Đồ án tốt nghiệp
Thực trạng của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ tại Việt
Nam
.
MỤC LỤC
Chương I. Những cơ sở lý luận chung của doanh nghiệp vừa và nhỏ
1. Khái niệm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
2. Tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ
3. Ưu thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ
4. Hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ
5. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ
6. Pháp luật chi phối doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Chương II. Thực trạng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam
I. Quá trình hình thành và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam
1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực công nghiệp
2. Doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực thương mại dịch vụ
3. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực nông thôn
II. Tác động của các chính sách vĩ mô đến sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
1. Tác động của chính sách thương mại
2. Tác động cảu chính sách tài chính tiền tệ
3. Tác động của chính sách đất đai
4. Tác động của chính sách công nghệ, giáo dục đào tạo
5. Tác động của chính sách hợp tác quốc tế về các doanh nghiệp vừa và nhỏ
III. Thực trạng và những tồn tại của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam
1. Vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
2. Tình hình thiết bị công nghệ
3. Trình độ nhân lực, lao động và quản lý
4. Tình hình và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ về sản phẩm, thị
trường
CHƯƠNG I
NHỮNG CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ
1. Khái niệm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Nhiều chuyên gia kinh tế và pháp luật của Việt Nam cho rằng khái niệm doanh
nghiệp vừa và nhỏ và sau đó khái niệm doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ được du nhập từ
bên ngoài vào Việt Nam. Vấn đề tiêu chí doanh nghiệp vừa, nhỏ và cực nhỏ là trung tâm
của nhiều cuộc tranh luận về sự phát triển của khu vực này trong nhiều năm qua. Định
nghĩa về doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp nhỏ và cực nhỏ rừ ràng phải dựa trước
tiên vào quy mô doanh nghiệp. Thông thường đó là tiêu chí về số nhân công, vốn đăng
kí, doanh thu..., các tiêu chí này thay đổi theo từng quốc gia, từng chương trỡnh phỏt
triển khỏc nhau.
Ở Việt Nam đó giải quyết vấn đề định nghĩa này một phần nào. Công văn số 681
/CP-KTN ban hành ngày 20-6-1998 theo đó doanh nghiệp nhỏ và vừa là doanh nghiệp có
số công nhân dưới 200 người và số vốn kinh doanh dưới 5 tỷ đồng (tương đương 378.000
USD - theo tỷ giá giữa VND và USD tại thời điểm ban hành công văn). Tiêu chí này đặt
ra nhằm xây dựng một bức tranh chung về các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
phục vụ cho việc hoạch định chính sách. Trên thực tế tiêu chí này không cho phép phân
biệt các doanh nghiệp vừa, nhỏ và cực nhỏ. Vỡ vậy, tiếp theo đó Nghị định số
90/2001/NĐ-CP đưa ra chính thức định nghĩa doanh nghiệp nhỏ và vừa như sau: “Doanh
nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đó đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động
trung bỡnh hàng năm không quá 300 người”. Các doanh nghiệp cực nhỏ được quy
định là có từ 1 đến 9 nhân công, doanh nghiệp có từ 10 đến 49 nhân công được coi là
doanh nghiệp nhỏ.
2.Tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trên thế giới, định nghĩa về doanh nghiệp vừa và nhỏ được hiểu và quy định khác
nhau tuỳ theo từng nơi. Các tiêu chí để phân loại doanh nghiệp có hai nhóm: tiêu chí định
tính và tiêu chí định lượng. Nhóm tiêu chí định tính dựa trên những đặc trưng cơ bản của
doanh nghiệp như chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của
quản lý thấp... Các tiêu chí này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng
thường khó xác định trên thực tế. Do đó chúng thường được dùng làm cơ sở để tham
khảo trong, kiểm chứng mà ít được sử dụng để phân loại trong thực tế. Nhóm tiêu chí
định lượng có thể dựa vào các tiêu chí như số lao động, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu,
lợi nhuận. Trong đó:
Số lao động: có thể lao động trung bỡnh trong danh sỏch, lao động thường xuyên,
lao động thực tế;
Tài sản hay vốn: có thể là tổng giá trị tài sản (hay vốn), tài sản (vốn) cố định, giá
trị tài sản cũn lại;
Doanh thu: có thể là tổng doanh thu/năm, tổng giá trị gia tăng/năm (hiện nay có
xu hướng sử dụng chỉ số này).
