TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
-------------------
TƢỚNG THỊ NGA
QUAN HỆ MĨ – ANH
THỜI KÌ NỘI CHIẾN(1861 - 1865)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
Ths. NGUYỄN THỊ BÍCH
HÀ NỘI, 2017
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp, em đã nhận được sự giúp đỡ tận
tình và quý báu của thầy cô trong khoa Lịch Sử, các thầy cô trực tiếp giảng
dạy bộ môn Lịch sử thế giới, sự động viên của các bạn sinh viên trong trường
Đại học sư phạm Hà Nội 2. Đặc biệt là sự chỉ bảo, giúp đỡ, hướng dẫn của
cô giáo Th.s Nguyễn Thị Bích để em hoàn thành khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày tháng
Tác giả khóa luận
Tướng Thị Nga
năm 2017.
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đề tài “Quan hệ Mĩ - Anh thời kì nội chiến
(1861-1865)” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các nguồn tư liệu được
dùng trong khóa luận tốt nghiệp là chính xác, những trích dẫn là trung thực.
Vì vậy tôi xin chịu trách nhiệm cuối cùng về kết quả của khóa luận!
Người viết
Tướng Thị Nga
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................... 3
3. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ............................................ 6
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 8
5. Đóng góp của đề tài ................................................................................... 8
6. Bố cục của khóa luận ................................................................................. 8
NỘI DUNG ..................................................................................................... 10
Chương 1. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ MĨ – ANH
THỜI KÌ NỘI CHIẾN (1861 - 1865).............................................................. 10
1.1. Bối cảnh quốc tế.................................................................................... 10
1.2. Nước Mĩ nửa đầu thế kỉ XIX và cuộc nội chiến (1861 – 1865) ........... 15
1.2.1 Tình hình nước Mĩ nửa đầu thế kỉ XIX ....................................... ... 15
1.2.2. Nước Mĩ trong cuộc nội chiến (1861 -1865) ................................ 22
1.3. Tình hình nước Anh nửa đầu thế kỉ XIX .............................................. 25
1.4. Khái quát quan hệ Mĩ – Anh trước năm 1861 ...................................... 30
Chương 2. QUAN HỆ MĨ –ANH VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG THỜI KÌ NỘI
CHIẾN (1861 – 1865) ..................................................................................... 42
2.1. Chính sách “ngoại giao bông” của phe Liên minh ............................... 42
2.2. Chính sách ngoại giao của phe Liên bang ............................................ 46
2.3. Thái độ của nước Anh ........................................................................... 51
2.3.1. Thái độ của nước Anh trước Bản Tuyên ngôn giải phóng nô lệ (năm
1863) ......................................................................................................... 52
2.3.2. Thái độ của nước Anh sau Bản Tuyên ngôn giải phóng nô lệ (năm
1863) ......................................................................................................... 55
2.4. Tác động của quan hệ ngoại giao Mĩ - Anh thời kì nội chiến (18611865) ............................................................................................................ 61
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 75
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 80
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đến những năm nửa đầu thế kỉ XVIII, thực dân Anh đã thành lập được
ở miền Đông Bắc Mĩ 13 thuộc địa. Dân số của mười ba thuộc địa Anh ở Bắc
Mĩ khoảng 1,3 triệu người. Tất cả mười ba thuộc địa đều phải tuân theo luật
pháp của nước Anh. Do sự phát triển kinh tế nhanh chóng của mười ba bang
thuộc địa đã làm cho Bắc Mĩ trở thành mối đe dọa cạnh tranh với nền kinh tế
chính quốc của nước Anh. Do đó, thực dân Anh đã dùng mọi biện pháp để
ngăn cản, làm chậm sự phát triển không cho nền kinh tế ở các bang thuộc địa
Bắc Mĩ có thể cạnh tranh với nền kinh tế của chính quốc. Chính phủ Anh đã
dùng nhiều biện pháp, ban hành nhiều loại thuế để cấm Bắc Mĩ mở doanh
nghiệp, cấm mang máy móc và thợ lành nghề từ Anh sang…
Những chính sách hạn chế đó làm tổn hại nghiêm trọng tới quyền lợi
của nhân dân thuộc địa, của tư sản và chủ nô. Điều đó làm cho mâu thuẫn
giữa nhân dân mười ba bang thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ với thực dân Anh càng
thêm gay gắt, yêu cầu lịch sử đặt ra là phải tiến hành một cuộc cách mạng để
xóa bỏ quyền thống trị của thực dân Anh đối với nhân dân Bắc Mĩ. Đáp ứng
yêu cầu lịch sử cuộc chiến tranh giành độc lập của mười ba bang thuộc địa
Anh ở Bắc Mĩ nổ ra chống lại chính quyền thống trị của thực dân Anh. Cuộc
cách mạng giành thắng lợi, nó đã xóa bỏ nền thống trị của thực dân Anh,
giành độc lập hoàn toàn cho các bang, khai sinh ra quốc gia tư sản đầu tiên ở
châu Mĩ. Tuy nhiên cuộc cách mạng này là cuộc cách mạng tư sản “chưa đến
nơi” (Hồ Chí Minh) do nó vẫn chưa giải quyết hết được nhiệm vụ của cuộc
cách mạng, và có một số hạn chế cơ bản như ruộng đất của nhân dân chưa
được giải quyết, chế độ nô lệ vẫn còn duy trì ở các bang miền Nam.... Những
1
hạn chế này được giải quyết bằng cuộc cách mạng tư sản lần thứ hai của nước
Mĩ hay còn được gọi bằng cuộc Nội chiến (1861-1865).
Nhưng cũng từ cuộc chiến tranh ly khai đó, một Liên bang Mĩ thống
nhất thực sự về kinh tế, chính trị, văn hóa, được định hình. Bởi vậy lịch sử
nước Mĩ nói chung và lịch sử nước Mĩ thời kì nội chiến nói riêng đã trở thành
hiện tượng cần được nghiên cứu, một thực nghiệm về tinh thần và chính trị
cần được đánh giá.
