Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Trường nghĩa trong truyện Nguyễn Nhật Ánh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (887.5 KB, 55 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

ĐINH VŨ HẢI ANH

TRƯỜNG NGHĨA TRONG TRUYỆN
NGUYỄN NHẬT ÁNH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Hà Nội - 2017


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

ĐINH VŨ HẢI ANH

TRƯỜNG NGHĨA TRONG TRUYỆN
NGUYỄN NHẬT ÁNH
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học

Người hướng dẫn khoa học:

ThS. NGUYỄN THỊ HIỀN

HÀ NỘI - 2017



LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý Thầy Cô, những người đã tận
tình giảng dạy, động viên, giúp đỡ, nhận xét và đóng góp ý kiến cho tôi trong
quá trình học tập cũng như khi thực hiện khóa luận.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thạc sĩ Nguyễn Thị Hiền, người
đã tận tình hướng dẫn, hết lòng giúp đỡ để tôi hoàn thành tốt khóa luận này.
Xin chân thành cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã tạo điều kiện, giúp đỡ,
khuyến khích, động viên tôi trong quá trình thực hiện khóa luận này.
Khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót, chúng tôi rất mong nhận
được sự đóng góp, giúp đỡ của quý Thầy Cô và các bạn.
Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Sinh viên

Đinh Vũ Hải Anh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của Thạc sĩ Nguyễn Thị Hiền. Các luận cứ nêu trong khóa luận là
xác thực. Những kết luận khoa học của khóa luận chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác. Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, ngày tháng năm 2017
Sinh viên

Đinh Vũ Hải Anh


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1

1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 4
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 4
6. Đóng góp của khóa luận................................................................................ 5
7. Cấu trúc khóa luận ........................................................................................ 5
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................... 6
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN ........................................................................ 6
1.1. Trường nghĩa .............................................................................................. 6
1.1.1. Khái niệm trường nghĩa ...................................................................... 6
1.1.2. Phân loại trường nghĩa ........................................................................ 7
1.2. Mối quan hệ giữa trường nghĩa với ngôn ngữ văn chương ..................... 10
1.2.1. Trường biểu vật và ngôn ngữ văn chương ........................................ 10
1.2.2. Trường biểu niệm và ngôn ngữ văn chương ..................................... 12
1.2.3. Trường nghĩa tuyến tính và ngôn ngữ văn chương........................... 13
1.2.4. Trường liên tưởng và ngôn ngữ văn chương .................................... 13
1.3. Đặc điểm ngôn ngữ của truyện Nguyễn Nhật Ánh .................................. 14
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 15
CHƯƠNG 2..................................................................................................... 16
MỘT SỐ TRƯỜNG NGHĨA TRONG TRUYỆN NGUYỄN NHẬT ÁNH .. 16
2.1. Kết quả khảo sát, thống kê ....................................................................... 16
2.2. Phân loại trường nghĩa trong truyện Nguyễn Nhật Ánh .......................... 25
2.2.1. Trường nghĩa con người.................................................................... 25
2.2.2. Trường nghĩa loài vật ........................................................................ 39
2.2.3. Trường nghĩa đồ vật .......................................................................... 41
2.2.4. Trường nghĩa “trò chơi trẻ thơ” ........................................................ 44


Tiểu kết chương 2............................................................................................ 47

PHẦN KẾT LUẬN ......................................................................................... 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Những năm gần đây, tiếp cận văn chương từ góc độ ngôn ngữ là vấn đề
thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Trong đó, từ và sự vận động
của từ trong trường nghĩa đang là điểm trọng được chú ý nhiều. Khi tiếp cận
một tác phẩm văn chương, trước hết là tiếp cận về mặt câu chữ bởi lẽ ngôn
ngữ văn chương bao giờ cũng là ngôn ngữ nghệ thuật, là sự sáng tạo có mục
đích của tác giả. Ngôn ngữ văn chương không chỉ chú trọng đến cảm xúc, đến
tình cảm mà còn chú ý đến tính hệ thống và tính chính xác. Từ ngữ được sử
dụng trong văn chương một cách có chủ ý và thống nhất sẽ làm tăng thêm vẻ
tinh tế đó. Việc xác lập nghiên cứu các trường nghĩa đã tạo điều kiện thuận lợi
cho việc nghiên cứu nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ nói chung và của từ nói
riêng, đồng thời cũng giúp ích rất nhiều trong việc lựa chọn, kết hợp từ để tạo
lời, phục vụ mục đích giao tiếp.
1.2. Nguyễn Nhật Ánh từ lâu đã được những độc giả nhỏ tuổi nhắc đến với
bao tình cảm trìu mến. Cây bút tài năng xứ Quảng sinh năm 1955 này đã trở
thành một hiện tượng văn học đặc biệt, bởi không chỉ trẻ em tìm thấy tuổi thơ
sinh động, hồn nhiên, chân thật của chính mình mà ngay cả người lớn khi đọc
tác phẩm của ông còn nhận được những “tấm vé” về lại tuổi thơ. Truyện
Nguyễn Nhật Ánh còn hấp dẫn người đọc bởi các trường nghĩa mang đậm
chất trẻ thơ hồn nhiên, trong sáng. Bằng ngòi bút đầy say mê của mình,
Nguyễn Nhật Ánh đã đóng góp không nhỏ cho nền văn học thiếu nhi Việt
Nam sau 1975.
Nguyễn Nhật Ánh là nhà văn có khối lượng sáng tác khá lớn và có sức
ảnh hưởng. Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ và Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh
có thể nói là hai tác phẩm tiêu biểu cho truyện viết về thiếu nhi của ông và đã

