Họ và tên:
Tạ Minh Đức
Ngày sinh: 13/6/1985 - Giới tính: Nam
Số CMTND:
012351098 - Dân tộc: Kinh - Tôn giáo: Không
Điện thoại liên hệ: 091.7956.123
Email:
Nghề nghiệp: Giáo viên - Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Khương Mai
Địa chỉ: Ngõ 106, phố Nguyễn Ngọc Nại, Phường Khương Mai,
Quận Thanh Xuân, Hà Nội
Thi viết tìm hiểu
“Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam”
Chủ đề: Tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy mối quan hệ đặc biệt Việt
Nam – Lào, Lào – Việt Nam trong lịch sử của hai dân tộc và trên những chặng
đường phát triển mới.
Thủ tướng Lào Thongloun Sisoulith giới thiệu với Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc
lãnh đạo các bộ, ngành của Lào tham dự lễ đón Đoàn đại biểu cấp cao Chính phủ
Việt Nam đã đến Thủ đô Vientiane, bắt đầu chuyến thăm chính thức CHDCND Lào
tháng 4/2017(Ảnh sưu tầm)
Trong bối cảnh tình hình mới hiện nay, trước những thời cơ và thách thức đối
với cả hai nước, hơn bao giờ hết, chúng ta lại càng cần phải tăng cường và củng cố
mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt, thủy chung trong sáng đã
được đúc kết trong câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu:
"Việt - Lào hai nước chúng ta,
Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long".
1/12
Trên tinh thần đó, hai Ðảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước chúng ta
quyết tâm cùng nhau mãi mãi duy trì và phát triển mối quan hệ thủy chung, trong
sáng - tài sản vô giá của hai dân tộc cho muôn đời con cháu mai sau, như lời Chủ
tịch Lào Cay-xỏn Phôm-vi-hản từng nói "Núi có thể mòn, sông có thể cạn, song tình
nghĩa Lào - Việt sẽ mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông".
Quan hệ hữu nghị truyền thống đặc biệt Việt Nam - Lào đã sớm được gây
dựng, gìn giữ và phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước của hai dân
tộc. Đảng và nhân dân hai nước càng trân trọng hơn, vui mừng hơn với truyền
thống lịch sử bền chặt keo sơn cũng như sự phát triển tốt đẹp của mối quan hệ
song phương Việt - Lào trong thời gian qua. Hơn tám thập kỷ qua, kể từ khi Ðảng
Cộng Sản Ðông Dương ra đời, tình hữu nghị và mối quan hệ đặc biệt Việt Nam Lào đã được các lãnh tụ của hai dân tộc là Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Cayxỏn Phôm-vi-hản trực tiếp đặt nền móng và tiếp tục được các thế hệ lãnh đạo và
nhân dân hai nước dày công vun đắp, trải qua bao biến cố lịch sử, vượt lên mọi
chông gai, thử thách, trở thành mối quan hệ mẫu mực, thủy chung hiếm có.
Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam là nhân tố quyết định
thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của mỗi nước; là quy luật tồn tại và phát triển
của cả hai nước ở hiện tại và tương lai. Cách đây 55 năm, ngày 5-9-1962 đã đánh
dấu một mốc son chói lọi trong quan hệ hữu nghị đặc biệt giữa hai Ðảng, hai nước,
hai dân tộc Việt Nam - Lào, mãi mãi khắc sâu trong tâm trí của hàng triệu người
Lào, người Việt Nam, bởi cũng năm này, sau những thắng lợi giòn giã trên mặt trận
quân sự và ngoại giao, Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1962 về Lào đã được ký kết, hai
nước đã nhất trí thiết lập quan hệ ngoại giao, mở ra một chương mới, củng cố và
phát triển hơn nữa quan hệ Việt Nam - Lào. Vận mệnh của hai nước, hai dân tộc
chúng ta càng gắn bó khăng khít nhau, nhân dân hai nước đã trở thành những người
bạn chiến đấu "chia ngọt sẻ bùi", "đồng cam cộng khổ", những người đồng chí, anh
em thân thiết trên cùng trận tuyến.