Một vấn đề trọng tâm vận động xung quanh cuộc nội chiến là vấn đề về
chế độ nô lệ. Tuy nhiên bên cạnh vấn đề về nô lệ, một khía cạnh khác của
cuộc nội chiến đó chính là quan hệ ngoại giao của Mĩ trong thời kì này hay
nói cách khác là quan hệ đối ngoại của hai miền Nam và miền Bắc cũng cần
được bàn tới. Trong đó nhân tố liên quan tới quan hệ ngoại giao ở nước Mĩ
thời kì này phải nhắc tới sự tham gia và có mặt của các cường quốc châu Âu
đặc biệt là các quốc gia Anh, Pháp, Nga. Sự tham gia của các cường quốc
châu Âu có tác động lớn tới chiến thắng hay thất bại của miền Bắc và miền
Nam trong cuộc nội chiến.
Quan hệ đối ngoại của Mĩ thời nội chiến (1861-1865) nói chung đặc
biệt với nước Anh là vấn đề đặc sắc của lịch sử thế giới cận đại. Việc nghiên
cứu, tìm hiểu vấn đề này không những cung cấp thông tin, những bài học lịch
sử về chính sách đối ngoại của các nước lớn, mà còn để lại những bài học về
sự khéo léo trong chính sách đối ngoại của Mĩ nói chung và hai miền NamBắc nói riêng và thái độ của nước Anh đối với những chính sách đó. Đồng
thời bổ sung và mở rộng hiểu biết nâng cao nhận thức về một giai đoạn quan
trọng trong lịch sử Hoa Kỳ, góp phần tích lũy tư liệu giúp ích cho việc học tập
và giảng dạy sau này.
Hiện nay, Việt Nam đang mở rộng quan hệ với nhiều quốc gia trên thế
giới trong đó có Mĩ với mục tiêu tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị và hợp
2
tác toàn diện. Do đó, hiểu biết về lịch sử, văn hóa nước Mĩ sẽ hỗ trợ cho việc
xây dựng mối quan hệ tốt đẹp giữa hai bên.
Từ những nhận định trên người viết đã lựa chọn vấn đề “ Quan hệ
Mĩ –Anh thời kì nội chiến (1861-1865)” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Có rất nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước đề cập đến
cuộc nội chiến Mĩ (1861-1865). Tuy nhiên, các tài liêu tiếng Việt và tài liệu
dịch lại chưa đề cập cụ thể về vấn đề mà người viết tìm hiểu. Có thể kể ra một
số tài liệu liên quan như sau:
Hai tác giả Karx Marx và Friedrich Engels, tuy không có những tác
phẩm riêng viết về Nội chiến Mĩ, nhưng cả hai ông đã thường xuyên theo dõi
các sự kiện diễn ra trên lục địa Bắc Mĩ, thông qua một loạt các bài báo về
cuộc Nội chiến Mĩ như: cuộc xung đột Anh – Mĩ, Nội các Oa- sinh-tơn và các
cường quốc phương Tây, hay các bài viết về thái độ của nước Anh đối với
cuộc nội chiến như: Tin tức từ Anh, Sự trung lập của Anh – về tình hình ở các
bang miền Nam, hay bức thư gửi cho Tổng thống Abraham Linconl của
K.Marx đã cung cấp khá nhiều thông tin quan trọng liên quan đến đề tài. Bên
cạnh các sự kiện lịch sử chính xác, các bài báo đã phân tích đánh giá một cách
khách quan, khoa học trước các vấn đề xung quanh vấn đề ngoại giao nước
Mĩ thời kỳ nội chiến cũng như xung quanh vấn đề nô lệ và đấu tranh xóa bỏ
chế độ nô lệ. Các bài báo được tập hợp trong cuốn “K. Marx & F. Engels
toàn tập, tập 15” và cuốn “K. Marx & F. Engels toàn tập, tập 3”, Nxb Sự
Thật , xuất bản năm 1984.
Cuốn “Lịch sử thế giới cận đại (1640-1870)” Nxb Giáo Dục, năm xuất
bản 1978, gồm hai quyển của các tác giả: Phạm Gia Hải, Phan Ngọc Liên,
Phan Hữu Lư, Trần Văn Trị, là một cuốn thông sử đề cập đến hầu hết những
3
sự kiện lớn trên thế giới giai đoạn này trong đó có cuộc nổi chiến ở Mĩ. Tuy
nhiên, vấn đề này chưa được tác giả đi sâu tìm hiểu và chưa có hệ thống.
Cuốn “Niên giám Hoa Kỳ” của Arthur, Nxb Khoa học xã hội xuất bản
năm 2004. Tác phẩm này được viết theo lối thống kê bảng niên đại, liệt kê
những sự kiện và những vấn đề nổi bật của nước Mĩ về mọi lĩnh vực như
ngoại giao, kinh tế, chính trị, giáo dục, văn hóa – nghệ thuật,… những sự kiện
quốc tế có liên quan tới Mĩ. Vì được viết theo bảng niên đại nên tác phẩm
chưa đi sâu được vào nội dung của từng vấn đề, đặc biệt là những sự kiện
nước Mĩ giai đoạn nửa đầu thế kỉ XIX.
Cuốn “Thông sử nước Anh” Nxb Lao động – Xã hội, năm xuất bản
2005, của tác giả Tiền Thừa Hán và Hứa Kiết Minh, do Đặng Thanh Tịnh
dịch. Tác phẩm này đề cập tới toàn bộ mọi lĩnh vực trong lịch sử nước Anh
như chính trị, kinh tế, ngoại giao… từ khi quốc gia hình thành cho đến cuối
thế kỉ XX. Đặc biệt, tác phẩm cũng cung cấp nguồn tư liệu cần thiết quan
trọng về tình hình nước Anh vào nửa đầu thế kỉ XIX đặc biệt về vấn đề đối
ngoại.
Cuốn “Bốn mươi ba đời tống thống Hoa Kỳ” của William A.
Degregorio, Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội xuất bản năm 2006. Đây là một
bộ sách có nhiều giá trị về mặt tư liệu, sự kiện lịch sử nước Mĩ. Nó không chỉ
dừng lại ở việc mô tả cuộc đời và những hoạt động của bốn mươi ba đời tổng
thống Mĩ mà đằng sau nó còn là một phông nền lớn là về lịch sử nước Mĩ
trong mỗi thời kỳ tổng thống. Đặc biệt trong giai đoạn 1861 đến năm 1865 là
thời kỳ có nhiều biến đổi trong lịch sử nước Mĩ, những chính sách và hoạt
động của tổng thống Lincoln trong giai đoạn này đã cung cấp những thông tin
cho tác giả thực hiện bài nghiên cứu.
