Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tim hieu hung thu hoc toan cua HS THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.29 KB, 18 trang )

MỤC LỤC

Trang
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

4

2. Mục đích nghiên cứu

6

3. Khách thể, đối tượng nghiên cứu

6

4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài

7

5. Giả thuyết khoa học

7

6. Nhiệm vụ nghiên cứu

7



7. Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG BÀI TẬP

7

Chương I. Cơ sở lí luận và thực tiễn

7

1.1. Cơ sở lí luận

7

1.1.1. Tổng quan về hứng thú của học sinh

7

1.1.2. Một số lí luận về hứng thú và hứng thú học tập môn
Toán HS THCS
1.2. Cơ sở thực tiễn

8
11

1.3. Những mâu thuẫn giữa lí luận và thực tiễn

12

Chương II.Đề xuất một số biện pháp


13

2.1. Các biện pháp để giải quyết

13

2.3.Cách thức thực hiện các biện pháp

14

Chương III. Kết luận và kiến nghi

15

3.1. Kết luận

15

3.2.Kiến nghi

16

3.2.1.Về phía giáo viên

16

3.2.2. Về phía cấp trên

16


3.2.3. Về phía nhà trường

17

3.2.4. Về phía xã hội

17

3.2.5. Về phía học sinh

17

4

7

1


TÀI LIỆU THAM KHẢO

18

PHỤ LỤC

19

2



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
THCS
GV
HS

Trung học cơ sơ
Giáo viên
Học sinh

A. MỞ ĐẦU
3


1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát
triển. Mặt khác, Hồ Chí Minh đã từng dạy chúng ta: “ Vì lợi ích mười năm trồng
cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người”, hơn ai hết những người làm giáo dục
cần hiểu sâu sắc rằng, trường học chính là môi trường tốt nhất để giáo dục thế hệ
trẻ thành những công dân tốt cho xã hội. Trường học chính là điểm tựa để chúng ta
cần nổ lực phấn đấu để góp phần nhỏ của mình trong sự nghiệp chung của toàn xã
hội.
Trong mỗi một cuộc đời của chúng ta từ lúc nhỏ đến lúc lớn ai cũng trải qua
một quá trình học hỏi và rèn luyện ơ trường THCS, đó là là một trong ba cấp học
rất quan trọng trong nền giáo dục quốc dân, nó có phần nâng cao mặt bằng dân trí
cho toàn xã hội.
Bơi vậy, việc học ơ nhà trường luôn luôn được chú ý đúng mức, việc nghiên
cứu cải tiến, việc tìm tòi các phương pháp dạy học là việc thường xuyên đòi hòi
mỗi thầy cô giáo phải làm giàu vốn kiến thức của mình.
Như chúng ta đã biết, lứa tuổi học sinh THCS là lứa tuổi chuyển tiếp từ tuổi

thơ sang tuổi trương thành, là thời kì khó bảo, quá độ hay bất trị, khủng hoảng. lúc
này các em thấy được sự phát triển của trí tuệ, sự biến đổi về mặt giải phẩu sinh lí.
Khi còn nhỏ, thái độ của trẻ đối với môn học phụ thuộc vào thái độ của các em đối
với giáo viên và điểm số nhận được. Trẻ nhỏ thích cái dễ hiểu và có kết quả nhưng
dần thì những nội dung đòi hòi tính tích cực của trí tuệ, đòi hỏi hoạt động độc lập
và mơ rộng tầm hiểu biết sẻ hấp dẫn thiếu niên hơn. Thái độ của các em đối với
môn học cũng được phân hoá (Có môn “hay”, môn “không hay”, có môn “ cần
thiết”, có môn” không cần thiết”).
Từ những đặc điểm đó, giáo viên cần phát huy nhu cầu học tập, gây hứng
thú học tập của học sinh. Để thực hiện vấn đề này đòi hỏi giáo viên phải có nhiều
năng lực sư phạm: năng lực hiểu học sinh, năng lực chế biến tài liệu học tập, năng
lực ngôn ngữ…điều đó được khẳng định: Trong hệ thống công tác dạy học, người
giáo viên phải áp dụng nhiều phương pháp dạy học hiệu nghiệm nhất để tổ chức
việc học tập của học sinh nhằm kích thích và phát triển ơ học sinh tính tích cực
nhận thức.
Hiện nay hiện tượng lấy học sinh làm trung tâm cho việc dạy học ngày càng
càng được phát triển bơi nó có nhiều ưu điểm. Phương pháp dạy học này đã trơ
thành phương pháp chủ thể của quá trình nhận thức chủ thể của hoạt động học tập,
còn người giáo viên đóng vai trò chủ thể của quá trình dạy học, tức là sự tác động
sư phạm lên học sinh và hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học.
Trong quá trình dạy học, giáo viên là người hướng dẫn tổ chức, điều khiển
hoạt động của học sinh còn người học sinh luôn phải tìm tòi học hỏi để đem lại
kiến thức cũng như mang lại kết quả cao trong quá trình học. Vì vậy muốn học
sinh đạt kết quả cao, trước hết giáo viên là người kích thích được sự hứng thú của
học sinh để học sinh hiểu được và biết được tầm quan trọng của học tập.
Hiện nay các môn học ơ trường học rất được coi trọng vì nó góp phần gìn
giữ được tinh hoa của dân tộc và giá trị nhân văn của cha ông bao đời nay đã gây
dựng nên và quá trình học tập tôi cảm thấy rằng hứng thú trong khi học cũng là
4



một quá trình quan trọng bơi trong quá trình học tập mỗi một con người muốn đạt
kết quả tốt thì phải có hứng thú học với môn học nào đó. Ví dụ: Học sinh A có
hứng thú học môn Toán thì em đó luôn luôn tìm tòi và làm sao cho mình đạt kết
quả cao trong học tập.
Trong xã hội hiện nay, yêu cầu đối với những học sinh là luôn luôn có hứng
thú trong khi học. Yêu cầu này không nằm ngoài mục đích phát huy tích cực hoạt
động nhận thức của học sinh. Lòng khao khát hiểu biết, tích cực cao trong hoạt
động nhận thức và kĩ năng tự học, rèn luyện bản thân là những đức tính cần được
phát triển và giáo dục cho học sinh ngay trên ghế nhà trường.
Một trong những đặc điểm cơ bản của thời đại ngày nay là cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ đang phát triển như vũ bảo đã dẫn đến sự bùng nổ thông tin.
Tình hình đó đò hỏi phải không ngừng đổi mới, hiện đại hoá nội dung dạy học để
phản ánh những thành tựu về các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hôi nhân văn, nhằm cung cấp cho học sinh những khối lượng kiến thức cập nhật đẻ họ
có thể thích nghi với cuộc sống và cơ sơ để tiếp tục học tập.
Vì lẽ đó quá trình dạy học ơ các bậc học đang tồn tại mẫu thuẫn giữa 1 bên
là khối lượng tri thức đã được đổi mới tăng lên, phức tạp hoá với một bên là thời
gian học tập không thể tăng lên được. Để giải quyết mâu thuẫn đó phải đổi mới
phương pháp theo hướng tích cực hoá hoạt động nhận thức của người học. Bản
chất của hướng đó là khơi dậy và phát huy năng lực tìm tòi độc lập, sáng tạo của
người học thông qua việc tạo điều kiện cho họ phát hiện và giải quyết vấn đề, nhờ
vậy học sinh nắm vững tri thức và học được cách học.
Với cách học như vậy, vị thế của người giáo viên trong quá trình dạy học
hiện nay ơ trường phổ thông trung học cơ sơ: “ Trước hết không phải là nguời cung
cấp thông tin mà là người hướng dẫn đắc lực cho học sinh tự mình học tập. Họ
nhường việc cung cấp tri thức cho sách vơ, tài liệu và cuộc sống, để thay vào đó,
họ phải đóng vai trò người hỗ trợ cho kinh nghiệm học tập của bản thân học sinh”.
Song bất cứ ơ đâu, người giáo viên phải luôn xây dựng được hứng thú cho
học tập của các em, bơi thế giáo viên cần lựa chọn phương pháp dạy học như thế
nào để kích thích được sự hứng thú đọc đẻ các em phát huy được khả năng học

