Tải bản đầy đủ (.pdf) (245 trang)

Cẩm nang xuất nhập khẩu hàng hóa việt nam châu phi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.23 MB, 245 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
VỤ THỊ TRƯỜNG CHÂU PHI, TÂY Á, NAM Á

CẨM NANG XUẤT NHẬP KHẨU
HÀNG HÓA VIỆT NAM - CHÂU PHI

NHÀ XUẤT BẢN CÔNG THƯƠNG
Hà Nội - 2013


Mã số: HN 02 ĐH13
2


Lời nói đầu
Châu Phi là thị trường lớn, nhiều tiềm năng bao gồm 55 quốc
gia, dân số hơn một tỷ người, với diện tích trên 30 triệu km2. Năm
2012, tổng kim ngạch xuất khẩu của Châu Phi ra thế giới đạt 525
tỷ USD, tăng 3,2% so với năm 2011 và kim ngạch nhập khẩu đạt
453 tỷ USD, tăng 1,6%.
Để khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp khai thác những tiềm
năng xuất nhập khẩu của thị trường Châu Phi, thời gian qua, Bộ
Công Thương đã triển khai việc ký kết các hiệp định hợp tác
thương mại, công nghiệp với các nước Châu Phi; tổ chức các đoàn
nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại; tổ chức hội thảo, diễn
đàn doanh nghiệp, tuyên truyền quảng bá những tiềm năng thế
mạnh của thị trường này trên các phương tiện thông tin đại
chúng... Trao đổi thương mại giữa Việt Nam và Châu Phi đã không
ngừng tăng trưởng, từ 210 triệu USD năm 2001 lên 3,47 tỷ USD
năm 2012 trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 2,47 tỷ USD, kim
ngạch nhập khẩu đạt 1 tỷ USD. Trong 6 tháng đầu năm 2013, kim


ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Châu Phi đạt 1,35 tỷ USD và
kim ngạch nhập khẩu đạt 570,6 triệu USD. Quan hệ hợp tác trong
lĩnh vực công nghiệp, đầu tư với Châu Phi cũng đã có những bước
tiến đáng kể với nhiều thoả thuận, dự án được ký kết, cấp phép và
đi vào hoạt động.
Điều đó cho thấy Châu Phi thực sự là thị trường tiềm năng cho
doanh nghiệp Việt Nam và chúng ta hoàn toàn có khả năng tiếp tục
3


đẩy mạnh hơn nữa quan hệ kinh tế, thương mại với lục địa này.
Đây là điều đặc biệt có ý nghĩa trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế
ngày càng gay gắt và các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước
yêu cầu cần tìm kiếm các thị trường mới.
Bên cạnh những mặt thuận lợi, doanh nghiệp cũng gặp phải
những khó khăn, thách thức khi thâm nhập thị trường này như
thiếu thông tin về thị trường, đối tác, khả năng thanh toán của các
nhà nhập khẩu Châu Phi thấp, tình trạng lừa đảo, không tôn trọng
hợp đồng vẫn diễn ra tại một số nước Tây và Trung Phi...
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn đó, Vụ Thị trường Châu Phi, Tây
Á, Nam Á, Bộ Công Thương đã biên soạn và xuất bản cuốn sách
“Cẩm nang xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam  Châu Phi” nhằm
giúp doanh nghiệp tìm hiểu những tiềm năng về thị trường đồng
thời tháo gỡ một phần những khó khăn trên. Hy vọng cuốn sách sẽ
cung cấp những thông tin hữu ích, hỗ trợ các doanh nghiệp, các tổ
chức xúc tiến thương mại và các cơ quan hữu quan trong quá trình
nghiên cứu và mở rộng hợp tác với thị trường Châu Phi.
Đây là lần đầu tiên cuốn sách được xuất bản nên không tránh
khỏi những hạn chế. Vì vậy, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến
đóng góp của bạn đọc để nội dung cuốn sách trong những lần tái

bản sau sẽ đáp ứng tốt hơn nhu cầu của độc giả, đặc biệt là cộng
đồng doanh nghiệp./.
Vụ Thị trường Châu Phi, Tây Á, Nam Á

4


Một số hình ảnh về hoạt động thăm và làm việc
của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam và
các nước Châu Phi

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp ngài Filipe Paunde,
Tổng Thư ký Đảng Mặt trận Giải phóng Mozambique

Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tiếp Phó Tổng thống Angola

5


Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan tiếp Phó Tổng thống Angola

Tổng thống Nam Phi tiếp đoàn Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam

6


Một số hình ảnh về hoạt động xúc tiến thương mại
của các tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam và
các nước Châu Phi


Cuộc gặp các bên mua và bán gạo các nước khối Pháp ngữ Châu Phi và
3 nước khu vực sông Mekong

Phiên chuyên đề tại Hội thảo Việt Nam – Châu Phi 2010

7


Gian hàng của Công ty FPT tại Hội chợ QT Lagos – Nigeria

Gian hàng bán sản phẩm Rạng Đông tại Hội chợ QT Lagos, Nigeria.

