Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Yếu tố kì ảo trong nghìn lẻ một đêm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (853.26 KB, 59 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
----------

LÊ THÚY QUỲNH

YẾU TỐ KÌ ẢO TRONG NGHÌN LẺ MỘT ĐÊM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Văn học thiếu nhi

Hà Nội - 2017


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
----------

LÊ THÚY QUỲNH

YẾU TỐ KÌ ẢO TRONG NGHÌN LẺ MỘT ĐÊM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Văn học thiếu nhi

Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN THỊ BÍCH DUNG

Hà Nội - 2017



LỜI CÁM ƠN
Trong thời gian nghiên cứu và hoàn thành khóa luận, em đã nhận được sự
giúp đỡ hướng dẫn nhiệt tình các thầy cô giáo giảng dạy bộ môn văn học thiếu
nhi, các thầy cô giáo trong khoa Giáo dục Tiểu học - Trường Đại học sư phạm
Hà Nội 2. Qua đây, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy, cô đặc biệt
là cô giáo TS. Nguyễn Thị Bích Dung người đã định hướng, chọn đề tài và tận
tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp này.
Do thời gian và kiến thức có hạn, khóa luận khó tránh khỏi có những hạn
chế và thiếu sót nhất định. Em kính mong được sự đóng góp ý kiến của quý
thầy cô và các bạn sinh viên để khóa luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 27 tháng 4 năm 2017
Sinh viên thực hiện

Lê Thúy Quỳnh


LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của riêng em dưới
sự chỉ bảo của giáo viên hướng dẫn và nó không trùng với kết quả của bất kì
tác giả nào khác.
Hà Nội, ngày 27 tháng 4 năm 2017
Sinh viên thực hiện

Lê Thúy Quỳnh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ........................................................................................ 1

2. Lịch sử vấn đề............................................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................. 4
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát............................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 5
6. Cấu trúc khóa luận ..................................................................................... 5
NỘI DUNG ....................................................................................................... 6
Chương 1. NHÂN VẬT KÌ ẢO TRONG NGHÌN LẺ MỘT ĐÊM ................... 6
1.1 Khái niệm ................................................................................................ 6
1.2.1 Khái niệm nhân vật ........................................................................... 6
1.2.2 Khái niệm cái kì ảo ........................................................................... 7
1.2 Nghìn lẻ một đêm - một trong những công trình sáng tạo nghệ thuật đồ
sộ và hoàn mỹ của văn học thế giới .............................................................. 8
1.3 Nhân vật kì ảo và ý nghĩa của của nhân vật kì ảo trong Nghìn lẻ
một đêm ....................................................................................................... 12
1.3.1 Bảng khảo sát và nhận xét .............................................................. 12
1.3.2 Nhân vật có yếu tố kì ảo ................................................................. 13
1.3.3 Nhân vật kì ảo ................................................................................. 17
1.4 Tiểu kết .................................................................................................. 23
Chương 2. KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN KÌ ẢO TRONG NGHÌN LẺ
MỘT ĐÊM ....................................................................................................... 25
2.1 Không gian kì ảo trong Nghìn lẻ một đêm ............................................ 25
2.1.1 Khái niệm không gian nghệ thuật ................................................... 25
2.1.2 Các loại không gian kì ảo trong Nghìn lẻ một đêm ........................ 26


2.2 Thời gian kì ảo trong Nghìn lẻ một đêm ................................................ 36
2.2.1 Khái niệm thời gian nghệ thuật ...................................................... 36
2.2.2. Các loại thời gian kì ảo trong Nghìn lẻ một đêm ........................... 38
2.3 Tiểu kết .................................................................................................. 42
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 43

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 46
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1 Lí do khoa học
Ở Việt Nam, văn học nước ngoài được rất nhiều người yêu thích và dành
sự quan tâm đặc biệt. Cũng giống như văn học dân gian Việt Nam, văn học dân
gian người Ả rập bao gồm nhiều thể loại như: truyền thuyết, sử thi, thần thoại,
cổ tích,… Các thể loại ấy được quy tụ trong một bộ sưu tập đồ sộ - bộ truyện
Nghìn lẻ một đêm. Đúng như tác giả Trần Thị Hồng Vân đã nói trong Tạp chí
văn học số 11 Về Nguồn gốc truyện kể Nghìn lẻ một đêm “Đứng đầu những tác
phẩm văn học dân gian đó là kiệt tác Nghìn lẻ một đêm - bộ sưu tập đồ sộ các
thể loại truyện khác nhau, từ truyện cổ tích đến thần thoại, truyện ngụ ngôn,
truyện ngắn, truyện vừa tâm lí xã hội đến sử thi anh hùng ca…”
Nghìn lẻ một đêm là một tác phẩm vĩ đại bậc nhất của nền văn học Ả rập,
được nhiều người kể chuyện trau chuốt, tuyển lựa những cốt truyện hấp dẫn
nhất truyền bá qua nhiều thế kỉ. Nghìn lẻ một đêm lần đầu tiên được giới thiệu
với Châu Âu rồi từ đó phổ cập rộng khắp toàn thế giới là nhờ công lao của một
học giả người Pháp, Atoan Galang.
Sức lôi cuốn, hấp dẫn của Nghìn lẻ một đêm nằm ở cốt truyện li kì tình tiết
bất ngờ, thể hiện một sức tưởng tượng phong phú đến kinh ngạc với cái thực
tại rộng lớn lạ thường, được đông đảo quần tầng lớp xã hội mọi lứa tuổi yêu
thích: Thiếu nhi xem để biết câu chuyện rồi sẽ ra sao. Người già tìm đọc không
chỉ để sống lại tuổi thơ của mình mà còn để suy ngẫm về cuộc đời, về triết lí
bao hàm trong truyện… Nói như vậy có nghĩa người đọc thuộc tầng lớp nào
trong xã hội cũng thu thập được ít nhiều hiểu biết thông qua bộ truyện. Điều
này chứng tỏ rằng, đối tượng gây hứng thú của nó khá rộng.
Những câu chuyện trong Nghìn lẻ một đêm phản ánh nguyện vọng và ước