tâph của mình. Phù hợp với trình độ nhận thức của từng học sinh.
Trong quá trình dạy học, giáo viên là người hướng dẫn tổ chức hoạt động
nhận thức của người học và người đóng vai trò tự giác, tích cực, chủ động phối hợp
với sự tác động của người giáo viên bằng cách tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động
nhận thức của mình, nhằm đạt được nhiệm vụ dạy học.
Vì vậy muốn học sinh đạt được kết quả cao trước hết giáo viên là người kích
thích được hứng thú của học sinh để biết được và hiểu được tầm quan trọng của
học tập, để các luôn tự phấn đấu để đạt được kết quả cao trong các môn học.
Trong trường phổ thông nói chung, trường trung học cơ sơ nói riêng, Môn
Toán là môn học đầy thú vị và rất hay nếu chúng ta biết tận dụng, biết phương
pháp học sẽ rất dễ và giúp ích cho học sinh (HS) và rất cần thiết trong cuộc sống.
Thật vậy, do tính chất trừu tượng, khái quát cao, sự suy luận lôgic chặt chẽ, toán
học có khả năng hình thành ơ người học óc trừu tượng, năng lực tư duy lôgic chính
xác. Việc tìm kiếm cách chứng minh một định lý, tìm lời giải hay cho một bài
toán...có tác dụng trong việc rèn luyện cho HS các phương pháp tư duy khoa học
5


trong học tập, trong việc giải quyết các vấn đề, biết cách quan sát, phân tích, tổng
hợp, so sánh, dự đoán, suy luận, chứng minh...qua đó rèn luyện cho HS trí thông
minh sáng tạo. Không những thế, môn Toán còn góp phần tích cực vào việc giáo
dục cho các em những phẩm chất đáng quí trong học tập, lao động và cuộc sống,
như: tính kỷ luật, tính kiên trì, tính chính xác, biết cảm thụ cái đẹp trong những
ứng dụng phong phú của toán học, tìm ra cái đẹp của những lời giải hay,... Khi
nhận ra điều này, HS ngày càng yêu thích, say mê môn Toán hơn, tích cực học tập,
ứng dụng nó, từ đó mà chất lượng học toán ngày càng cao hơn. Ngược lại môn
Toán làm cho hs sợ trơ nên chán ngán, lo sợ, thiếu tự tin gây ức chế trong giờ học
Toán và càng ngày khó học các môn học khác. Trong chương trính toán lớp 7 , tuy
mức độ hơi khó nhưng kiến thức kỹ năng có tính cơ bản mơ đầu, nếu hs học kém
Toán sẽ hạn chế trong năm học tiếp theo. Cho nên đối với cấp học, bậc học hay

môn học nào cũng có mặt mạnh, yếu của nó và điều có hs khá giỏi, trung bình yếu,
kém nhưng với hs khá giỏi thì các em tiếp thu được vốn tri thức được nhanh hơn so
với hs yếu kém. Vì vậy trong môn Toán việc hs giỏi hay khá còn phụ thuộc rất
nhiều vào cách truyền đạt kiến thức và hứng thú của học sinh với môn học, khả
năng tiếp nhận kiến thức của mỗi học sinh hay do nhiều nguyên nhân khác nhau.
Vì vậy hứng thú càng trơ nên quan trọng trong việc học tập môn Toán ơ
trường THCS. Chỉ khi có hứng thú thật sự đối với việc học tập môn Toán HS mới
thấy được sự hấp dẫn của nội dung tri thức toán học, cũng như những phương pháp
khám phá ra nội dung đó. Đồng thời các em cũng cảm nhận được vai trò của toán
học đối với đời sống và các ngành khoa học khác.
Trong những năm gần đây, hứng thú học môn Toán của HS ơ trường THCS
Tân Phong nói riêng và nhiều trường THCS nhìn chung vẫn còn bị hạn chế, không
ít em sợ toán, coi việc học toán là một công việc nặng nhọc, căng thẳng,... Nguyên
nhân dẫn đến hiện trạng trên có thể do các em chưa thật sự nhận biết tầm quan
trọng và ý nghĩa của việc học toán, chưa được kích thích hành động tích cực, sáng
tạo trong quá trình giải toán...; cũng có thể do nội dung môn Toán khô khan,
phương pháp dạy của GV chưa thật sự hấp dẫn,...
Mặt khác, trên thực tế những nghiên cứu hình thành hứng thú học toán cho
HS THCS ơ Việt Nam còn chưa được nghiên cứu mang tính hệ thống.
Để nghiên cứu rõ hơn về vấn đề này tôi đã chọn và nghiên cứu “Biện pháp
phát triển hứng thú học tập môn Toán cho học sinh lớp 7A1 trường THCS Tân
Phong” thông qua việc tìm hiểu và dự giờ, khảo sát và tiến hành giảng dạy lớp 7A1
ơ trường THCS Tân Phong thành phố Lai Châu.
2.Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu thực trạng hứng thú học tập và đề xuất một số biện pháp nhằm phát
triển hứng thú học tập môn Toán cho học sinh lớp 7A1 trường THCS Tân Phong
thành phố Lai Châu.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1.Khách thể
Học sinh lớp 7A1 trường THCS Tân Phong thành phố Lai Châu.