8


Chương I

TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHÂU PHI
1. Giới thiệu chung về Châu Phi
Châu Phi gồm 55 quốc gia với diện tích 30.244.050 km2 bao gồm
cả các đảo cận kề, chiếm khoảng 1/5 diện tích đất của Trái đất.
Châu Phi nằm ở phía Tây Nam đại lục Á – Âu, trên trục đường
giao thông quốc tế từ Đông sang Tây, là cầu nối của ba lục địa
Châu Á, Châu Âu và Châu Mỹ, nối liền Đại Tây Dương với Ấn Độ
Dương. Châu Phi được bao bọc đa phần bởi các đại dương lớn với
độ dài của đường bờ biển là 26.000 km. Ở phía Bắc, Châu Phi tiếp
giáp với Địa Trung Hải, phía Tây với Đại Tây Dương, phía Đông
là Ấn Độ Dương và ở phía Đông Bắc, giáp với khu vực Trung
Đông, ngăn cách với bán đảo Ả-rập bởi biển Hồng Hải.
Với số dân trên 1 tỉ người, Châu Phi là châu lục đứng thứ hai

trên thế giới về dân số, sau Châu Á.
Về ngôn ngữ, theo ước tính thì Châu Phi có trên 1.000 ngôn ngữ
bản địa trong đó nhiều quốc gia theo Đạo Hồi sử dụng tiếng A-rập
là ngôn ngữ chính thức. Tuy nhiên các ngôn ngữ Châu Âu cũng có
những ảnh hưởng đáng kể, nhiều quốc gia sử dụng tiếng Anh, tiếng
Pháp là ngôn ngữ chính thức nhất là tại các nước thuộc địa cũ của
Châu Âu. Ở khu vực Bắc Phi, ngoài tiếng A-rập thì tiếng Pháp
9


được sử dụng rộng rãi tại Ma-rốc, An-giê-ri, Tuy-ni-di, tiếng Anh
dùng nhiều tại Li-bi và Ai Cập. Tại khu vực Tây và Trung Phi, trừ
Ni-giê-ri-a, Ga-na, Găm-bi-a nói tiếng Anh, các nước còn lại đều
sử dụng tiếng Pháp. Tại khu vực Đông Phi và Nam Phi, hầu hết các
nước đều sử dụng tiếng Anh. Một số nước thuộc địa của Bồ Đào
Nha như Ăng-gô-la, Mô-dăm-bích vẫn sử dụng tiếng Bồ Đào Nha
là ngôn ngữ chính thức.
Do có vị trí khá đối xứng nhau về hai bán cầu Bắc và Nam, khí
hậu của Châu Phi có thể được chia làm sáu vùng chính. Trước tiên
là khu vực trung tâm gần xích đạo và Ma-đa-gát-xca có khí hậu
đặc trưng nhiệt đới nóng ẩm, với lượng mưa lớn và nhiệt độ cao
quanh năm. Tiếp đó là hai vành đai nhiệt đới ở phía Bắc và Nam
với khí hậu xavan, nhiệt độ cao và lượng mưa phân bố chủ yếu vào
mùa hè. Tiến về hai cực là vùng khí hậu thảo nguyên nửa sa mạc,
với lượng mưa cũng tập trung về mùa hè nhưng hạn chế hơn. Giáp
với hai khu vực này là vùng khí hậu sa mạc với sa mạc Sahara ở
phía Bắc và sa mạc Kalahari ở phía Nam. Tận cùng của hai vùng sa
mạc này là vành đai khí hậu thảo nguyên bán sa mạc với lượng
mưa tập trung vào mùa đông. Cuối cùng ở hai cực Bắc và Nam của
châu lục là những dải đất hẹp có khí hậu cận nhiệt đới kiểu Địa

Trung Hải với thời tiết ôn hòa.
Sự phân chia về điều kiện tự nhiên và các vùng khí hậu theo khu
vực địa lý như vậy đã ảnh hưởng phần nào đến sự phân hóa về
kinh tế của các nước trong mỗi khu vực, dẫn đến có nước gặp
nhiều thuận lợi để phát triển các ngành nông nghiệp, thủy sản...
nhưng đồng thời cũng tồn tại nhiều quốc gia không thể tự đảm bảo
các nhu cầu thiết yếu của mình về lương thực, thực phẩm.
Châu Phi có nguồn tài nguyên tự nhiên rất phong phú với nhiều
nguyên liệu quan trọng có trữ lượng lớn trên thế giới. Trong 50
10


loại khoáng sản chủ yếu trên trái đất thì Châu Phi có trữ lượng
đứng đầu thế giới về 17 loại: 90% kim cương (tập trung ở Cộng
hòa Dân chủ Công-gô, Nam Phi, Na-mi-bi-a, Ăng-gô-la, Ga-na),
87% cobalt (CHDC Công-gô), 67% vàng, hơn 70% mangan và
phốt phát, 37% uranium, 87% lithium, 54% crôm, 21% đồng và
bôxít... Ngoài ra, Châu Phi còn có trữ lượng lớn về dầu mỏ và khí
đốt ở An-giê-ri, Ni-giê-ri-a, Ăng-gô-la, Li-bi, Ga-bông, Cộng hòa
Công-gô... Hơn nữa, với hệ thống sông hồ dày đặc, Châu Phi còn
có tiềm năng rất dồi dào về thủy điện, chiếm 35,4% tiềm năng toàn
thế giới. Tuy nhiên, nguồn tài nguyên phân bố không đồng đều, đa
số tài nguyên khoáng sản chiến lược như kim cương, vàng,
uranium tập trung ở các nước phía Nam Châu Phi, dầu mỏ ở khu
vực Bắc Phi và Tây Phi. Ngược lại, những nước ở Trung và Đông
Phi lại có nguồn tài nguyên nghèo nàn, một số nước không có biển
nên gặp nhiều khó khăn trong giao lưu buôn bán.
Hiện tại, Châu Phi vẫn là châu lục nghèo nhất thế giới. Theo
Báo cáo phát triển con người của Liên Hiệp Quốc về 175 quốc gia
năm 2012, Châu Phi đã chiếm toàn bộ vị trí các quốc gia nghèo