mơ của quần chúng nhân dân trong xã hội bị áp bức, đè nén. Họ luôn luôn mong

1


muốn được sống trong cảnh thái bình yên vui, gặp nhiều may mắn, hạnh phúc,
ấm no. Nhiều truyện phản ánh bản chất tốt đẹp của nhân dân lao động cần cù,
chăm chỉ, kiên cường, dũng cảm và thông minh tài trí, giàu lòng thương người
đồng thời vạch trần bản chất tàn ác của bọn vua chúa, quan lại, phù thủy…thể
hiện chân lí cái thiện thắng cái ác, chính thắng tà, ở hiền gặp lành và mang ý
nghĩa giáo dục sâu sắc.
Bên cạnh sự xuất hiện của những yếu tố thực, gần gũi với cuộc sống hàng
ngày, trong những câu chuyện hấp dẫn của nàng Sehezarat còn có không ít yếu
tố kì ảo. Ở đó, người đọc, người nghe được đưa tới một thế giới mới lạ, khám
phá ra những điều thần kì, bất ngờ ngay cả trong những sự việc bình thường
nhất.
Đó những lí giải vì sao, chúng tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu Yếu
tố kì ảo trong Nghìn lẻ một đêm cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
1.2 Lí do sư phạm
Là một sinh viên sư phạm khoa Giáo dục Tiểu học, được tìm hiểu về tâm
lí trẻ thơ, nhận thấy các em thường thích nghe kể những câu chuyện cổ tích,
thần thoại, các câu chuyện mang tính thần kì, phiêu lưu. Vì vậy, ngoài mong
muốn cung cấp cho các em những tri thức sau mỗi tiết học, bài học, chúng tôi
còn mong muốn giúp các em hoàn thiện nhân cách, khơi dậy ở các em tình yêu
với cái đẹp, hướng tới giá trị chân - thiện - mỹ.
Việc nghiên cứu các yếu tố kì ảo trong truyện nói riêng, và bộ truyện nói
chung là một hành trang quý báu cho tương lai giảng dạy sau này trong việc
giáo dục trẻ nhỏ. Hơn nữa, Nghìn lẻ một đêm là bộ truyện rất hay, thú vị mà
bản thân tôi rất yêu thích và mong muốn tìm hiểu.
2. Lịch sử vấn đề

2.1. Khảo sát văn bản Nghìn lẻ một đêm
Trong kho tàng văn hóa nhân loại, Nghìn lẻ một đêm là tập truyện dân gian

2


đồ sộ và nổi tiếng của nhân dân Ả rập, có nguồn gốc lâu đời trên xứ sở của các
hoàng đế Arap cổ đại và được bổ sung qua nhiều thế kỉ bằng kho tàng truyện
cổ dân gian các nước trong hệ ngôn ngữ Ấn- Âu, được lưu truyền rộng rãi ở
Iran, Iraq, Ai Cập, Ethiopia… sau đó phổ biến khắp Trung Đông và không thể
xác định được chính xác ai là tác giả của những truyện được kể trong Nghìn lẻ
một đêm, vì đây chỉ là sự góp nhặt của những truyện tình, truyện phiêu lưu hay
thần thoại mà nhiều người truyền tụng. Bộ truyện này là do nhà Đông phương
học Antoan Galang dịch chuyển từ tiếng Ả rập sang tiếng Pháp và cho xuất bản
gồm 36 phần của tập đầu tiên năm 1704, gửi tặng cho hầu tước phu nhân coi
như là “một món quà nhỏ”. Và trong 4 năm từ 1704 đến 1708, 12 tập lần lượt
ra đời.
Nhắc đến Nghìn lẻ một đêm người ta không thể không nhắc đến sự thành
công của bộ truyện này, từ năm 1704- 1782, trong vòng bảy mươi tám năm,
bản dịch của Antoan Galang được in lại hơn bảy mươi lần trong những điều
kiện của thời bấy giờ, với phương tiện ấn loát thô sơ, tỉ lệ người biết đọc, biết
viết chưa cao. Từ bản dịch của Antoan Galang mà bộ truyện nhanh chóng được
dịch ra rất nhiều thứ tiếng, làm say mê không biết bao nhiêu thế hệ độc giả như
ở Anh, ở Hà Lan, ở Đức, Italia,… Ngôn ngữ vô cùng phong phú, nhân vật rất
thực mà cũng rất hư., vì thế đã có không ít các nhà văn nghiên cứu trong và
ngoài nước nghiên cứu về Nghìn lẻ một đêm.
2.2 Tình hình nghiên cứu tác phẩm Nghìn lẻ một đêm
Nghìn lẻ một đêm thu hút rất nhiều các nhà văn, nhà lí luận, nhà phê bình
văn học trong và ngoài nước.
Tác giả Trần Thị Hồng Vân đã có bài viết trong Tạp chí văn học số

11/1997: “Về nguồn gốc truyện kể Nghìn lẻ một đêm’’. Bài viết cho chúng ta
biết các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều ý kiến về địa điểm và thời gian hình
thành bộ truyện Nghìn lẻ một đêm trong suốt gần hai thế kỉ.

3


Phan Quang với bài báo mang tựa đề Chung quanh bộ truyện A-rập Nghìn
lẻ một đêm được đăng trên báo thời nay số 96, 97, 98, 99 (12/2010) đã nhắc
đến nhiều vấn đề như: Mấy bản Nghìn lẻ một đêm cổ nhất ở Việt Nam, hiện
tượng “ăn theo’’, đề tựa của J.Janin được in ở đầu truyện, tinh túy triết học phật
giáo…Trong mấy bản Nghìn lẻ một đêm cổ nhất ở Việt Nam, tác giả Phan
Quang nói “Tôi đã tìm được ba bộ Nghìn lẻ một đêm nguyên bản Pháp văn, một
bộ in năm 1837 (3 tập), một bộ in năm 1838 - 1839 (4 tập), cùng bộ sách Mỹ
Thuật khổ lớn, ấn hành năm 1895”.
Trong cuốn Nghệ thuật kể chuyện Nghìn lẻ một đêm tác giả Gerkhart M
cũng đã đề cập và nghiên cứu sâu về nghệ thuật kể chuyên Nghìn lẻ một đêm.
Trong Từ điển văn học, Tập 2, NXB Khoa học xã hội , 1984 có mục giới
thiệu khái quát Nghìn lẻ một đêm.
Trong Thi pháp văn xuôi của tác giả Tzvetan Todorov (Đặng Anh Đào,
Lê Hồng Sâm dịch, NXB DDHSPHN, 2011) nói về những con người trong
Nghìn lẻ một đêm đưa ra cấu trúc của sự lồng ghép trong bộ truyện Nghìn lẻ
một đêm.
Các công trình nghiên cứu đã khẳng định giá trị to lớn về nghệ thuật và
nội dung của Nghìn lẻ một đêm. Chúng tôi mong muốn tiếp thu kết quả nghiên
cứu của những người đi trước, và tập trung vào vấn đề nghiên cứu cụ thể: Yếu
tố kì ảo trong Nghìn lẻ một đêm.
3. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu các yếu tố kì ảo trong Nghìn lẻ một đêm chúng
tôi mong muốn khám phá ra cái hay cái đẹp sức hấp dẫn của thiên truyện Nghìn

lẻ một đêm.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát
Đối tượng nghiên cứu: Yếu tố kì ảo trong Nghìn lẻ một đêm
Phạm vi khảo sát: Nghìn lẻ một đêm (bản dịch tiếng Việt của Angtoan