Tác giả Charles P. Roland với cuốn “Nội chiến Hoa Kỳ” do Kiến Văn,
Tuyết Minh dịch, Nxb Văn hóa thông tin, xuất bản năm 2007. Tác phẩm như
một câu chuyện kể về cuộc chiến tranh “máu chảy ruột mềm”, của người Mĩ,
4
trong đó Tổng thống Abraham Lincoln nổi lên như một nhà lãnh đạo kiệt
suất. Tác giả phân tích cụ thể những diễn biến cụ thể trên chiến trường một
nhân tố quan trọng tác động đến quan điểm và chính sách chỉ đạo của Tổng
thống, nhất là trong việc quyết đinh thời điểm công bố bản Tuyên ngôn giải
phóng nô lệ. Đồng thời tác giả bước đầu phân tích những chính sách đối ngoại
của hai miền Nam – Bắc nước Mĩ trong việc tranh giành sự ưu tiên của châu
Âu và tác động những chính sách đó đến kết quả của cuộc nội chiến.
Tiếp đến là tác giả Irwin Unger với cuốn “Lịch sử Hoa Kỳ - những vấn
đề quá khứ”, Nxb Từ điển Bách khoa, xuất bản năm 2009. Cuốn sách này như
kể lại câu chuyện của tất cả người Mĩ, và lịch sử nước Mĩ. Đặc biệt là các
chương 12 “Người Mĩ trước Nội chiến”, chương 13 “Miền Nam cổ”, chương
14 “Cuộc nội chiến đang đến gần” và chương 15 “ Nội chiến” đã phân tích
sâu sắc tình hình nước Mĩ trước Nội chiến, những nguyên nhân gây chia rẽ, vấn
đề nô lệ, những mâu thuẫn, đấu tranh giữa các lực lượng xã hội, những vấn đề
hoạt động ngoại giao của đất nước. Vì vậy, đây là nguồn tài liệu quan trọng để
người viết tham khảo để hoàn thành đề tài.
Tác giả Eric Foner trong cuốn “Lược sử nước Mĩ thời kì tái thiết (18631877)” Nxb Khoa học xã hội, xuất bản năm 2009.Đây là cuốn sách rút gọn
của cuốn “Tái thiết cuộc cách mạng dở dang của Hoa Kì (1863-1877)” của
tác giả. Tuy đã được rút gọn nhưng những vấn đề chính yếu của lịch sử Hoa
Kỳ thời kì này vẫn được tác giả diễn tả một cách chi tiết. Trong cuốn sách
Eric Foner đã đề cập đến những vấn đề như hậu quả của cuộc nội chiến, bản
tuyên ngôn giải phóng nô lệ, nô lệ da đen, và công cuộc tái thiết ở Mĩ. Tác giả
chưa đề cập đến vấn đề cụ thể ngoại giao hai miền Nam - Bắc đối với nước
Anh trong cuộc nội chiến mà người viết nghiên cứu. Song đây cũng là nguồn
tài liệu tham khảo có giá trị để nghiên cứu đề tài.
Tác giả Nguyễn Hồng Liên, khoa Lịch Sử, trường Đại học sư phạm Hà
Nội với đề tài “ Lịch sử buôn bán nô lệ da đen (XV-XIX) và cuộc đấu tranh
5
xóa bỏ nó ( cuối XVIII – cuối XIX)” năm 2008. Đây là đề tài tác giả tập trung
nghiên cứu về việc buôn bán nô lệ da đen, còn vấn đề đấu tranh xóa bỏ việc
buôn bán nô lệ và cả chế độ nô lệ được đề cập ở tất cả các châu lục như: châu
Âu, châu Phi, châu Mĩ. Vấn đề ngoại giao thời nội chiến Mĩ cũng được tác giả
đề cập khái lược.
Tác giả Phùng Thị Hà, khoa Lịch Sử, Trường Đại học sư phạm Hà Nội
với đề tài “Bản tuyên ngôn giải phóng nô lệ của nước Mĩ và tác động của nó
đến tình hình nước Mĩ trong thời kì nội chiến (1861-1863)” khóa luận tốt
nghiệp năm 2010, đã đề cập khá chi tiết về tình hình nước Mĩ thời kì nội
chiến, đặc biệt là văn kiện “Tuyên ngôn giải phóng nô lệ” do Tổng thống
Abraham Lincoln soạn thảo. Vì nội dung nghiên cứu chủ yếu của đề tài là về
bản Tuyên ngôn giải phóng nô lệ nên tác giả chưa đề cập một cách chi tiết về
quan hệ đối ngoại của nước Mĩ thời kì này.
Một số tác phẩm khác như cuốn “Lược sử nước Mĩ” của cơ quan thông
tin Mĩ do Huỳnh Kim Oanh và Phạm Viêm Phương dịch, hay cuốn “Các nền
văn minh thế giới (lịch sử văn hóa)” của Edward Mc Nall và Philip Lee Ralph
do Lưu Văn Hy và Nguyễn Trí Tri biên dịch cũng đề cập đến một số nội dung
xung quanh cuộc nội chiến, sự tham gia của các quốc gia châu Âu tới cuộc
nội chiến này.
Ngoài ra còn có một số trang website đề cập đến các vấn đề cuộc nội
chiến Mĩ, về chính sách ngoại giao, về Tổng thống Abraham Lincoln như
…cũng cung cấp một số tài liệu liên quan đến đề tài.
Như vậy, điểm lại các tài liệu trong và ngoài nước đều chưa có một
công trình chuyên sâu nào nghiên cứu về vấn đề quan hệ ngoại giao Mĩ – Anh
thời kì nội chiến (1861-1865). Vì vậy, đây cũng là cơ sở để người viết lựa
chọn đề tài này làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
3. Đối tƣợng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
6
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nước Mĩ diễn ra cuộc nội chiến trong giai đoạn 1861 -1865, do đó hai
chính quyền song song tồn tại ở hai miền Nam – Bắc nước Mĩ. Vì vậy, chính
sách đối ngoại của Mĩ trong thời kì này không được hiểu là chính sách của
một chủ thể Hoa Kỳ thống nhất mà là chính sách riêng biệt của hai miền Nam
–Bắc, nhằm lôi kéo sự ủng hộ của các nước châu Âu, đặc biệt là Anh. Nói
cách khác, đề tài nghiên cứu chính sách đối ngoại của hai miền nước Mĩ đối
với Anh và thái độ của Anh trước những chính sách đó trong thời kì nội chiến
(1861 - 1865).