Trong các cuộc kháng chiến chống thực dân và đế quốc, đấu tranh giải phóng
dân tộc và giành độc lập của mỗi nước, sự phối hợp, giúp đỡ vô tư, chí tình giữa hai
nước, hai dân tộc chúng ta là nhân tố quan trọng làm nên thắng lợi của cách mạng
mỗi nước. Ðã có biết bao tấm gương chiến đấu, hy sinh của hàng triệu người con
Lào và Việt Nam, nhiều người ngã xuống, vì độc lập, tự do của mỗi nước, vì tình
hữu nghị, đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào. Sự hy sinh cao đẹp và vô cùng to lớn
đó trở thành sức mạnh vô song, nguồn động lực lớn lao, góp phần đưa cách mạng hai
nước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn vào
năm 1975.
2/12
Các chiến sĩ đặc công Sư đoàn 316 (Ảnh tư liệu. Nguồn: Quân đội nhân dân)
Tiêu biểu như thắng lợi của chiến dịch Cánh Đồng Chum-Xiêng ngày 25-41970, sau 6 tháng chiến đấu liên tục. Mùa khô 1969-1970, ta và bạn mở chiến dịch
để thu hồi toàn bộ Cánh Đồng Chum bắt đầu từ ngày 25-10-1969. Trong lực lượng
tham gia của quân tình nguyện Việt Nam có 4 tiểu đoàn và 6 đại đội đặc công.
Chính trị viên d27 trao cờ cho tổ đặc công cắm ở căn cứ Vàng Pao tại Long Chẹng
ngày 17-1-1970. Ảnh: Sách "Đặc công – Nỗi ám ảnh của giặc thù”
Chiến dịch Cánh Đồng Chum-Xiêng Khoảng kết thúc thắng lợi ngày 25-41970, sau 6 tháng chiến đấu liên tục, quyết liệt, giải phóng hoàn toàn Cánh Đồng
Chum, một địa bàn chiến lược quan trọng của cách mạng Lào. Bộ đội đặc công đã
lập nhiều chiến công, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Sau chiến dịch Cánh Đồng
Chum, đầu năm 1971, Sư đoàn 316 và các tiểu đoàn đặc công 13, 27, 4 quân tình
nguyện Việt Nam được lệnh phối hợp với quân giải phóng Lào giành thắng lợi trong
chiến dịch tiêu diệt phỉ Vàng Pao ở khu vực Bản Na, Sảm Thông, Long Chẹng, hoàn
thành nhiệm vụ quốc tế vẻ vang mà Đảng và Tổ quốc giao phó.
3/12
Khẩu đội súng cối 82mm thuộc Đại đội 17, Trung đoàn 174 lập nhiều thành tích trong
chiến dịch phòng ngự Cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng. (Nguồn: Quân đội nhân dân)
Và trong thời kỳ sau đó, tinh thần đoàn kết Việt Nam – Lào lại càng được hun
đúc và tôi luyện hơn khi hai nước nhịp nhàng hỗ trợ nhau trên các mặt trận quân sự
và đối ngoại, làm thất bại âm mưu phá hoại và tiến hành chiến tranh do chủ nghĩa
thực dân mới gây ra, cùng góp phần to lớn giúp nhân dân và các lực lượng vũ trang
hai nước đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác mà đỉnh cao là Đại thắng Mùa Xuân
1975 tại Việt Nam và Chiến thắng ngày 2-12-1975 tại Lào.
Đại thắng mùa Xuân 1975 - Khúc ca hào hùng thế kỷ XX
Thắm tình hữu nghị đặc biệt, son sắt thủy chung Việt Nam - Lào
4/12
Quan hệ Việt Nam - Lào thật sự đặc biệt, thật sự anh em, thật sự máu thịt.