4


Galang, nxb Văn học, năm 2014), Giang Hà Vỵ - Vũ Liêm – Ngô Thức Long
– Nguyễn Hoai Giang (dịch)
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thống kê
Phương pháp phân tích tổng hợp
Phương pháp so sánh đối chiếu
6. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung khóa luận chia làm 2 chương:
Chương 1: Nhân vật kì ảo trong Nghìn lẻ một đêm
Chương 2: Không gian và thời gian kì ảo trong Nghìn lẻ một đêm

5


NỘI DUNG
Chương 1. NHÂN VẬT KÌ ẢO TRONG NGHÌN LẺ MỘT ĐÊM
1.1 Khái niệm
1.2.1 Khái niệm nhân vật
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về nhân vật trong tác phẩm văn chương.
Nhà văn Tô Hoài cho rằng: “Nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy,
giải quyết hết thảy trong một sáng tác.”
Nhân vật văn học “là một đơn vị nghệ thuật đầy tình ước lệ, không thể

đồng nhất nó với con người có thật trong đời sống. Nó có chức năng có bản là
khái quát tính cách của con người và chức năng này mang tính lịch sử. Nhân
vật văn học còn có khả năng dẫn dắt độc giả vào các thế giới khác nhau của đời
sống, thể hiện quan niệm nghệ thuật và lí tưởng đời sống thể hiện quan niệm
nghệ thuật và lí tưởng thẩm mỹ của nhà văn về con người…”[6]
Nhân vật văn học là “con người được mô tả thể hiện trong tác phẩm bằng
phương tiện văn học…Văn học không thể thiếu nhân vật, bởi vì đó là hình thức
cơ bản để văn học miêu tả thế giới một cách hình tượng…Nhân vật văn học là
phương tiện để khái quát tính cách, số phận con người và các quan niệm về
chúng.”[11]
Nhân vật văn học còn được xem là “hình tượng nghệ thuật về con người,
một trong những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật
ngôn từ. Bên cạnh con người nhân vật văn học có thể là các con vật, các loài
cây, các sinh thể hoang đường, được gán cho đặc điểm giống như con
người…”[7]
Tóm lại có thể hiểu nhân vật văn học chính là con người trong tác phẩm
văn học, là đứa con tinh thần, là máu thịt của nhà văn, để qua đó, nghệ sỹ thể
hiện quan niệm thẩm mý và lí tưởng thẩm mỹ của mình về cuộc đời và con
người. Tuy nhiên, các nhà lí luận cũng nhấn mạnh đến tính nghệ thuật, tính ước

6


lệ của nhân vật văn học. Nhân vật văn học không hoàn toàn giống như con
người thật ngoài đời vì chúng có những đặc trưng nghệ thuật và được thể hiện
trong các tác phẩm văn học bằng các phương tiện văn học, thông qua lăng kính
nhà văn, nhưng cũng không vì thế mà chúng kém phần chân thật. Đã là tác
phẩm văn học thì không thể thiếu nhân vật văn học, vì chúng là hạt nhân của
tác phẩm.
Các nhân vật trong các tác phẩm văn học cũng không nhất thiết phải là

con người, nó có thể là các vị thần, cỏ cây, con vật,… giống như các câu chuyện
cổ tích.
1.2.2 Khái niệm cái kì ảo
Yếu tố kì ảo đã xuất hiện từ rất lâu trong lịch sử văn học nhân loại. Vì thế
đã có rất nhiều cách định nghĩa, cách hiểu về cái kì ảo. Có thể nói, cái kì ảo với
tư cách là phương thức tư duy, là dòng mạch của văn học truyền thống đã trở
thành vấn đề được quan tâm đặc biệt của văn học thế giới nói chung.
Thuật ngữ “cái kì ảo” trong tiếng Việt tương đương với thuật ngữ Le
Fantastique trong tiếng Pháp và The Fantastic trong tiếng Anh. Hán ngữ từ điển
giải thích “kì ảo” là cái lạ lùng, không có thật, không thể bắt gặp trên thế giới
này, nó còn được hiểu là cái siêu nhiên không tồn tại trên đời.
Nội hàm thuật ngữ “kỳ ảo” được xác định là sản phẩm của trí tưởng tượng
tạo ra nhờ khả năng suy tưởng, ở đó cái siêu nhiên chiếm ưu thế. Đó là cái
không mang tính chân thực, và tuân theo quy luật tưởng tượng của tác giả.
Trong văn học “Cái kỳ ảo là phạm trù của tư duy nghệ thuật, nó được tạo
ra nhờ trí tưởng tượng và được biểu hiện bằng các yếu tố siêu nhiên khác lạ,
phi thường độc đáo… nó có mặt trong văn học dân gian, văn học viết qua các
thời đại. Nó tồn tại trên trục thực - ảo, và tồn tại độc lập, không hòa tan vào các
dạng thức khác của trí tưởng tượng”.[2]
Tóm lại, yếu tố kì ảo là sản phẩm của trí tưởng tượng của con người. Nó

7


thường nằm ngoài tư duy lí tính của con người nhưng lại có mối quan hệ với
bản chất của cái có thật trong đời sống. Yếu tố kì ảo cùng với các yếu tố nghệ
thuật khác góp phần xây dựng cốt truyện, nhân vật hướng tới bộc lộ chủ đề tư
tưởng của tác phẩm.
Yếu tố kì ảo trong văn học được thể hiện thông qua không gian, thời gian,
qua nhân vật, tình tiết, cốt truyện,…