3.2.Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp phát triển hứng thú học tập môn Toán cho học sinh lớp 7A1
trường THCS Tân Phong.
6


4.Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Biện pháp phát triển hứng thú học tập môn Toán cho 35 học sinh lớp 7A1
trường THCS Tân Phong thành phố Lai Châu ( Trong đó: 16 học sinh Nam, 19 học
sinh Nữ).
5.Giả thuyết khoa học
Tôi giả định rằng một số học sinh trong lớp 7A1 trường THCS Tân Phong
thành phố Lai Châu chưa có hứng thú khi học tập môn Toán. Nếu có nhiều biện
pháp tác động hợp lý sẽ giúp phát triển hứng thú học tập môn Toán cho học sinh.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu lý luận về: hứng thú, vai trò của hứng thú,môn Toán, tâm
sinh lý học sinh THCS, hứng thú học tập môn Toán của học sinh THCS.
6.2.Tìm hiểu thực trạng hứng thú của học sinh lớp 7A1 trường THCS Tân
Phong đối với bộ môn toán.
6.3. Đề xuất một vài biện pháp để phát triển hứng thú học tập môn Toán cho
học sinh.
7. Phương pháp nghiên cứu:
7.1.Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Phương pháp phân tích, tổng hợp tài
liệu.
7.1.Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp quan sát,phương pháp
phỏng vấn, phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động giáo dục, phương pháp
điều tra bằng phiếu hỏi Anket.
7.3.Phương pháp thống kê toán học: Phương pháp tính tỉ lệ %.

B.NỘI DUNG BÀI TẬP

Chương I : Cơ sở lí luận và thực tiễn
1.1.Cơ sở lí luận
1.1.1. Tổng quan về hứng thú của học sinh
1.1.1.1. Nghiên cứu hứng thú ở nước ngoài
Trên thế giới đã có một số nhà khoa học nghiên cứu về hứng thú. Các công
trình nghiên cứu đã đi theo các hướng sau: lý luận chung, đại cương về hứng thú;
hứng thú nhận thức; hứng thú học tập các môn học của HS; các con đường,
phương pháp nghiên cứu hứng thú, tác động đến hình thành phát triển hứng thú...
của các nhà tâm lý học: X. L. Rubinstein, Ch. Buhler, G. I. Sukina, N. G.
Marôzôva, K. Đ. Usinxky, Linnell, Charles, I. K.Strong, D. Super, Michael
Atiyah...
1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu hứng thú ở Việt Nam
Ở Việt Nam cũng đã có một số công trình nghiên cứu về hứng thú, theo một
số hướng sau: lý luận chung về hứng thú, hứng thú nghề nghiệp, hứng thú các
môn học ơ HS phổ thông...của các tác giả: Đức Minh, Phạm Cốc, Phạm Minh Hạc,
Trần Trọng Thủy, Nguyễn Quang Uẩn, Phạm Tất Dong, Nguyễn Thanh Bình, Lê
Ngọc Lan, Phạm Huy Thụ, Vũ Thị Nho, Trần Thị Thanh Hương, Đào Thị
Oanh,...Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu có hệ thống về hứng thú của HS
THCS còn ít đặc biệt chưa có ai tìm hiểu về biện pháp phát triển hứng thú cho HS
7


THCS Tân Phong Lai Châu. Chưa có công trình nào nghiên cứu sâu về đặc điểm
hứng thú học môn Toán và biện pháp phát triển loại hứng thú này.
Chính vì thế, tôi đã chọn đề tài: “Biện pháp phát triển hứng thú học tập
môn Toán cho học sinh lớp 7A1 trường THCS Tân Phong “.
1.1.2.Một số lí luận về hứng thú và hứng thú trong học tập môn Toán của
HS THCS
1.1.2.1.Một số lí luận về hứng thú
1.1.2.1.1.Khái niệm

Hứng thú là thái độ lựa chọn đặc biệt của cá nhân đối với một đối tượng
nào đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng mang lại xúc cảm cho
cá nhân trong quá trình hoạt động
Có rất nhiều định nghĩa về hứng thú : Theo I.F.Khalamp trong sách “ Phát
huy tính tích cực của học sinh như thế nào”(Nhà xuất bản GD năm 1978) thì hứng
thú: đó là nhu cầu nhuộm màu sắc xúc cảm đi trước giai đoạn gây động cơ và làm
cho hoạt động của mỗi con người có tính cách hấp dẫn.
Còn đối cới sách tâm lí học đại cương (Nhà xuất bản GD – 1999) thì hứng thú
là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào đó vừa có ý nghĩa đối với
cuộc sống vừa có khả năng mang lại khoái cảm cho cá nhân trong quá trình hoạt
động.
1.1.2.1.2. Cấu trúc của hứng thú
Theo N. G. Marôzôva có ít nhất 3 yếu tố:
* Có xúc cảm đúng đắn đối với hoạt động;
* Có khía cạnh nhận thức của xúc cảm này;
* Có động cơ trực tiếp xuất phát từ bản thân hoạt động.
Tôi lựa chọn định nghĩa: "Hứng thú là thái độ lựa chọn đặc biệt của cá nhân
đối với đối tượng nào đó, do sự hấp dẫn và ý nghĩa của nó đối với bản thân" làm cơ
sơ lý luận cho đề tài.
1.1.2.1.3. Phân loại hứng thú
Căn cứ vào một số dấu hiệu khác nhau, người ta có thể chia hứng thú ra
làm nhiều loại: hứng thú vật chất, hứng thú nhận thức; hứng thú trực tiếp, hứng thú
gián tiếp; hứng thú tích cực, hứng thú thụ động, . . .
1.1.2.1.4. Vai trò của hứng thú
Hoạt động nhận thức bao gồm nhiều quá trình phản ánh hiện thực khách
quan ơ những mức độ khác nhau : Cảm giác, tri thức, tư duy, tương tượng. Hoạt
động nhận thức có thể chia làm hai giai đoạn: Nhận thức cảm tính và nhận thức lí
tính.Trong hoạt động nhận thức của con người hai giai đoạn này có tác động chặt
chẽ và tác động lẫn nhau. I.V.Lê nin đã tổng kết quy luật đó của hoạt động nhận
thức nói chung như sau: “ Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, tư tư duy

trừu tượng đến thực tiễn, đó là con đường biện chứng minh con đường chân lý,
nhận thức hiện thực khách quan”.
Trong hoạt động nhận thức hứng thú có vai trò quan trọng như một hình ảnh
tác động trực tiếp vào giác quan ta thì ngay lập tức ta cảm nhận được hình ảnh đó
như thế nào? Tính nhạy cảm của cảm giác đã giúp con người nhận thức ngay. Sự
tương phản chính là hiện tượng tác động qua lại giữa cảm giác đã làm cho nhanh
8