"Bát cơm sẻ nửa, hạt muối cắn đôi" đã trở thành hình tượng bất tử, ngợi ca tình hữu
nghị cao đẹp, chia sẻ sâu sắc cả về vật chất lẫn tinh thần mà nhân dân hai nước
chúng ta đã dành cho nhau trong những năm tháng khó khăn, gian khổ nhất. Việc giữ
gìn và phát huy mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam chính là gìn
giữ thành quả cách mạng mà biết bao thế hệ quân dân hai nước đã hy sinh vì nền
độc lập, tự do của hai nước; giữ gìn truyền thống và bản sắc tốt đẹp của nhân dân
hai nước được lưu truyền qua nhiều thế hệ; gìn giữ công cuộc xây dựng đất nước và
cuộc sống ấm no mà nhân dân hai nước xứng đáng được hưởng. Sau thắng lợi năm
1975, hòa bình lập lại trên đất nước Việt Nam và Lào, quan hệ hai nước bước sang
kỷ nguyên mới, kỷ nguyên hòa bình, độc lập và chung tay xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Nhận thức sâu sắc về ý nghĩa và tầm quan trọng của quan hệ đặc biệt đó, Chính
phủ hai nước đã nhất trí ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác ngày 18-7-1977, một
lần nữa, khẳng định tình đoàn kết đặc biệt trước sau như một, ủng hộ, giúp đỡ lẫn
nhau để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; tăng cường phối hợp hoạt
động đối ngoại nhằm nâng cao vị thế của mỗi nước ở khu vực và trên trường quốc
tế. Nhìn lại chặng đường phát triển quan hệ hai nước trong 55 năm qua và 40 năm ký
kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam - Lào, chúng ta có quyền tự hào khẳng
định, tình đoàn kết đặc biệt thủy chung và sự hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào đã và
đang tiếp tục được củng cố, đổi mới và phát triển sâu rộng hơn, góp phần thiết thực
vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển của mỗi nước. Trong từng
bước tiến của hai nước, hai dân tộc hôm nay, đều có sự đóng góp tích cực của hai
bên làm cho quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào ngày càng keo sơn, bền chặt và không
ngừng đơm hoa kết trái. Nội dung hợp tác ngày càng thực chất, sâu rộng, hiệu quả
hơn và không ngừng phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực.
Quan hệ chính trị được thúc đẩy mạnh mẽ, ngày càng gắn bó tin cậy, các cuộc
tiếp xúc cấp cao giữa lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ và địa phương
hai bên được tiến hành thường xuyên. Hai bên tăng cường các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc
thường xuyên, dưới nhiều hình thức giữa lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai nước; mở
rộng hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa các ban Đảng, các bộ, ngành, các cơ quan, Ủy
ban của Quốc hội, Mặt trận, đoàn thể, tổ chức nhân dân và các địa phương của hai
nước; đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về truyền thống quan hệ đặc biệt Việt Nam Lào, Lào - Việt Nam trong các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ hai nước. Vào
những ngày cuối tháng 4/2017, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Phu nhân dẫn đầu
Đoàn đại biểu cấp cao Chính phủ Việt Nam đã đến Thủ đô Vientiane, bắt đầu
chuyến thăm chính thức CHDCND Lào đúng vào dịp Tết Cổ truyền của Lào mở
màn cho các hoạt động trong Năm Đoàn kết Hữu nghị Việt Nam - Lào, Lào - Việt
Nam nhằm kỷ niệm 55 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao (05/9/1962 5/12
05/9/2017) và 40 năm ngày ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam - Lào
(18/7/1977 - 18/7/2017) có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Đón Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Phu nhân và Đoàn cấp cao Việt Nam tại sân
bay quốc tế Wattay ngày 26/4/2017, về phía Lào có Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ
tướng Sonexay Siphandone; Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Thủ tướng Phet
Phomphiphak và Phu nhân; lãnh đạo Bộ Ngoại giao Lào; lãnh đạo thành phố
Vientiane; Đại sứ Lào tại Việt Nam Thongsavanh Phomvihane. (Ảnh sưu tầm)
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Thủ tướng Lào Thongloun Sisoulith duyệt đội danh dự
Cùng với quan hệ chính trị tốt đẹp sẵn có, quan hệ hợp tác kinh tế Việt Nam Lào trong những năm gần đây ngày càng khởi sắc, bước đầu tạo nền tảng vật chất để
liên kết và củng cố mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước. Đầu tư doanh nghiệp Việt Nam
tại Lào có nhiều khởi sắc, tính đến nay có 258 dự án với tổng số vốn đăng ký gần 5 tỷ
USD. Các dự án đầu tư của Việt Nam vào Lào tập trung có hiệu quả trong các lĩnh vực
thủy điện, khai khoáng, giao thông vận tải, trồng cây công nghiệp… Việt Nam có 15 dự
án đầu tư trong lĩnh vực thủy điện với tổng công suất lắp đặt trên 3000KW; 57 dự án về
khoáng sản; 18 dự án trồng cao su và cây công nghiệp ở Lào. Hai bên phối hợp chặt chẽ
triển khai các dự án vốn viện trợ ODA của Việt Nam dành cho Lào.