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ đối tượng nghiên cứu nên khóa luận tập trung làm rõ các
nhiệm vụ sau:
Một là, phân tích được những nhân tố tác động tới quan hệ Mĩ - Anh
thời kì nội chiến (1861 -1865) như: bối cảnh quốc tế, tình hình nước Mĩ nửa
đầu thế kỉ XIX và cuộc nội chiến(1861-1865), tình hình nước Anh nửa đầu
thế kỉ XIX, khái quát quan hệ Mĩ – Anh trước năm 1861.
Hai là, phân tích được nội dung quan hệ ngoại giao Mĩ – Anh và những
tác động thời kì nội chiến (1861 -1865). Trong đó, cần làm rõ được chính
sách ngoại giao của hai miền Nam – Bắc đối với nước Anh, thái độ của nước
Anh và tác động của quan hệ ngoại giao Mĩ – Anh trong thời kì này.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Đề tài khóa luận tìm hiểu về quan hệ của hai miền nước
Mĩ – Anh thời kì nội chiến (1861-1865).
Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu giai đoạn 1861 –
1865. Tuy nhiên, tác giả không phân định một cách máy móc mà tác giả có
thể mở rộng về trước hoặc sau khoảng thời gian trên để làm rõ vấn đề nghiên
cứu.
7
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Để thực hiện đề tài, tác giả dựa trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng về nghiên cứu khoa học lịch sử. Đó là kim chỉ nam trong quá trình
xử lý, hệ thống, khai thác và sử dụng tư liệu liên quan đến nội dung nghiên
cứu.
Về phương pháp nghiên cứu, người viết vận dụng phương pháp lịch sử,
phương pháp lịch sử nhằm đảm bảo tính khách quan trong nghiên cứu các sự
kiện, hiện tượng lịch sử. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu bổ trợ khác như phân tích, so sánh, tổng hợp, liệt kê,… để rút ra
những nhận xét cần thiết.
5. Đóng góp của đề tài
Về mặt khoa học: Khóa luận là một công trình khoa học, tìm hiểu có hệ
thống chi tiết về quan hệ Mĩ - Anh trong cuộc nội chiến, từ đó cho ta thấy một
bức tranh khái quát về nước Mĩ và quan hệ ngoại giao trong thời kì này.
Về mặt thực tiễn: Việc nghiên cứu đề tài đáp ứng nhu cầu tìm hiểu toàn
diện về lịch sử nước Mĩ thời kì cận đại. Đồng thời công trình có thể là một
nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho sinh viên chuyên ngành lịch sử thế giới
cận đại, cho việc dạy và học lịch sử thế giới giai đoạn này ở chương trình phổ
thông và những ai có nhu cầu đi sâu tìm hiểu về quan hệ ngoại giao Mĩ – Anh
trong cuộc nội chiến.
Khóa luận cũng cung cấp một số tư liệu liên quan đến vấn đề nghiên
cứu, đặc biệt là một số tranh ảnh hay một số thông tin về những nhân vật điển
hình trong thời kì nội chiến Mĩ, đặc biệt là những nhân vật liên quan trực tiếp
đến quan hệ ngoại giao Mĩ - Anh trong giai đoạn này.
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khóa luận được trình bày theo 2 chương:
8
Chương 1: Những nhân tố tác động đến quan hệ Mĩ - Anh thời kì nội chiến
(1861-1865)
Chương 2: Quan hệ Mĩ – Anh và những tác động thời kì nội chiến
(1861 – 1865)
9
NỘI DUNG
Chƣơng 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ NGOẠI GIAO
MĨ – ANH THỜI KÌ NỘI CHIẾN (1861 - 1865)
1.1. Bối cảnh quốc tế
Cuối thế kỉ XVIII, chủ nghĩa tư bản đã thắng thế ở châu Âu, các nước
tư bản đã bắt đầu chuyển sang tiến hành cách mạng công nghiệp, tạo nên
bước phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất tư bản chủ nghĩa. Cuộc cách
mạng trong lĩnh vực kỹ thuật sản xuất này đã làm thay đổi bộ mặt của các
nước tư bản. Máy móc chứng tỏ ưu thế vượt trội so với lao động thủ công. Sự
xác lập những công xưởng lớn sử dụng máy móc, áp dụng các thành tựu khoa
học kỹ thuật đã làm sức sản xuất tăng lên nhanh chưa từng có. Yêu cầu về
nguyên nhiên liệu cũng như thị trường tiêu thụ hàng hóa, nguồn lao động tự
do đã khiến các nhà tư bản công nghiệp nhận ra phải chấm dứt việc buôn bán
nô lệ và xóa bỏ chế độ nô lệ tại các thuộc địa cũng như ở chính quốc. Điều
này đã làm thay đổi chính sách của các nước thực dân đối với chế độ nô lệ ở
các nước thuộc địa.
Đồng thời dưới ánh sáng của trào lưu tư tưởng dân chủ, đặc biệt là tư
tưởng “Tự do – Bình đẳng - Bác ái” của cuộc đại cách mạng Pháp đã tác
động lớn đến các tầng lớp nhân dân ở châu Âu trong việc lên án chế độ nô lệ.
Khi những tư tưởng này được truyền bá sang châu Mĩ, trong đó có nước Mĩ,
đã có rất nhiều người Mĩ da trắng đã lên tiếng phản đối thậm chí là cống hiến
cả cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng nô lệ.