chóng nhận ra hình ảnh đó mình đã xem khi nào rồi hay là mới xem lần đầu. Tri
thức giúp ta nhớ lại nếu có hứng thú và nhớ kỹ hơn.
Khi hoạt động nhận thức của học sinh dựa trên cơ sơ của sự hứng thú, các
em trơ nên hào hứng, tập trung chú ý cao độ về bài học, say mê tìm tòi một cách
thoải mái và dễ dàng, khi đó học sinh không cần có sự động viên bên ngoài đối với
học tập mà các em làm việc với say mê bên trong nguyện vọng của bản thân.
Một điều nữa đó là cơ sơ của hứng thú và nhu cầu sẽ thành động cơ học tập.
Nếu hứng thú là nhu cầu mang màu sắc xúc cảm thì động cơ học tập là thái độ chủ
quan của học sinh đối với học tập mà là cơ sơ có nục đích học tập được các em tự
giác xác định.
Hứng thú còn tham gia tích cực vào hoạt động trí nhớ, làm cho việc ghi nhớ,
giữ gìn và nhớ lại nhanh hơn, chính xác hơn.
1.1.2.2. Một số lí luận về hứng thú trong học tập
1.1.2.2.1. Hứng thú nhận thức và hứng thú học tập
Hứng thú nhận thức rộng hơn hứng thú học tập, hứng thú nhận thức có trước
khi trẻ đi học, là nhu cầu tự nhiên, tất yếu của con người. Hứng thú nhận thức có
nội dung đối tượng rộng hơn, phong phú hơn so với hứng thú học tập. Hứng thú
học tập là trường hợp riêng của hứng thú nhận thức. Hứng thú học tập của HS là
loại hứng thú hướng vào chính bản thân của quá trình học tập, say mê chiếm lĩnh
đối tượng (các môn học) dưới sự hướng dẫn của các nhà sư phạm.
Tôi cho rằng: Hứng thú học tập chính là thái độ lựa chọn đặc biệt của chủ

thể đối với đối tượng của hoạt động học tập, vì sự cuốn hút về mặt xúc cảm và ý
nghĩa thiết thực của nó trong quá trình nhận thức và trong đời sống của cá nhân.
1.1.2.2.2. Phân loại hứng thú học tập
Có thể có nhiều cách phân loại, tác giả theo quan điểm của N. G. Marôzôva
phân hứng thú học tập ra làm 2 loại:
a. Hứng thú gián tiếp trong hoạt động học tập: HS chủ yếu bị hấp dẫn bơi
những yếu tố bên ngoài đối tượng học tập.
b. Hứng thú trực tiếp trong hoạt động học tập: HS bị hấp dẫn bơi chính đối
tượng học tập.
1.1.2.2.3. Sự hình thành và phát triển hứng thú học tập
- Giai đoạn 1: Thái độ nhận thức có xúc cảm đối với hiện tượng, được xuất
hiện dưới dạng rung động định kỳ.
- Giai đoạn 2: Những rung động định kỳ được lặp đi lặp lại nhiều lần và
được khái quát trơ thành thái độ nhận thức có xúc cảm tích cực với đối tượng.
- Giai đoạn 3: Nếu thái độ tích cực đó được duy trì củng cố, khả năng tìm
tòi độc lập ơ các em thường xuyên được khơi dậy thì hứng thú có thể trơ thành xu
hướng cá nhân.
1.1.2.2.4. Những điều kiện hình thành và phát triển hứng thú học tập
Bao gồm: Hình thức hấp dẫn của việc truyền đạt tri thức trong quá trình học
tập; nhận thức được tầm quan trọng của môn học; cách tổ chức việc học tập và sinh
hoạt cho người học; đề ra cho người học những nhiệm vụ học tập; nhân cách của
người GV; nội dung tài liệu học tập, . . .
1.1.2.3.Một số lí luận về hứng thú học tập môn Toán của HS THCS
1.1.2.3.1.Đặc điểm và vai trò của môn Toán
9


Trong trường tiểu học, môn Toán có vị trí đặc biệt quan trọng, có khả năng
to lớn giúp HS phát triển được các năng lực và phẩm chất trí tuệ. Toán học được
xem là môn học “công cụ” trong nhà trường.

Môn Toán có vị trí hết sức quan trọng và cần thiết.
- Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ơ THCS có nhiều ứng dụng trong đời
sống; chúng rất cần thiết cho người lao động, rất cần thiết để học tốt các môn học
khác và chuẩn bị cho việc học tốt môn Toán ơ bậc cao hơn.
- Môn toán giúp HS nhận biết những mối quan hệ về số lượng và hình dạng
không gian của thế giới hiện thực.Đối tượng nghiên cứu của toán học với quan hệ
về số lượng và hình dạng là thế giới của hiện thực.
- Môn Toán góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy
nghĩ, giải quyết vấn đề, góp phần phát triển trí thông minh. Những thao tác tư duy
có thể rèn luyện cho HS qua môn Toán bao gồm phân tích tổng hợp, so sánh, tương
tự, khái quát hóa, trừu tượng hóa, cụ thể hoá, đặc biệt hóa. Các phẩm chất trí tuệ
có thể rèn luyện cho HS bao gồm :tính độc lập, tính linh hoạt, tính nhuần nhuyễn,
tính sáng tạo.
1.1.2.3.2.Tâm sinh lý học sinh THCS
Học tập là hoạt động chủ đạo của học sinh, nhưng vào tuổi thiếu niên, việc
học tập của các em có những thay đổi cơ bản.
Việc học tập ơ trường THCS là một bước ngoặc quan trọng trong đời sống
của trẻ. Ở các lớp dưới, trẻ học tập các hệ thống các sự kiện và hiện tượng, hiểu
những mối quan hệ cụ thể và đơn giản giữa các sự kiện và hiện tượng đó. Ở trường
THCS, việc học tập của các em phức tạp hơn một cách đáng kể. Các em chuyển
sang nghiên cứu có hệ thống những có sơ của các khoa học, các em học tập có
phân môn… Mỗi môn học gồm những khái niệm, những quy luật được sắp xếp
thành một hệ thống tương đối sâu sắc. Điều đó đòi hỏi các em phải tự giác và độc
lập cao.
Quan hệ giữa giáo viên và học sinh cũng khác trước. Các em được học với
nhiều giáo viên. Các giáo viên có cách dạy và yêu cầu khác nhau đối với học sinh,
có trình độ nghề nghiệp và phẩm chất, uy tín khác nhau. Quan hệ giữa giáo viên và
học sinh “xa cách” hơn so với bậc tiểu học. Sự thay đổi này tạo ra những khó khăn
nhất định cho các em nhưng nó cũng tạo điều kiện cho các em phát triển dần
phương thức nhận thức người khác.