được độc giả trong và ngoài nưới đón nhận một cách nồng nhiệt. Với giọng
1


văn dí dỏm, Nguyễn Nhật Ánh đã làm cho độc giả như được hóa thân vào
nhân vật truyện, đắm mình trong kí ức tuổi thơ.
Xuất phát từ những lí do trên cùng với niềm yêu thích truyện Nguyễn
Nhật Ánh, chúng tôi chọn đề tài Trường nghĩa trong truyện Nguyễn Nhật
Ánh. Thực hiện đề tài này chúng tôi mong muốn góp phần làm rõ một số
trường nghĩa trong ngôn ngữ nói chung và truyện Nguyễn Nhật Ánh nói
riêng.
2. Lịch sử vấn đề
Lí thuyết về trường nghĩa đã được các nhà ngôn ngữ thế giới quan tâm từ
rất sớm, có thể kể đến các tên tuổi như: M.Pokrovxkij, J.Trier,
L.Weisgerbe,… Ở Việt Nam, tác giả Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Đức Tồn, Bùi
Minh Toán… là những người sớm nghiên cứu và có nhiều đóng góp về lí
thuyết trường nghĩa.
Năm 1973, Đỗ Hữu Châu có công trình Trường từ vựng và hiện tượng
đồng nghĩa, trái nghĩa. Trong công trình này, Đỗ Hữu Châu nêu các hiện
tượng đồng nghĩa, trái nghĩa của từ thông qua việc phân tích các trường từ
vựng.
Trên tạp chí Ngôn ngữ số 3 năm 1974, Đỗ Hữu Châu có bài viết Trường
từ vựng ngữ nghĩa và việc dùng từ ngữ trong tác phẩm nghệ thuật.
Năm 1975, Đỗ Hữu Châu tiếp tục trình bày cụ thể về trường và việc
nghiên cứu từ vựng.
Các nhà nghiên cứu đã áp dụng lí thuyêt trường nghĩa để nghiên cứu tiếng
Việt. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như:
Luận án PTS Trường từ vựng tên gọi bộ phận cơ thể người của Nguyễn
Đức Tồn năm 1988 đã nêu khái niệm trường tự vựng- ngữ nghĩa khá hoàn
thiện.


2


Luận án PTS Đặc điểm trường từ vựng- ngữ nghĩa tên gọi động vật (trên
tư liệu đối chiếu tiếng Việt với tiếng Nga) của Nguyễn Thúy Khanh năm
1996.
Nghiên cứu về trường nghĩa trong các tác phẩm văn học nghệ thuật có
một số công trình như:
Luận văn thạc sĩ Hiện tượng chuyển trường nghĩa trong thơ Đồng Đức
Bốn của Nguyễn Thị Hiền năm 2013, cũng đã đi vào nghiên cứu việc sử dụng
trường nghĩa và di chuyển trường nghĩa từ vựng, từ đó lí giải về giá trị của
thơ Đồng Đúc Bốn ở phương diện ngôn ngữ.
Khóa luận tốt nghiệp Khảo sát trường nghĩa trong tác phẩm viết về người
nông dân của Nam Cao – Nguyễn Thị Thoa, năm 2006.
Khóa luận tốt nghiệp Khảo sát trường nghĩa trong tác phẩm Nguyễn Huy
Thiệp – Nguyễn Thị Hồng, năm 2010.
Như vậy, nghiên cứu về trường nghĩa nói chung đã thu hút được sự chú ý
của nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ. Vấn đề trường nghĩa mà cụ thể hơn là
các trường nghĩa trong truyện Nguyễn Nhật Ánh vẫn chưa có công trình hay
bài viết nào đề cập đến một cách hệ thống.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của khóa luận là làm rõ hơn bản chất của trường nghĩa nói
chung và trường nghĩa trong tác phẩm văn chương nói riêng, cụ thể ở đây là
các trường nghĩa trong truyện Nguyễn Nhật Ánh. Qua đó, khóa luận cũng
góp thêm sự lí giải về giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện Nguyễn Nhật
Ánh từ góc nhìn ngôn ngữ học.

3



Việc nghiên cứu một số trường nghĩa của khóa luận còn nhằm phục vụ
cho thực tế học tập và giảng dạy tác phẩm văn chương nghệ thuật trong nhà
trường.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, khóa luận đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu
sau:
- Xác định cơ sở lí luận của đề tài.
- Khảo sát, thống kê và phân loại ngữ liệu.
- Phân tích và miêu tả một số trường nghĩa trong truyện Nguyễn Nhật
Ánh
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng của đề tài này là một số trường nghĩa trong truyện Nguyễn
Nhật Ánh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi tập trung khảo sát một số trường nghĩa trong hai truyện Tôi
thấy hoa vàng trên cỏ xanh và Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ của Nguyễn
Nhật Ánh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình triển khai đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp
và thủ pháp sau:
- Phương pháp miêu tả để miêu tả đặc điểm của các từ thuộc một số
trường nghĩa trong truyện Nguyễn Nhật Ánh.
- Phương pháp phân tích để làm rõ giá trị biểu hiện của các từ thuộc một
số trường nghĩa trong truyện Nguyễn Nhật Ánh.

4



- Thủ pháp thống kê dùng để tổng hợp ngữ liệu, qua đó nắm được một
cách khái quát về một số trường nghĩa trong truyện Nguyễn Nhật Ánh.
- Thủ pháp phân loại dùng để phân loại ngữ liệu và xác định các đặc
điểm của từ thuộc một số trường nghĩa trong truyện Nguyễn Nhật Ánh.
6. Đóng góp của khóa luận
Về mặt lí luận, khóa luận làm rõ lí thuyết về trường nghĩa ứng dụng
trong tác phẩm văn chương, làm rõ vai trò của việc sử dụng từ ngữ thuộc một
số trường nghĩa mang đậm chất trẻ thơ trong truyện Nguyễn Nhật Ánh. Từ
đó, khóa luận hướng tới khẳng định những đóng góp của nhà văn về ngôn ngữ
nghệ thuật.
Về mặt thực tiễn, khóa luận giúp cho người đọc có một cái nhìn cụ thể
hơn, đa chiều hơn về truyện của Nguyễn Nhật Ánh, cụ thể ở đây là cái nhìn từ
góc độ ngôn ngữ học.
7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa
luận được cấu trúc làm 2 chương:
- Chương 1: Cơ sở lí luận
- Chương 2: Một số trường nghĩa trong truyện Nguyễn Nhật Ánh