nhất, từ 151 (Găm-bi-a) cho tới 175 (Xi-ê-ra Lê-ôn). Tuổi thọ trung
bình của người dân các nước Châu Phi cũng thấp nhất thế giới
(khoảng 54 tuổi). Một số vẫn đề vẫn còn tồn tại ở Châu Phi như
xung đột nội bộ, mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, tranh giành quyền lực
tại các nước như Công-gô, Ma-li, Xu-đăng, Xi-ê-ra Lê-ôn, Xô-ma-li,
Bờ Biển Ngà...
Mặc dù vậy, Châu Phi vẫn luôn được đánh giá là thị trường có
nhiều tiềm năng và cơ hội. Chính phủ các nước Châu Phi đang nỗ
lực tìm kiếm các giải pháp hòa bình, tạo môi trường chính trị, kinh
doanh ổn định để phát triển kinh tế.
Với quyết tâm cải cách cùng sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế,
nhiều nước Châu Phi đã vượt qua được thời kỳ suy thoái, trì trệ và
11


đạt được những thành công bước đầu. Trên phạm vi khu vực, các
hoạt động hội nhập của Châu Phi đã phát huy tác dụng sâu rộng,
tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy trao đổi, hợp tác, liên kết
kinh tế, thương mại nội khối cũng như với các quốc gia trên thế
giới. Tăng trưởng GDP của Châu Phi giai đoạn 2003 – 2012 đạt
bình quân khoảng 5%/năm. Theo IMF, năm 2013, Châu Phi sẽ duy
trì được mức tăng trưởng ít nhất là 5%, thậm chí tăng lên 6% nhờ
giá dầu thô vẫn giữ ở mức cao và một phần do tiêu dùng trong nước
tăng. Trong số 20 nước trên thế giới dự báo có mức tăng trưởng cao
nhất giai đoạn 2013  2017 thì Châu Phi có tới 13 đại diện (Li-bi,
Ghi-nê, Nam Xu-đăng, Ru-an-đa, Găm-bi-a, Cốt-đi-voa, Ga-na,
Dăm-bi-a, Mô-dăm-bích, Cộng hòa Công-gô, Tan-da-ni-a, Kê-ni-a
và Ê-ti-ô-pi-a) trong đó phần lớn là các quốc gia có tiềm năng
dầu lửa.
Mặc dù là lục địa nghèo, có sự chênh lệch lớn về kinh tế giữa

các nước nhưng nhờ có nguồn thu từ xuất khẩu nhiều loại tài
nguyên và với dân số hơn 1 tỷ người (chiếm 15% tổng số dân thế
giới), nên Châu Phi là thị trường có sức mua khá mạnh. Kim ngạch
nhập khẩu của Châu Phi liên tục tăng. Theo báo cáo mới nhất của
Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA), đến năm 2050, dân số
Châu Phi sẽ tăng lên 2 tỷ người trong đó 60% sẽ sống tại các thành
phố. Đây sẽ là yếu tố quan trọng góp phần kích thích tiêu dùng
trong nước, gia tăng nhập khẩu.
Trong hai năm gần đây, các nước Châu Phi cũng đứng đầu thế
giới về tốc độ cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Tuy-ni-di,
Tan-da-ni-a và Ga-na là các đại diện của Châu Phi nằm trong nhóm
10 quốc gia có môi trường thương mại cải thiện nhiều nhất. Các
nước Châu Phi cũng chứng tỏ hiệu quả thu hút đầu tư nước ngoài
qua các chính sách, biện pháp linh hoạt như nới lỏng kiểm soát
12


ngoại hối, giảm thuế và chi phí cho thuê đất, thử nghiệm các hình
thức hợp tác mới... Kinh tế thị trường tự do đã được thiết lập hoàn
toàn hoặc một phần tại các nước Châu Phi, hệ thống tài chính lấy
thị trường làm chủ đạo cũng dần được hình thành. Nhiều nước
đang tiến hành dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan, giảm thuế nhập khẩu,
nới lỏng kiểm soát đối với giá trong nước, giải tán các công ty lũng
đoạn, hoạt động kém hiệu quả.
Về thu hút vốn đầu tư nước ngoài, theo báo cáo thường niên của
Cơ quan về thương mại và phát triển của Liên Hiệp Quốc công bố
ngày 26/6/2013, trái ngược với xu hướng của thế giới năm 2012,
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Châu Phi đã tăng 5%. Châu
Phi nổi lên với gam màu sáng trong bức tranh kinh tế thế giới ảm
đạm. Trong khi các khoản đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới

giảm 18% thì các dòng tài chính đổ vào Châu Phi lại tăng 5%, đạt
50 tỷ USD năm 2012.
Theo nhận định của IMF mới đây, Châu Phi đang trong giai
đoạn tốt nhất của phát triển bền vững với tỷ lệ lạm phát tương đối
thấp. Số liệu mới được công bố của các nước Châu Phi cũng cho
thấy, kinh tế Châu Phi đang ở vào thời kỳ tăng trường khả quan.