6/12
Hai bên ký Hiệp định về hợp tác kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật năm 2013
Không chỉ giới hạn trong hợp tác kinh tế, hợp tác trên các lĩnh vực khác cũng
được hai bên quan tâm thúc đẩy. Hợp tác giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân
lực đã và đang là lĩnh vực được hai bên ưu tiên và đặc biệt quan tâm. Một số dự án
về giáo dục đào tạo đã được triển khai có chất lượng, hiệu quả như: đã xây dựng và
triển khai Đề án "Nâng cao chất lượng và hiệu quả hợp tác Việt Nam - Lào trong
lĩnh vực giáo dục và phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2011-2020”. Hiện nay có
9.295 cán bộ, sinh viên Lào học tập tại Việt Nam và có 425 sinh viên Việt Nam đang
học tập tại Lào. Nhân dịp chuyến thăm chính thức nước CHDCND Lào của Thủ
tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và Đoàn đại biểu cấp cao Chính phủ Việt Nam,
ngày 26/4/29017, tại Thủ đô Viêng Chăn, CHDCND Lào, Thứ trưởng Bộ Giáo dục
và Đào tạo nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam GS TSKH Bùi Văn Ga và
Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Thể thao nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào TS
Koong Sỷ Sengmany đã thay mặt chính phủ hai nước ký kết Nghị định thư về hợp
tác đào tạo giai đoạn 2017-2022 trước sự chứng kiến của Thủ tướng hai nước.
Hai nước Việt Nam – Lào ký kết Nghị định thư về hợp tác giáo dục và đào tạo giai đoạn
2017-2022 trước sự chứng kiến của Thủ tướng hai nước. (Ảnh sưu tầm)
7/12
Nghị định thư về hợp tác đào tạo giai đoạn 2017-2022 mở ra một giai đoạn
hợp tác mới toàn diện và sâu rộng hơn giữa Việt Nam và Lào, với mục tiêu nhằm
giúp cho Lào có nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước Lào anh
em.Nhân dịp này, Thứ trưởng Bùi Văn Ga thay mặt cho Bộ Giáo dục và Đào tạo
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức trao tặng cho Bộ Giáo dục và
Thể thao nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào bộ từ điển Lào-Việt, Việt-Lào, trước
sự chứng kiến của Thủ tướng hai nước. Bộ từ điển Lào-Việt, Việt-Lào là món quà có
ý nghĩa quan trọng nhân dịp hai nước kỷ niệm 55 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại
giao. Đây là bộ từ điển được các chuyên gia Lào, Việt của Nhà xuất bản Giáo dục
Việt Nam và Nhà xuất bản Giáo dục Lào hiệu đính, biên tập trong thời gian 20152016 trên cơ sở bộ từ điển đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam và Bộ Giáo
dục và Thể thao Lào hợp tác biên soạn từ năm 2005 đến 2011.
Nghị định thư về hợp tác đào tạo giai đoạn 2017-2022 mở ra một giai đoạn hợp tác
mới toàn diện và sâu rộng hơn giữa Việt Nam và Lào. (Ảnh sưu tầm)
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tặng bộ từ điển cho Thủ tướng Thủ tướng Thongloun
Sisoulith. (Ảnh sưu tầm)
8/12
Hợp tác an ninh - quốc phòng tiếp tục duy trì tốt với mức độ tin cậy cao, ngày
càng gắn bó chặt chẽ. Hai bên đã hoàn thành Dự án tăng dày và tôn tạo hệ thống
mốc quốc giới Việt Nam - Lào, ký hai văn kiện pháp lý quan trọng là “Nghị định thư
về đường biên giới và mốc quốc giới” và “Hiệp định về quy chế quản lý biên giới và
cửa khẩu biên giới trên đất liền giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Lào”, việc
hoàn thành hệ thống mốc quốc giới đã góp phần hoàn thành chất lượng đường biên
giới Việt Nam - Lào cả về pháp lý và thực tiễn. Hai bên tiếp tục phối hợp tìm kiếm,
cất bốc và hồi hương hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy
sinh tại Lào. Nhận lời mời của Trung tướng Suvone Leuangbounmy, Ủy viên Trung
ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân
dân Lào, Trung tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường
vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đã
dẫn đầu Đoàn đại biểu quân sự cấp cao Quân đội nhân dân Việt Nam sang thăm
chính thức nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào từ ngày 15-17/3.
