BÀI TẬP LỚN QUẢN LÝ CÔNG
3
Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm
LỜI MỞ ĐẦU
Dù là công khai hay ngấm ngầm thì cũng đã có không ít những vụ phá
sản tầm cỡ quốc gia diễn ra trong suốt thời kỳ thế giới lâm vào khủng hoảng
kinh tế. Có rất nhiều lý do dẫn tới cuộc khủng hoảng toàn cầu này nhưng
trong đó phải kể đến tình trạng nợ công tràn lan ở nhiều nước. Nợ công khó
kiểm soát ở nhiều quốc gia chính là nguyên nhân khiến nền kinh tế phục hồi
rất chậm chạp, mong manh và đứng trước nguy cơ tiếp tục khủng hoảng. Bất
kể từ nước giàu có nhất thế giới như Mỹ, hay Nhật Bản cho tới những quốc
gia phát triển ở châu Âu như Đức, Pháp, Hy Lạp, Tây Ban Nha,… hay Trung
Quốc “chủ nợ lớn nhất của Mỹ và các quốc gia”, tất cả các “đại gia” này đều
đang mắc một khoản nợ công không hề nhỏ. Việt Nam trong nền kinh tế thị
trường và hội nhập cũng không tránh khỏi tình trạng trên. Trong khi tích lũy
từ nội bộ nền kinh tế thông qua chi tiêu để dành của quốc gia liên tục giảm
thì nợ công liên tục tăng, nguồn để đầu tư tăng và ngân sách lại ngày càng trở
nên thâm hụt. Và đáng lo ngại hơn cả là vay nợ nhưng làm ăn kém hiệu quả
và khả năng trả nợ ngày càng khó khăn hơn. Điều đó càng khiến nợ công ở
Việt Nam tăng cao và tiến tới mức nguy hiểm.
Nợ công đang làm nóng nghị trường Quốc hội, mà trong đó gây tranh
cãi nhiều nhất là quy mô, tính an toàn và tài trợ nợ công. Vì vậy tôi chọn đề
tài “Phân tích tình hình vay nợ và huy động vốn đầu tư, mối quan hệ giữa nợ
công và GDP, liên hệ với Việt Nam giai đoạn 2011-2014” để chúng ta phần
nào hiểu rõ hơn thực trạng nợ Chính phủ Việt Nam những năm qua. Bên cạnh
đó là một số đề xuất giúp chúng ta thoát khỏi tình trạng này.
Trong quá trình nghiên nhóm hẳn còn nhiều thiếu sót, mong nhận
được sự góp ý nhiệt tình từ thầy và các bạn.
Em xin trân thành cảm ơn!
Học viên: Nguyễn Nam Sơn
Page 1
BÀI TẬP LỚN QUẢN LÝ CÔNG
3
Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAY NỢ, HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ
MỐI QUAN HỆ GIỮA NỢ CÔNG VÀ GDP
1.1. Tổng quan về Ngân sách nhà nước
1.1.1. Khái niệm Ngân sách nhà nước
Trong thực tiễn, khái niệm Ngân sách nhà nước thường để dùng tổng số
thu và chi của một đơn vị trong thời gian nhất định, một bản tính toán các chi phí
để thực hiện một kế hoạch hoặc một chương trình cho một mục đích nhất định
của một chủ thể nào đó, nếu chủ thể đó là Nhà nước, thì ngân sách đó được gọi là
Ngân sách nhà nước.
Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002 đã định nghĩa: “Ngân sách nhà nước
là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà nước đã được cơ qua có thẩm quyền của
Nhà nước quyết định và thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.
Định nghĩa của Luật ngân sách năm 2002 vừa phản ánh được nội dung cơ
bản của ngân sách, quá trình chấp hành ngân sách đồng thời thể hiện được tính
pháp lý của ngân sách, thể hiện quyền chủ sở hữu ngân sách nhà nước; thể hiện
vị trí, vai trò, chức năng của NSNN.
Về bản chất của NSNN, đằng sau những con số thu, chi là các quan hệ lợi
ích kinh tế giữa Nhà nước với các chủ thể khác như doanh nghiệp, hộ gia đình, cá
nhân… trong và ngoài nước gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng
quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước, phát sinh khi Nhà nước tham gia vào quá
trình phân phối các nguồn tài nguyên chính quốc gia.
1.1.2 Vai trò của Ngân sách nhà nước
Vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trường về mặt chi tiêu có thể đề
cập đến nhiều nội dung và những biểu hiện đa dạng khác nhau, song có thể khái
quát trên những khía cạnh sau:
Học viên: Nguyễn Nam Sơn
Page 2
BÀI TẬP LỚN QUẢN LÝ CÔNG
3
Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm
Một là, vai trò của một ngân sách tiêu dùng đảm bảo hay duy trì sự tồn tại
và hoạt động của bộ máy nhà nước. NSNN đảm bảo tài chính cho bộ máy của
nhà nước bằng cách khai thác, huy động các nguồn lực tài chính từ mọi lĩnh vực,
mọi thành phần kinh tế, dưới các hình thức bắt buộc hay tự nguyện. Trong đó,
quan trọng nhất vẫn là nguồn thu từ thuế. Việc khai thác, tập trung các nguồn tài
chính này phải được tính toán sao cho đảm bảo được sự cân đối giữa nhu cầu của
Nhà nước với doanh nghiệp và dân cư, giữa tiêu dùng và tiết kiệm…
Hai là, vai trò của ngân sách phát triển là công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn
định và điều chỉnh kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Thông qua NSNN, Nhà nước
định hướng đầu tư, điều chỉnh cơ cấu của nền kinh tế theo các định hướng của
Nhà nước cả về cơ cấu vùng, cơ cấu ngành. Thông qua chi NSNN, Nhà nước đầu
tư cho kết cấu hạ tầng- lĩnh vực mà tư nhân sẽ không muốn tham gia hoặc không
thể tham gia. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phát triển, thức
đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống dân cư.
Ba là, NSNN đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện công bằng xã
hội và giải quyết các vấn đề xã hội . Nền kinh tế thị trƣờng với sức mạnh thần
kỳ của nó cũng luôn chứa đựng những khuyết tật mà nó không thể tự sửa chữa,
đặc biệt là về mặt xã hội nhƣ bất bình đẳng về thu nhập, sự chênh lệch về mức
sống, tệ nạn xã hội… Do đó, NSNN đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện
công bằng và giải quyết các vấn đề xã hội.