5


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Trường nghĩa
1.1.1. Khái niệm trường nghĩa
Ngôn ngữ là một hệ thống điển hình bao gồm tổng thể các yếu tố và
các yếu tố đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau theo nhiều kiểu dạng khác
nhau. Nằm trong hệ thống ngôn ngữ ấy, các đơn vị từ vựng cũng không tồn

tại biệt lập, tách rời mà luôn có những mối quan hệ nhất định cả về hình thức
lẫn ngữ nghĩa. Quan hệ về ý nghĩa giữa các đơn vị từ vựng là một trong
những mối quan hệ được các nhà khoa học ngôn ngữ quan tâm làm rõ. Các từ
đồng nhất về nghĩa được tập trung thành các nhóm gọi là trường nghĩa (hay
trường từ vựng hoặc trường từ vựng ngữ nghĩa).
Lí thuyết trường nghĩa được một số nhà ngôn ngữ học người Đức, Nga
và Thụy Sĩ đưa ra vào những thập kỉ 20 và 30 của thế kỉ XX với các tên tuổi
như M.M. Pokrovxki, F.de. Sausure, G. Ipsen, W. Porzig, J.Trier.... Ở Việt
Nam, lí thuyết về trường nghĩa mới được đề cập đến trong vài chục năm trở
lại đây.
Ở Việt Nam, trường nghĩa cũng là đối tượng được nhiều nhà nghiên
cứu đề cập đến như: Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Hoàng Trọng Phiến,
Đỗ Việt Hùng… trong đó tiêu biểu nhất là nhà nghiên cứu Đỗ Hữu Châu. Từ
những năm 80 của thế kỉ trước, Đỗ Hữu Châu là người đã giới thiệu trường
trong một loạt các công trình trên những phương diện lịch sử vấn đề, hệ thống
hóa các quan điểm phương pháp của các nhà ngôn ngữ học thế giới, đồng thời
đưa ra các tiêu chí cũng như phương pháp xác lập trường.
Qua thực tế nghiên cứu, Đỗ Hữu Châu đã khẳng định rằng: Những
quan hệ về ngữ nghĩa giữa các từ sẽ hiện ra khi đặt được các từ vào những hệ
thống con thích hợp. Nói cách khác, tính hệ thống về ngữ nghĩa của từ vựng
6


thể hiện qua những tiểu hệ thống ngữ nghĩa trong lòng từ vựng và quan hệ
ngữ nghĩa giữa các từ riêng lẻ thể hiện qua quan hệ giữa những tiểu hệ thống
ngữ nghĩa chứa chúng. [4,156]
Từ đó, Đỗ Hữu Châu đã đưa ra định nghĩa: Mỗi tiểu hệ thống ngữ
nghĩa được gọi là một trường nghĩa. Đó là những từ đồng nhất với nhau về
ngữ nghĩa. [4, 157]. Quan niệm này lấy tiêu chí ngữ nghĩa làm cơ sở cho việc
phân lập trường nghĩa. Đây là quan niệm có tính chất định hướng cho các

quan niệm về trường nghĩa của các nhà Việt ngữ khác sau ông.
Khóa luận của chúng tôi lấy quan niệm về trường nghĩa của Đỗ Hữu
Châu làm cơ sở lí thuyết để nghiên cứu.
1.1.2. Phân loại trường nghĩa
F. De Saussure trong Giáo trình ngôn ngữ học đại cương đã chỉ ra hai
dạng: quan hệ ngang (hay quan hệ hình tuyến, quan hệ tuyến tính, quan hệ
ngữ đoạn) và quan hệ dọc (hay quan hệ trực tuyến, quan hệ hệ hình). Dựa vào
hai quan hệ cơ bản trong ngôn ngữ, Đỗ Hữu Châu chia trường nghĩa tiếng
Việt thành các loại khác nhau: trường nghĩa biểu vật, trường nghĩa biểu niệm
(hai trường nghĩa dựa vào quan hệ dọc); trường nghĩa tuyến tính (dựa vào
quan hệ ngang) và trường nghĩa liên tưởng (dựa vào sự kết hợp giữa quan hệ
dọc và quan hệ ngang).
1.1.2.1. Trường nghĩa biểu vật
Trường nghĩa biểu vật là “một tập hợp những từ đồng nghĩa về ý nghĩa biểu
vật” [5, 170]. Chẳng hạn, trường nghĩa biểu vật về tay: cổ tay, bàn tay, ngón tay,
bắp tay, cầm, bám, bưng… Đây là các đơn vị từ cùng phạm vi biểu vật tay.
Các trường nghĩa biểu vật lớn có thể chia thành các trường nghĩa biểu
vật nhỏ. Đến lượt mình, các trường nghĩa biểu vật nhỏ này cũng có thể phân
chia thành các trường nghĩa biểu vật nhỏ hơn nữa.
Chẳng hạn, trường nghĩa biểu vật về tay:
7


+ Trường nghĩa chỉ bộ phận của tay: cánh tay, bàn tay, cổ tay, ngón tay,
đốt, móng, hoa tay,…
+ Trường nghĩa đặc điểm ngoại hình của tay: (ngón tay) búp măng, dùi
đục, (bàn tay) mỏng, dày, thô, cứng, mềm mại…
+

Trường nghĩa chỉ hoạt động của tay (chưa phân hóa): ấn, ẩy, bám,


băm, bắt, cào, cấy, chép, chẻ…
Số lượng từ ngữ và cách tổ chức của các trường nghĩa biểu vật rất khác
nhau. Sự khác nhau này diễn ra giữa các trường lớn với nhau và giữa các
trường nhỏ trong một trường lớn. Nếu so sánh các trường cùng một tên gọi
trong các ngôn ngữ với nhau thì sự khác nhau trên còn rõ hơn nữa.
Nếu tạm gọi một trường nhỏ (hay một nhóm nhỏ trong một trường nhỏ)
là một “miền” của trường, thì thấy, các miền thuộc các ngôn ngữ rất khác
nhau. Có những miền trống – tức không có từ ngữ - ở ngôn ngữ này nhưng
không trống ở ngôn ngữ kia, có miền có mật độ cao trong ngôn ngữ này
nhưng lại thấp trong ngôn ngữ kia.
Vì từ có nhiều nghĩa biểu vật, cho nên, từ có thể nằm trong nhiều
trường biểu vật khác nhau, hệ quả là các trường nghĩa biểu vật có thể “giao
thoa”, “thẩm thấu”. Xét trường biểu vật về người và trường biểu vật về động
vật, ta sẽ thấy rất rõ điều này. Trường nghĩa người sẽ bao gồm các từ: đầu,
tóc, mắt, cổ , bụng, tay, chân, mũi, miệng, mồm, răng, lưỡi, ruột, dạ dày, thịt,
lông, ăn, uống, chạy, nhảy, khóc, cười, hát, ngủ, nằm… Trường nghĩa động
vật sẽ gồm các từ: đầu, đuôi, sừng, cổ, mắt, chân, mũi, răng, lưỡi, ruột, dạ
dày, da, máu, chạy, nhảy, hót, hí, hú, ngủ, nằm… Hầu hết các từ nằm trong
trường động vật đều nằm trong trường người, ví dụ các từ: đầu, cổ, mắt, chân,
mũi, miệng, lưỡi, dạ dày, ăn, uống, chạy, nhảy, ngủ, nằm… Ta nói trường
người và trường động vật giao thoa, thẩm thấu vào nhau. Mức độ giao thoa
của các trường tỉ lệ thuận với số lượng từ chung giữa các trường với nhau.