Trong các nước APEC tiêu chí được sử dụng phổ biến nhất là số lao động. Cũn
một số tiờu chớ khỏc thỡ tuỳ thuộc vào điều kiện từng nước.
Tuy nhiên sự phân loại doanh nghiệp theo quy mô lại thường chỉ mang tính tương
đối và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
Trỡnh độ phát triển kinh tế của một nước: trỡnh độ phỏt triển càng cao thỡ trị số
cỏc tiờu chớ càng tăng lên. Ví dụ như một doanh nghiệp có 400 lao động ở Việt Nam
không được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ nhưng lại được tính là SME ở CHLB Đức. Ở
một số nước có trỡnh độ phát triển kinh tế thấp thỡ cỏc chỉ số về lao động, vốn để phân
loại doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ thấp hơn so với các nước phát triển.
Tớnh chất ngành nghề: do đặc điểm của từng ngành, có ngành sử dụng nhiều lao
động như dệt, may, có ngành sử dụng ít lao động nhưng nhiều vốn như hoá chất, điện...
Do đó cần tính đến tính chất này để có sự so sánh đối chứng trong phân loại các SME
giữa các ngành với nhau. Trong thực tế, ở nhiều nước, người ta thường phân chia thành
hai đến ba nhóm ngành với các tiêu chí phân loại khác nhau. Ngoài ra có thể dùng khỏi
niệm hệ số ngành (Ib) để so sánh đối chứng giữa các ngành khác nhau.
Vựng lónh thổ: do trỡnh độ phát triển khác nhau nên số lượng và quy mô doanh
nghiệp cũng khác nhau. Do đó cần tính đến cả hệ số vùng (Ia) để đảm bảo tính tương
thích trong việc so sỏnh quy mụ doanh nghiệp giữa cỏc vựng khỏc nhau.
Bảng : Tham khảo về tiêu chí doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước
TÊN NƯỚC
TIấU CHÍ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
ÚC
MỸ
NHẬT
CHLB ĐỨC
- Sản xuất : dưới 100 LĐ
- Phi sản xuất: dưới 20 LĐ
- Doanh nghiệp nhỏ: dưới 100 LĐ
- Doanh nghiệp vừa: 101-499 LĐ
- Sản xuất:dưới 300 LĐ hoặc dưới 100 triệu Yên
- Bán lẻ, dịch vụ: dưới 50 LĐ hoặc dưới 10 triệu Yên
- Dưới 500 LĐ
- Công nghiệp, xây dựng: vốn góp dưới 40 triệu NT$, dưới 300 LĐ
ĐÀI LOAN
- Khai khoáng: vốn góp dưới 40 triệu NT$, dưới 500 LĐ
- Thương mại, vận tải và dịch vụ khác: dưới 40 triệu NT$ doanh thu,
dưới 50 LĐ
(Nguồn : tổng hợp từ dữ liệu sưu tầm được qua các trang web trên mạng)
Tớnh lịch sử: một doanh nghiệp trước đây được coi là lớn, nhưng với quy mô
như vậy, hiện tại hoặc tương lai có thể được coi là vừa hoặc nhỏ. Như vậy trong việc xác
định quy mô doanh nghiệp cần tính thêm hệ số tăng trưởng quy mô doanh nghiệp trung
bỡnh (Id) trong từng giai đoạn. Hệ số này chỉ được sử dụng khi xác định quy mô doanh
nghiệp cho các thời kỡ khỏc nhau.
Mục đích phân loại: khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ khác nhau tuỳ theo mục
đích công việc phân loại.
Như vậy có thể xác định được quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc một ngành
hoặc một địa bàn cụ thể theo công thức sau:
F(Sba) = Ib* Ia*Sa/ Id
Trong đó:
F(Sba): quy mụ một doanh nghiệp thuộc một ngành và trờn một lónh thổ cụ thể.
Ib,Ia,Id: tương ứng là hệ số vùng, ngành, hệ số tăng trưởng quy mô doanh nghiệp;
Sa : quy mô vừa và nhỏ chung trong một nước.
Cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ cú vai trũ quan trọng trong nền kinh tế một quốc gia,
khu vực và toàn cầu. Cỏc ưu thế và nhược điểm của loại hỡnh doanh nghiệp này sẽ được
trỡnh bày dưới đây nhằm đem lại một cái nhỡn sõu vào bản chất của loại hỡnh này, cho
phộp ta định ra hướng đi rừ ràng trong việc xác định hướng phát triển cho loại hỡnh này.
3.Ưu thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ cú những lợi thế rừ ràng, đó là khả năng thoả món nhu
cầu cú hạn trong những thị trường chuyên môn hoá, khuynh hướng sử dụng nhiều lao
động với trỡnh độ lao động kỹ thuật trung bỡnh thấp, đặc biệt là rất linh hoạt, có khả
năng nhanh chóng thích nghi với các nhu cầu và thay đổi của thị trường. Doanh nghiệp
vừa và nhỏ có thể bước vào thị trường mới mà không thu hút sự chú ý của cỏc doanh
nghiệp lớn (do quy mô doanh nghiệp nhỏ), sẵn sàng phục vụ ở những nơi xa xôi nhất,
những khoảng trống vừa và nhỏ trên thị trường mà các doanh nghiệp lớn không đáp ứng
vỡ mối quan tõm của họ đặt ở các thị trường có khối lượng lớn. Doanh nghiệp vừa và
nhỏ là loại hỡnh sản xuất cú địa điểm sản xuất phân tán, tổ chức bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ
nên nó có nhiều điểm mạnh:
- Dễ dàng khởi sự, bộ máy chỉ đạo gọn nhẹ và năng động, nhạy bén với thay đổi
của thị trường.
Doanh nghiệp chỉ cần một số vốn hạn chế, mặt bằng khụng lớn, các điều kiện sản
xuất đơn giản là đó cú thể bắt đầu hoạt động. Vũng quay sản phẩm nhanh nờn cú thể sử
dụng vốn tự cú, hoặc vay bạn bố, người thân dễ dàng. Bộ máy tổ chức gọn nhẹ linh hoạt,
dễ quản lý, dễ quyết định. Đồng thời, do tính chất linh hoạt cũng như quy mô nhỏ cảu nó,
doanh nghiệp có thể dễ dàng phát hiện thay đổi nhu cầu của thị trường, nhanh chóng
chuyển đổi hướng kinh doanh, phát huy tính năng động sáng tạo, tự chủ, nhạy bén trong
lựa chọn thay đổi mặt hàng. Từ đó doanh nghiệp sẽ tạo ra sự sống động trong phát triển
kinh tế.
- Sẵn sàng đầu tư vào các lĩnh vực mới, lĩnh vực có mức độ rủi ro cao.
Đó là bởi vỡ cỏc doanh nghiệp loại này cú mức vốn đầu tư nhỏ, sử dụng ít lao
động nên có khả năng mạo hiểm sẵn sàng mạo hiểm. Trong trường hợp thất bại thỡ cũng
khụng bị thiệt hại nặng nề như các doanh nghiệp lớn, có thể làm lại từ đầu được. Bên
cạnh đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ có động cơ để đi vào các lĩnh vực mới này: do tính
chất nhỏ bé về quy mô nên khó cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong sản xuất dây
chuyền hàng loạt. Họ phải dựa vào lợi nhuận thu được từ các cuộc kinh doanh mạo hiểm.
- Dễ dàng đổi mới trang thiết bị, đổi mới công nghệ, hoạt động hiệu quả với chi
phí cố định thấp.
Doanh nghiệp có nguồn vốn kinh doanh ít nên đầu tư vào các tài sản cố định cũng
ít, do đó dễ tiến hành đổi mới trang thiết bị khi điều kiện cho phép. Đồng thời doanh
nghiệp tận dụng được lao động dồi dào để thay thế vốn. Với chiến lược phát triển, đầu tư
đúng đắn,sử dụng hợp lý cỏc nguồn lực của mỡnh, cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể
đạt được hiệu quả kinh tế - xó hội cao, cũng như có thể sản xuất được hàng hoá có chất
lượng tốt và có sức cạnh tranh trên thị trường ngay cả khi điều kiện sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp có nhiều hạn chế.
- Khụng cú hoặc ít có xung đột giữa người thuê lao động với người lao động.
Quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ tất nhiên là không lớn lắm. Số lượng lao động
trong một doanh nghiệp không nhiều, sự phân công lao động trong xí nghiệp chưa quá
mức rừ rệt. Mối quan hệ giữa người thuê lao động và người lao động khá gắn bó. Nếu
xảy ra xung đột, mâu thuẫn thỡ dễ dàn xếp.
4. Hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Cỏc hạn chế của loại hỡnh doanh nghiệp này đến từ hai nguồn. Các hạn chế
khách quan đến từ thực tế bên ngoài, và các hạn chế đến từ chính các lợi thế của doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
- Hạn chế đầu tiên và lớn nhất của SMEs nằm trong chính đặc điểm của nó, đó là
quy mô nhỏ, vốn ít, do đó các doanh nghiệp này thường lâm vào tỡnh trạng thiếu vốn
trầm trọng mỗi khi muốn mở rộng thị trường, hay tiến hành đổi mới, nâng cấp trang thiết
bị.
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường phụ thuộc vào doanh nghiệp mà nó cung
cấp sản phẩm.
- Khó khăn trong nâng cấp trang thiết bị, đầu tư công nghệ mới, đặc biệt là các
công nghệ đũi hỏi vốn lớn, từ đó ảnh hưởng đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm
và tính cạnh tranh trên thị trường.
- Có nhiều hạn chế trong đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp, thiếu bí quyết
và trợ giúp kỹ thuật, không có kinh nghiệm trong thiết kế sản phẩm, thiếu đầu tư cho
nghiên cứu và phát triển,... nói cách khác là không đủ năng lực sản xuất để đáp ứng các
yêu cầu về chất lượng, khó nâng cao được năng suất và hiệu quả kinh doanh.
- Thiếu trợ giúp về tài chính và tiếp cận thị trườngcác doanh nghiệp vừa và nhỏ
thường tỏ ra bị động trong các quan hệ thị trường.
- Do tính chất vừa và nhỏ của nó, SMEs gặp khó khăn trong thiết lập và mở rộng
quan hệ hợp tác với các đơn vị kinh tế bên ngoài địa phương doanh nghiệp đó đang hoạt
động.
- Cũng do tớnh chất vừa và nhỏ của nú, SMEs gặp khó khăn trong thiết lập chỗ
đứng vững chắc trong thị trường
5. Vai trũ của doanh nghiệp vừa và nhỏ
a. Tạo ra nhiều việc làm với chi phớ thấp
Các cơ sở doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thích hợp với các phương pháp tiết kiệm
vốn và do đó chúng được công nhận là phương tiện giải quyết thất nghiệp hiệu quả nhất
Thứ nhất, do đặc tính phân bố rải rác của chúng. Các doanh nghiệp loại này
thường phân tán nên chúng có thể đảm bảo cơ hội việc làm cho nhiều vùng địa lý và
nhiều đối tượng lao động, đặc biệt là với các vùng sâu, vùng xa, vùng chưa phát triển
kinh tế, với các đối tượng lao động có trỡnh độ tay nghề thấp. Nhờ vậy chúng vừa giải
quyết thất nghiệp vừa góp phần giảm dũng người chuyển về thành phố tỡm việc làm.
Thứ hai, do tớnh linh hoạt, uyển chuyển dễ thớch ứng với các thay đổi của thị
trường của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong trường hợp có biến động xảy ra, các
doanh nghiệp lớn sẽ đối phó khá chậm chạp, không phải vỡ cấp quản lý bất tài mà bởi vỡ
doanh nghiệp lớn thỡ khú xoay trở nhanh. Họ sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động,
sau đó sẽ phải sa thải bớt lao động để cắt giảm chi phí đến mức có thể tồn tại và phát
triển được trong điều kiện cung lớn hơn cầu. Trong khi đó do khả năng linh hoạt, có thể
thích ứng nhanh với thay đổi của thị trường, các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn có thể tồn
tại được mà không phải sử dụng đến biện pháp cắt giảm lao động.