1.2. Tổng quan về vay nợ của Chính Phủ (Nợ công)
1.2.1. Khái niệm
Nợ Chính phủ (hay còn gọi là nợ công hay nợ quốc gia) là tổng giá trị các
khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương tới địa phương đi vay.
Việc đi vay này là nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách Nhà nước và
thường được đo lường bằng phần trăm so với tổng sản phẩm quốc nội GDP.
Thuật ngữ nợ chính phủ được sử dụng khá phổ biến trong các thống kê tài
chính quốc gia và thống kê của các tổ chức tài chính quốc tế như Quỹ Tiền tệ
quốc tế hoặc Ngân hàng Thế giới. Trong thống kê của các tổ chức tài chính quốc
Học viên: Nguyễn Nam Sơn
Page 3
BÀI TẬP LỚN QUẢN LÝ CÔNG
3
Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm
tế, nợ chính phủ là tổng các khoản vay nợ trong và ngoài nước của chính phủ.
Theo cách hiểu này, nợ chính phủ là số dư về nghĩa vụ trả nợ cả gốc và lãi tại
một thời điểm đối với các khoản vay trong nước và vay nước ngoài của chính
phủ. Tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau nhưng về cơ bản, nợ công có những
đặc trưng cơ bản sau:
- Nợ công là khoản nợ ràng buộc trách nhiệm trả nợ của Nhà nước.
Khác với các khoản nợ thông thường, nợ công được xác định là 1 khoản nợ mà
Nhà nước (bao gồm các cơ quan nhà nước có thẩm quyền) có trách nhiệm trả
khoản nợ ấy. Trách nhiệm trả nợ của Nhà nước được thể hiện dưới 2 góc độ trực
tiếp và gián tiếp.
- Nợ công được quản lý theo quy trình chặt chẽ với sự tham gia của các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền.
Việc quản lý nợ công đòi hỏi quy trình chặt chẽ nhằm đảm bảo hai mục đích là
đảm bảo khả năng trả nợ của đơn vị sử dụng vốn vay, đảm bảo cán cân thanh
toán vĩ mô, an ninh tài chính quốc gia và để đạt được những mục tiêu của quá
trình sử dụng vốn. Bên cạnh đó việc quản lý nợ công một cách chặt chẽ còn có ý
nghĩa quan trọng về mặt chính trị xã hội.
- Mục tiêu cao nhất trong việc huy động và sử dụng công nợ là phát triển
kinh tế xã hội vì lợi ích chung
Nợ công được huy động và sử dụng không phải để thỏa mãn những lợi ích riêng
của bất kì cá nhân tổ chức nào mà vì lợi ích chung của đất nước. Nhà nước là
của dân do dân và vì dân nên đương nhiên các khoản nợ công được quyết định
dựa trên lợi ích của nhân dân, cụ thể là phát triển kinh tế xã hội và phải luôn coi
đây là điều kiện quan trọng nhất
1.2.2 Phân loại nợ công
a, Theo nguồn gốc:
- Nợ trong nước: Là các khoản vay từ người cho vay trong nước
- Nợ nước ngoài: Là các khoản vay từ người cho vay nước ngoài
b, Theo thời hạn khoản nợ:
- Nợ ngắn hạn: Là các khoản nợ có kì hạn dưới 1 năm
Học viên: Nguyễn Nam Sơn
Page 4
BÀI TẬP LỚN QUẢN LÝ CÔNG
3
Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm
- Nợ trung hạn: Là các khoản nợ có kì hạn từ 1 năm đến 10 năm
- Nợ dài hạn: Là các khoản nợ có kì hạn trên 10 năm
1.2.3. Các hình thức vay nợ của Chính phủ
Nợ chính phủ bao gồm tổng nợ trong và ngoài nước của chính phủ, tổng
các khoản vay nợ của khu vực tư có bảo lãnh của chính phủ (chủ yếu là nợ nước
ngoài) và các khoản nợ của các tổ chức thuộc khu vực công. Nợ chính phủ bao
gồm nợ của chính quyền trung ương và chính quyền địa phương. Nói cách khác,
nợ chính phủ chỉ liên quan đến hoạt động vay nợ của các cơ quan chính phủ
thuộc đối tượng sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước và được phép vay nợ
theo quy định của pháp luật.
Nợ nước ngoài của quốc gia là số dư của mọi nghĩa vụ nợ hiện hành
(không bao gồm nghĩa vụ nợ dự phòng) về trả gốc và lãi tại một thời điểm của
các khoản vay nước ngoài của quốc gia. Nợ nước ngoài còn có thể định nghĩa là
khoản vay của quốc gia đối với những chủ nợ cư trú ngoài phạm vi quốc gia
(bao gồm cả những khoản nợ trong nước do người không cư trú tại quốc gia đó
nắm giữ).
Đối với khoản nợ mà Chính phủ, các tổ chức trong nước vay Chính phủ,
vay các tổ chức và cá nhân nước ngoài có thể được xác định khá chính xác. Đối
với khoản nợ của các chủ nợ không cư trú ở nội địa thì rất khó tổng hợp đầy đủ
và chính xác. Bởi vì các khoản nợ này có thể được thực hiện bằng đồng nội tệ
hoặc ngoại tệ ngay trên thị trường nội địa, tiêu thức để xác định đó là khoản nợ
nước ngoài dựa trên cơ sở chủ nợ là người cư trú ở nước ngoài. Vấn đề này
thường được biết đến dưới một tên gọi khác là đầu tư gián tiếp của nước ngoài
qua con đường phổ biến nhất là thị trường chứng khoán. Các nhà đầu tư nước
ngoài mua trái phiếu chính phủ trên thị trường chứng khoán Việt Nam thì được
tổng hợp vào khoản nợ nước ngoài của Việt Nam.