2. Các liên minh kinh tế lớn tại Châu Phi
Kể từ thập kỷ 1960, khi hầu hết các nước Châu Phi giành được
độc lập, các nhà lãnh đạo ở khu vực này đã nhận thấy tầm quan
trọng của việc hợp tác kinh tế và hội nhập khu vực trong chiến
lược phát triển của mỗi quốc gia và của cả châu lục.
Trong các thập kỷ qua, cùng với sự phát triển chung của Châu
Phi, nhiều tổ chức hợp tác khu vực về kinh tế thương mại đã được
thành lập.
13


Năm 1963, Tổ chức thống nhất Châu Phi (OAU) được thành
lập, tập hợp hầu như toàn bộ các nước Châu Phi, với mục tiêu hoạt
động là tăng cường sự thống nhất và đoàn kết giữa các quốc gia
của châu lục trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, thương mại, xã
hội... Từ tháng 7 năm 2000, Tổ chức thống nhất Châu Phi (OAU)
được đổi tên thành Liên minh Châu Phi (AU). Năm 1991, Tổ chức
này quyết định thành lập Cộng đồng Kinh tế Châu Phi theo mô
hình của Cộng đồng Kinh tế Châu Âu với mục tiêu thiết lập một thị
trường chung tại khu vực Châu Phi trong đầu thế kỷ 21 qua ba giai
đoạn. Giai đoạn thứ nhất là loại bỏ dần hàng rào phi thuế quan và
giảm thuế quan, giai đoạn hai là thành lập khu vực mậu dịch tự do
và thuế quan chung toàn châu lục, giai đoạn ba là thiết lập Liên

minh kinh tế toàn diện, tự do lưu thông vốn, người và hàng hóa.
Năm 1997, Cộng đồng này đã tổ chức Hội nghị cấp cao lần thứ
nhất và chính thức đi vào hoạt động, dự kiến đến năm 2025 cả
Châu Phi sẽ có một thị trường nội bộ, một ngân hàng trung ương
và một đồng tiền thống nhất.

2.1. Cộng đồng Kinh tế Châu Phi (AEC)
Tên: Cộng đồng Kinh tế Châu Phi (Tên tiếng Anh: African
Economic Community; tên viết tắt: AEC)
Thành viên: tất cả các quốc gia thành viên của các liên minh kinh
tế/tài chính, khối thuộc Châu Phi như Thị trường chung Đông và
Nam Phi (COMESA), Cộng đồng kinh tế các quốc gia Tây Phi
(ECOWAS), Cộng đồng phát triển Nam Châu Phi (SADC), Cộng
đồng Kinh tế và Tiền tệ Trung Phi (CEMAC), Liên minh Kinh tế và
Tiền tệ Tây Phi (UEMOA), Liên minh thuế quan Miền Nam Châu
Phi (SACU), Liên minh A-rập Magreb (AMU), Cộng đồng Đông
Phi (EAC), Cộng đồng Kinh tế Trung Phi (ECCAS/CEEAC), Cộng
đồng các quốc gia vùng Sahel-Sahara (CEN-SAD)...
14


Cộng đồng Kinh tế Châu Phi (AEC) là tổ chức của các quốc gia
thuộc Liên minh Châu Phi (AU), được thành lập nhằm mục đích
tạo cơ sở hợp tác để phát triển kinh tế giữa phần lớn các quốc gia
Châu Phi. Các mục tiêu của AEC bao gồm: tạo ra các khu vực
thương mại tự do, liên minh thuế quan, tạo ra một thị trường chung
Châu Phi, một ngân hàng trung ương, và một đồng tiền chung.
AEC được thành lập theo Hiệp ước Abuja ký năm 1991 và có
hiệu lực từ năm 1994. Mục tiêu của AEC là tiến tới thành lập các
khu vực thương mại tự do, các liên minh thuế quan, thị trường

chung, một ngân hàng chung, một đơn vị tiền tệ chung và do đó là
thành lập một liên minh kinh tế và tiền tệ.
Hiệp ước Abuja đã đề ra một lộ trình như sau để thực hiện AEC:
- Giai đoạn 1: đến năm 1999 sẽ thành lập các khối khu vực ở
những vùng Châu Phi còn chưa có khối kinh tế nào.
- Giai đoạn 2: đến năm 2007, củng cố hội nhập giữa các khối và
tiến hành hài hòa các khối.
- Giai đoạn 3: đến năm 2017, thành lập một khu vực thương mại
tự do và liên minh thuế quan trong từng khối.
- Giai đoạn 4: đến năm 2019, thành lập liên minh thuế quan trên
toàn lục địa.
- Giai đoạn 5: năm 2023 thành lập Thị trường Chung Châu Phi.
- Giai đoạn 6: đến năm 2028, thành lập một liên minh kinh tế
tiền tệ (và do đó sẽ có một liên minh tiền tệ và nghị viện chung)
trên toàn lục địa.
Mọi thời kỳ chuyển tiếp đều phải kết thúc chậm nhất là vào năm
2034.
AEC lấy một số hiệp định kinh tế khu vực làm trụ cột, gồm:
Liên minh Ả rập Maghreb, Cộng đồng Sahel – Sahara, Cộng đồng
15


kinh tế Tây Phi, Thị trường chung Đông và Nam Phi, Cộng đồng
Đông Phi, Cộng đồng phát triển Đông và Nam Phi.
Ở khu vực Bắc Phi, tổ chức hợp tác lớn nhất là Liên minh Ảrập Maghreb (AMU), ra đời năm 1989, gồm các nước Ma-rốc, Angiê-ri, Tuy-ni-di, Li-bi, Mauritania.