Thái độ tự giác đối với học tập ơ tuổi thiếu niên cũng tăng lên rõ rệt. Ở học
sinh tiểu học, thái độ đối với môn học phụ thuộc vào thái độ của các em đối với
giáo viên và điểm số nhận được. Nhưng ơ tuổi thiếu niên, thái độ đối với môn học
do nội dung môn học và sự đòi hỏi phải mơ rộng tầm hiểu biết chi phối. Thái độ
đối với môn học đã được phân hóa (môn “hay”, môn “không hay” … )
Ở đa số thiếu niên, nội dung khái niệm “học tập” đã được mơ rộng ; ơ nhiều
em đã có yếu tố tự học, có hứng thú bền vững đối với môn học, say mê học tập.
Tuy nhiên, tính tò mò, ham hiểu biết nhiều có thể khiến hứng thú của thiếu niên bị
phân tán và không bền vững và có thể hình thành thái độ dễ dãi, không nghiêm túc
đối với các lĩnh vực khác trong cuộc sống.
Trong giáo dục, giáo viên cần thấy được mức độ phát triển cụ thể ơ mỗi em
để kịp thời động viên, hướng dẫn thiếu niên khắc phục những khó khăn trong học
10


tập và hình thành nhân cách một cách tốt nhất. Mặt khác, cần chú ý tới tài liệu học
tập : Tài liệu học tập phải súc tích về nội dung khoa học, phải găn với cuộc sống
của các em, làm cho các em hiểu rõ ý nghĩa của tài liệu học, phải gợi cảm, gây cho
học sinh hứng thú học tập và phải trình bày tài liệu, phải gợi cho học sinh có nhu
cầu tìm hiểu tài liệu đó, phải giúp đỡ các em biết cách học, có phương pháp học tập
phù hợp.
1.1.2.3.3.Hứng thú học tập môn Toán của học sinh THCS
Hứng thú là biểu hiện của sự chú ý tập trung cao độ, ơ sự say mê hấp dẫn nội
dung hoạt động ơ bề rộng và chiều sâu hứng thú.
Hứng thú học môn Toán là thái độ lựa chọn đặc biệt của HS đối với việc lĩnh
hội và vận dụng những tri thức toán học trong quá trình học tập cũng như trong
cuộc sống, do sự hấp dẫn và ý nghĩa thiết thực của môn Toán đối với bản thân.
Khi ta nói một học sinh có hứng thú đối với môn Toán là chúng ta thừa nhận
em học sinh này đã có ý thức và hiểu rõ ý nghĩa môn Toán đối với bản thân mình
đồng thời em học sinh cũng có tình cảm đặc biệt đối với môn Toán và trên thực tế,

một học sinh có hứng thú đối với môn học nào đó thì em này sẽ say sưa trong học
tập và đạt kết quả cao trong học tập.
Hứng thú mỗi học sinh mỗi khác, có em hứng thú với nhiều môn học (hứng
thú rộng) nhưng không lâu bền, nhưng bên cạnh đó có một số em không có hứng
thú với một môn học nào cả.
Toán học là một môn học vô cùng quan trọng và cần thiết. Vì vậy vấn đề dạy
học môn toán cũng như việc rèn luyện các kĩ năng về môn toán cho học sinh THCS
từ trước đến nay đã có nhiều nhà sư phạm quan tâm. Bên cạnh đó hứng thú học tập
môn toán của học sinh là vô cùng quan trọng. Nó có tác dụng quyết định đến chất
lượng học tập của học sinh. Vì vậy giáo viên nên có nhiều phương pháp dạy học để
gây hứng thú học tập cho học sinh.
1.1.2.3.4.Một vài nét về học sinh lớp 7A1 THCS Tân Phong
Lớp có sĩ số là 35, Nam:16, Nữ:19. Thành phần gia đình:Phần lớn gia đình
nằm trên địa bàn phường Tân Phong. Điều kiện gia đình kinh tế khá giả có duy
nhất một em có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Mức độ nhận thức của học sinh trong
lớp tương đối đồng đều. Đoàn kết giúp đỡ nhau trong học tập, có độ tuổi đồng đều,
gia đình học sinh quan tâm đến việc học tập của con em mình.
1.2.Cơ sơ thực tiễn
Nhận thức rõ tầm quan trọng của bộ môn Toán, ơ cấp THCS các em cần có
kiến thức vững chắc để làm nền tảng cho sự phát triển của con đường học vấn. Tức
là đủ điều kiện để học lên lớp trên. Từ khi được phân công thực tập dạy lớp 7A1
môn Toán, tôi đã lên kế hoạch để tìm hiểu thực trạng hứng thú của học sinh đối với
môn Toán.
Qua quá trình dự giờ, tìm hiểu thực tế, tôi thấy thực trạng hứng thú của học
sinh đối với môn Toán
Đa số các em thích học môn Toán.
Ở môn toán các em chuẩn bị bài rất tốt trước khi đến lớp. Nhiều em tích cực
tham gia phát biểu ý kiến như: Trần Quang Khải, Trịnh Hải Nam, Hoàng Quang
Minh, Lê Thị Phương Anh,...
11



Phỏng vấn các em học sinh: Để biết được tại sao các em thích môn Toán và
biết được tại sao các em thích học môn Toán. Vì nó gây cho các em sự hứng thú
trong học tập, đưa các em tới những cái tìm tòi sáng tạo. Còn những em không
thích học môn Toán vì Toán khó, khô khan và không gắn liền với thực tế.
Phỏng vấn giáo viên: Để biết được vì sao trong giờ học của thầy, các em học
sinh rất hăng say phát biểu, thầy đã sử dụng phương pháp gì? Giáo viên cho biết
muốn gây hứng thú học cho các em, trước hết chúng ta cần đưa các em từ cái dễ
đến cái khó và cho học sinh thích thú khi phải khám phá, qua những cái hay cái kì
bí trong môn Toán cũng như hứng thú trong khi học. Ngoài ra còn phải kết hợp
giữa chơi và học, tổ chức trò chơi kết hợp với bài tập.
Phương pháp đàm thoại: Để tìm hiếu và hướng dẫn các em đi đến cái đã biết
cái chưa biết, để tìm ra cái hay, cái đúng và biết sữa chữa những cái sai sót.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm: Qua việc nghiên cứu học bạ và kết quả
học tập môn Toán của các em trong lớp tôi đã nhận thấy rằng: Mức độ học tập môn
Toán của từng học sinh có phần khác nhau.
Qua việc phát phiếu điều tra Anket hứng thú học tập môn Toán: Tôi thấy đa
số học sinh thích học môn Toán trong đó số học sinh nam nhiều hơn học sinh nữ.
Tôi nói chuyện với một số học sinh nam có điểm tổng kết cao được các em trả lời:“
chúng em thích học toán vì nó gắn liền với thực tế và là môn chúng em phải thi sau
này. Cô giáo giảng bài rất dễ hiểu “Em Trần Quang Khải nói “em thích môn Toán
vì môn Toán học rất thú vị, dễ học, dễ thuộc, áp dụng được vào nhiều môn khác“.
Trong khi đó, một trong những em không thích môn Toán em Lê Hoàng
Diệu Linh nói “Em không thích học môn Toán vì nó khó và phải sử dụng đầu óc
rất nhiều“.
Từ đó cho ta thấy cách học của mỗi đối tượng mỗi khác, tuy thời gian học
như nhau nhưng đối với học sinh giỏi có sự nhận thức cao hơn học sinh khá.
Vì vậy qua việc quan sát phỏng vấn, nghiên cứu sản phẩm, tôi thấy rằng đa
số các em có hứng thú trong học tập môn toán nhưng cũng có một số em chưa