1.2 Nghìn lẻ một đêm - một trong những công trình sáng tạo nghệ thuật đồ
sộ và hoàn mỹ của văn học thế giới
Nghìn lẻ một đêm là một tác phẩm vĩ đại bậc nhất của văn học Ả rập, được
nhiều người kể chuyện trau chuốt, tuyển lựa những câu chuyện hấp dẫn nhất và
truyền bá qua nhiều thế kỉ. Nghìn lẻ một đêm lần đầu được giới thiệu ở Châu
Âu rồi từ đó lan rộng ra toàn thế giới nhờ công lao của một học giả người Pháp,
Antoan Galang.
Đề tựa bản dịch tiếng Nga xuất bản năm 1929 ở Leningrad viết: “Trong
số các di tích tuyện diệu của sáng tác truyền khẩu dân gian, các truyện cổ tích
của nàng Sehezarat là những di tích đồ sộ nhất. Những truyện cổ tích này thể
hiện với một mức hoàn hảo kì diệu, xu hướng của nhân dân lao động muốn
buông mình theo “phép màu nhiệm của những ảo giác êm đẹp theo sự kết hợp
phóng khoáng của từ ngữ, thể hiện sức mạnh vũ bão của trí tưởng tượng của
các dân tộc phương Đông - người Ả rập, người Ba Tư, người Ấn Độ. Công
trình dệt gấm bằng từ ngữ này xuất hiện từ thời tối cổ, những sợi tơ muôn màu
của nó lan khắp bốn phương, phủ lên trái đất một tấm thảm từ ngữ đẹp lạ
lùng”.[5]
Truyện mở đầu, giải thích lí do ra đời của tất cả các truyện, cái khâu đầu
tiên của sợi chuyền vàng xuyên qua mọi tình tiết, liên kết chúng lại thành một
chuỗi ngọc tuyệt tác, muôn màu muôn vẻ rồi vòng trở lại làm thành đoạn kết
thúc, là câu chuyện của một người con gái tài sắc vẹn toàn, thông minh rất mực,

8


đã không ngại hiểm nguy hi sinh tấm thân ngọc ngà của mình để cứu các bạn
gái khỏi cảnh ô nhục và cái chết bi thương.
Ngày xưa có hai anh em cùng làm vua. Anh làm vua nước Đại Ba Tư
choán một phần lớn Trái Đất. Em làm vua nước Tactari chư hầu của anh. Một
hôm được lệnh anh triệu về, em vội vã lên đường. Xa giá vừa ra khỏi kinh thành

đã nghỉ lại: nhà Vua liền tự mình trở lại cấm cung để tự tình với người vợ yêu
quý một lần nữa; nhưng hỡi ôi, nhà Vua không gặp được Hoàng hậu vì nàng
đang trong vòng tay của một người đàn ông khác ngay trên chiếc giường ngự
của mình. Nổi giận nhà Vua chém chết đôi gian phu dâm phụ, ném xác xuống
hào rồi lặng lẽ trở về hoàng cung và ra lệnh khởi hành mà tuyệt nhiên không
cho ai hay biết nỗi khổ riêng đang dày xé trong lòng mình.
Song cũng từ buổi tối bất hạnh ấy, một nỗi buồn ghê gớm xâm chiếm nhà
Vua nước Tactari, thường xuyên lộ ra trên nét mặt. Việc Hoàng đế thân hành
ra đón từ ngoài kinh thành, rồi hội hè yến tiệc, nghi lễ linh đình cũng không
xua bớt được nỗi muộn phiền trong tâm trí nhà Vua. Nhà vua cho rằng mình là
người đau khổ nhất thế gian. Nhưng, một hôm, tình cờ nhà Vua bắt gặp Hoàng
hậu, chị dâu mình, ngoại tình với một tên da đen trong khi Hoàng đế mải đi
săn. Vua em thấy nhẹ hẳn người rồi ngộ ra: “ À, ra không phải ta là người đau
khổ nhất. Vinh hiển, phú quý, quyền uy chấn động thiên hạ đến như Hoàng đế
anh ta mà vẫn bị vợ lừa dối vậy thì ta việc gì phải giày vò cho khổ thân”.
Khi tự mình chứng kiên cảnh dâm ô của Hoàng hậu, vua anh cũng chán
nản, rủ Vua em từ bỏ ngai vàng, từ bỏ vinh hoa trên trần thế, ra đi tìm một chốn
ẩn thân đến trọn đời ở một nới chân trời góc bể nào đó cho khuây khỏa nỗi
buồn, cho nguôi đi vết nhục. Nhưng tình cờ - vẫn là sự tình cờ, hai vua bắt gặp
một vị Thần linh dưới đáy biển ghé vào đất liền, trên đầu đội một hòm thủy tinh
khoa chặt bằng bốn chiếc khóa; để phòng ngừa vợ có thể không chung thủy.
Thần đã nhốt ả trong đó và giấu tận dưới đáy đại dương, chỉ mở cho ra khi nào

9


mình cần tình tự. Ấy thế mà người đàn bà đẹp này đã ngoại tình với chín mươi
tám người đàn ông - sau khi ân ái mỗi người đàn ông phải để lại cho ả một
chiếc nhẫn làm kỉ niệm. Và mỉa mai làm sao, hai nhà Vua, hai ông chồng đang
ngao ngán với cái thế sự này lại chính là những kẻ bị ả ép buộc làm tình nhân