Thủ tướng Lào Thongloun Sisoulith tiếp Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Văn Giang.
Về hợp tác trong lĩnh vực điện và khai khoáng: Trong số 18 dự án (tổng công
suất 3723 MW) thủy điện tại Lào mà các doanh nghiệp Việt Nam được Chính phủ
Lào cấp phép, có 2 dự án đang triển khai xây dựng; số dự án đang thực hiện MOU:
11 dự án; thực hiện hợp đồng phát triển dự án (PDA) là 3 dự án, 2 dự án trả lại
Chính phủ. Dự án thủy điện Xekaman 3 phát điện thương mại vào cuối năm 2013.
Trong lĩnh vực khai khoáng, doanh nghiệp Việt Nam hiện đang đầu tư 55 dự án khai
thác khoáng sản tại Lào với 36 doanh nghiệp, trong đó, 25 dự án đang tìm kiếm; 20
dự án khảo sát; 3 dự án nghiên cứu khả thi; 7 dự án đang khai thác, trên tổng diện
tích 2.045.814 ha.Tại Hội nghị Hợp tác phát triển ngành Công Thương Việt – Lào
tháng 9/2016, Phó Thủ tướng Somdy Duangdy chấp thuận những kiến nghị phía Bộ
Công Thương Việt Nam và cũng đề nghị Bộ trưởng Trần Tuấn Anh tiếp tục chỉ đạo
9/12
triển khai đúng tiến độ các dự án thủy điện, khai khoáng của Việt Nam ở Lào, đặc
biệt là dự án muối mỏ kali, bởi đây là dự án quan trọng mà lãnh đạo Chính phủ hai
nước đều rất quan tâm.
Bộ trưởng Trần Tuấn Anh tiếp kiến Phó Thủ tướng Somdy Duangdy tháng 9/2016
Đặc biệt, phó Thủ tướng Somdy Duangdy chấp thuận những kiến nghị phía
Bộ Công Thương Việt Nam và cũng đề nghị Bộ trưởng Trần Tuấn Anh tiếp tục chỉ
đạo triển khai đúng tiến độ các dự án thủy điện, khai khoáng của Việt Nam ở Lào,
đặc biệt là dự án muối mỏ kali, bởi đây là dự án quan trọng mà lãnh đạo Chính phủ
hai nước đều rất quan tâm. Ghi nhận những nỗ lực và đóng góp quan trọng trong
việc thúc đẩy mối quan hệ hợp tác hữu nghị hai nước và hợp tác phát triển lĩnh vực
Công Thương giữa Việt Nam và Lào trong suốt thời gian qua, Chủ tịch nước
CHDCND Lào đã quyết định tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhất cho
Thứ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Cẩm Tú.
Lễ đón nhận Huân chương hạng Nhất (Ảnh sưu tầm)
Về lĩnh vực tài chính, ngân hàng, viễn thông và dịch vụ: Đây là lĩnh vực hợp
tác kinh tế Việt Lào được đánh giá là có hiệu quả nhất. Các doanh nghiệp Việt Nam
tham gia liên doanh trong các lĩnh vực ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, dịch vụ điện
10/12
thoại di động, internet hay đầu tư 100% vốn như PV Oil Lào đều đạt hiệu quả cao.
Trong lĩnh vực bất động sản: Các dự án đầu tư hợp tác kinh tế Việt Lào vào lĩnh vực
bất động sản cũng thu được nhiều thành công. Có thể kể như dự án Golf Long
Thành, dự án phát triển bất động sản tại Viêng Chăn của HAGL, góp vốn xây dựn
SVĐ Quốc gia Lào, dự án khách sạn tại Champasak của công ty Tín Nghĩa (Đồng
Nai). Về thương mại: Kim ngạch thương mại hai chiều Việt Nam – Lào không
ngừng tăng nhanh trong những năm gần đây. Tốc độ trung bình 30%/năm…
Có thể nói, gìn giữ, phát huy mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt
Nam là mong muốn và nguyện vọng chính đáng của nhân dân hai nước về tất cả các
mặt chính trị, kinh tế, thương mại, giáo dục, an ninh quốc phòng… vì sự bền vững;
là góp phần làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động
hòng xuyên tạc, chia rẽ mối quan hệ tốt đẹp giữa hai nước, hai dân tộc. Trong thời
gian tới, trước những biến động phức tạp và khó lường của tình hình thế giới và yêu
cầu phát triển của mỗi nước, hai nước đặt ưu tiên cao nhất cùng phấn đấu nâng quan
hệ hữu nghị truyền thống tình đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện Việt – Lào
lên tầm cao mới, theo phương châm chất lượng và hiệu quả, góp phần giữ vững ổn
định an ninh chính trị, tăng trưởng kinh tế bền vững, hội nhập ngày càng sâu rộng và
có vị thế xứng đáng trên trường quốc tế.