thích. Cho nên giáo viên cần phải quan tâm và hướng dẫn các em hứng thú học với
môn Toán để các em hăng say trong học tập.
1.3.Những mâu thuẫn giữa lí luận và thực tiễn
Hứng thú giúp con người mang lại kết quả cao, chính xác và phong phú
trong hoạt động nhận thức, trong hoạt động học tập. Hứng thú có vai trò quan
trọng, có nhiều lúc học sinh không muốn và không thể nắm bài trên lớp vì bài
trình bày quá khô khan và không hấp dẫn.
Hứng thú thể hiện thái độ có lựa chọn đối với sự vật hoặc hoạt động học sinh
bao giờ cũng ham chuộng những cái mình thích hơn. Cho nên hứng thú là một điều
kiện quan trọng nhất không những đối với chú ý không chủ định mà cả chú ý có
chủ định.
Một điều quan trọng để thu hút và hứng thú thì phải làm sao cho học sinh có
cảm giác hài lòng với cái cần giảng hứng thú. Hứng thú là làm nâng cao tình hình
của học sinh làm cho các em tiếp thu học tập hơn trong một lĩnh vực nào đó, và
muốn có nhiều kiến thức hơn. Phần lớn cường độ và tính chất nghiêm túc của hứng
thú thể hiện ơ chổ học sinh thiết tha mong muốn nắm vững môn học nhiều hay ít, ơ
chỗ học sinh gắng sức làm việc .
12


Tuy nhiên thực tiễn cho thấy giáo viên và học sinh đôi khi còn chưa nhận
thức rõ tầm quan trọng của việc phát triển hứng thú trong học tập môn Toán dẫn
đến tình trạng vẫn còn một vài học sinh chán nản không có hứng thú với môn
Toán.
Qua quá trình giảng dạy tại lớp 7A1 tôi cảm thấy rằng các em rất yêu thích
môn Toán và có hứng thú trong giờ học này. Bơi vì các em yêu thích tìm tòi, phấn
đấu đạt kết quả cao. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn có những em không yêu thích
môn Toán.Nguyên nhân do:
* Về phía giáo viên:
-Do hoàn cảnh gia đình, Giáo viên chưa biết lựa chọn, phối hợp các phương

pháp dạy học phù hợp nội dung bài và trình độ của học sinh .
- Chưa có các câu hỏi hay, hấp dẫn gây hứng thú học tập cho học sinh .
- Trong giờ dạy giáo viên chưa chú trọng đến từng đối tượng học sinh .
- Giáo viên chưa khuyến khích học sinh hỏi thầy hỏi bạn. Giáo viên ít đưa ra
các bài tập nâng cao nên ít phát huy được tính năng động của học sinh.
- Trong từng tiết học giáo viên ít tổ chức cho các em thảo luận theo tổ để tìm
ra cách giải quyết.
- Giáo viên chưa tạo ra không khí học tập sinh động, hấp dẫn.
*Về phía học sinh:(Ở một vài em)
- Các em chưa có sự chuẩn bị bài mới ơ nhà .
- Ít đọ c thêm tài liệu liên quan đến nội dung bài học.
- Các em nhút nhát chưa mạnh dạn hỏi thấy hỏi bạn.
- Thời gian dành cho môn học ơ nhà quá ít.
- Các em ngồi học không chú ý, ít phát biểu xây dựng bài trên lớp.

Chương II:Đề xuất một số biện pháp
2.1.Các biện pháp để giải quyết
Trên cơ sơ trên thì có một số biện pháp như sau:
Để một tiết dạy học môn Toán dạt kết quả cao thì khâu chuẩn bị là rất quan
trọng. Giáo viên trước khi lên lớp phải soạn giảng cẩn thận, chuẩn bị những đồ
dùng dạy học có liên quan. Những vấn đề liên quan đến bài học phải được giáo
viên xem lại, suy nghĩ cách trình bày như thế nào cho hợp lí.
Học sinh phải học bài và làm bài bài tập đầy đủ, ôn tập những kiến thức có
liên quan đến bài mới.
Giáo viên nên đầu tư nhiều thời gian cho mỗi bài dạy. Để xây dựng một bài
dạy tốt thì ngoài ý kiến chủ quan của mình mỗi giáo viên nên học hỏi thêm kinh
nghiệm của các đồng nghiệp.
Khi tiến hành kiểm tra bài cũ thì giáo viên nên kiểm tra những kiến thức cũ có
liên quan áp dụng cho bài mới.
Giáo viên đặt vấn đề để dẫn học sinh đi vào kiến thức mới, dùng hệ thống câu

hỏi phương pháp gợi mơ qua đàm thoại để uốn nắn sai sót cho học sinh, cũng cố
kiến thức bằng bài tập nhỏ hoặc câu hỏi hướng dẫn học sinh độc lập làm việc ơ
nhà.
Dạy bất cứ khái niệm định lý nào cũng cần biết con đường hình thành khái
niệm định lý đó.
2.2.Cách thức thực hiện các biện pháp
13


Đối với HS kém Toán cần bồi dưỡng thêm kiến thức một cách có hệ thống, GV
cần quan tâm hướng dẫn thật sát đối với HS, tạo điều kiện cho các em có động lực
học tập đúng đắn, khuyến khích các em cố gắng học hiểu và vận dụng các nguyên
tắc vào bài tập một cách hợp lí và chính xác. Không để cho HS học mà không hiểu
(cũng như học thuộc lòng mà không vận dụng). GV cần hướng dẫn cách tự học, lí
thuyết và cách học như sau:
+ Về cách học: Cần phân chia thời gian một cách hợp lý giữa các môn học, mỗi
ngày học 3 đến 4 tiếng, mỗi tiếng nghĩ 15 phút thư giãn, đối với các bài tập khó,
bài tập làm thêm, thì cố gắng làm, giải cho xong, không được ngại và sợ, tạo sự
lười biếng…Như vậy các em khó mà học tốt được, gia đình cần nhắc nhơ và
khuyên nhủ các em cố gắng hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình.
+ Về cách học: Học phải hiểu chớ không học thuộc lòng, máy móc, chỉ hiểu
trên lớp còn về nhà thì đã quên mất, làm hạn chế suy nghĩ của HS, đọc đề mà
không hiểu, cũng như các em làm biếng suy nghĩ, nghĩ mà không hiểu, làm cho
việc học cứ thong thả, từ từ ai học thì cứ học, các em chỉ lo chơi , không tạo ra một
cách học tích cực, tự mình tìm hiểu các bài tập, tạo thói quen sợ, ngại, làm bài tập
khó vì theo ý nghĩ quá khó của các em nên các em không bao giờ vượt qua sự trơ
ngại.Cho nên GV và gia đình nên cần động viên HS cố gắng hết sức mình trong
quá trình học tập của mình.
Thời gian lên lớp là quá ít, cần có thời gian học môn toán như: Dạy thêm,dạy
kèm HS yếu, tăng lượng bài tập cho HS, Đối với HS giỏi thì bồi dưỡng nâng cao,