Ở châu Âu, đi đầu trong phong trào này là nước Anh. Năm 1772, nhà
quý tộc Mansfield tuyên bố nước Anh không công nhận chế độ nô lệ, giải
phóng 15.000 người da đen mà chủ nhân của họ đã mang vào Anh. Năm
10
1792, Quốc hội Anh với 230 phiếu thuận đã chấp nhận dự luật chống chế độ
nô lệ. Năm 1807, nước Anh tuyên bố cấm buôn bán nô lệ. Một nhóm người
theo chủ nghĩa xóa bỏ chế độ nô kệ ở Anh được chính phủ ủng hộ đã lập các
khu định cư cho người da đen. Đến năm 1813, Anh cùng Argentina chính
thức bãi bỏ chế độ nô lệ. Tháng 10/1833, với Bản tuyên ngôn bãi bỏ chế độ
nô lệ được thông qua tại hội nghị Philadelphia, chế độ nô lệ bị xóa bỏ trên các
thuộc địa của Anh. Ở các thuộc địa của mình, đặc biệt là ở Nam Phi, nơi có
các chủ đồn điền người Boer, Anh phải bồi thường chi phí cho các ông chủ để
giải phóng nô lệ. Năm 1836, Anh đã phóng thích 3.900 nô lệ ở Cape
Province( Nam Phi) và chi trả cho chủ đồn điền ở đây 2.824.000 bảng Anh.
Đồng thời Anh cũng rất tích cực trong việc tuyên truyền cho các nước thực
dân khác trong việc chống lại việc buôn bán nô lệ và xóa bỏ chế độ nô lệ. Tại
Hội nghị viên năm 1814, Anh dùng ảnh hưởng của mình để khuyến khích các
nước thi hành chính sách tương tự.
Ở Pháp dưới ánh sáng của cuộc đại cách mạng Pháp năm 1789 thì
Quốc hội Pháp năm 1794 cũng ra tuyên bố xóa bỏ việc mua bán nô lệ và chế
độ nô lệ ở những vùng đất của mình. Sau này, chính phủ Pháp liên tục ra các
sắc lệnh năm 1815,1817,1818 nhằm cấm việc buôn bán nô lệ. Đến năm 1848,
chế độ nô lệ bị cấm hoàn toàn trên các thuộc địa của Pháp.
Sau đó, các nước thực dân khác cũng lần lượt cấm việc mua bán nô lệ
như Thụy Điển vào năm 1813, Hà Lan năm 1814, Bồ Đào Nha năm 1820,
Tây Ban Nha năm 1823… Điều này đã tác động đến chế độ nô lệ và cuộc đấu
tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mĩ.
Bên cạnh chính sách của các nước thực dân trong việc xóa bỏ chế độ nô
lệ thì cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ trên thế giới, đặc biệt là ở châu Mĩ
đã tác động trực tiếp đến cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mĩ. Điển hình
là cuộc khởi nghĩa ở Haiti do L‟ouveture – một nô lệ da đen lãnh đạo, nghĩa
quân đã đốt phá đồn điền của người da trắng và nhanh chóng khống chế được
11
các vùng ở Haiti, sau đó đánh bại quân Pháp, quân Tây Ban Nha và sự can
thiệp của Anh, buộc Anh phải ký điều ước với L‟ouverture vào tháng
10/1798, thừa nhận nền độc lập của Haiti. Năm 1801, Haiti tuyên bố độc lập.
Sau đó đạo quân, Napoleon định chiếm lại Haiti nhưng bị đánh bại. Đến ngày
01/1/11804, Haiti – quốc gia đầu tiên ở khu vực Mĩ Latinh đã tuyên bố độc
lập và xóa bỏ chế độ nô lệ. Sự kiện này đã cổ vũ mạnh mẽ cho cuộc đấu tranh
xóa bỏ chế độ nô lệ ở Mỹ.
Sau Haiti, một phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đã bùng nổ ở
khu vực Mỹ Latinh đầu thế kỉ XIX. Các quốc gia lần lượt nổi dậy, tiến hành
cách mang lật đổ sự thống trị của thực dân Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha. Sau
khi giành độc lập, các nước đều công bố hiến pháp, xây dựng nước cộng hòa
và ban hành các đạo luật cấm buôn bán nô lệ và tiến hành giải phóng nô lệ
(trừ Brazil). Đây chính là những đòn tấn công mạnh mẽ vào chế độ nô lệ ở
khu vực châu Mĩ.
Như vậy, bối cảnh quốc tế xoay quanh vấn đề nô lệ cũng ảnh hưởng
trực tiếp đến tình hình nước Mĩ. Và cuối cùng một tất yếu lịch sử xảy ra đó là
cuộc cách mạng Mĩ lần hai nổ ra để xóa bỏ chế độ nô lệ, giải phóng những
người da đen khỏi sự thống trị của bộ phận lớp trên vào năm (1861- 1865).
Bên cạnh vấn đề nô lệ, ở nước Pháp bằng các cuộc chiến tranh kéo dài
hơn một thập kỉ, Napoleon lần lượt đập tan các liên minh chống nước Pháp do
nước Anh cầm đầu, chiếm đóng nhiều khu vực ở châu Âu. Vào thời kì “
hoàng kim” của đế chế, năm 1812, lãnh thổ do Napoleon lập ra gồm 75 triệu
dân, chiếm gần một nửa cư dân lục địa châu Âu, gấp ba lần số dân nước Pháp.
Biên giới Pháp mở rộng về phía Bắc, phía Đông và phía Nam bao gồm Bỉ, Hà
Lan, tả ngạn sông Rhine, toàn bộ bờ biển Bắc Hải, Xavoa và Nice, một phần
lớn Bắc và Trung Ý. Xét về mặt tích cực, “sự chiếm đóng và mở rộng chiến
tranh của Napoleon có tác dụng phá hủy chế độ phong kiến, khuyếch trương
12
ảnh hưởng của cách mạng tư sản Pháp cuối thế kỉ XVIII, gieo mầm cho sự ra
đời của châu Âu mới sau này. Mặt khác, những tư tưởng tự do dân chủ tiến
bộ được truyền bá những khu vực mà hoàng đế nước Pháp tiến hành chiến
tranh đã thức tỉnh tinh thần yêu nước và tinh thần dân tộc của nhân dân các
nước, thúc giục họ đứng lên chiến đấu chống lại ách nô dịch của chế độ
Napoleon [29; tr.152].