Để bảo đảm an toàn nợ của quốc gia và nợ của chính phủ, các nước
thường sử dụng các tiêu chí sau đây làm giới hạn vay và trả nợ: Thứ nhất, giới
hạn nợ quốc gia không vượt quá 50% – 60% GDP hoặc không vượt quá 150%
Học viên: Nguyễn Nam Sơn
Page 5
BÀI TẬP LỚN QUẢN LÝ CÔNG
3
Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm
kim ngạch xuất khẩu. Thứ hai, dịch vụ trả nợ quốc gia không vượt quá 15% kim
ngạch xuất khẩu và dịch vụ trả nợ của chính phủ không vượt quá 10% chi ngân
sách.
1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc tính toán nợ công
Nợ Chính phủ thường được tính toán đo lường bằng phần trăm so với
GDP. Nợ thường được tính tại từng thời kỳ, giai đoạn. Khi tính toán nợ Chính
phủ ta thường hay vấp phải một số vấn đề sau:
a, Lạm phát:
Thâm hụt ngân sách thường không điều chỉnh ảnh hưởng của lạm phát
trong tính toán, vì trong chi tiêu Chính phủ các khoản trả lãi vay theo lãi suất
danh nghĩa trong khi đáng lẽ nên tính theo lãi suất thực tế ( Lãi suất danh nghĩa
bằng lãi suất thực tế cộng tỷ lệ lạm phát). Trong những thời kỳ lạm phát cao và
nợ Chính phủ lớn thì ảnh hưởng của lạm phát là rất lớn tới nợ công.
b, Tài sản đầu tư:
Các nhà kinh tế cho rằng nên trừ tổng tài sản của tài sản Chính phủ trong
tính toán nợ Chính phủ. Tuy nhiên, tính toán theo cách này sẽ gặp phải vấn đề
những gì nên coi là tài sản của Chính phủ và tính toán giá trị của chúng như thế
nào.
c, Các khoản nợ tiềm tàng (Nợ ngầm)
Các khoản chi trả trợ cấp cho hưu trí, bảo hiểm xã hội, … hay các khoản
Chính phủ đứng ra bảo đảm cho các khoản vay mà trong tương lai không có khả
năng thanh toán cũng cần được tính vào nợ Chính phủ, bởi lẽ rốt cuộc đó cũng
là tiền do Chính phủ phải chi ra.
1.3. Tổng quan về huy động vốn đầu tư
1.3.1 Khái niệm
Nhà nước huy động vốn là hình thức huy động các nguồn vốn nhàn rỗi để
đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Không những vậy, nó còn là biện pháp
điều tiết vĩ mô thông qua việc huy động một phần quỹ tiêu dùng, qua phân phối
lại chuyển thành quỹ tích luỹ phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế, cũng như
Học viên: Nguyễn Nam Sơn
Page 6
BÀI TẬP LỚN QUẢN LÝ CÔNG
3
Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm
điều tiết số lượng tiền tệ và hướng lưu thông tiền tệ trên thị trường để phục vụ
cho nền kinh tế. Nhà Nước huy động các nguồn tài chính nhàn rỗi trong xã hội
bằng cách đi vay. Vay nợ của Nhà Nước bao gồm:
Vay nợ trong nước từ các tầng líp nhân dân và các tổ chức kinh tế xã hội,
vay Ngân hàng. Việc vay này, được thực hiện dưới hình thức phát hành các công
cụ nợ của chính phủ (ngắn hạn, trung hạn và dài hạn) như các tín phiếu kho bạc
Nhà nước, trái phiếu Chính phủ.
Vay nợ từ nước ngoài: Được thưc hiện thông qua các khoản viện trợ có
hoàn lại (một phần quan trọng trong nguồn vốn ODA). Vay nợ của chính phủ các
nước, các tổ chức quốc tế và các công ty.
Khi đi vay nợ Nhà Nước phải có giấy tờ vay nợ để đảm bảo. Trái phiếu
chính phủ là giấy chứng nhận vay nợ của chính phủ do Bộ Tài chính phát hành
có thời hạn với mệnh giá và lãi suất xác định. Trong đó, có 2 loại trái phiếu: trái
phiếu vô danh và trái phiếu ký danh. Trái phiếu vô danh là trái phiếu không ghi
tên người mua trên trái phiếu hoặc không dăng ký tên tại cơ quan phát hành trái
phiếu. Trái phiếu ký danh được ghi tên người mua trên trái phiếu hoặc đăng ký
tên tại cơ quan phát hành trái phiếu.
1.3.2. Các hình thức trái phiếu Chính phủ
Gồm có 3 hình thức chủ yếu.
- Trái phiếu kho bạc Nhà Nước (hay còn gọi là tín phiếu kho bạc): là loại
trái phiếu ngắn hạn ( dưới 1 năm) dùng để huy động vốn bù đắp thiếu hụt tạm
thời Ngân Sách Nhà nước. Như vậy, ngay cả khi có bội thu ngân sách vẫn cần
phát hành trái phiếu kho bạc.
Trên thị trường Việt Nam, trái phiếu kho bạc là công cụ phát hành rộng rãi
và phổ biến nhất, là công cụ an toàn nhất (được xem như không rủi ro khi thanh
toán).
Trái phiếu kho bạc chủ yếu do các tổ chức tài chính tín dụng mua thông
qua hình thức đấu thầu. Lãi suất trái phiếu kho bạc thông thường cao hơn lãi
suất tiền gửi ngân hàng cùng kỳ hạn.
Học viên: Nguyễn Nam Sơn
Page 7
BÀI TẬP LỚN QUẢN LÝ CÔNG
3
Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm
- Trái phiếu chính phủ: bao gồm trái phiếu ký danh và trái phiếu vô danh.
Trái phiếu ký danh là loại trái phiếu có ghi tên cơ quan, đơn vị, cá nhân (gọi tắt
là người mua trái phiếu) trên chứng chỉ trái phiếu hoặc đăng kí tên tại cơ quan
phát hành trái phiếu. Trái phiếu vô danh là loại trái phiếu không ghi tên người
mua trên chứng chỉ trái phiếu hoặc đăng kí tên tại cơ quan phát hành. Trái phiếu
chính phủ có ba loại sau:
a. Công trái quốc gia: là loại trái phiếu có thời hạn từ 1 năm trở lên, dùng
để huy động vốn bù đắp thiếu hụt Ngân Sách Nhà Nước và đáp ứng nhu cầu bổ
sung vốn đầu tư cho phát triển.
b. Trái phiếu công trình: là loại trái phiếu có thời hạn từ 1 năm trở lên,
dùng để huy động vốn cho từng công trình cụ thể theo kế hoạch đầu tư của Nhà
Nước. ( thường chính phủ cho phép chính quyền địa phương phát hành).