cho thêm các bài tập khó hơn để đáng giá khả năng học tâp của HS. Từ đó sẽ có
biện pháp bồi dưỡng từng HS trong lớp, dối với HS yếu GV cần:
+ Hướng dẫn bài tập một cách cận kẽ
+ Ra các bài tập cho HS yếu kém giải để cải thiện việc học tập của các em.
+ Cần phối hợp với gia đình và nhà trường cho gia đình và nhà trường quan
tâm hơn đến việc học hành của các em, cũng như kèm và nhắc nhơ làm bài tập,
hướng dẫn và chỉ bảo phát hiện kịp thời những kiến thức mà HS bị hỏng.
+ GV cần cho HS giỏi theo dõi hoặc kèm HS kém toán để các em có thể kiểm
tra lại mức độ kiến thức cũng như sự tiến bộ của HS, cần tạo đôi bạn thân thiện
cùng nhau học tâp để HS có sự tự tin trong việc học toán.
+ Lợi dụng 15 phút truy bài đầu giờ để kèm HS yếu, Gv cho bài tập lên bảng
gọi HS kém toán lên bảng làm bài, GV cần hướng dẫn tận tình nếu làm đúng thì
tuyên dương, làm sai thì động viên các em cố gắng lần sau.
+ Luôn động viên khuyến khích sự tiến bộ, cố gắng của HS cho dù là nhỏ
nhất.
+ Tạo sự thân thiện giữa GV và HS để các em có động cơ học tập đúng đắn.
+ GV luôn theo dõi và quan tâm nhiều đến HS để từng bước uốn nắn, hỗ trợ
kiến thức cho các em để các em tự tin trước bạn.
+ GV cần tổ chức các hình thức đa dạng như học nhóm, bồi dưỡng nhau học
tập để HS yếu có thể hòa nhập và tâp thể, tạo sự phấn đấu vươn lên.
GV cần bồi dưỡng động cơ tạo hứng thú trong quá trình học toán, vì động cơ
và hứng thú là rất quan trọng tùy thuộc vào mỗi GV có cách thức và phương pháp
khác nhau, nhưng dạy để đạt hiệu quả là tạo ra động lực trong học tập, để các em
có thể tiếp nhận kiến thức một cách tốt hơn và hiểu bài nhanh hơn.
14


GV cần tìm hiểu các nguyên nhân vì sao mà HS lại học kém toán, có phải bắt
nguồn từ gia đình, hay ý thức của các em chưa đúng, lười biếng, cẩu thả…hay còn
nhiều nguyên nhân khác nữa. Tùy thuộc các nguyên nhân mà cần có biện pháp

thích hợp đối với từng HS rồi mới bồi dưỡng HS được.
+Vì những nguyên nhân do hoàn cảnh: GV cần tìm hiểu gia đình, trau đổi với
gia đình về việc học tập của con em, nếu như gia đình càng không để ý quan tâm
thì với tư cách là GV chủ nhiệm thì cần chú ý nhiều hơn nữa đối với HS yếu kém,
vấn đề gia đình có rất nhiều khía cạnh nhưng ơ đây chỉ nêu lên một vấn đề nhỏ.
+ Vì chưa có ý thức học tập đúng đắn: Lứa tuổi các em còn lo ham chơi nhiều.
Vì vậy GV cần uốn nắn từ từ, đặt kỉ luật ngay từ đầu, dần dần sẽ tạo ra nề nếp học
tập tốt, trong lớp học thấy các bạn học giỏi nếu mình không cố gắng thì các bạn sẽ
chê cười, và thua về mặt thành tích.
+ Về lười biếng: Trị bệnh lười biếng bằng cách mỗi ngày giao 1 đến 2 bài tập
cho HS làm, GV nhớ kiểm tra và hướng dẫn cho HS, nếu Hs không hoàn thành thì
sẽ phạt, hoặc cho làm bài tập tăng gấp đôi, làm nhiều lần như vậy HS sẽ sợ mà phải
nghe theo lời của GV mà hoàn thành bài.
+ Về cẩu thả: HS tiểu học là có tính ẩu làm rồi chẳng xem lại bài đôi lúc làm
sai do tính không cẩn thận khi làm bài tập. Nếu HS cứ như vậy hoài thì GV nhắc
nhơ hoặc trừ điểm HS.
Việc GV phát hiện HS yếu kém hoặc không hiểu về những kiến thức nào thì
GV cần phải có phương pháp, hình thức sao cho việc dạy học đạt hiệu quả như
việc tính toán trực tiếp hướng dẫn, chẳng hạn như giải toán có lời văn HS không
tìm ra cách giải thì GV phải hướng dẫn từ từ. Đầu tiên là cho HS đọc đề va yêu
cầu HS xác định đề là đề bài đã cho ta cái gì? yêu cầu tính gì? Mà cái ta cần tính đã
có chưa?, nếu chưa có thì ta đi tìm và tiến hành tính, hướng dẫn từng bước cho HS
hiểu chớ không thiên về giải để HS tự phát hiện và tìm cách lí luận cho bài giải của
mình. Từ đó sẽ hình thành thói quen tự tìm hiểu đề, xác định đề của HS và tự mình
giải đề toán.

Chương III:Kết luận và kiến nghi
3.1.Kết luận
3.1.1. Kết quả nghiên cứu lý luận
Đã xác định hứng thú học môn Toán là thái độ lựa chọn đặc biệt của HS đối với

việc lĩnh hội và vận dụng những tri thức toán học trong quá trình học tập cũng như
trong cuộc sống, do sự hấp dẫn và ý nghĩa thiết thực của môn Toán đối với bản
thân. Hứng thú học môn Toán của HS THCS được biểu hiện ơ 3 thành tố: xúc cảm
tích cực của HS đối với môn Toán; sự nhận thức rõ ràng những nguyên nhân tạo
nên xúc cảm đó; biểu hiện hành động học tập môn Toán ơ trên lớp, ngoài lớp (hằng
ngày) của các em.
3.1.2. Kết quả nghiên cứu thực tiễn
Đặc điểm hứng thú học môn Toán ơ HS lớp 7A1 đã xác định được một số đặc
điểm hứng thú học môn Toán của HS như sau:
- Các em hứng thú học môn Toán cao hơn các môn học khác.
- Hứng thú học môn Toán của HS chủ yếu là hứng thú gián tiếp.
- Hứng thú học môn Toán ơ các em còn phân tán, chưa bền vững, chưa ổn
định, dễ nâng cao nhưng cũng dễ suy giảm bơi tác động khách quan.
15