2.2. Liên minh A-rập Maghreb (Arab Maghreb Union – AMU)
Tên: Liên minh A-rập Maghreb (Tên tiếng Anh: Arab Maghreb
Union; tên viết tắt: AMU)
Ngày thành lập: 17-02-1989

Liên minh Maghreb là một hiệp định thương mại nhằm thúc đẩy
liên minh về kinh tế, chính trị giữa các nước Maghreb.
Ngay từ năm 1956, khi Tuy-ni-di và Ma-rốc giành được độc lập,
ý tưởng thành lập một liên minh như thế này đã được nêu ra.
Nhưng phải đợi đến năm 1988, khi Hội nghị cấp cao lần thứ nhất
được tổ chức thì ý tưởng này mới trở thành chủ trương chính thức.
Ngay năm sau, một hiệp định đã được An-giê-ri, Li-bi, Mô-ri-ta-ni,
Ma-rốc, và Tuy-ni-di chính thức ký kết. Ngày 12 tháng 12 năm
1994, Ai Cập chính thức đệ đơn xin gia nhập Liên minh.
Liên minh đề ra các mục tiêu giảm và bỏ thuế quan và hàng rào
phi thuế quan, thành lập khu vực thương mại tự do. Mục tiêu cuối
cùng của hiệp định là tự do di chuyển hàng hoá và con người giữa
các nước thành viên, thành lập một cộng đồng kinh tế giống như
Cộng đồng Châu Âu. Đây được coi là tổ chức hợp tác toàn diện
giữa các nước trong khu vực Bắc Phi trên mọi lĩnh vực chính trị,
quốc phòng, kinh tế thương mại, văn hóa... Về kinh tế thương mại,
tiến trình hội nhập sẽ diễn ra qua ba giai đoạn: thiết lập khu mậu
dịch tự do giữa các nước thành viên trong buôn bán hàng hóa và
16


dịch vụ – thiết lập một liên minh thuế quan và thị trường chung
thông qua việc hợp nhất biểu thuế xuất nhập khẩu giữa các nước
thành viên – thiết lập một liên minh kinh tế tổng thể. Hiện nay, các
nước AMU vẫn đang trong giai đoạn đầu, hướng tới một khu vực
mậu dịch tự do.
Khu vực Đông Nam Phi có các tổ chức quan trọng là Khối thị
trường chung Đông và Nam Phi (COMESA), Cộng đồng Đông Phi
(EAC), Cộng đồng phát triển miền Nam Châu Phi (SADC), Liên
minh quan thuế miền Nam Châu Phi (SACU).


2.3. Thị trường chung Đông và Nam Phi (khối COMESA)
Tên: Thị trường chung Đông và Nam Phi (Tên tiếng Anh:
Common Market for Eastern and Southern Africa; tên viết tắt:
COMESA)
Thành viên: 19 nước gồm Bu-run-đi, Cô-mô-rốt-xơ, Cộng hoà
Dân chủ Công-gô, Gi-bu-ti, Ê-ti-ô-pi-a, Kê-ni-a, Ma-đa-gát-xca,
Ma-la-uy, Mô-ri-xơ, Ru-an-đa, Xu-đăng, Xoa-di-len, U-gan-đa,
Dăm-bi-a, Dim-ba-bu-ê, Ê-ri-tơ-rê-a, Ai Cập, Xây-sen và Li-bi.
Diện tích: 12,8 triệu km2
Dân số: 389 triệu (2012)
Tổng GDP: 590,69 tỷ USD
Tổng kim ngạch xuất khẩu: 127,58 tỷ USD; Tổng kim ngạch
nhập khẩu: 150,76 tỷ USD (2012).
Năm 2000, 13 trong số 19 nước thành viên của COMESA đã
cùng thành lập một khu vực thương mại tự do đầy đủ chức năng,
giúp tăng thương mại nội khối lên 17,4 tỷ USD trong năm 2010, từ
mức chỉ 2,6 tỷ USD năm 1999 – tăng gần gấp 7 lần trong vòng
17


1 thập kỷ. Tới nay khu vực thương mại tự do của COMESA đã
gồm 14 nước. Bên cạnh đó, sự ra đời của Liên minh Hải quan của
COMESA trong năm 2009 được kì vọng sẽ tiếp tục tăng cường
thương mại và đầu tư nội khối. COMESA còn đang trong quá trình
thành lập một Thị trường chung vào năm 2014 và một Liên minh
Tiền tệ vào năm 2018.
Quy tắc xuất xứ: hàng hóa phải được sản xuất hoàn toàn ở một
nước thành viên COMESA; tổng giá trị nguyên phụ liệu có xuất xứ
từ các nước không phải thành viên COMESA không được vượt

quá 60%; có tỷ lệ gia công chế biến ở nước được hưởng ưu đãi
thuế tối thiểu là 35% giá sản phẩm xuất xưởng; là hàng hóa đặc
biệt quan trọng đối với mục tiêu phát triển kinh tế và có dưới 25%
tỷ lệ gia công chế biến ở nước được hưởng ưu đãi.
Tra cứu thuế: />
2.4. Cộng đồng phát triển Nam Châu Phi (SADC)
Tên: Cộng đồng phát triển miền Nam Châu Phi (Tên tiếng Anh:
South Africa Development Community; tên viết tắt: SADC)
Thành viên: 15 nước (Angola, Botswana, Cộng hòa Dân chủ
Congo (DRC), Lesotho, Madagascar, Malawi, Mauritius,
Mozambique, Namibia, Seychelles, Nam Phi, Swaziland, Cộng
hoà Tanzania, Zambia và Zimbabwe.)
Diện tích: 9.882.959 km2
Dân số: 295 triệu người (2012)
GDP: 627,2 tỷ USD (2012)
Xuất khẩu: 93,5 tỷ USD; Nhập khẩu: 96,1 tỷ USD (2012)
SADC gồm có tám (8) thể chế, cụ thể là, Hội nghị thượng đỉnh
đứng đầu Nhà nước và Chính phủ, SADC Toà án, Hội đồng Bộ
18