Một thế giới được dự đoán sẽ có nhiều biến động với tình hình bất ổn về chính
trị như tình hình hạt nhân ở bán đảo Triều Tiên; việc các quốc gia vùng vịnh Ả Rập
Saudi, Bahrain, Ai Cập và Các tiểu vương quốc Ả Rập (UAE) cắt ngoại giao giữa
Qata dẫn tới nguy cơ chiến tranh; hay nội chiến kéo dài ở Syria, Iraq hay Yemen;
tình hình khủng bố al-Qaeda hay mới nhất là mạng lưới khủng bố của nhà nước Hồi
giáo tự xưng IS đã lan rộng khắp toàn cầu với những vụ đánh bom liều chết ở các
nước Anh, Pháp, Đức, Philippin…; mẫu thuẫn về vấn đề hạt nhân giữa Iran với Mỹ
và các nước phương Tây dẫn tới nguy cơ xảy ra chiếc tranh vùng vịnh lần thứ 3; và
đặc biệt là việc Trung Quốc vẽ ra “đường lưỡi bò” phi lý rằng Biển Đông là của
nước này, bất chấp quyền lợi chính đáng theo luật pháp quốc tế của các nước khác;
vấn đề chủ quyền biển đảo (Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam)…
11/12
Là thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước, tôi thấy việc giữ gìn và
phát huy mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam là một nhiệm vụ chính
trị quan trọng, gắn liền và quyết định tới mọi thành công của mỗi nguồn trong công
cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
- Không ngừng củng cố, nghiên cứu, giáo dục, phát triển và làm sâu sắc hơn
nữa mối quan hệ đặc biệt hiếm có giữa hai dân tộc Việt – Lào qua các kênh thông tin
đại chúng, luôn cập nhật quan hệ Việt-Lào qua các cuộc gặp mặt cấp cao, quan hệ
ngoại giao, quan hệ hợp tác phát triển về Chính trị - An ninh quốc phòng - Kinh tế Văn hóa - TDTT giữa hai nước:
- Kiến nghị lãnh đạo Quận, Phòng GD&ĐT Quận Thanh Xuân thường xuyên
tổ chức các buổi tọa đàm, găp mặt, giao lưu văn hóa, văn nghệ hoặc tổ chức các cuộc
thi có nội dung về phát triển quan hệ Việt-Lào.
- Vận động, tuyên truyền mọi người tham gia các cuộc thi bổ ích, lý thú về tìm
hiểu quan hệ Việt-Lào.
- Lồng ghép dạy học sinh về quan hệ Việt-Lào trong các tiết dạy ngoài giờ
chính khóa, tuyên truyền qua các buổi SHTT, phát thanh măng măng non, sinh hoạt
sao… Bản thân tôi là giáo viên Tin học, tôi có thể tổ chức cho học sinh thi vẽ tranh
trên Paint, hoặc cho học sinh thực hành soạn thảo văn bản có nội dung ca ngợi quan
hệ đặc biệt tốt đẹp giữa Việt Nam và Lào.
Bản thân tôi là một người thầy giáo, tôi cần tiếp tục nghiên cứu tài liệu, sách
báo và các kênh thông tin về lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam;
tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy mối quan hệ đặc biệt đó, cách tôi nghĩ,
cách tôi làm sẽ được hình thành, phổ biển và nhân rộng trong lớp lớp học trò của
mình để tăng cường và củng cố mối quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc
biệt, thủy chung trong sáng giữa nhân dân hai nước Việt Nam-Lào.
Hà Nội, ngày 09 tháng 6 năm 2017
Người viết
Tạ Minh Đức
12/12