Trái phiếu thông qua kho bạc Nhà nước được sử dụng cho các mục tiêu
sau: Chi mua sắm, sửa chữa bảo dưỡng máy móc thiết bị, phương tiện làm việc,
tài sản, chi mua sắm văn phòng phẩm, thuê trụ sở làm địa điểm, chi in Ên mẫu
biểu sổ sách, chi cho các công tác thông tin tuyên truyền, chi cho hỗ trợ xây
dựng đề án, hỗ trợ công tác nghiên cứu và triển khai các công trình ứng dụng
hiện đại hoá công nghệ tin học...
1.4. Mối quan hệ giữa nợ công và GDP
Thứ nhất, nợ công là một nguồn rất cần thiết thuộc cấu trúc vốn tài chính
của các quốc gia, đặc biệt là những quốc gia đang phát triển, góp phần vào sự
phát triển kinh tế đất nước trơng ngắn hạn, nhưng trong dài hạn có nguy cơ gây
tổn hại cho nền kinh tế bởi những yêu cầu thanh toán gốc và lãi của nó.
Thứ hai, đối với những quốc gia phát triển và những nền kinh tế thị
trường mới nổi, mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế biểu hiện rõ
nhất khu nợ vượt mức 90 – 100% GDP, lúc này nợ càng tăng, tăng trưởng kinh
tế càng giảm đáng kể.
Thứ ba, có thể xem xét sự tác động của nợ công lên tăng trưởng kinh tế
thông qua dữ liệu nợ nước ngoài cùng với những rủi ro và hệ lụy mà nó đem lại;
sự không khuyến khích đầu tư, giới hạn sự tham gia của các quốc gia đang phát
Học viên: Nguyễn Nam Sơn
Page 8
BÀI TẬP LỚN QUẢN LÝ CÔNG
3
Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm
triển với nền kinh tế toàn cầu, sự trống rỗng trong dự trữ ngoại hối quốc gia,
cứng nhắc trong chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa.
Thứ tư, tăng trưởng kinh tế, tiết kiệm và đầu tư có mối quan hệ với nhau,
khi vốn nội địa không đủ để tài trợ cho chi tiêu đầu tư trong nước thì vay nợ là
tất yếu để phục vụ phát triển kinh tế. Tuy nhiên, vay nợ luôn kèm theo những rủi
ro do lãi suất, thời hạn, cơ cấu vay mượn, gây ảnh hưởng tiêu cục lên tăng
trưởng kinh tế, do đó vấn đề quả lý nợ hiệu quả đang trở lên cấp thiết.
Thứ năm, nợ tích lũy theo thời gian và dòng chi trả nợ đã gây cản trở lớn
đến tăng trưởng kinh tế do những trở ngại thuế khóa, bất ổn vĩ mô và sự giảm
bớt chi tiêu cho đầu tư phát triển của Chính phủ.
Học viên: Nguyễn Nam Sơn
Page 9
BÀI TẬP LỚN QUẢN LÝ CÔNG
3
Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH VAY NỢ, HUY ĐỘNG VỐN
TẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2011 - 2014
2.1. Thực trạng tình hình vay nợ, huy động vốn tại Việt Nam trong giai
đoạn 2011 – 2014.
Lần đầu tiên nhiều số liệu chi tiết về nợ công được người đứng đầu ngành
tài chính công bố tại diễn đàn Quốc hội.
Học viên: Nguyễn Nam Sơn
Page 10
BÀI TẬP LỚN QUẢN LÝ CÔNG
3
Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm
Nhìn vào biểu đồ thể hiện diễn biến nợ công giai đoạn 2001 – 2020 trên ta
thấy Nợ công của Việt Nam đang ở mức rất cao, Nợ công so GDP đã tăng
nhanh, từ 51,7% năm 2010 lên 54,2% năm 2013 và 60,3% năm 2014. Dư nợ
công đến cuối năm 2015 dự kiến khoảng 64%, tiến sát giới hạn được Quốc hội
phê duyệt (65% GDP). Tỷ lệ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu ngân
Học viên: Nguyễn Nam Sơn
Page 11
BÀI TẬP LỚN QUẢN LÝ CÔNG
3
Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm
sách nhà nước (NSNN) năm 2014 khoảng 14,2% (theo quy định của Chiến lược
nợ công là không quá 25%) nhưng nếu tính cả vay để đảo nợ và trả nợ vay về
cho vay lại thì khoảng 26,2%. Chính phủ nhìn nhận, sở dĩ nợ công tăng nhanh
như vậy là do tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu
làm kinh tế Việt Nam tăng trưởng chậm lại, thu ngân sách bị ảnh hưởng lớn
trong khi nhu cầu chi tăng mạnh. Thu NSNN gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn
phải giảm thu để hỗ trợ doanh nghiệp; đầu tư phát triển, xây dựng kết cấu hạ
tầng; thực hiện các chính sách xã hội và tiền lương. Vì vậy, giai đoạn 2011 2015, Việt Nam đã phát hành 335 nghìn tỷ đồng trái phiếu chính phủ (TPCP),
gấp hơn 2,5 lần giai đoạn 2006 - 2010 (giai đoạn 2011 - 2014 đã phát hành 250
nghìn tỷ đồng, năm 2015 theo kế hoạch phát hành thêm 85 nghìn tỷ đồng), đồng
thời đã đẩy mạnh giải ngân vốn ODA, vay ưu đãi và bảo lãnh vay để đầu tư các
dự án hạ tầng giao thông, thủy lợi, năng lượng, y tế, giáo dục, xây dựng nông
thôn mới… theo nghị quyết của Đảng, Quốc hội. Bên cạnh đó, vay ưu đãi nước
ngoài có xu hướng giảm sau khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung
bình. Do tỷ trọng vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài với kỳ hạn dài, lãi suất thấp
trong nợ công giảm dần, nên Chính phủ đã chuyển sang vay trong nước. Tỷ
trọng vay trong nước tăng, chủ yếu qua phát hành TPCP ngắn hạn (năm 2012,
kỳ hạn phát hành bình quân là 2,9 năm, lãi suất bình quân 10%/năm; năm 2013
là 3,4 năm và 7,96%/năm; 10 tháng đầu năm 2014 là 4,84 năm và 6,81%/năm)
dẫn đến nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ tăng nhanh trong ngắn hạn.