thứ chín mươi chín và thứ một trăm của ả.
Vậy ra đàn bà ở đâu cũng vậy thôi, ai ai cũng như vậy! Không có một cách
nào có đủ hiệu lực để họ giữ lòng thủy chung với chồng. Chỉ còn một cách,
Hoàng đế nước Đại Ba Tư rút ra kết luận - là giết chết người con gái vừa chung
chăn gối, không để cho sống đến ngày hôm sau. Đó chính là cách trả thù đời,
trả thù người, trả thù vợ của những người chồng nắm trong tay quyền lực tối
cao.
Từ đó một luật lệ mới được ban hành ở nước Đai Ba Tư hết sức dã man,
hết sức khắc nghiệt. Vua truyền cho tể tướng mỗi đêm cho bắt một cô gái trinh
vào cung để hầu hạ mình, rồi rạng sáng hôm sau khi màn đêm tan biến, hạ lệnh
giết chết.
Thế là cứ đêm đêm có người con gái đi lấy chồng, và rạng sáng có một
người đàn bà thiệt mạng.
Cảnh tang tóc tràn ngập khắp cung thành. Cả cung đình tràn ngập mùi
máu. Nỗi đau đớn xé lòng người cha, người mẹ, người yêu, người chồng chưa
cưới. Giữa lúc ấy, xuất hiện một cứu tinh, nàng Sehezarat, con gái yêu của vị
tể tướng, khẩn khoản xin cha được hiến dâng thân mình cho Hoàng đế, thi hành
mệnh lệnh tàn bạo của vua. Dưới sự van xin tha thiết của nàng, Tể tướng nghẹn
ngào đồng ý.
Nàng Sehezarat vào hầu Hoàng đế chỉ xin một đặc ân - đem cô em gái nhỏ
của nàng được ngủ cùng buồng với chị “một đêm cuối cùng”. Vua đồng ý. Từ
đây, nàng Sehezarat đã khôn khéo đưa những câu chuyện thú vị của mình vào
lúc trời gần rạng sáng để kể cho em gái nghe, và mục đích lớn hơn là gợi tò mò

10


ở nhà Vua. Cứ thế, truyện này nối tiếp truyện kia, truyện sau lồng vào truyện
trước, truyện này chưa hết truyện sau đã đến, dường như vô tận. Trước mắt
chúng ta hiện lên không biết bao nhiêu là nhân vật, yếu tố kì ảo lạ thường, cảnh

vật thực, hư, mờ ảo, huyền diệu…
Câu chuyện hay đúng hơn là kho tàng, bộ sưu tập các câu chuyện, mở đầu
bằng những tình tiết gây ấn tượng không mấy tốt đẹp về người phụ nữ, về đức
hạnh của người phụ nữ; song cái nút vừa thắt lại thì được tháo ra ngay làm bật
rõ phẩm chất tốt đẹp của người con gái, trí tuệ sáng ngời của một người đàn bà,
chứ không phải ai khác. Sehezarat nói với cha: “ Nếu con có phải bỏ mình, cái
chết của con sẽ quang vinh, nhưng nếu con thành công, con sẽ giúp đất nước
một công việc quan trọng.” Toàn bộ tác phẩm mở đầu với một hành động cực
kì hung bạo, hơn cả súc vật của một tên vua và kết thúc là một hành động hoàn
toàn hợp tính người: Sau đêm một nghìn lẻ một, bạo chúa tha chết cho nàng
Sehezarat và hủy bộ luật dã man của mình, mà trên thực tế đã không có dịp thi
hành trên suốt một nghìn ngày lẻ một ngày. Gấp sách lại, là hiện lên trong tâm
trí độc giả hay thính giả là nội dung đặc sắc của những câu chuyện, là sự hài
lòng về cách kết thúc hợp tình hợp lí. Không ai còn nhớ đến, những Hoàng hậu
kém may mắn nữa, trong trí nhớ mỗi người chỉ còn lại một nàng Sehezarat cao
quý, dũng cảm, thông minh, xinh đẹp, và chắc hẳn nàng có một giọng nói cực
kì êm ái.
Những câu chuyện trong bộ truyện này thường là những câu chuyện dân
gian truyền khẩu. Ở đâu cũng vậy, các truyện kể dân gian không bao giờ là
công trình sáng tạo của một người và có dạng hoàn chỉnh ngay từ đầu hay trong
một thời gian ngắn. Cho đến một lúc nào đấy nó được những tài năng kiệt xuất
chỉnh lý, định hình lần cuối cùng, rồi được nhân dân chấp nhận coi như dạng
bản cuối cùng. Những người kể chuyện rong mang những chuyện đó kể khắp
nơi. Trong quá trình ấy họ gọt đẽo cách diễn tả cho thích hợp và hấp dẫn người

11


nghe. Người ta cho rằng chính những người Ai Cập kể chuyện rong thế kỷ 12
và 13 đã làm cho các chuyện trong Nghìn lẻ một đêm thêm phong phú về nội

dung, linh hoạt về hình thức và sáng sủa về từ ngữ. Ngôn ngữ dùng trong tập
truyện này gắn với tiếng nói của các tầng lớp bình dân A Rập hơn là ngôn ngữ
kinh viện thời bấy giờ.
1.3 Nhân vật kì ảo và ý nghĩa của của nhân vật kì ảo trong Nghìn lẻ một
đêm
1.3.1 Bảng khảo sát và nhận xét
Tổng số truyện
Truyện chỉ có nhân

Truyện có nhân vật

vật thực

kì ảo

31

23
54

Nghìn lẻ một đêm theo bản dịch của Antoan Galang xuất bản năm 2014 có
54 truyện thì có tới 23 truyện (chiếm gần một nửa) có sự xuất hiện của nhân
vật kì ảo, chiếm 42, 59%. Đây là một con số không hề nhỏ, chứng tỏ sự xuất
hiện của nhân vật kì ảo trong Nghìn lẻ một đêm chiếm một vai trò khá quan
trọng.
Trong Nghìn lẻ một đêm, bên cạnh sự xuất hiện của những nhân vật con
người thực, con vật, cỏ cây…ta thấy sự xuất hiện của nhân vật kì ảo (dựa vào
kết quả khảo sát). Nhân vật kì ảo trong Nghìn lẻ một đêm có thể được chia ra
thành hai loại: Nhân vật có yếu tố kì ảo và nhân vật kì ảo. Cũng từ kết quả khảo
sát, ta thấy trong hai loại nhân vật kì ảo thì nhân vật kì ảo chiếm ưu thế hơn

nhân vật mang yếu tố kì ảo.
Thật vậy, các câu chuyện trong Nghìn lẻ một đêm đều là sản phẩm trí