trưởng, Cơ quan Chính trị, Quốc phòng và An ninh Hợp tác, Đoàn
Bộ trưởng, Ban Thư ký SADC, Ủy ban Thường vụ quan chức cao
cấp và Uỷ ban Quốc gia SADC.
Tầm nhìn của SADC là một tương lai chung cho các nước trong
khu vực đảm bảo kinh tế cải thiện phúc lợi, của mức sống và chất
lượng cuộc sống, tự do và công bằng xã hội và hòa bình và an ninh
cho người dân khu vực Nam Phi. Các nước thành viên sẽ chia sẻ
các giá trị chung và các nguyên tắc và các mối quan hệ thân lịch sử
và văn hóa tồn tại giữa những người dân Nam Phi.

Sứ mệnh SADC là thúc đẩy tăng trưởng bền vững và công bằng
kinh tế và phát triển kinh tế xã hội thông qua hệ thống hiệu quả sản
xuất, hợp tác sâu hơn, và hội nhập, quản trị tốt, và hòa bình lâu
bền, an ninh, do đó, khu vực nổi lên như một cầu thủ cạnh tranh và
hiệu quả trong việc quốc tế quan hệ và nền kinh tế thế giới.
Tra cứu thuế: www.sadc.int/information-services/tax-database/

2.5. Liên minh thuế quan Miền Nam Châu Phi (SACU)
Tên: Liên minh thuế quan Miền Nam Châu Phi (Tên tiếng Anh:
Southern African Customs Union; tên viết tắt: SACU)
Liên minh thuế quan Miền Nam Châu Phi được thành lập từ
năm 1910 và là một trong những liên minh thuế quan được thành
lập sớm nhất trên thế giới. Hiện nay khối liên minh này bao gồm 5
quốc gia thành viên là Nam Phi, Bốt-xoa-na, Lê-xô-thô, Na-mi-bi-a
và Xoa-di-len với tổng số dân gần 57 triệu người, qui mô GDP của
cả khối năm 2012 đạt 375 tỉ USD, trong đó Nam Phi chiếm tới
92% GDP của toàn khối và là quốc gia có tiếng nói rất quan trọng
với sức ảnh hưởng tới mọi hoạt động của Liên minh.
Hàng hoá khi nhập khẩu vào các quốc gia thành viên SACU có
thể thông quan tại cảng đến đầu tiên (thông thường là một cảng của
19


Nam Phi) hoặc có thể chuyển khẩu tới một cảng khác của bất kỳ
quốc gia thành viên nào để thông quan. Hàng hoá di chuyển trong
nội khối được miễn thuế hải quan nhưng vẫn phải chịu sự giám sát
hải quan. Các quốc gia thành viên của khối đều áp dụng phương
pháp xác định giá trị hải quan được quy định tại Luật về thuế hải
quan và tiêu thụ đặc biệt năm 1964 của Nam Phi theo đó giá trị hải
quan của hàng nhập khẩu được tính trên trị giá giao dịch FOB của

mặt hàng đó. Nếu giá trị giao dịch của hàng hoá không thể xác
định thì giá trị hải quan được xác định theo Hiệp định về định giá
hải quan của WTO.
Các quốc gia thành viên SACU đều có quy định về quy tắc xuất
xứ ưu đãi và không ưu đãi. Các quy tắc xuất xứ đối với hàng hoá
không ưu đãi được qui định tại Luật thuế hải quan và thuế tiêu thụ
đặc biệt tại mỗi quốc gia thành viên, mô phỏng theo luật của Nam
Phi. Theo Luật về Thuế Hải quan và thuế tiêu thụ đặc biệt của Hải
quan Nam Phi, năm 1964, hàng hoá được coi là sản xuất, chế tạo
tại một lãnh thổ quốc gia nào đó nếu ít nhất 25% (hoặc một tỉ lệ %
khác do Chủ tịch Uỷ ban Thuế Hải quan và thuế tiêu thụ đặc biệt
quyết định) chi phí sản xuất mà được biểu hiện bằng giá trị nguyên
vật liệu sản xuất tại quốc gia đó và công đoạn cuối của quá trình
sản xuất sản phẩm được thực hiện tại lãnh thổ đó.
Về thuế nhập khẩu, Nam Phi được phép quy định mức thuế
MFN cho toàn khối sau khi đã tham vấn các quốc gia thành viên.
Mức thuế MFN trung bình hiện nay của khối là 8,1%. Trong đó
mức thuế MFN trung bình đối với các sản phẩm nông nghiệp (theo
định nghĩa của WTO) là 10,1%, các sản phẩm phi nông nghiệp
7,8% và hàng chế tạo là 8,5%.