Nhìn vào biểu đổ nhiệt phía trên ta có thể thấy Việt Nam là quốc gia có nợ
công ở mức tương đối cao so với trung bình của thế giới, tính đến cuối năm
2014 nợ công của Việt Nam gần 85 tỷ USD, trung bình mỗi người dân Việt Nam
đang phải gánh một khoản nợ 937 USD, tốc độ tăng nợ công ở mức hai con số
10,5%/năm.
Tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam so với các nước trong khu vực và
trên thế giới năm 2013
Đơn vị tính: % GDP
Học viên: Nguyễn Nam Sơn
Page 12
BÀI TẬP LỚN QUẢN LÝ CÔNG
3
Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm
Nguồn: Báo cáo nghiên cứu về “Xác định phạm vi nợ công, trần nợ công an toàn của
Việt Nam giai đoạn 2014 - 2020” (Học viện Chính sách và Phát triển, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư)
Việt Nam là nước có thu nhập trung bình thấp, dân số đang già hóa nhanh,
năng suất lao động bình quân thấp và giảm dần, gây áp lực lớn khiến nợ công
tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Năm 2013, thu nhập bình quân của
Việt Nam đạt gần 2.000 USD/người/năm, thấp hơn Phi-líp-pin (4.700 USD) và
In-đô-nê-xi-a (5.200 USD). Bên cạnh đó, Việt Nam lại thuộc nhóm nước có
năng suất lao động thấp trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó thấp
hơn so với Singapore 15 lần, Nhật Bản 11 lần, Hàn Quốc 10 lần, Ma-lai-xi-a 5
lần, Thái Lan 2,5 lần. Bội chi lớn hơn chi đầu tư phát triển, tổng thu từ thuế và
phí nhỏ hơn chi thường xuyên cũng tác động đến tính bền vững NSNN và nợ
công, tạo ra rủi ro lớn cho NSNN trong trung và dài hạn. Theo dự toán NSNN
năm 2014, bội chi NSNN là 224 nghìn tỷ đồng, chi đầu tư phát triển 163 nghìn
tỷ đồng. Năm 2013, chi thường xuyên cao hơn thu từ thuế và phí 113,4 nghìn tỷ
đồng, dự toán năm 2014 cao hơn 165,4 nghìn tỷ đồng. Một vấn đề đáng quan
tâm nữa là tỷ lệ nghĩa vụ trả nợ chính phủ/thu NSNN và nghĩa vụ trả nợ
công/thu NSNN đang ở mức cao và có xu hướng tăng, từ mức 22,6% và 33,39%
năm 2013 lên con số dự kiến là 32,51% và 45,93% năm 2015.
2.2. Nguyên nhân dẫn đến nợ công
Học viên: Nguyễn Nam Sơn
Page 13
BÀI TẬP LỚN QUẢN LÝ CÔNG
3
Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm
Nguồn thu giảm sút là một nguyên nhân dẫn tới tình trạng thâm hụt ngân
sách và gia tăng nợ công. Trốn thuế và hoạt động kinh tế ngầm ở Việt Nam là
nhân tố làm giảm nguồn thu ngân sách. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới
(WB), kinh tế không chính thức ở Việt Nam ở mức 15,6% GDP so với 13,1%
GDP của Trung Quốc và Singapore; 11,3% GDP của Nhật Bản. Hệ thống thuế
với nhiều mức thuế cao và bộ luật phức tạp cùng với sự điều tiết dư thừa và
thiếu hiệu quả của cơ quan quản lý là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trốn thuế
và kinh tế ngầm phát triển ở Việt Nam. Việt Nam là một trong những nước có tỷ
lệ tham nhũng cao. Không chỉ có công nhân viên chức không chịu nộp thuế, mà
việc nhận tiền hối lộ còn khá phổ biến từ Trung ương đến địa phương.
Do sự tiếp cận dễ dãi với nguồn vốn đầu tư nước ngoài và việc sử dụng
nguồn vốn không hiệu quả: Chính phủ gia tăng huy động vốn trong từ bên
ngoài như vay nước ngoài, phát hành trái phiếu chính phủ…. Việc chính phủ đã
chi tiêu quá tay (phần lớn cho cơ sở hạ tầng) mà hầu như không quan tâm đến
các kế hoạch trả nợ dẫn đến mức nợ ngày càng tăng. Bên cạnh đó, với việc Việt
Nam gia nhập nhóm nước thu nhập trung bình, các khoản vay quốc tế ưu đãi sẽ
dần không còn nữa mà thay vào đó là các khoản vay thương mại với lãi suất cao
hơn nhiều.
Nguyên nhân thứ ba là khi nhắc đến nợ công, người ta còn phải tính đến
các khoản do chính quyền địa phương hoặc doanh nghiệp đi vay dưới sự bảo
lãnh của Chính phủ. Theo ước tính, khoản vay của doanh nghiệp hiện chiếm
khoảng 10% tổng dư nợ công và là khoản đáng lo ngại nhất bởi phần lớn là vay
với kỳ hạn ngắn. Trong trường hợp doanh nghiệp mất khả năng trả nợ, Chính
phủ đương nhiên sẽ phải gánh trách nhiệm với tư cách là người bảo lãnh. Như
vậy thì nợ công sẽ tăng lên.
Mức lãi suất cao khiến việc vay mới và tài trợ nợ công trở nên đắt đỏ hơn,
do vậy ảnh hưởng tới tính bền vững của nợ công. Một bằng chứng cụ thể là ngay
cả khi mới sớm thoát khỏi suy giảm kinh tế thì chỉ số CPI và lãi suất ở Việt Nam
đã tăng nhanh trở lại, cao hơn nhiều so với hầu hết các nền kinh tế trong khu
Học viên: Nguyễn Nam Sơn
Page 14
BÀI TẬP LỚN QUẢN LÝ CÔNG
3
Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm
vực. Hệ quả là khi Chính phủ đi vay bằng cách phát hành trái phiếu trong nước,
lợi suất phải trả đã lên tới 11-12%. Tương tự như vậy, khi Chính phủ phát hành
trái phiếu quốc tế, phải trả cũng cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh (như
Indonesia và Philippines) do mức độ rủi ro cao hơn.
