp có thể làm thay đổi chiến lược, chiến thuật của đối
phương đang tiến hành.
- Dựa vào công sự vững chắc, quân Pháp có ưu thế chống
đỡ và có cơ hội tiêu diệt một phần chủ lưc của đôì phương nếu
bị tấh công.


Chương 6: RAOƯL SALAN

301

Pháo lũy được thiết lập vào đầu tháng 11-1952, được tăng
cường quân số theo đà tiến triển của tình hình. Ngày 1-11, các
đơn vị Thái được tập trung cả về đây. Cùng ngày, Liên đoàn
lưu động số 7 gồm 2 tiểu đoàn bộ bữìh, 1 tiểu đoàn pháo binh, 1
chi đoàn thám thính xa được không vận tới. Ngày 21-11 thêm 3
tiểu đoàn nhảy dù và các pháo đội. Vào cuối tháng 11, pháo lũy
có tất cả 10 tiểu đoàn gồm bộ binh, quân nhảy dù, các tiểu đoàn

Thái vừa đưỢc thành lập do kết hợp các phụ lực quân lại. Ngoài
ra, còn có 1 tiểu đoàn công binh, 1 tiểu đoàn pháo binh với 5
pháo đội, 2 chi đoàn thiết giáp thám thính, c ầ u hàng không
được thiết lập với máy bay Bristol của hãng Air Pranẹe dùng
chuyên chở quân xa và dại bác.
Ngày 10-11, Trung đoàn 36 được lệnh tách khỏi đội hình đại
đoàn trở về Phú Thọ, phá k ế hoạch Lorraine của địch. Các cánh
quân vu hổi chiến dịch hình thành hai mũi chiến dịch vừa tiến
công Tuần Giáo, Lai Châu, Điện Biên Phủ vừa tiến công Thuận
Châu rồi tiến về Sơn La thì tại mặt trận phía trước, trên chiến
trường chính, ngày 15-11 đợt II của chiến dịch được tiếp tuc
thuc hiên. Ngày 16-11, các đơn vị thuộc Đại đoàn 308 vượt đèo
Phiêng Ban, bắc cầu đối diện cứ điểm Hát Tiếu, Vạn Sài vượt
sông Đà, đánh vào phòng tuyến Langxade bên hữu ngạn sông
Đà, do tên quan năm Langxade chỉ huy, tiêu diệt Mường Lum,
chọc thẳng ra đường số 41 cắt đứt liên lạc của địch giữa tiểu
khu Châu Mộc với Châu Yên. Một loạt cứ điểm của địch bị tiêu
diệt. Trung đoàn 174 thuộc Đại đoàn 316 diệt Balay ưên đường
Vạn Yên. Phòng tuyến sông Đà căn bản bị phá vỡ. Cánh quân
vu hồi chiến dịch do Trung đoàn 165 đánh thốc từ Tuần Giáo
xuống Thuận Châu - Sơn La diệt hàng nghìn tên. Một mũi thọc
sâu giải phóng Điện Biên Phủ, diệt 1 tiểu đoàn ngụy, bắt sống
tên quan tư Jeancica. Đường số 41 rung chuyển, quân ta thi


×