12


tưởng tượng của người dân lao động. Họ sáng tác ra các truyện để phần nào gửi
gắm những ước mơ, khát vọng về một cuộc sống tươi đẹp, hạnh phúc, công
bằng, viên mãn. Và để truyền tải được những tư tưởng, tình cảm đẹp đẽ ấy, các
tác giả buộc phải xây dựng nhân vật không chỉ dừng lại ở người trần mắt thịt
mà đó là những nhân vật phi thường như thần tiên, thần linh… để có thể thực
hiện được các ước mong ấy. Chính vì vậy, nhân vật bị ảo hóa hoàn toàn chiếm
ưu thế hơn là điều dễ hiểu.
1.3.2 Nhân vật có yếu tố kì ảo
Nhân vật có yếu tố kì ảo trong Nghìn lẻ một đêm vốn là người, nhưng được
tác giả cài vào một số yếu tố kì lạ, khiến cho loại nhân vật này có khả năng kì
diệu. Ta dễ dàng nhận thấy đặc điểm đầu tiên của loại nhân vật này là có nguồn
gốc lai lai lịch rõ ràng, và chỗ ở xác thực. Mục đích của việc này là để khẳng
định với người đọc những chuyện li kì sắp xảy ra là hoàn toàn có thực, từ đó
củng cố thêm niềm tin ở người đọc ở tính xác thực của câu chuyện. Đặc điểm
thứ hai xuất hiện ở kiểu nhân vật này là họ mang trong mình một khả năng kì
lạ (khả năng khác người, biết tà phép..). Điều quan trọng là nhân vật này mới
dừng lại ở chỗ được ảo hóa một phần.
Kiểu nhân vật này xuất hiện tương đối nhiều trong Nghìn lẻ một đêm, đó
là trong câu chuyện Con lừa, con bò và người thợ cày; câu chuyện Cụ già thứ
nhất và con hươu cái; Chuyện nhà vua trẻ ở các đảo đen;…
Con lừa, con bò và người thợ cày kể về một thương gia giàu có, có nhiều
trang trại, ông cho nuôi ở đó đủ loại gia súc. “Ông có tài nghe hiểu được tiếng
nói của con vật, nhưng với một điều kiện là nghe xong không được nói với ai,
nếu không sẽ bỏ mạng.” Chính vì thế, mà ông đã nghe được câu chuyện giữa

bò và lừa, nghe được mưu mô mà lừa bày ra cho bò để lừa không phải làm việc.
Tuy nhiên, khi bò không phải làm việc thì lừa lại là vật thế thân cho công việc
của bò, do vậy, bò ta đã nghĩ ra kế để bò làm việc trở lại. Khi nghe được toàn
bộ sự việc giữa bò và lừa, mặc dù đang ngồi với vợ, ông bất giác phá lên cười

13


làm cho bà vợ rất đỗi ngạc nhiên, và cố gắng gặng hỏi ông. Nhưng vì việc ông
nghe được tiếng động vật phải được giữ kín không ông sẽ mất mạng, nên ông
không thể nói với vợ. Bà vợ đâm giận dỗi, không ăn, không uống, không ai có
thể khuyên ngăn ngay cả bố mẹ, con cái. Lần này, khả năng nghe thấu được
tiếng con vật đã đem đến tai họa cho ông, ông đã nghĩ tới chuyện “có lẽ phải hi
sinh mạng sống của mình đi để cứu lấy mạng người vợ mà ông rất thương yêu”.
Nhưng ông đã tìm được lối thoát nhờ tình cờ nghe được câu chuyện của gà
trống và chó, nghe được kế sách của gà trống “Ông hãy đi vào buồng có bà vợ,
cài chặt then cửa lại rồi cầm gậy phang cho bà ấy đủ một nghìn gậy”. Quả
nhiên, bà vợ ngoan ngoan không dám ép ông chồng nói cho nghe cái điều ông
không muốn lộ cho bà ấy biết…
Câu chuyện Con lừa, con bò và người thợ cày được tể tưởng kể cho con
gái nghe, nhằm khuyên con gái chớ có liều mình mà tự chuốc họa vào người.
Đây là một câu chuyện rất hay, ngụ nhiều ý nghĩa. Đọc truyện, hẳn ai cũng chú
ý và khâm phục tài nghe thấu tiếng con vật của ông chủ trang trại - có thể hiểu
hết được các tiếng con vật, quả là một điều lạ hiếm thấy. Ở đây ta dễ dàng nhìn
thấy ông chủ trang trại là một nhân vật điển hình của nhóm nhân vật có yếu tố
kì ảo. Ông là người, là một thợ cày, và nhà ông là cả một trang trại rộng lớn.
Ông có nguồn gốc lại lịch rõ ràng, một chỗ ở cụ thể, điều đặc biệt ở đây là tài
nghe thấu tiếng con vật của ông. Chính vì yếu tố kì ảo - khả năng nghe thấu
tiếng con vật đã tạo cho ông nhiều lợi thế, nhưng cũng để lại tai họa hết sức
khôn lường mà thật may mắn ông đã thoát khỏi cũng nhờ tài nghe thấu này.

Câu chuyện ngụ ngôn trong trường hợp này trở nên hấp dẫn hơn, đậm tính giáo
dục hơn khi có sự can thiệp khéo léo của con người. Nhìn xa hơn, ta nhận thấy
đây là một câu chuyện mở màn hết sức nhẹ nhàng mà sâu lắng cho toàn bộ
truyện Nghìn lẻ một đêm…
Lật những trang tiếp theo trong cuốn chuyện Nghìn lẻ một đêm, ta bắt gặp

14


Chuyện cụ già thứ nhất và con hươu cái cũng có sự có mặt của kiểu nhân vật
này. Đọc nhan đề câu chuyện có lẽ ai cũng liên tưởng tới một người đàn ông
với con vật có thể là thú nuôi hoặc thú cưng. Nhưng không, câu chuyện đi theo
hướng hoàn toàn khác. Con hươu ở đây thực ra trước đây là người em họ hơn
nữa là người vợ của cụ già. Trớ trêu thay người vợ của ông lão lại không thể
sinh con nên ông buộc phải mua một nữ nô lệ về, nữ nô sinh cho ông một người
con trai vô cùng triển vọng. Người vợ của ông (con hươu cái) vì ghen tức đố kị
với nữ nô đã học phép thuật phù phép biến người nô lệ thành con bò cái và
người con trai thành con bê để người chồng (cụ già bây giờ) chính thức ra tay
giết hại hai mẹ con nữ nô.
May mắn thay, người con trai (con bê) đã gặp được người tốt - người tá
điền. Người tá điền này có người con gái biết ma thuật, vì thế đã giúp ông lão
và con trai được đoàn tụ.
Trong câu chuyện này ta thấy xuất hiện một nhân vật biết ma thuật, chính
nhờ việc biết ma thuật này cô gái đã cứu giúp cho con trai cụ già, giúp cho anh
được trở về cuộc sống của một con người. Nhân vật cô gái ở đây ta có thể xếp
vào nhóm nhân vật mang trong mình yếu tố kì ảo. Cô gái là người thực, con gái
bác tá điền, với nơi ở hoàn toàn xác thực, chỉ có điều khác ở người bình thường
là cô biết phép thuật. Những nhân vật này luôn giữ vị trí không thể thiếu cho
cái kết có hậu của câu chuyện, cho sự hấp dẫn lôi cuốn của câu chuyện của
nàng Sehezarat cũng như cho bộ truyện Nghìn lẻ một đêm nói chung. Người