8


Quan hệ của các từ ngữ đối với một trường nghĩa biểu vật không giống
nhau. Có những từ điển hình cho trường được gọi là hướng tâm, có những từ
không điển hình cho trường được gọi là từ hướng biên. Từ hướng tâm gắn rất

chặt với trường làm thành cái lõi trung tâm quy định những đặc trưng ngữ
nghĩa của trường. Từ hướng biên gắn bó lỏng lẻo hơn và mỗi lúc một đi xa
khỏi lõi, liên hệ với trường mờ nhạt đi. Ở ví dụ về trường người và trường
động vật trên, các từ hướng tâm là các từ chỉ có ở trường này mà không có ở
trường kia, các từ hướng tâm của trường người như khóc, buồn, hát…, các từ
hướng tâm của động vật là các từ hí, hót, hú, đuôi… Từ hướng biên của
chúng là những từ xuất hiện ở cả hai trường như đầu, chân, mắt, mũi, ruột,
dạ dày, chạy, nằm, ăn, uống…
1.1.2.2. Trường nghĩa biểu niệm
Trường nghĩa biểu niệm là “một tập hợp các từ có chung một cấu trúc
biểu niệm [5, 176]. Chẳng hạn, trường nghĩa biểu niệm (vật thể nhân tạo)
(thay thế hoặc tăng cường công tác lao động) (bằng tay): dao, cưa, búa, đọc,
khoan, lưới, nơm, dao, kiếm….
Cũng như các trường nghĩa biểu vật, các trường biểu niệm có thể phân
chia thành các trường nghĩa biểu niệm nhỏ và cũng có những “miền” với
những mật độ khác nhau.
Từ có nhiều nghĩa biểu niệm, bởi vậy, một từ có thể đi vào nhiều
trường nghĩa biểu niệm khác nhau. Vì thế, cũng giống như trường nghĩa biểu
vật, các trường nghĩa biểu niệm cũng có thể giao thoa, thẩm thấu vào nhau và
cũng có lõi trung tâm với các từ điển hình và những từ ở những lớp kế cận
trung tâm, những từ ở lớp ngoại vi.
1.1.2.3. Trường nghĩa tuyến tính
Trường nghĩa tuyến tính là tập hợp từ có thể kết hợp với một từ gốc để
tạo ra các chuỗi tuyến tính (cụm từ, câu) chấp nhận được trong ngôn ngữ.

9


Chẳng hạn, trường nghĩa tuyến tính của từ chân là mềm, ấm, lạnh,…đứng, đi,
nhảy, đá…

Để xác lập được trường nghĩa tuyến tính, chúng ta chọn một từ làm gốc
rồi tìm tất cả những từ có thể kết hợp với nó thành chuỗi tuyến tính (cụm từ,
câu) chấp nhận được trong ngôn ngữ.
Cùng với các trường nghĩa dọc (trường nghĩa biểu vật và trường nghĩa
biểu niệm), các trường nghĩa tuyến tính góp phần làm sáng tỏ những quan hệ
và cấu trúc ngữ nghĩa của từ vựng, phát hiện những đặc điểm nội tại và những
đặc điểm hoạt động của từ.
1.1.2.4. Trường nghĩa liên tưởng
Trường nghĩa liên tưởng là tập hợp từ có chung một nét nghĩa ấn
tượng tâm lí được một từ gợi ra [5, 186]. Chẳng hạn, trường nghĩa của từ đỏ
gồm các đơn vị từ vựng: đỏ tươi, đỏ tía, lửa, máu, sức sống, may mắn,…
Các từ trong một trường liên tưởng là sự hiện thực hóa, cố định bằng từ
các ý nghĩa liên hội có thể có của từ trung tâm.
Các từ trong một trường liên tưởng trước hết là những từ cùng nằm
trong trường biểu vật, trường biểu niệm và các trường tuyến tính, tức là
những từ có quan hệ cấu trúc đồng nhất và đối lập về ngữ nghĩa với từ trung
tâm. Song, trong trường liên tưởng còn có nhiều từ khác được liên tưởng tới
do sự xuất hiện đồng thời với từ trung tâm trong những ngữ cảnh có chủ đề
tương đối đồng nhất, lặp đi lặp lại. Điều này khiến cho các trường liên tưởng
có tính dân tộc, tính thời đại và tính cá nhân.
1.2. Mối quan hệ giữa trường nghĩa với ngôn ngữ văn chương
1.2.1. Trường biểu vật và ngôn ngữ văn chương
Tác giả Đỗ Hữu Châu đã nhận xét như : các từ trong một trường biểu vật
thường lôi kéo nhau chuyển nghĩa theo một hướng nhất định.