2.6. Cộng đồng Đông Phi (EAC)
Tên: Cộng đồng Đông Phi (Tên tiếng Anh: East African
Community; tên viết tắt: EAC)
20


Thành viên: Kê-ni-a, U-gan-đa, Tan-da-ni-a, Ru-an-đa và Bu-run-đi
Diện tích: 1,82 triệu km2
Dân số: 146 triệu người (năm 2012)

Tổng GDP 2012: 99,76 tỉ USD.
Tổng kim ngạch xuất khẩu: 14,17 tỷ USD; Tổng kim ngạch
nhập khẩu: 31,62 tỷ USD (2012)
Hiện nay tất cả các nước thành viên đều áp dụng Quy tắc xuất
xứ chung của khối EAC:
Hàng hóa mang xuất xứ EAC phải được chấp nhận là có nguồn
gốc trong một nước thành viên, nơi chúng được vận chuyển trực
tiếp từ nước thành viên này đến nước thành viên kia hoặc:
Đã được sản xuất toàn bộ tại một nước thành viên, cụ thể như sau:
i. Các sản phẩm khoáng sản khai thác từ mặt đất hoặc đáy biển
của nước thành viên;
ii. Các sản phẩm rau quả thu hoạch trong nước thành viên;
iii. Động vật sống được sinh ra và lớn lên trong nước thành viên;
iv. Các sản phẩm thu được từ động vật sống trong nước thành viên;
v. Các sản phẩm thu được do săn bắn hoặc đánh bắt cá được
tiến hành trong phạm vi nước thành viên;
vi. Các sản phẩm thu được từ biển, sông, hồ trong nước bởi một
tàu mà nước đó là thành viên;
vii. Các sản phẩm sản xuất tại một nhà máy độc quyền của nước
thành viên, sản xuất từ các sản phẩm nêu ở tiểu mục (vi);
viii. Các vật liệu được sử dụng để tái chế, các vật liệu này phải
có xuất xứ từ các nước đối tác;
ix. Phế liệu và chất thải từ hoạt động sản xuất trong nước đối tác;
21


x. Hàng hoá sản xuất trong Nhà nước đối tác độc quyền hoặc
chủ yếu sau đây:
xi. Sản phẩm được đề cập trong tiểu mục (i) (ix);
xii. Vật liệu không chứa các yếu tố nhập khẩu từ bên ngoài Nhà

nước đối tác hoặc có nguồn gốc không xác định.
Đã được sản xuất toàn bộ tại một nước thành viên hoặc một
phần từ vật liệu nhập khẩu từ bên ngoài hoặc có nguồn gốc chưa
được xác định trong đó:
i. Giá trị CIF của vật liệu không quá 60% tổng chi phí của các
vật liệu được sử dụng trong sản xuất hàng hoá;
ii. Giá trị gia tăng kết quả từ quá trình sản xuất sử dụng các vật
liệu chiếm đạt ít nhất 35% chi phí xuất xưởng của hàng hoá.
Tra cứu thuế nhập khẩu:
/>Ở Tây Phi, hai tổ chức quan trọng và có ảnh hưởng nhất là
Cộng đồng Kinh tế các nước Tây Phi (ECOWAS) và Liên minh
Kinh tế Tiền tệ Tây Phi (UEMOA).

2.7. Cộng đồng kinh tế các nước Tây Phi (ECOWAS)
Tên: Cộng đồng kinh tế các nước Tây Phi (Tên tiếng Anh:
Economic Community of West African States; tên viết tắt: ECOWAS)
Cơ cấu tổ chức, hoạt động của ECOWAS
ECOWAS được thành lập trên cơ sở Hiệp ước Cộng đồng Kinh
tế các nước Tây Phi được ký tại Lagos, Ni-giê-ri-a ngày 28/5/1975,
Hiệp ước này chỉnh sửa lại tại Cotonou, Bê-nanh ngày 24/7/1993
và hiện tại gồm 15 nước thành viên là: Bê-nanh, Buốc-ki-na Pha-xô,
Cáp-ve, Bờ Biển Ngà, Găm-bi-a, Ga-na, Ghi-nê, Ghi-nê Bít-xao,
22


Li-bê-ri-a, Ma-li, Ni-giê, Ni-giê-ri-a, Xê-nê-gan, Xi-ê-ra Lê-ôn và
Tô-gô.
Để triển khai Hiệp định này, trên thực tế, cho đến nay đã có 24
Nghị định thư và Hiệp ước về các vấn đề như: nhân quyền, hợp tác
pháp lý, văn hoá, giáo dục, tự do hoá thương mại... và hàng loạt

các nghị quyết, quyết định được ký kết nhằm thúc đẩy tiến trình
hợp tác khu vực.
Cũng giống như nhiều Cộng đồng kinh tế khu vực khác, theo
Hiệp ước trên, tổ chức của ECOWAS cũng bao gồm 03 nhánh
quyền lực: Hành pháp (Uỷ ban điều hành, đứng đầu là Chủ tịch uỷ
ban gồm các uỷ viên), Lập pháp (Nghị viện của Cộng đồng) và Tư
pháp (Toà án công lý của Cộng đồng).
Cơ quan quyền lực tối cao của ECOWAS là Hội đồng nguyên
thủ, tiếp đó là Hội đồng Bộ trưởng, dưới đó là các Uỷ ban chuyên
môn và các tổ chức khác do Hội đồng Nguyên thủ quyết định
thành lập. Hội đồng Nguyên thủ là cơ quan có quyền ra các quyết
định lớn, liên quan đến chiến lược phát triển của Khối, Hội đồng
các Bộ trưởng là cơ quan giám sát các hoạt động chung của Khối.
Tiến trình hợp tác và tự do hoá thương mại trong khối ECOWAS
Tự do hoá thương mại, hợp tác về đầu tư, hải quan, thuế quan,
tiền tệ và thanh toán hay nói chung là vấn đề “tự do lưu chuyển
hàng hoá” (và công dân) là nội dung xương sống của bất kỳ một
Cộng đồng kinh tế khu vực nào. Để đạt được mục tiêu cao nhất là
tiến tới thành lập một Liên minh kinh tế khu vực, ECOWAS kể từ
khi thành lập đã trải qua các tiến trình cơ bản như sau:
Hài hoà và phối hợp trong xây dựng các chính sách của các
quốc gia thành viên, để nhằm xây dựng một môi trường hội nhập
khu vực có sự tương đồng cơ bản giữa các quốc gia;
23