Một nguyên nhân sâu xa hơn và cũng không kém phần quan trọng đó
chính là hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam còn kém
hiệu quả, nạn tham nhũng, quan liêu tràn lan…Về nguyên tắc, nợ công của Việt
Nam bao gồm nợ của Chính phủ, của các chính quyền địa phương và phần vay
của doanh nghiệp do Chính phủ bảo lãnh. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia khuyến
cáo cần tính tới cả phần doanh nghiệp Nhà nước tự đi vay, vì suy cho cùng nếu
doanh nghiệp có vấn đề gì, Nhà nước với tư cách chủ sở hữu cũng sẽ phải đứng
ra xử lý thay, đơn cử như trường hợp của một tập đoàn kinh tế quy mô lớn gần
đây như Vinashin chẳng hạn.
Việc tiếp tục áp dụng các biện pháp kích cầu, tăng trưởng còn chủ yếu dựa
vào đầu tư, trong khi đó nhiều dự án đầu tư không hiệu quả, chậm tiến độ. Điều
này dẫn đến tỷ lệ bội chi ngân sách cao và Chính phủ phải vay nợ để bù đắp.
Tính bền vững của nợ công không chỉ phụ thuộc vào cán cân ngân sách
mà còn phụ thuộc vào một số nhân tố khác. Đầu tiên là tốc độ tăng trưởng GDP.
Tốc độ tăng GDP cao là điều kiện cần để tăng nguồn thu và đạt thặng dư ngân
sách. Tuy nhiên, nếu tăng trưởng GDP chỉ do tăng các yếu tố đầu vào vật chất
(vốn và lao động) mà không tăng được năng suất thì chắc chắn đến một lúc nào
đó, tốc độ tăng trưởng sẽ giảm. Có vẻ như điều này sẽ xảy ra cho Việt Nam
trong khoảng 7-10 năm tới, vì theo Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương,
trong những năm gần đây tốc độ tăng năng suất của Việt Nam khá thấp, và tăng
trưởng GDP chủ yếu nhờ vào việc gia tăng lao động và vốn. Theo dự báo của
EIU, tốc độ tăng GDP trung bình hằng năm của Việt Nam sẽ giảm còn khoảng
5% sau năm 2020 và 3-4% sau năm 2030.
Khủng hoảng nợ công cũng đến do việc chính phủ không minh bạch các
số liệu, chính phủ cố gắng vẽ nên bức tranh sáng, màu hồng về tình trạng ngân
Học viên: Nguyễn Nam Sơn
Page 15
BÀI TẬP LỚN QUẢN LÝ CÔNG
3
Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm
sách về những chính sách sắp ban hành để khắc phục những khó khăn về ngân
sách hay vấn đề kinh tế vĩ mô thì hiệu lực của những chính sách đó sẽ bị hạn chế
nhiều.
Do tiết kiệm trong nước thấp dẫn đến việc vay nợ cho chi tiêu công cao
dẫn đến nợ công ngày càng tăng cao. Ngoài ra, hệ thống lương hưu cũng tạo nên
những gánh nặng không nhỏ cho chi tiêu công.
Nếu so sánh giữa mức gia tăng nợ công trong thời gian qua với tốc độ
tăng trưởng GDP thì việc Việt Nam mang nợ như hiện nay là không đáng.
Không thể lấy một số nước có tỷ lệ nợ so với GDP tới 200% để biện minh bởi
họ là những nền kinh tế phát triển, việc vay nợ được quản lý rất chặt và đầu tư
hiệu quả. Việt Nam thì chưa làm được điều này.
CHƯƠNG 3:
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP
Như trên đã phân tích về lý luận và thực tiễn một số nền kinh tế lớn trên
thế giới, khi xem xét, đánh giá nợ công không chỉ chú ý vào tỷ lệ nợ/GDP cao
hay thấp mà quan trọng hơn là hiệu quả sử dụng vốn vay như thế nào, tức là
Học viên: Nguyễn Nam Sơn
Page 16
BÀI TẬP LỚN QUẢN LÝ CÔNG
3
Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm
quản lý nợ công có hiệu quả, phát huy được các tác động tích cực của nợ công
và giảm bớt tác động tiêu cực của nó. Hiệu quả sử dụng các khoản vay nợ phụ
thuộc nhiều vào chính sách quản lý các khoản vay của ngân sách nhà nước. Do
tính chất khác biệt giữa nguồn vay và nguồn từ thuế và phí, việc quản lý một
cách chặt chẽ đòi hỏi phải có các cơ chế quản lý riêng biệt đối với các khoản chi
từ nguồn vay nợ và các khoản chi thông thường (từ nguồn thu thuế và phí). Theo
đó, các khoản chi từ nguồn vay nợ đòi hỏi phải có các quy định quản lý chặt chẽ
theo hiệu quả đầu ra, đảm bảo các tiêu chí về hoàn trả nợ (gốc và lãi), tiêu chí về
tiến độ giải ngân và hiệu quả sử dụng vốn, tiêu chí về giảm thiểu rủi ro và các
tiêu chí khác. Những quy định này thường áp dụng với mức độ đòi hỏi thấp hơn,
hoặc không áp dụng đối với các khoản chi tiêu ngân sách thông thường (được
chi từ nguồn thu thuế và phí). Việc có những quy định về quản lý ngân sách
riêng biệt đối với các khoản chi từ nguồn vay nợ được coi là một tiêu chí quan
trọng trong việc đánh giá tính bền vững của nợ công nói riêng và ngân sách nhà
nước nói chung.