10


Nếu các từ chuyển theo ẩn dụ thì thường xảy ra sự chuyển trường biểu
vật, có nghĩa là các từ thuộc trường biểu vật này kéo theo nhau chuyển sang

trường biểu vật khác tạo nên hiện tượng được gọi là cộng hưởng ngữ nghĩa.
Ví dụ: từ “lửa” chuyển sang trường tình cảm, trạng thái tâm lý thì kéo
theo các từ hừng hực, rực, bốc, nhen nhóm, đốt, tàn… cùng chuyển sang
trường đó (nhen nhóm một tình yêu).
Trong văn chương, các từ ngữ trong một câu văn, một đoạn văn thường
kéo theo nhau theo cùng một trường để tạo ra sự phù hợp về trường nghĩa
biểu vật. Có thể nói tới hình ảnh chủ đạo (tức ẩn dụ, hoán dụ) của đoạn văn,
câu văn (hay của một tác phẩm), hình ảnh chủ đạo thuộc trường biểu vật nào
thì kéo theo các từ khác cùng trường với nó:
Không đâu, gió nén từ tám hướng đang bung ra. Một cơn bão đang đến.
Lao vào Nam Lào, con thuyền Việt Nam hóa chiến tranh của Nich Xơn đã lao
vào trung tâm một cơn bão lớn. Bão nổi ở Cha Kia, La Tương… Bão quật
sang đỉnh cao 500 xoáy vụn tiểu đoàn 39… Bão dập xuống đồi 456 xẻ nát tiểu
đoàn 3 và cuốn sạch chỉ huy lữ đoàn 4… Bão xoáy lốc trên ngọn 550 vùi luôn
tất cả những khẩu pháo hạng nặng cùng với lữ đoàn số 147… Bão dồn gió
thép về bản Đông. (Báo Quân Đội nhân dân, ngày 9-4-1971)
Hình ảnh chủ đạo là bão táp kéo theo các từ gió, nén, hướng trung tâm,
nổi, quật, dồn, cuốn, lốc…
Hình ảnh chủ đạo có khi được nói rõ ra, có khi được hiểu ngầm qua các
từ cùng trường trong đoạn văn.
Mặt khác, với văn chương, sáng tạo trong hình ảnh ngôn ngữ thường là
sáng tạo cục bộ, bắt nguồn từ nguyên mẫu đã có từ trước, nguyên mẫu được
chứa trong các ẩn dụ, hoán dụ truyền thống. Điều này giải thích tính truyền
thống và tính sáng tạo trong các hình ảnh văn chương. Bên cạnh đó, tác động
của trường biểu vật còn thể hiện ở cái gọi là các lực hướng tâm và li tâm của

11


trường. Theo Han Sprerber, nguồn gốc chủ yếu của sáng tạo văn học và

chuyển nghĩa là các lực cảm xúc. Do đó, ở mỗi cá nhân cũng có những phạm
vi tư tưởng riêng, những ám ảnh riêng, gây ra những lực cảm xúc riêng ở từng
người. Chúng tác động theo hai hướng: một mặt chúng “bành trướng” ra lấn
vào các phạm vi tư tưởng và từ ngữ khác và hút về mình những từ ngữ thuộc
những lĩnh vực khác.
Thí dụ: Trước đây 28 năm, phạm vi tư tưởng trung tâm của nước ta là
chiến đấu, chúng ta thấy những từ ngữ thuộc trường quân sự, lấn sang cáh, coi nó như một người bạn.
Hình ảnh bàn tay dưới con mắt của những đứa trẻ như Thiều, Tường bỗng trở
nên sinh động và thật hấp dẫn.
2.2.1.4. Trường nghĩa chỉ trạng thái tâm lí
Khi miêu tả thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp của các nhân vật,
Nguyễn Nhật Ánh đã sử dụng một số lượng lớn từ chỉ trạng thái tâm lí. Nhờ
hệ thống từ ngữ thuộc trường nghĩa chỉ trạng thái tâm lí vô cùng đa dạng và
độc đáo, bạn đọc sẽ hiểu được những tâm tư của trẻ thơ. Theo kết quả thống
kê, có khoảng 95 từ thuộc trường nghĩa chỉ trạng thái tâm lí với 439 lần xuất
hiện, tỉ lệ số từ chiếm 13,96% và tỉ lệ số lần xuất hiện chiếm 15,68%. Trong
số ấy có nhiều từ được lặp lại nhiều lần như: Sung sướng (17 lần), sửng sốt (4
lần), thất vọng (2 lần), buồn (28 lần), ghen tị (3 lần), sợ (62 lần), thương (6
lần), yêu (6 lần), tự hào, hãnh diện, mừng rỡ (2 lần), phấn khích, khóc (24
lần), cười (6 lần), ngạc nhiên (15 lần), băn khoăn, thích (59 lần), tức giận (8
lần), điên tiết, bất ngờ (3 lần), hoảng hốt (3lần), giận (15 lần), hồi hộp (11
lần), buồn ( 28 lần), ghét (4 lần), lo lắng (21 lần), ấm ức (2lần), áy náy, bối
rối (4 lần), vui (17 lần), chán (9 lần), xấu hổ (9 lần), bồn chồn, trằn trọc,
ghen (2 lần), ấm ức (2 lần), khoái, phấn khởi, sầu muộn, thất vọng, đắn đo,
nơm nớp, háo hức (4 lần), xao xuyến, nôn nóng…
Nguyễn Nhật Ánh xây dựng tâm trạng cho nhân vật của mình phù hợp
hợp với từng hoàn cảnh, từng lứa tuổi. Với nhân vật Thiều trong Tôi thấy hoa
vàng trên cỏ xanh, là một cậu bé đang tuổi mới lớn, đã biết thích, biết rung
động thì sẽ có trạng thái tâm lí: tự ái, xấu hổ, thích, hồi hộp, buồn, ghen, yêu,
hậm hực, hoảng hốt, xao xuyến, sợ ma… Khi hai anh em chơi trò ném đá,

Tường có ý nhường thì Thiều lại cảm thấy tự ái, hậm hực, hăng máu lên ném
tới cùng, để rồi ném chảy máu đầu em. Rồi như bao bạn bè ở tuổi mới lớn