- GV có ảnh hương to lớn đến hình thành, nâng cao hứng thú học môn Toán
của HS.
3.1.3. Từ nghiên cứu lý luận và phân tích thực trạng hứng thú
Đã xác định một số biện pháp tác động phát triển hứng thú học toán của HS
THCS là:
- Bồi dưỡng cho GV nhận thức rõ tầm quan trọng của hứng thú học tập và một
số PP, hình thức tổ chức dạy học tích cực, gây hứng thú.
- Áp dụng phương pháp, hình thức dạy học tích cực, GV tăng cường kiểm tra,
đánh giá theo hướng động viên, khuyến khích, nất là đối với HS yếu kém.
- Tổ chức HS học tập nhóm nhỏ theo quan điểm sư phạm tương tác.
Như chúng ta đã biết hứng thú trong học tập là một trong những hoạt động
không thể thiếu được trong nhà trường, hứng thú đóng một vai trò rất quan trọng,
qua một bài học các em có hứng thú học thì các em phát biểu xây dựng bài sôi nổi.
Hứng thú còn giúp các em học giỏi hơn và luôn tự tìm tòi, khám phá ra cái hay, cái

kì bí. Và qua đây giúp cho em hiểu rằng người giáo viên luôn trau dồi kiến thức,
luôn tự tìm tòi, khám phá và luôn hướng dẫn, dẫn dắt các em vào một thề giới
huyền diệu để từ đó các em say mê môn học, khi học mà học sinh say mê thì luôn
muốn tìm ra cái đích của nó .
Hứng thú đóng vai trò quan trọng trong nhà trường và đặc biệt là khối trung
học nói chung và các lớp nói riêng, nó có vai trò rất lớn nếu như học các em không
có hứng thú thì sẽ gây cho các em sự lười biếng là không bao giờ tự vận động, tìm
tòi ý thức được môn học, còn có nhiều em hứng thú học thì các em luôn tự tìm tòi
khám phá ra cái đích thực của nó .
Biện pháp phát triển hứng thú học tập của các em ơ trường THCS nói chung
và đối với môn Toán ơ lớp 7A1 nói riêng là vấn đề rất được quan tâm. Khi có hứng
thú thì các em say mê nghiên cứu để tìm tòi, đào sâu kiến từ đó và nâng cao được
sự hiểu biết của bản thân. Bơi vậy hứng thú góp phần thúc đẩy con người luôn tòm
ra cái hay, cái đúng. Người giáo viên luôn hướng các em đến hứng thú học, bơi
như em này chưa hứng thú học với môn nào thì giáo viên phải dìu dắt em, để từ đó
các em đần yêu thích môn học và dần tìm ra đường đi chính của bản thân mình.
3.2. Kiến nghi
3.2.1. Về phía giáo viên
Để có hứng thú trong học tập các giáo viên phải biết gây cho các em yêu
thích môn học ngay từ ban đầu. Ví dụ như môn Toán, các em rất khó tiếp thu nên
giáo viên phải chú trọng để hướng các em tới yêu thích môn học, dần dần các em
sẽ có thói quen yêu thích môn học đó và các em ý thức được và luôn tự tìm tòi và
học hỏi giáo viên, phải luôn biết tổ chức giờ dạy sinh động để các em phấn khơi
luôn yêu thích môn học đó, để nâng cao chất lượng việc học nhằm kích thích sự
hứng thú việc học của các em
3.2.2. Về phía cấp trên
- Tăng cường đầu tư kinh phí, bổ sung dụng cụ dạy học.
- Không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên trung học.
3.2.3. Về phía nhà trường
- Luôn tạo điều kiện cho giáo viên dạy tốt.

- Giáo viên luôn tự kết hợp giữa gia đình và học sinh .
16


- Có phòng thư viện để các em tìm đọc sách, báo tài liệu học thêm.
- Phải có đủ đồ dung dạy học cần thiết cho học sinh và giáo viên
- Tổ chức những cuộc thi tìm hiểu về nhà Bác học Toán.
- Tổ chức các buổi tham quan ngoại khoá để các em thay đổi môi trường
sau những ngày học tập trên lớp .
3.2.4. Về phía xã hội
Đối với xã hội phát huy hơn vấn đề giáo dục trên phương tiện truyền thông
đại chúng như sách, báo…. Giúp cho các bậc phụ huynh một mặt học hỏi thêm
kinh nghiệm quý báu trong kho tàng giáo dục của dân tộc, tổ tiên, một mặt hiểu
thêm về phương pháp giáo dục mới, hiện đại tạo điều kiện để chuẩn bị hành trang
bước vào thế kỷ 21.
3.2.5.Về phía học sinh
Bản thân các em cần hiểu rõ vai trò và tầm quan trọng môn Toán. Chịu khó
chủ động tìm hiểu, học hỏi để không làm rỗng kiến thức, bổ sung phần thiếu hụt
của bản thân. Tự tạo ước mơ, hứng thú cho bản thân mình.
Qua đợt thực tập sư phạm 1 tại trường THCS Tân Phong, Lai Châu tôi
đã thực sự học hỏi được nhiều kinh nghiệm quý báu từ các thầy cô đi trước về
công tác giáo dục, quản lí học sinh. Đặc biệt qua việc tiến hành nghiên cứu đề tài
tôi đã được thực trạng học tập của các em. Mặc dù chỉ nghiên cứu trong phạm vi
môn toán –của học sinh lớp giảng dạy nhưng tôi đã thấy được cái nhìn thực tế về
hứng thú học tập của các em. Từ đó tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất những biện
pháp nâng cao hứng thú học tập cho các em. Song điều quan trọng và ý nghĩa hơn
cả là qua dịp này tôi càng hiểu và ý thức sâu sắc hơn về trách nhiệm của người
giáo viên trong sự nghiệp trồng người. Để hoàn thành được trách nhiệm của mình,
người giáo viên không chỉ cần có năng lực sư phạm, kiến thức phong phú, sâu sắc
mà đòi hỏi phải có tình thương, lòng nhiệt tình với học sinh và tâm huyết với nghề

nghiệp. Đặc biệt phải cho các em thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng của học tập
từ đó có các hình thức và biện pháp giúp các em đạt kết quả học tập tốt hơn.
“ Một kĩ sư tồi có thể làm hỏng một công trình, một bác sĩ tồi có thể giết chết
một bệnh nhân nhưng một giáo viên tồi có thể hủy hoại cả một thế hệ”. Chính vì
trách nhiệm nặng nề và cao cả đó, người giáo viên phải không ngừng nâng cao
trình độ và hoàn thiện nhân cách bản thân. Bài học đó tôi càng ý thức được sâu sắc
hơn khi kết thúc đợt thực tập sư phạm 1 và hoàn thành bài tập tâm lý giáo dục này.
Trên đây là ý kiến của tôi về một vài biện pháp phát triển hứng thú học tập
môn Toán cho HS lớp 7A1 THCS Tân Phong.

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Báo cáo về công tác chủ nhiệm trường THCS Tân Phong, Lai Châu.
[2] Báo cáo của ban giám hiệu trường THCS Tân Phong, Lai Châu.
[3] Giáo trình tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm
[4] Giáo trình giáo dục học
[5] Học bạ học sinh lớp 7A1
[6] Sổ chủ nhiệm lớp 7A1
Giáo viên chủ nhiệm và giảng dạy môn toán: Cô Ngô Thị Thu Thủy
[7] Sổ điểm lớp 7A1
[8] www.tailieu.vn
[8] www.123doc.org

18




×