Để nợ công được quản lý chặt chẽ từ khâu vay nợ, sử dụng và thanh toán
nợ đến hạn, nâng cao hiệu quả sử dụng, giữ vững uy tín quốc gia trong thanh
toán nợ, đảm bảo an ninh tài chính đối với các khoản nợ công, hạn chế rủi ro,
cần thực hiện tốt một số nội dung như sau:
Một là, Chính phủ cần xây dựng kế hoạch chiến lược về vay nợ công trên
cơ sở và phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch thu, chi ngân
sách nhà nước trong từng giai đoạn, thời kỳ. Kế hoạch chiến lược về vay nợ
công xác định rõ mục đích vay (vay nợ để tài trợ thâm hụt ngân sách, tái cơ cấu
nợ và cho vay lại hoặc vay để tài trợ cho các chương trình, dự án đầu tư quan
trọng, hiệu quả, vay nhằm đảm bảo an ninh tài chính quốc gia), mức huy động
vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn theo từng đối tượng vay trong nước và ngoài
nước, với hình thức huy động vốn và lãi suất thích hợp. Kế hoạch chiến lược về
vay nợ công cũng cần chỉ rõ đối tượng sử dụng các khoản vay, hiệu quả dự kiến;
xác định chính xác thời điểm vay, số vốn vay từng giai đoạn, tránh tình trạng
Học viên: Nguyễn Nam Sơn
Page 17
BÀI TẬP LỚN QUẢN LÝ CÔNG
3
Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm
tiền vay không được sử dụng trong thời gian dài hoặc chưa thực sự có nhu cầu
sử dụng.
Hai là, đảm bảo tính bền vững về quy mô và tốc độ tăng trưởng của nợ
công, có khả năng thanh toán trong nhiều tình huống khác nhau và hạn chế rủi
ro, chi phí. Muốn vậy, cần thiết lập ngưỡng an toàn nợ công; đồng thời thường
xuyên đánh giá các rủi ro phát sinh từ các khoản vay nợ Chính phủ trong mối
liên hệ với GDP, thu ngân sách nhà nước, tổng kim ngạch xuất khẩu, cán cân
thương mại, dự trữ ngoại hối, dự trữ tài chính, quỹ tích lũy để trả nợ…
Ba là, kiểm soát chặt chẽ các khoản vay về cho vay lại và các khoản vay
được Chính phủ bảo lãnh. Chính phủ vay về cho vay lại và bảo lãnh vay là các
hoạt động thường phát sinh khi doanh nghiệp cần huy động một lượng vốn lớn
trên thị trường vốn quốc tế, nhưng không đủ uy tín để tự mình đứng ra vay nợ.
Khi đó, Chính phủ có thể giúp doanh nghiệp tiếp cận được với các nguồn vốn
quốc tế với quy mô lớn, lãi suất thấp. Các khoản vay và bảo lãnh này thực chất
là nghĩa vụ ngân sách dự phòng, làm nảy sinh nguy cơ ngân sách nhà nước phải
trang trải các khoản nợ của khu vực doanh nghiệp trong tương lai, khi doanh
nghiệp gặp khó khăn hoặc mất khả năng thanh toán. Nguy cơ này sẽ càng cao
hơn nữa khi Chính phủ vay và phát hành bảo lãnh không dựa trên những phân
tích thận trọng về mức độ rủi ro cũng như năng lực trả nợ của doanh nghiệp. Do
đó, việc vay về cho vay lại và bảo lãnh vay cần hết sức thận trọng, chỉ nên ưu
tiên cho các chương trình, dự án trọng điểm của Nhà nước hoặc thuộc các lĩnh
vực ưu tiên cao của quốc gia. Kiểm soát chặt chẽ các khoản vay nợ nước ngoài
được Chính phủ bảo lãnh và việc cấp bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay nợ
trong nước; khuyến khích phát triển mô hình hợp tác công - tư .
Bốn là, nâng cao hiệu quả và tăng cường kiểm soát vào việc sử dụng vốn
vay, vốn được Chính phủ bảo lãnh. Chúng ta cần nhìn nhận và đánh giá lại hiệu
quả đầu tư các dự án để tăng cường hiệu quả sử dụng đồng vốn, tăng cường hiệu
quả đầu tư. Chúng ta phải theo đuổi mục tiêu phát triển kinh tế đi đôi với kiểm
soát tiền vay và vạch ra kế hoạch trả nợ. Đây là vấn đề cốt yếu đảm bảo cho khả
năng trả nợ và tính bền vững của nợ công. Chính phủ là người đứng ra vay nợ,
Học viên: Nguyễn Nam Sơn
Page 18
BÀI TẬP LỚN QUẢN LÝ CÔNG
3
Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm
nhưng không phải là người sử dụng cuối cùng các khoản vốn vay, mà là các chủ
dự án, các đơn vị thụ hưởng ngân sách, các doanh nghiệp; trong mọi trường hợp,
ngân sách nhà nước phải gánh chịu hậu quả, rủi ro trong toàn bộ quá trình vay
nợ. Để bảo đảm hiệu quả trong việc vay vốn và sử dụng vốn vay cần phải tuân
thủ hai nguyên tắc cơ bản là: không vay ngắn hạn để đầu tư dài hạn, vay thương
mại nước ngoài chỉ sử dụng cho các chương trình, dự án có khả năng thu hồi
vốn trực tiếp và bảo đảm khả năng trả nợ; đồng thời kiểm tra, giám sát chặt chẽ,
thường xuyên quá trình sử dụng các khoản vay nợ, các khoản vay được Chính
phủ bảo lãnh, nhất là tại các đơn vị sử dụng trực tiếp vốn vay như: tập đoàn kinh
tế, tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương mại, các dự án đầu tư cơ sở hạ
tầng.
Năm là, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản lý nợ
công. Việc công khai, minh bạch nhằm tăng cường trách nhiệm trong quản lý,
sử dụng các khoản nợ công và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý nợ
công. Để thực hiện tốt nguyên tắc quan trọng đó, nợ công cần phải được tính
toán, xác định đầy đủ trong quyết toán ngân sách nhà nước và phải được cơ
quan chuyên môn độc lập kiểm tra, xác nhận.
Sáu là, điều cần thiết hiện nay là Nhà nước ta phải thay đổi mô hình tăng
trưởng dựa vào vốn, cải thiện lại năng suất và tăng mức độ hiệu quả doanh
nghiệp nhà nước thì mới có thể tăng cường chi tiêu đầu tư, sử dụng chính sách
tài khóa một cách hiệu quả. Do đó, việc nên làm là phải ổn định lại các yếu tố vĩ
mô khác để đảm bảo tăng trưởng bền vững trong dài hạn, tuyệt đối không chạy
theo chỉ tiêu tăng trưởng cao.