34


Thiều phát hiện ra là mình cũng đã biết rung động. Thiều xao xuyến, thích con
Mận. Tối hôm nhà con Mận bị cháy, mẹ sai Thiều sang ngủ nhà Mận để trông
nhà cùng bạn, Thiều cảm thấy bất ngờ và sung sướng vì được giúp Mận. Và
với tâm lí của một cậu bé đang biết thích, biết yêu, Thiều thấy buồn, ghen,
khó chịu khi Mận cứ quấn quýt chơi với thằng Tường nhiều hơn. Vì nỗi ghen
tức với Tường mà Thiều để ông Năm Ve bắt mất người bạn thân thiết của nó,
con Cu Cậu, nhưng rồi Thiều lại cảm thấy vừa hả hê mà vừa xấu hổ. Với một
loạt các từ ngữ chỉ trạng thái tâm lí, tác giả đã để Thiều hiện ra là một cậu bé
thông minh, nhưng có phần nhát gan, ích kỉ, hẹp hòi. Khác với Thiều, Tường
là một cậu bé ngây thơ, hồn nhiên, tốt bụng, tác giả đã dùng những từ ngữ để
miêu tả trạng thái tâm lí như: thích thú, yêu, thương, hãi, vui vẻ, khóc, cười,
hào hứng, lo lắng, mừng rỡ, háo hức, sung sướng,…Tường là đứa trẻ ngoan,
tình cảm, thương anh trai vô cùng, dù nhỏ tuổi hơn nhưng Tường luôn nhận
làm mọi việc nhà để dành thời gian cho Thiều học, cậu luôn là người nhường
nhịn anh vô điều kiện. Như bao đứa trẻ khác, Tường cảm thấy vô cùng thích
thú, sung sướng, hào hứng khi được chú Đàn dạy học bơi. Rồi lo lắng khi biết
tin con Cu Cậu biến mất, Tường buồn bã, khóc mắt đỏ hoe suốt nhiều ngày.
Dù đó chỉ là một con cóc, nhưng với một đứa trẻ tình cảm, yêu loài vật như
Tường thì con Cu Cậu giống như một người bạn tri kỉ. Với sự hồn nhiên,
ngây thơ của một đứa trẻ, lại thích đọc những câu chuyện cổ tích, Tường đã
tin công chúa là có thật, nhờ công chúa đến gặp mà Tường đã có thể ngồi dậy
và đi lại được. Tường rất thích gặp công chúa, cảm thấy hào hứng mỗi khi kể
về công chúa cho Thiều nghe. Ở nhân vật Tường, qua những trạng thái cảm
xúc bạn đọc có thể nhận thấy đây là một cậu bé hồn nhiên, vui tươi, hoạt bát,

tình cảm, yêu mọi người, yêu loài vật.
Hay tính cách những cô bé, cậu bé, những nhà cách mạng tí hon trong
Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ cũng được hiện lên qua nhiều từ ngữ chỉ trạng

35


thái tâm lí mà Nguyễn Nhật Ánh sử dụng trong truyện của mình. Để cuộc
sống bớt tẻ nhạt, Cu Mùi khơi mào chơi trò vợ chồng, mới đầu Hải cò, Tí sún,
Tủn còn hơi ngạc nhiên, nhưng sau lại vô cùng hứng thú, hào hứng, nôn nóng
chờ đến lượt mình được đóng làm bố, làm mẹ. Chúng thấy thích thú vì được
thử làm bố mẹ, được nói những điều mà bố mẹ hay nói với mình, được mắng,
được quát tháo. Thằng Cu Mùi thì háo hức bắt chước chú Nhiên lấy điện
thoại nhắn tin rủ con Tủn đi hẹn hò. Con Tủn thì khoái chí, hớn hở, thấp
thỏm chờ đợi tin nhắn của Cu Mùi, để đi hẹn hò như hai người lớn. Như bao
đứa trẻ khác mỗi khi bị bố mẹ mắng, chúng cũng sợ, ấm ức, rầu rĩ, rồi lo
lắng, thấp thỏm không biết rằng những đứa bạn của mình có bị la mắng như
mình không. Trẻ con vốn dễ cười cũng dễ khóc. Con Tủn khóc như mưa khi
phải chuyển nhà, phải tạm biệt các bạn. Cu Mùi, Hải cò, Tí sún khóc òa khi
khi phải chia tay con chó mà chúng nuôi nấng, huấn luyện. Chúng là những
đứa trẻ ngây thơ hồn nhiên, tinh nghịch, ngây thơ trong sáng.
Những từ ngữ thuộc trường nghĩa chỉ trạng thái tâm lí con người trong
truyện Nguyễn Nhật Ánh đã góp phần giúp người đọc hiểu hơn tâm lí của trẻ
thơ. Những trạng thái tâm lí của trẻ thơ rất phong phú, thay đổi linh hoạt, vừa
giận dỗi, khóc mếu nhưng được dỗ dành lại có thể vui vẻ, cười đùa ngay trở
lại, yêu, ghét rõ ràng, cũng không ghét ai được lâu. Bởi trẻ con không giống
người lớn, trẻ con suy nghĩ rất đơn giản, không để bụng, vô tư, hồn nhiên. Trẻ
con không biết hồ nghi, trẻ con sống vì những điều chúng thích, tẻ con vui
cười khi chúng hạnh phúc, trẻ con khóc khi chúng buồn, những cảm xúc
không bị che giấu.

2.2.1.5. Trường nghĩa chỉ cử chỉ, điệu bộ con người
Nhân vật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh không chỉ hiện lên qua hành
động, trạng thái tâm lí mà còn được cụ thể hóa qua cử chỉ, điệu bộ. Nguyễn
Nhật ánh đã sử dụng từ ngữ một cách phong phú để miêu tả hình dáng, điệu

36


bộ nhân vật. Ở trường từ ngữ này, chúng tôi đã khảo sát được 89 từ với 150
lần xuất hiện, tỉ lệ số từ chiếm 13,07% và tỉ lệ số lần xuất hiện chiếm 5,36%.
Những từ đó như: Ngơ ngác (7 lần), từ tốn, chăm chú, săm soi (7 lần), ngất
xỉu, mò mẫm (4 lần), tái mặt, nhanh như cắt, gườm gườm, nhếch mếp, héo
hắt, lúng túng (5 lần), loay hoay (6 lần), rón rén (3 lần), ngập ngừng (3 lần),
hầm hầm (4 lần), bẽn lẽn (3 lần), âp úng, thấp thỏm, nhấp nhổm, rúm người
lại, lom khom (5 lần), hùng hổ, thập thò, lấm la lấm lét, hấp tấp, thong thả,
lếch thếch, nhơn nhơn, tươi tỉnh, nhăn nhở, ủ rũ (2 lần), hoan hỉ, thẫn thờ (2
lần), lò dò (4 lần), lúi húi , mếu máo, nhanh nhảu, lúng búng, ngần ngừ, run
run, tủm tỉm, cuống cuồng, uể oải, lon ton, lấm lét, ngẩn ngơ, rầu rĩ, thấp
thỏm…
Thằng Tường trong Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh là một đứa trẻ
ngoan ngoãn, chăm chỉ, có một lòng thương yêu vô bờ. Tường chăm chỉ làm
việc nhà thay anh để anh có thời gian học bài cho giỏi, là một cậu bé hiền
lành nhưng mỗi khi thấy sự bất bình Tường đều ra tay phân xử. Khi Thiều bị
thằng Sơn bắt nạt, Tường quyết trả thù cho anh, hay khi Nhi công chúa xuất
hiện, bị bọn trẻ trong làng trêu là bà điên, tường cũng đứng ra bênh vực cô bé.
Nhà văn đã xây dựng nhân vật tường qua những từ ngữ chỉ hình dáng, điệu bộ
như: lom khom, lúi húi, săm soi, bẽn lẽn, ngơ ngác, tươi tỉnh, nhếch mép,
gườm gườm… Còn nhân vật Thiều thì được miêu tả bằng những từ ngữ chỉ
hình dáng điệu bộ như: rón rén, loay hoay, thập thò, lấm la lấm lét, hấp tấp,
bẽn lẽn, lúng túng, mò mẫm, len lén, lò dò, run run… Qua nững từ ngữ đó