ECOWAS đã vượt qua giai đoạn tự do hoá thương mại nội khối
với việc thiết lập về cơ bản một thị trường chung cho khu vực
thông qua việc: i) bãi bỏ các loại thuế xuất nhập khẩu và các rào
cản phi thương mại giữa các nước thành viên; ii) thông qua biểu

thuế nhập khẩu có hiệu lực chung (common effective external
tariff) đối với nước thứ ba; iii) loại bỏ các rào cản trong việc tự do
lưu chuyển công dân, hàng hoá, dịch vụ và vốn cũng như thiết lập
các quyền lưu trú và tổ chức kinh doanh.
Vị trí hiện tại của ECOWAS là đang chuẩn bị thành lập Liên minh
Hải quan (Custom Union) để tiến tới thành lập liên minh kinh tế
thông qua việc xây dựng các chính sách chung về kinh tế, tài chính,
xã hội và văn hoá, và thành lập Liên minh tiền tệ (Monetary Union).
Một số quy định cơ bản trong quan hệ thương mại giữa các
thành viên ECOWAS với nước thứ ba
Về thuế quan, hiện tại ECOWAS đang áp dụng khung Thuế
quan có hiệu lực chung (Common Effective External Tarriff) với
05 khung thuế chung là: 5%; 10%, 15%, 20% và tối đa là 35% và
hệ thống HS 10 số. Các quốc gia thành viên có thể áp dụng các
khung thuế trên (có thể khác nhau) cho từng dòng thuế;
Việc tái xuất các hàng hoá nhập khẩu từ một nước thứ ba sang
một nước thành viên khác chỉ được thực hiện khi nước có hàng
nhập khẩu đến đầu tiên chuyển phần thu thuế nhập khẩu cho nước
có hàng hoá đến tiếp theo, nước có hàng hoá đến tiếp theo có thể
thu thêm phần chênh lệch nếu có sự chênh lệch trong việc áp dụng
các khung thuế và các loại lệ phí khác;
Quy định về hàng hoá có xuất xứ ECOWAS: hàng hoá được coi
là có xuất xứ ECOWAS nếu thoả mãn một trong các yêu cầu sau:
i) Nếu được hoàn toàn sản xuất trong các nước thành viên;
24


ii) Được sản xuất trong một nước thành viên với nguyên liệu từ
nước ngoài hoặc không rõ xuất xứ không vượt quá 60% tổng số
nguyên liệu của quá trình sản xuất, hoặc với nguyên liệu có xuất

xứ ECOWAS không ít hơn 40% tổng nguyên liệu của quá trình sản
xuất, hoặc từ nguyên liệu thô có xuất xứ ECOWAS chiếm ít nhất là
60% tổng nguyên liệu thô được sử dụng trong quá trình sản xuất
hàng hoá, hoặc hàng hoá được sản xuất từ nguyên liệu có xuất xứ
nước ngoài hoặc không rõ nguồn gốc nhưng có phần giá trị gia
tăng ít nhất là 35% trị giá FOB của sản phẩm hoàn thiện;
iii) Doanh nghiệp sản xuất hàng hoá đáp ứng được mức độ sở
hữu và tham gia của người bản địa, Uỷ ban về Thương mại, Hải
quan, Xuất nhập cảnh, Tiền tệ và Thanh toán của ECOWAS sẽ dựa
trên cơ sở các số liệu thống kê chính xác để đề nghị với Hội đồng
các Bộ trưởng quyết định mức độ yêu cầu của việc sở hữu và tham
gia của người bản địa.

2.8. Liên minh Kinh tế và Tiền tệ Tây Phi (UEMOA)
Tên: Liên minh Kinh tế và Tiền tệ Tây Phi (Tên tiếng Anh: West
African Economic and Monetary Union; tên viết tắt: UEMOA)
Liên minh kinh tế và tiền tệ Tây Phi (UEMOA) ra đời năm 1994
tại thủ đô Dakar (Xê-nê-gan) là một tổ chức khu vực có nhiệm vụ
hỗ trợ các quốc gia thành viên trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế bằng cách tạo ta một thị trường mở cửa, cạnh tranh và môi
trường pháp lý hài hoà và ổn định. UEMOA là một trong những
khối kinh tế có tính liên kết chặt chẽ nhất ở Châu Phi. UEMOA
quy tụ 8 quốc gia ở Tây Phi bao gồm Bê-nanh, Buốc-ki-na Pha-xô,
Cốt-đi-voa (Bờ Biển Ngà), Ghi-nê Bít-xao, Ma-li, Ni-giê, Xê-nêgan và Tô-gô. Các nước thành viên của UEMOA trải dài trên diện
tích khoảng 3,5 triệu km2, nằm ở phía Tây của Châu Phi.
25


×