Kể từ sau năm 1812, do vấp phải sự phản kháng quyết liệt các dân tộc
bị trị, nhất là sự tấn công liên tục của liên minh các quốc gia châu Âu do Anh
và Nga cầm đầu, thế thượng phong của quân đội Napoleon không còn giữ
được như trước, trái lại ngày càng yếu đi. Địa bàn kiểm soát bị thu hẹp dần
theo thời gian. Hệ quả của tình trạng đó, ngày 31 – 3 – 1814, trước sự vây
hãm của đội quân tinh nhuệ các quốc gia châu Âu tại kinh thành Paris,
Napoleon I buộc phải thoái vị. Như vậy sau hơn một thập kỉ “làm mưa làm
gió” trên chiến trường châu Âu, đế chế Napoleon sụp đổ.
Nhằm lập lại trật tự châu Âu mà trong một thời gian dài bị đảo lộn do
chiến tranh, tháng 9 – 1814, các quốc gia thắng trận (Anh, Nga, Áo và Phổ) tổ
chức hội nghị tại Viene (Áo). Mục đích của hội nghị là: thứ nhất, xóa bỏ ảnh
hưởng của cách mạng Pháp, thủ tiêu những cải cách tiến bộ đã tiến hành ở
nhiều nước châu Âu vào cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX, khôi phục trở lại
trật tự phong kiến; thứ hai, ngăn cản nước Pháp quay trở lại đế chế Napoleon;
thứ ba, phân chia lãnh thổ nhằm thỏa mãn tham vọng của các cường quốc
thắng trận.
Với những mục đích nêu trên, các cường quốc thắng trận đã biến “các
dân tộc mua và bán, được chia và hợp chỉ nhằm để đáp ứng nhiều hơn nữa
quyền lợi và ý đồ của những kẻ cai trị họ” [21; tr.4]. Việc “các dân tộc được
mua và bán, được chia và hợp” là cơ sở cho sự ra đời trật tự mới ở châu Âu.
Lịch sử gọi là Trật tự Vienne. Công cụ đảm bảo sự ổn định của trật tự này là
13
các tổ chức Đồng minh Thần thánh và Đồng minh Tứ cường do các bên tham
dự hội nghị lập ra.
Trật tự quốc tế do các cường quốc chiến thắng Pháp tạo ra ở châu Âu
dựa trên sự hy sinh, chà đạp quyền lợi của các dân tộc, cùng với đó là âm
mưu khôi phục lại thiết chế xã hội cũ đã làm gia tăng sự bất mãn đối với đại
đa số quần chúng. Do đó, trong những thập kỉ tiếp theo, trên khắp lục địa
châu Âu (ngoại trừ nước Anh) đã bùng lên cao trào cách mạng dân tộc và dân
chủ mạnh mẽ. Nhìn chung, các phong trào này vận động theo quỹ đạo của chủ
nghĩa tư bản.
Ở Tây Ban Nha, trong những năm 1820 – 1823, cuộc cách mạng đã
diễn ra. Động lực cách mạng là tầng lớp tư sản tiến bộ, nông dân và bình dân
thành thị. Phong trào cách mạng rộng khắp cả nước. Tình trạng này không chỉ
làm lung lay trật tự phong kiến, làm cho vua chúa các nước châu Âu hoảng sợ
mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào cách mạng của các thuộc địa
Tây Ban Nha ở Mĩ latinh giành thắng lợi.
Ở Pháp, sau khi đế chế Napoleon I sụp đổ, vương triều Bourbon được
phục hồi, mang lại quyền lợi cho bộ phận quý tộc phong kiến. Cuộc sống
dưới sự vị trí của vương triều Bourbon trở nên đột ngột. Do đó, tháng 7 1830, quần chúng nhân dân Paris dưới sự lãnh đạo của giai cấp tư sản tiến
hành cách mạng lật đổ Charles X, thiết lập vương triều mới – vương triều
tháng Bảy. Đại diện cho vương triều này là “quý tộc tài chính”. Dưới vương
triều tháng Bảy, nền kinh tế tư bản phát triển khá khởi sắc song cuộc sống của
nhân dân lao động không mấy khả quan hơn so với trước. Vì vậy, tháng 2
năm 1848, bằng cuộc khởi nghĩa vũ trang, nhân dân Paris tiếp tục lật đổ
vương triều tháng Bảy. Một chính phủ thỏa hiệp mới được dựng lên cho tư
sản công thương làm đại diện.
14
Dưới tác động của cách mạng Pháp và Tây Ban Nha tình hình tương tự
đã diễn ra ở Áo, Bỉ, Nga, Ý… Cục diện này đã phá vỡ trật tự mà hội nghị
Vienne xác lập, làm “vô hiệu hóa” chức năng của tổ chức Đồng minh Thần
thánh, mở ra thời kì thắng lợi của chủ nghĩa tư bản. Điều cần nhấn mạnh, do
bận đối phó với những vấn đề quốc nội nên chính giới của các cường quốc ít
có mối lưu tâm bên ngoài, nhất là sự bành trướng ảnh hưởng sang địa bàn
khác.
Tóm lại, trong giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX, tình
hình quốc tế có bước xoay chuyển cùng với những thay đổi về vị thế của các
cường quốc châu Âu. Nếu trước hội nghị Vienne, nước Pháp đóng vai trò chi
phối hình châu Âu thì sau năm 1815, vị trí này được nhường lại cho Anh. Còn
Tây Ban Nha, sau thời kỳ “hoàng kim” ở những thế kỉ trước, đến thời điểm
này đang trên đường suy vong nhường lại địa vị cho Anh và Pháp. Trật tự quốc
tế ở châu Âu đã tác động nhất định đến những vùng lãnh thổ liên quan trực tiếp
đến lợi ích thực dân của họ tại nước Mĩ.