Bảy là, phát hành trái phiếu và in tiền là hai phương pháp giải quyết bài
toán thâm hụt ngân sách và tăng vốn đầu tư, nhưng lại gây ra lạm phát. Hơn nữa
mức độ hiệu quả sử dụng vốn từ Chính phủ còn quá kém nên khối nợ công ngày
một lớn hơn mà lại có tác động thấp tới kích thích tăng trưởng kinh tế. Sử dụng
hai kênh này phải đúng thời điểm và có đánh giá đúng tác động đánh đổi qua lại
giữa các chỉ tiêu vĩ mô có thể có, một cách hợp lý.
Học viên: Nguyễn Nam Sơn
Page 19
BÀI TẬP LỚN QUẢN LÝ CÔNG
3
Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm
Tám là, cần giảm thiểu thâm hụt ngân sách quốc gia. Do thâm hụt ngân
sách cần khoản bù đắp, hệ quả là khả năng trả nợ lại càng kém đi. Hãy học tập
từ bài học ở châu Âu khi đối phó với khủng hoảng hồi đầu năm 2010. Họ tăng
cường tiết kiệm, giảm trợ cấp, tăng thuế đối với người thu nhập cao, thoái vốn
tại những doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả... Kết quả là trong quý II năm
2010, thay vì tăng trưởng âm, kinh tế châu Âu đã phát triển 1%.
Chín là, Nhà nước ta nên đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tìm cứu cánh lúc
cần thiết. Cũng phải nói tới một bất lợi đối với Việt Nam là hệ số rủi ro của ta
còn ở mức cao, 6,75%, lại thêm thanh khoản thấp, tần suất vay của ta ít nên khi
đi vay bao giờ ta cũng phải vay với lãi suất cao. Trong khi đó, Indonesia và
Phillippines tuy có hệ số rủi ro tương đương Việt Nam nhưng họ vẫn được ưu
đãi hơn khi đi vay nhờ tính thanh khoản cao hơn và tích cực hơn trong hợp tác
quốc tế.
Cuối cùng, không nên đầu tư vào các siêu dự án chỉ vì vay vốn quá dễ
dàng mà không tính tới hiệu quả đầu tư và khả năng trả nợ.
Nợ quốc gia có thể cao nhưng với cơ cấu trả nợ và vay nợ hợp lý thì mới
tăng khả năng kích thích tăng trưởng kinh tế. Việt Nam cần công khai và tính
toán đầy đủ các khoản vay, thu chi ngân sách, các khoản bảo lãnh của Chính phủ
với các tổ chức, các khoản nợ của doanh nghiệp nhà nước. Từ đó mới có thể đưa
ra kế hoạch vay mượn, trả nợ và sử dụng vốn cho phù hợp.
KẾT LUẬN
Như vậy, qua những phân tích ở trên phần nào chúng ta đã hiểu
được tình thế của kinh tế Việt Nam nói chung và nợ Chính phủ nói riêng. Có
thể nói Việt Nam đang đứng giữa ranh giới của bờ vực thẳm. Nợ công ở Việt
Nam tăng nhanh trong khi thâm hụt ngân sách thì kéo dài suốt bao năm qua.
Mở rộng đầu tư công với quy mô lớn nhưng hiệu quả đầu tư lại vô cùng thấp
Học viên: Nguyễn Nam Sơn
Page 20
BÀI TẬP LỚN QUẢN LÝ CÔNG
3
Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm
kém kèm theo lạm phát tăng, lãi suất cũng tăng khiến tài trợ nợ công càng đắt
đỏ và mức độ nợ công ngày càng lớn. Trong khi đó Bộ Tài chính chưa đưa ra
được một chiến lược cụ thể để quản lý nợ công. Tất cả những câu hỏi, thắc
mắc về nợ công, một bài toán lớn cần giải quyết ngay thì vẫn đang bị bỏ ngỏ.
Tính an toàn của nợ công trong giai đoạn tới sẽ ở mức độ nào? Nợ công sẽ
được tài trợ ra sao? Đây là câu hỏi chờ đợi câu trả lời từ Chính phủ.
Học viên: Nguyễn Nam Sơn
Page 21
BÀI TẬP LỚN
3
Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................................1
CHƯƠNG 1:...............................................................................................................................2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAY NỢ, HUY ĐỘNG VỐN ĐẦU TƯ................................................2
MỐI QUAN HỆ GIỮA NỢ CÔNG VÀ GDP............................................................................2
1.1. Tổng quan về Ngân sách nhà nước..........................................................2
1.1.1. Khái niệm Ngân sách nhà nước................................................................................2
1.1.2 Vai trò của Ngân sách nhà nước.................................................................................2
1.2. Tổng quan về vay nợ của Chính Phủ (Nợ công).....................................3
1.2.1. Khái niệm..................................................................................................................3
1.2.3. Các hình thức vay nợ của Chính phủ........................................................................5
1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc tính toán nợ công....................................................6
1.3. Tổng quan về huy động vốn đầu tư.........................................................6
1.3.1 Khái niệm...................................................................................................................6
1.3.2. Các hình thức trái phiếu Chính phủ..........................................................................7
1.4. Mối quan hệ giữa nợ công và GDP.........................................................8
CHƯƠNG 2:.............................................................................................................................10
THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH VAY NỢ, HUY ĐỘNG VỐN...................................................10
TẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2011 - 2014...............................................................10
2.1. Thực trạng tình hình vay nợ, huy động vốn tại Việt Nam trong giai
đoạn 2011 – 2014.............................................................................................10
CHƯƠNG 3:.............................................................................................................................16
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP...................................................................................16
KẾT LUẬN...............................................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bài giảng quản lý công của TS. Đặng Công Xưởng
2. Giáo trình Quản lý tài chính công (Học viện Tài chính )
3. Giáo trình lý thuyết tài chính- tiền tệ (Trường ĐH Quốc Gia TP.HCM).
Học viên: Nguyễn Nam Sơn
BÀI TẬP LỚN
3
Lớp Quản lý kinh tế 2014 nhóm
4. Giáo trình Tài Chính trường ĐH Quản Lý và Kinh Doanh
5. Website Bộ tài chính: www.mof.gov.vn
6. Website Tổng cục thống kê: www.gso.gov.vn
7. Website Tạp chí tài chính: www.tapchitaichinh.vn
Học viên: Nguyễn Nam Sơn