thực, việc thực, có pha chút kì ảo làm cho hành động của nhân vật trở nên thần
kì hơn huyền bí hơn, buộc người nghe phải liên tưởng, phải trôi theo mạch
ngầm của sự huyền bí khó lí giải…
Nếu nhân vật trong chuyện Cụ già thứ nhất và con hươu cái, dùng phép
thuật mà mình có trong việc cứu người thì nhân vật hoàng hậu trong Chuyện
nhà vua trẻ ở các đảo đen lại không dùng phép thuật theo các ấy. Chuyện nhà

15


vua trẻ ở các đảo đen kể về vị vua trẻ ở vương quốc các Đảo đen, mang tên
bốn ngọn núi nhỏ trong vùng. Vị vua trẻ này lấy cô em họ làm vợ. Tuy nhiên,
hoàng hậu lại không dành trọn tình cảm cho nhà vua, mà hằng đêm chờ lúc nhà
vua ngủ say, nàng đứng lên và nói to: “Hãy ngủ đi, và mong mày mãi mãi chẳng
tỉnh dậy nữa. Rồi nàng nhanh nhẹn mặc quần áo và bước ra khỏi buồng…”
Cái kim trong bọc lâu ngày rồi cũng lòi ra. Tình cờ vua lại nghe được sự
việc qua cuộc nói chuyện của hai nữ tì, nhà vua trẻ theo dõi hoàng hậu và bắt
gặp cuộc gặp gỡ của vợ mình với tình nhân, “vua rút gươm ra sẵn và vì tên tình
nhân ở ngay phía bên tôi, tôi chém một nhát vào cổ nó, quật nó ngã lăn ra đất…”
Xong việc vua lặng lẽ rút về cung như chưa có chuyện gì. Về phía hoàng
hậu mụ ta đã dùng ma thuật chữa trị cho tình nhân, tuy nhiên hắn ta vẫn trong
tình trạng sống dở chết dở. Mụ ta tức lắm “ kêu gào rất to”. Thời gian trôi qua
mụ sống trong đau khổ, và không ngừng nguyền rủa kẻ đã gây ra thảm cảnh
cho tình nhân của mụ, mụ nguyền rủa hắn - nhà vua. Bất bình trước lời nói của
mụ nhà vua vô tình đã làm lộ ra việc mình làm với tình nhân của ả. Và lẽ dĩ nhiên
nhà vua đã hứng chịu ma thuật ác quái của mụ - trở thành nửa đá, nửa người, “chết
giữa những người sống và sống giữa những người chết”.
Câu chuyện chỉ xoay quanh giữa 3 nhân vật. Trong đó, nhân vật hoàng
hậu, vợ của vua, ngày ngày chung sống với vua trong cung điện nguy nga, lộng
lẫy; là nhân vật mang yếu tố kì ảo - mang trong mình phép thuật. Cũng bởi thứ

phép thuật kì quái ấy mà nhà vua trẻ ở các Đảo đen đã rơi vào thảm cảnh tưởng
chừng không lối thoát, tưởng chừng như phải sống như thế đến hết đời. Trong
nội hàm câu chuyện, hoàng hậu là nhân vật độc ác, xấu xa, cần phải lên án.
Nhưng nếu trên góc độ văn học, ta không thể phủ nhận vai trò của nhân vật
này, đặc biệt yếu tố kì ảo của nhân vật. Chỉ một minh chứng nhỏ ta sẽ thấy rõ
điều này. Ví như, hoàng hậu không có phép thuật thì bà ta sẽ không thể biến
nhà vua trẻ thành nửa đá, nửa người và không thể duy trì được mạng sống cho

16


tên tình nhân. Lẽ tất nhiên, câu chuyện Nhà vua trẻ ở các Đảo đen sẽ kết trở
nên nhàm chán. Ta thấy rằng câu chuyện đã trở nên hay hơn, hấp dẫn hơn, gay
cấn hơn, và cũng khiến cho người đọc cảm thấy phẫn nộ hơn khi có bàn tay
phù phép của mụ hoàng hậu.
Với một cốt truyện đơn giản, nhà vua trẻ lấy cô em họ làm vợ, hoàng hậu
ngoại tình, nhà vua bắt được quả tang. Câu chuyện đã được nêm thêm vào một
thứ gia vị “yếu tố ma thuật”, bỏ vào chính nhân vật hoàng hậu, làm cho nhân
vật trở nên độc ác hơn. Cũng do vậy, câu chuyện trở nên mặn mà, làm nảy sinh
vấn đề người tốt phải có quý nhân phù trợ. Từ đó, nàng Seherazat có cớ để kể
chuyện từ đó “mượn cớ” để kéo thời gian sinh tử dài thêm ra…
Ta thấy rằng nhân vật nằm trong nhóm nhân vật mang yếu tố kì ảo thường
mang trong mình hai đặc điểm chính: họ đều là những người có nguồn gốc, lai
lịch rõ ràng, chỗ ở xác thực; họ mang trong mình một khả năng kì lạ (khả năng
khác người, biết tà phép…). Ta đã dễ dàng chứng minh được những đặc điểm
này của các nhân vật thông qua việc tìm hiểu một số câu chuyện kể trên.
1.3.3 Nhân vật kì ảo
Khác với nhân vật có yếu tố kì ảo, nhân vật kì ảo bị “ảo hóa” hoàn toàn từ
xuất thân đến ngoại hình, hành động. Yếu tố kì ảo có sẵn ngay trong bản chất
của nhân vật, không phải do bên ngoài đem lại. Đó là các nhân vật phi vật thể