Như vậy, cuộc đấu tranh xóa bỏ nô lệ trên thế giới đã diễn ra mạnh mẽ
cùng với những ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng tiến bộ đã góp phần thúc
đẩy cuộc đấu tranh của nô lệ và các giai tầng tiến bộ trong xã hội Mĩ nhằm tiến
tới xóa bỏ hoàn toàn chế độ nô lệ, giải phóng người da đen. Đồng thời những
biến động của thế giới đặc biệt khu vực châu Âu cũng tác động đến tình hình
nước Anh cũng chính điều này ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp tới quan hệ
Mĩ - Anh trong thời kì nội chiến(1861 -1865)
1.2. Tình hình nƣớc Mĩ nửa đầu thế kỉ XIX và cuộc nội chiến
(1861 – 1865)
1.2.1. Tình hình nước Mĩ nửa đầu thế kỉ XIX
Trong thời kì chiến Chiến tranh giành độc lập, cùng với sự nghiệp đấu
tranh chống lại ách thống trị của vua Anh, nhiều người Mĩ da trắng đã có cái
15
nhìn đồng cảm với thân phận của người nô lệ. Tuy nhiên, bản Hiến pháp 1787
của nước Mĩ dường như đã bỏ quên chế độ nô lệ hay chính xác là thừa nhận
sự tồn tại của nó tại một quốc gia vừa mới giành độc lập. Vì vậy, có thể nói
“Lịch sử Hợp chúng quốc bắt đầu từ chế độ nô lệ chứ không phải từ sự tự
do” [40; tr.125]. Chế độ nô lệ đồn điền đã trở thành một đặc trưng của kinh
tế miền Nam nói riêng và chủ nghĩa tư bản Mĩ nói chung “Nó do chủ nghĩa tư
bản đẻ ra và được giai cấp tư sản sử dụng” [40;tr.463]. Chế độ nô lệ đồn điền
ở nước Mĩ tồn tại dai dẳng trong gần một thế kỉ. Trong khi ở miền Bắc và
miền Tây, chế độ trang trại phát triển mạnh mẽ và giành được phần thắng thì
trái lại, ở miền Nam chế độ nô lệ không những được bảo tồn mà còn đựơc
phát triển lên đến đỉnh cao của nó. Đặc biệt sau phát minh ra máy cán bông
năm 1793, chế độ nô lệ đồn điền đã lan rộng nhanh chóng ở miền Nam.
Sự ra đời “Vương quốc bông” với việc sử dụng nô lệ với việc kèm theo
đã trở thành một hệ thống vững chắc ở miền Nam. Sự thực từ năm 1807, việc
du nhập nô lệ đã bị cấm nhưng nó lại xuất hiện dưới hình thức buôn lậu. Ở
đây, thương nghiệp hóa nền nông nghiệp Mĩ đã kích thích việc bảo tồn chế độ
nô lệ. Sự suy kiệt của đồn điền thuốc lá đã làm cho việc bóc lột nô lệ trở nên
kém sinh lời hơn. Nhưng nghề trồng bông với đầy đủ khả năng và đặc điểm
của nó đã giữ chân chế độ nô lệ và đẩy nó lên quy mô rộng lớn hơn. Đúng
như K.Marx đã viết: “Sự phát triển mạnh mẽ của nghề kéo sợi bông không
chỉ đẩy mạnh nghề trồng bông ở Hợp chúng quốc mà cả nghề làm nô lệ ở
châu Phi” [40; tr.343]. Sự phát triển của chế độ nô lệ ở Mĩ không chỉ thể
hiện qua sự gia tăng dân số nô lệ mà nó còn gắn liền với quá trình Tây tiến
với sự gia nhập hàng loạt các bang nô lệ mới.
Việc bóc lột nô lệ đã mang những món lãi kếch xù cho bọn chủ đồn
điền. Người ta giao việc hàng ngày cho nô lệ, hay dùng họ làm người trông
nom nhịp độ lao động của đội người da đen. Bạo lực trực tiếp là một yếu tố
của sản xuất. Người da đen sống trong những túp lều lụp xụp, mặc quần áo
16
vải thô và hầu như ăn toàn ngô, tiền nuôi nô lệ vào khoảng 20 USD/ năm.
Trong lúc đó, anh ta đã làm được từ 5 – 10 acres bông. Những người được gọi
là “nô lệ trồng bông” bị đối xử như một con vật. Chế độ nô lệ đóng một vai
trò quan trọng trong đời sống kinh tế, xã hội Mĩ. Ở đây,“cũng như máy móc,
tín dụng…chế độ nô lệ trực tiếp là cơ sở của nền công nghiệp tư sản. Không
có chế độ nô lệ thì không có bông, không có bông thì công nghiệp hiện đại trở
nên vô nghĩa. Chế độ nô lệ đã đem lại giá trị cho các thuộc địa, các thuộc địa
tạo nên nền thương nghiệp quốc tế, nền thương nghiệp quốc tế lại là điều kiện
cần thiết của đại công nghiệp” [24; tr. 127]
Tính đến trước khi Nội chiến bùng nổ (1861-1865), nền kinh tế nước
Mĩ vận hành theo hai khuynh hướng hoàn toàn khác nhau. Miền Bắc phát
triển nền công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa và ruộng đất nằm dưới quyền
sở hữu của trại chủ và nông dân tự do, sản xuất nông nghiệp đi theo hướng
phục vụ thị trường công nghiệp. Trong khi đó nền kinh tế miền Nam chủ yếu
sản xuất nông nghiệp đất đai tập trung vào chủ đồn điền lớn, dựa trên sự bóc
lột nô lệ da đen, trồng các loại cây công nghiệp như bông, thuốc lá, mía và lúa
gạo.
Về công nghiệp, nước Mĩ được thừa hưởng rất nhiều thành tựu về khoa
học, kỹ thuật của châu Âu, đặc biệt cuộc cách mạng công nghiệp của Anh.
Công nghiệp dệt, trong nửa đầu thế kỉ XIX, phát triển với tốc độ nhanh
chóng. Năm 1805, công nghiệp dệt của Mĩ có 4500 ống suốt đến trước cuộc
“Chiến tranh li khai” đạt tới 5.200.000 ống suốt, tức là hơn 1000 lần [33;
tr.184]. Vùng New England trở thành trung tâm của ngành công nghiệp dệt,
chiếm 2/3 xí nghiệp sản xuất vải và len trên toàn nước Mĩ.
Công nghiệp chế tạo máy đã trở thành một ngành đóng vai trò then chốt
trong công nghiệp. Năm 1817, xuất hiện nhà máy chế tạo máy hơi nước. Đến
giữa thế kỉ XIX, số nhà máy chế tạo máy móc đã tăng lên đáng kể.