càng làm rõ tính cách nhát gan, hay thẹn thùng, xấu hổ, có phần ích kỉ của
Thiều.
Những nhà cách mạng tí hon trong cho tôi xin một vé đi tuổi thơ cũng
được Nguyễn Nhật Ánh miêu tả bằng một loat từ ngữ chỉ hình dáng, điệu bộ
như: uể oải, lon ton, ngẩn ngơ, săm soi, tủm tỉm, ủ rũ, lúng búng, ngần ngừ,

37


hầm hầm,thở hổn hển, nhăn nhó, ngơ ngác, lom khom… Cu Mùi thì uể oải
học bài trong khi chờ cơm chín, cơm chín rồi thì lại uể oải ăn cơm trong khi
chờ tiếp tục học bài, nó thấy thật buồn tẻ khi phải làm những việc mình không
thích. Con Tủn và Tí sún thì luôn có điệu bộ ngơ ngác, ngẩn ngơ mỗi làn Cù
Mùi nghĩ ra trò chơi mới. Hải cò thì luôn là đứa hào hứng với các trò chơi, khi
đóng vai làm con nó lon ton chạy tới chạy lui rồi thở hổn hển làm bộ như vừa
đánh nhau thật. Nếu cử chỉ, điệu bộ của người lớn nhiều lúc bị kìm hãm, chi
phối bởi suy nghĩ thì trẻ con không như vậy, chúng nghĩ gì làm đấy và có
những cử chỉ còn ngây ngô, vô nghĩ. Bằng hệ thống những từ ngữ chỉ cử chỉ
điệu bộ, hình ảnh những cô bé, cậu bé được khắc họa vô cùng đáng yêu, dí
dỏm, tinh nghịch.
2.2.1.6. Trường nghĩa chỉ tính cách, phẩm chất
Truyện của Nguyễn Nhật Ánh thường hay được kể ở ngôi thứ nhất,
người kể chuyện là nhân vật tôi. Do đó, tính cách, hay phẩm chất của nhân vật
tôi thì để cho bạn đọc tự nhận xét, nhưng trong những câu chuyện của mình,
nhân vật tôi có những nhận xét về tính cách, phẩm chất của những nhân vật
khác. Chính vì thế, trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh có sử dụng nhiều từ
ngữ thuộc trường nghĩa chỉ tính cách, phẩm chất con người. Theo kết quả
thống kê, chúng tôi nhận thấy trường nghĩa này có khoảng 58 từ với 161 lần
xuất hiện, tỉ lệ số từ chiếm 9,83% và tỉ lệ số lần xuất hiện chiếm 12,46%. Với
các từ ngữ như: Ngoan (12 lần), sạch sẽ (4 lần), gọn gàng, học giỏi (6 lần),

thông minh (16 lần), xinh đẹp ( 6 lần), hoạt khẩu, hoạt bát, hấp dẫn, đẹp trai
(3 lần), ngu (21 lần), ngốc nghếch (5 lần), quỉ quái, hồn nhiên, xinh xắn, học
kém (2 lần), đáng yêu (2 lần), giỏi giang, nghịch ngợm (2 lần), khờ (2lần), dốt
(3 lần), tốt (2 lần), lêu lổng (3 lần), hỗn láo, xấc xược, khùng, gan lì, tự tin.
Chịu khó (3 lần), giàu tình cảm, đảm đang, duyên dáng, dịu dàng, chu đáo,

38


ngây ngô (2 lần), kiên quyết, hiền lành (3 lần), hư hỏng (5 lần), thật thà (12
lần), siêng năng (2 lần), trung thực (3 lần), nói dai, lười…
Mỗi nhân vật trong truyện lại có những từ ngữ chỉ tính cách, phẩm chất
dành riêng cho từng người. Với Thiều, những từ ngữ dành để nói về tính cách,
phẩm chất cậu bé đó là: thông minh, học giỏi, giỏi giang, kiên quyết…. Còn với
Tường, mọi người thấy Tường là một cậu bé: ngoan, đẹp trai, hồn nhiên, giàu
tình cảm, học kém… Con Mận thì được Thiều nhận xét là đứa xinh xắn, chăm
chỉ nhưng học kém. Thằng Sơn nhà ông Tư Cang là đứa hỗn láo, xấc xược, hư
hỏng, cả làng ai cũng biết. Hay với Tí sún, Cu Mùi có nhận xét, hồi tám tuổi nó
là đứa hiền lành, chậm chạp, không giỏi khoa ăn nói, còn lúc lớn nó vừa thông
minh vừa thật thà… Như bao nhiêu cậu bé khác, thằng Cu Mùi cũng rất lười
đánh răng, lười đi tắm, lười học bài nhưng cũng rất kiên quyết mỗi khi đề ra
những trò chơi mới cho nhóm bạn. Có thể thấy, Nguyễn Nhật Ánh đã sử dụng
hiệu quả trường từ vựng chỉ tính cách, phẩm chất của con người, giúp làm rõ
tính cách từng nhân vật. Trường nghĩa này được tác giả xây dựng bằng một hệ
thống tính từ vô cùng đa dạng, phong phú, mà cụ thể là những từ ngữ thường
được dùng để nói về tính cách, phẩm chất của trẻ thơ. Qua đó, bạn đọc có thể
thấy từng nhân vật hiện lên cụ thể, hoàn thiện và rõ nét hơn.
2.2.2. Trường nghĩa loài vật
Như đã nói, Nguyễn Nhật Ánh là nhà văn của trẻ thơ, những câu truyện
viết cho trẻ thơ, viết về trẻ thơ, mang đậm sắc màu trẻ thơ. Thế giới trẻ thơ

vốn thường gắn liền với thế giới loài vật, trẻ em và những con vật giống như
những người bạn thân thiết. Chính vì thế mà trường nghĩa chỉ loài vật trong
truyện Nguyễn Nhật ánh được sử dụng rất phong phú, sinh động. Ở trường
nghĩa này, theo kết quả thống kê, chúng tôi nhận thấy có khoảng 27 từ với 87
lần xuất hiện, tỉ lệ số từ chiếm 3,97% và tỉ lệ xuất hiện chiếm 3,11%. Với các
từ ngữ như: Con bọ, chim vàng anh, con chó (8 lần), con trâu (3 lần), đom
39