(phi người hay khác loài) có thể là ma quỷ hay thần tiên…Cuộc sống của nhân
vật này thực đa dạng. Nơi ở cũng rất đặc biệt, khi thì ở ngọn cây, khi thì nơi
rừng rậm…
Loại nhân vật này xuất hiện rất nhiều trong tập truyện Nghìn lẻ một đêm.
Với kiểu nhân vật kì ảo là thần tiên, ta bắt gặp trong Chuyện hoàng tử Admed
và nàng tiên Pari - Banu. Câu chuyện xoay quanh 5 nhân vật chính nhà vua, và
ba vị hoàng tử Hutxanh, Ali, Admed, và cháu gái là Nurunmila. Ba vị hoàng tử
đều rất tài giỏi nhưng trớ trêu thay, ba người đều thích Nurunmila xinh đẹp. Tất

17


nhiên, công chúa Nurunmila không thể làm vợ ba người, nhà vua đành phải
nghĩ cách tìm ra người xứng đáng nhất để làm chồng công chúa Nurunmila.
Sau rất nhiều khổ tâm, vua đã tìm được cách, cho gọi ba vị hoảng tử đến và nói
với các vị hoàng tử “hãy đi du lịch riêng rẽ, đến những đất nước khác nhau để
không gặp nhau. Các con biết ta tò mò thích những vật hiếm và đặc biệt, ta hứa
sẽ cưới công chúa cho người nào trong các con mang về cho ta vật khác thường
nhất và đặc biệt nhất.’’ Ba vị hoàng tử lên đường, mỗi người đến một đất nước
và đều đem về một vật hết sức kì lạ. Hoàng tử Hutxanh tìm được một tấm thảm
bay, trong phút chốc nó có thể đến địa điểm mà chủ yêu cầu; hoàng tử Ali với
một chiếc ống bằng ngà voi có thể nhìn thấy bất kì thứ gì muốn thấy; vị hoàng
tử thứ ba Admed thì dâng vua bằng quả táo thần kì có thể chưa được mọi bệnh
tật dù có nặng đến mức nào. Ba vật mà ba vị hoàng tử tìm được đều rất qúy giá
và điều đáng nói, chúng đều được sử dụng trong việc giừ lại mạng sống cho
công chúa Nurunmila. Ống nhòm giúp ba vị hoàng tử thấy được công chúa
đang bị bệnh rất nặng, thảm bay nhanh chóng trong chốc lát đưa ba vị hoàng tử
gần bên công chúa, cuối cùng nhờ quả táo thần kì mà công chúa đã được cứu
sống. Vì thế, vua không biết phân xử vật nào quý hơn vật nào, bèn đề nghị cho
ba vị hoàng tử thi bắn tên, ai bắn xa hơn sẽ được cưới công chúa. Kết quả là

hoàng tử Ali đã cưới được công chúa Nurunmila làm vợ. Hoàng tử Hutxanh
buồn chán đến nỗi rời bỏ triểu đình, đi tu ở ẩn. Khác với Hutxanh hoàng tử
Admed không từ bỏ cuộc đời như người anh của mình mà đi tìm hiểu lí do tại
sao mũi tên của chàng lại mất tích. Chàng tìm thấy mũi tên, và tại đó bắt gặp
nàng tiên Pari Banu. Hai người kết duyên vợ chồng. Thì ra tất cả các báu vật
mà ba vị hoàng tử tìm được là do nàng tiên sắp đặt, cả việc mũi tên bay đến tận
nơi ở của nàng tiên. Hoàng tử Admed rất hạnh phúc được sống bên cạnh nàng,
tuy nhiên chàng vẫn không nguôi nhớ về vua cha, chàng xin phép vợ được về
thăm vua cha mỗi tháng. Vì rất yêu thương chàng, Pari Banu vui vẻ chấp thuận.

18


Hoàng tử mong ngóng được gặp vua cha, mong được thể hiện phần nào lòng
hiếu thảo, nhưng về phía nhà vua, vua lại sợ chàng trở về sẽ đoạt ngôi vua bèn
nhờ một mụ phù thủy hiến kế ngăn không cho chàng có cơ hội quay lại triều
đình nữa. Dưới sự giúp đỡ của nàng tiên Pari Banu chàng đã có được “một lều
vải nắm gọn trong tay mà che kín gió mưa toàn bộ triều đình và đoàn quân của
người khi ra trận” và nước ở giếng sư tử có thể chữa được mọi bệnh tật để dâng
vua. Không chỉ vậy, mụ phù thủy còn bày cho nhà vua cách làm khó hoàng tử
Admed đó là yêu cầu chàng mang đến một người đàn ông “biết nói cao không
đến một bộ rưỡi, bộ râu dài ba mươi bộ, mang trên vai một thanh sắt nặng năm
trăm li-vrơ mà ông ta dùng như một chiếc gậy hai đầu.” Với cách này, mụ phù
thủy tin chắc phần thắng sẽ nằm trong tay mình, bởi người như thế khó mà có
trên đời. Tuy thế, việc này lại không thể làm khó nàng tiên, thậm chí nó còn dễ
hơn việc yêu cầu Admed lấy nước giếng sư tử, bởi người mà nhà vua yêu cầu
lại chính là anh trai của nàng tiên - Schaiba. Khi gặp được người mình yêu cầu,
nhà vua đáng lẽ phải mừng rỡ tiếp đón thì nhà vua lại “bịt mắt quay đầu về phía
khác để không thấy một vật đáng sợ như vậy”. Và tức thì vua bị người này
giáng cho một gậy sắt chết ngay, làm hoàng tử không kịp can ngăn. Và mụ phù

thủy cũng nhận được cái chết giống nhà vua vì những lời khuyên nguy hại mụ
đưa ra. Hoàng tử Admed lên ngôi, nàng tiên Pari Banu trở thành hoàng hậu Ấn
độ.
Có thể thấy câu chuyện Hàng tử Admed và nàng tiên Pari Banu là một
trong những câu chuyện khá dài của nàng Sehezarat. Câu chuyện rất hấp dẫn
bởi những vật thần kì, những tình tiết kì lạ. Mà những vật thần kì như thảm bay,
ống nhòm hay quả táo thần lại chính do bàn tay của một nàng tiên tạo ra. Nhân
vật nàng tiên Pari Banu với vai trò là nhân vật kì ảo - nhân vật có phép lạ, đóng
một vai trò hết sức quan trọng tạo nên một cốt truyện thú vị. Nhân vật nàng tiên
Pari Banu là nhân vật không có thực trong đời sống, do chính mong muốn của

19


×