17
Công nghiệp đường sắt phát triển rất nhanh được xem là mạch vận
chuyển nguyên liệu, hang hóa công nghiệp trên một vùng lãnh thổ rộng đến
hàng triệu cây số. Sự phát triển công nghiệp đường sắt là kết quả của những
phát minh khoa học kĩ thuật, trong đó có phát minh ra đầu máy hơi nước, hệ
thống các đường ray và các toa tàu chở hang, chở khách. Từ năm 1850 đến
năm 1857, xuyên dãy núi Applachian đã có 5 tuyến đường sắt chính nối miền
Trung, miền Tây với miền Đông. Hệ thống giao thông được xây dựng trong
thời kì này đã tăng thêm quyền lợi kinh tế cho các nhà tư bản và củng cố liên
minh chính trị trong nội bộ liên bang.
Với đà tăng trưởng các ngành công nghiệp đã dẫn đến số lượng các xí
nghiệp vưới số vốn đầu tưu khoảng 1 tỉ $ chiếm tỉ lệ lớn. Theo ước tính năm
1860, Mĩ có 140.433 xí nghiệp với số vốn khoảng 1 tỉ $, giá trị sản lượng
hàng năm đạt gần 2 tỉ $ [36; tr.185]. Số lượng bằng phát minh được cấp giấy
phép ngày càng tăng, từ năm (1815) tăng lên 4.589(1860) [45;tr.309]. Trong
số các phát minh phải kể đến máy tuốt bông của Eli Whitney (1793) đã thúc
đẩy ngành trồng bông ở miền Nam phát triển, kèm theo đó là công nghiệp dệt.
Ở miền Nam, kinh tế nông nghiệp hoàn toàn khác với miền Bắc. Tận
dụng đất đai thổ nhưỡng thích nghi với loại cây trồng nhiệt đới, các chủ đồn
điền chủ yếu canh tác cây bông. Việc trồng cây bông ngày càng mở rộng và
chiếm ưu thế so với các loại cây trồng khác. Bông trở thành cây trồng có giá
trị lợi nhuận cao và đóng vai trò mạch máu trong nền kinh tế của miền Nam.
Những vùng đất màu mỡ của Alabama, Louisiana, Mississippi và Texas rất
thuận lợi cho nghề trồng bông. Số lượng bông sản xuất sau mỗi thập niên tăng
lên gấp đôi:
18
Bảng 1: Số lƣợng bông sản xuất trong thời gian 1810 -1860
Đơn vị: kiện
Năm
Số lƣợng
1810
178.000
1820
355.000
1830
732.000
1840
1.348.000
1850
2.136.000
1860
3.841.000
Nguồn: [1; tr.126]
Bên cạnh những đồn điền trồng bông là đồn điền trồng mía. Chính cơ
sở này làm cho công nghiệp sản xuất đường phát triển. Năm 1744, ở
Louisiana có 762 đồn điền trồng mía, sản lượng đường năm 1860, lên tới 856
tấn. Ở South Carolina và Geogre, lúa gạo trở thành mặt hàng xuất khẩu quan
trọng. Trong vòng 30 năm từ năm (1820 – 1850) sản lượng tăng lên 3 lần. Từ
năm 1850 đến năm 1860 sản lượng thuốc lá cũng tăng gấp 2 lần. Sự phát triển
mạnh mẽ của kinh tế nông nghiệp tư bản chủ nghĩa gắn liền với kinh tế trại
chủ và kinh tế đồn điền, đem lại nguồn sản phẩm dồi dào phong phú cho nước
Mĩ.
Như vậy, chỉ trong thời gian chưa đầy một thế kỉ sau khi giành độc lập
đến giữa thế kỉ XIX, sản xuất công nghiệp của Mĩ đã phát triển vượt bậc.
Năm 1850, giá trị sản lượng công nghiệp đã vượt qua giá trị sản lượng nông
nghiệp. Sản xuất công nghiệp của Mĩ đã vươn lên đứng thứ 4 thế giới sau
Anh, Pháp, Đức.
Sự thịnh vượng kinh tế dẫn đến đòi hỏi tất yếu là phải bành trướng ra
bên ngoài, mặc dù nền kinh tế hai miền Nam Bắc vận động theo hai quỹ đạo
khác nhau.
19
Đối với giai cấp tư sản công thương nghiệp miền Bắc, họ muốn giành
thêm nhiều đất đai cho việc sản xuất lương thực phẩm, nhằm đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của đời sống con người và số lượng dân cư không ngừng tăng
lên ở miền Đông, đồng thời cung cấp nguồn tài nguyên thiên nhiên cho quá
trình công nghiệp hóa. Ngoài ra nhu cầu mở rộng sang thị trường phía Tây
nước Mĩ nhằm tiêu thụ cho các chế phẩm công nghiệp do họ sản xuất ra cũng
được tính đến. Xét về mặt địa lí, thông qua việc mở rộng lãnh thổ, giai cấp tư
sản Mĩ muốn có những hải cảng tại Thái Bình Dương nhằm rút ngắn hành
trình trên đại dương của các thương gia trong việc giao thương với thị trường
phương Đông, đặc biệt là với Trung Quốc.
Đối với giới chủ nô miền Nam, như đã trình bày ở trên, trong số các cây
trồng công nghiệp thì việc canh tác cây bông đem lại giá trị lợi nhuận lớn thông
qua việc xuất khẩu sang châu Âu, nhất là nước Anh. Nhu cầu này không ngừng
tăng mạnh sau cuộc chiên tranh Napoleon làm cho tầng lớp chủ nô càng đẩy
mạnh hơn việc tìm kiếm thêm đất đai mới để canh tác cây bông nhằm thu thêm
nhiều lợi nhuận. Hơn nữa, việc trồng bông khiến đất đai nhanh chóng bạc màu
nên vấn đề đặt ra là cần tìm nguồn đất đai mới bổ sung, bù đắp sự hao mòn của
những vùng đất đai cũ.
Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế mang lại diện mạo khởi sắc
cho hai miền Nam Bắc song cũng dẫn đến hệ lụy về mặt xã hội. Đó là sự bất
đồng ngày càng sâu sắc giữa miền Bắc với chủ trương thủ tiêu chế độ nô lệ
miền Nam với chủ trương ngược lại.
Nền kinh tế đồn điền miền Nam càng phát triển thì phải cần đến nhân
công nô lệ. Trong khi đó, do phải phải làm việc rất cực nhọc trong các đồn
điền và bị đối xử thậm tệ như những con vật nên những nô lệ bị kiệt quệ,
thường xuyên bỏ trốn, làm việc cho chủ nô miền Nam luôn đối mặt sự khủng
hoảng nhân công.
20