đóm, con gà (2 lần), con cóc (22 lần), con muỗi, con mối cánh, con chim xanh
(10 lần), ve sầu (3 lần), con sâu cuốn chiếu (4 lần), con bò, con mèo, dế, cánh
quýt, bọ rầy, kiến, con chuồn chuồn (9 lần), châu chấu, nhền nhện, sâu róm (5
lần), con cúc(6 lần) , con tắc kè bông, cá heo, cọp, sư tử…
Trong Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, những con vật xuất hiện trong
truyện đều là những con vật gắn liền với tuổi thơ của trẻ con vùng thôn quê
như con trâu, con chó, đóm đóm, con gà, con cóc, con mối cánh, con ve, con
sâu cuốn chiếu, con chuồn chuồn, sâu róm, châu chấu, con cúc… Tường là
cậu bé có tâm hồn nhạy cảm, dạt dào tình yêu thương và thích các con vật.
Đọc xong câu chuyện cổ tích Con Cóc Tía, Tường quyết định bắt một con cóc
về nuôi dưới gậm giường và đặt tên nó là con Cu Cậu. Đặt tên cho một con
cóc thì chắc chắn rằng Tường phải rất yêu quý nó, coi nói như con người, như
một người bạn. Tường có sở thích ngồi ngắm nhìn và nói chuyện với con Cu
Cậu hàng giờ không thấy chán. Và rồi khi biết tin con Cu Cậu biến mất, như
mất đi một người bạn, Tường vô cùng buồn bã và hay ngồi khóc thầm. Hay
những loài vật đã trở thành thứ gắn với những trò chơi của trẻ con vùng thôn
quê. Thiều và Tường rủ nhau ra ao bắt chuồn chuồn, với mong ước để no cắn
vào rốn cho biết bơi. Hay hè đến, hai anh em lại rủ nhau đi bắt ve sầu, châu
chấu. Thiều còn có sở thích ngồi một góc ngắm nghía, mân mê những con sâu
cuốn chiếu trên tay.
Với những đứa trẻ trong Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, những đứa trẻ

sống trong thị trấn, chúng sẽ không biết được nhiều con vật như Thiều và
Tường. Nhưng những cô bé, cậu bé đã có nuôi cả một trang trại chó đi lạc.
Chúng cũng đã đặt tên cho con chó của mình là Hoàng Tử Bé. Nơi đặt đại bản
doanh của trang trại cho là nhà Tủn, Hải cò và Cu Mùi có nhiệm vụ cung cấp
thực phẩm. Chúng còn phân công nhau làm huấn luyện viên, để huấn luyện
Hoàng tử bé thành con chó thông minh. Với sự ngây thơ hồn nhiên của mình,

40


bọn trẻ đã làm cho bạn đọc phải phì cười khi Cu Mùi huấn luyện chó. Khi
huấn luyện cho Hoàng Tử Bé đi nhặt dép, Cu Mùi đã làm để cho con Hoàn
Tử Bé dễ nhìn mẫu mà làm theo, cũng đi băng hai tay hai chân và mồm ngậm
dép. Và khi biết tin số lượng những con chó của trang trại ngày một ít đi
không phải vì chúng bỏ đi mà vì bố Tủn đưa chúng lên bàn nhậu thì bọn trẻ
quyết định giải tán trang trai chó. Và chúng cảm thấy vô cùng buồn bã, cảm
giác mất đi người bạn. Dường như giữa trẻ con và những con vật có một thứ
ngôn ngữ riêng, để có thể hiểu nhau mà người lớn chẳng tài nào biết được.
Chúng tôi nhận thấy rằng, Nguyễn Nhật Ánh đã rất thành công khi xây
dựng hệ thống từ ngữ chỉ loài vật vô cùng phong phú. tác giả đã thổi hồn được vào
cho những con vật, làm cho câu chuyện trở nên sinh động hơn. Từ đó đã giúp
người đọc hiểu hơn về tâm hồn thế giới trẻ thơ. Đọc truyện Nguyễn Nhật Ánh,
người lớn chúng ta sẽ hiểu vì sao mà trẻ con lại yêu quí những con vật đến vậy.
Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn lại xây dựng một trường nghĩa chỉ loài vật
sinh động đến thế, bởi ông hiểu rằng, với trẻ con những con vật gần gũi giống như
người bạn thân thiết. Khi trẻ con có những nỗi niềm mà chẳng thể nói được với
người lớn hay bạn bè thì chúng thường tìm đến những con vật gần gũi với mình.
Bởi, với trẻ con những con vật là người bạn biết lắng nghe và không bao giờ kể bí
mật của chúng với ai. Chúng coi những con vật như một người bạn thực sự, cũng
chăm sóc, nói chuyện, rồi cũng khóc lóc buồn bã khi mất bạn, một điều mà không

phải khi nào cũng thấy được ở người lớn. Với việc sử dụng trường nghĩa chỉ loài
vật, Nguyễn Nhật Ánh một lần nữa lại khẳng định sự am hiểu thế giới trẻ thơ và
tình yêu đặc biệt với trẻ thơ của mình.
2.2.3. Trường nghĩa đồ vật
2.2.3.1. Trường đồ vật dùng trong sinh hoạt
Mỗi hoạt động của con người trong sinh hoạt hằng ngày đều gắn với
những đồ vật cụ thể. Trong những tác phẩm của mình, Nguyễn Nhật Ánh đã
41


×