Bảng : Tỷ trọng thu hút lao động và tạo ra giá trị gia tăng của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở một số nước Châu Á
THU HÚT LAO ĐỘNG
GIÁ TRỊ GIA TĂNG
(%)
(%)
Singapore
35.2
26.6
Malaysia
47.8
36.4
Hàn Quốc
37.2
21.1
Nhật Bản
55.2
38.8
TÊN NƯỚC
(Albert Bery: Các hoạt động kinh doanh vừa và nhỏ dưới tác động của tự do hoá
thương mại và tỷ giá: kinh nghiệm của Canada và Mỹ Latinh, 1996)
b. Cung cấp cho xó hội một khối lượng hàng hoá đáng kể về cả chất lượng, số
lượng và chủng loại
Các công ty, doanh nghiệp vừa và nhỏ thu hút một lượng lớn lao động và tài
nguyên của xó hội để sản xuất ra hàng hoá. Để có thêm sức cạnh tranh trực tiếp với các
công ty và tập đoàn lớn, hàng hoá của họ nói chung thiên về sự đa dạng về chất lượng và
chủng loại, tạo cho người tiêu dùng có nhiều cơ hội được lựa chọn. Bên cạnh đó họ cũng
tiến vào nhiều thị trường nhỏ mà các công ty lớn bỏ qua vỡ doanh thu từ đó quá nhỏ.
c. Gieo mầm cho các tài năng quản trị kinh doanh
Một số những người có tài trong quản trị kinh doanh không muốn làm việc trong
các công ty lớn mà muốn mở công ty riêng để tiện đường vùng vẫy. Các doanh nghiệp có
quy mô vừa và nhỏ rất thích hợp đối với họ trong việc thử sức của mỡnh. Bờn cạnh đó
các công ty tư nhân lớn nói chung đều xuất phát từ các công ty nhỏ đi lên. Tập đoàn
Microsoft của tỷ phú Bill Gates cũng do ông ta xây dựng dần lên. Ông ta vào lúc 20 tuổi
vẫn cũn là một người chưa có nhiều tài sản, bỏ học đại học để mở doanh nghiệp riêng
của mỡnh. Chưa đầy 30 năm sau đó trở thành người giàu nhất thế giới, là một điển hỡnh
của người làm giàu dựa vào năng lực của mỡnh.
Cỏc cụng ty nhỏ là cũn là nơi huấn luyện nguồn nhân lực cho các công ty lớn.
Các nhân viên sẽ học được những kỹ năng ban đầu về quản lý rất cần thiết, được công ty
lớn đánh giá cao như là:
Điều hành kinh doanh
Quan hệ với khỏch hàng
Kiểm soỏt và quản lý nhõn viờn
Quy định xuất nhập khẩu
Quản lý thời gian
Công nghệ thông tin hiện đại
Điều hành văn phũng
Các quy định về thuế
Hậu cần
Hệ thống cung cấp và phõn phối
Bỏn hàng và tiếp thị
Luật lệ cụng ty
Xỳc tiến sản phẩm và dịch vụ
Bỏn hàng
Định giá và lợi nhuận
Quan hệ với quan chức chớnh phủ
Đây là các kỹ năng cần thiết cho công việc ở các công ty lớn và việc đào tạo chúng
cho người lao động cần thời gian. Các doanh nghiệp nhỏ sẽ thực hiện “hộ” khâu này.
Nhân viên công ty nhỏ sau một thời gian có được kinh nghiệm rồi sẽ được các công ty
lớn thu nhận.
d. Tăng nguồn tiết kiệm và đầu tư cho dân địa phương
Nhỡn chung cỏc doanh nghiệp vừa và nhỏ được mở ra ở địa phương nào đều có công
nhân và chủ doanh nghiệp là người ở địa phương đó. Khi các doanh nghiệp loại đó được
mở ra thỡ người dân lao động ở địa phương có công ăn việc làm, có nguồn thu nhập. Kết
cục là quỹ tiền tiết kiệm-đầu tư của địa phương đó được bổ sung.
e. Làm cho nền kinh tế năng động và hiệu quả hơn
Các công ty lớn và các tập đoàn không có được tính năng động của các đơn vị
kinh tế nhỏ hơn chúng vỡ một nguyờn nhõn đơn giản là quy mô của chúng quá lớn. Quy
luật của vật lý là khối lượng một vật càng lớn thỡ quỏn tớnh của nú càng lớn. Cũng vậy,
cỏc đơn vị kinh tế càng to lớn thỡ càng thiếu tớnh linh hoạt, thiếu khả năng phản ứng
nhanh, nói cách khác là sức ỡ càng lớn.Một nền kinh tế đặt một tỷ lệ quá lớn nguồn lao
động và tài nguyên vào tay các doanh nghiệp quy mô lớn sẽ trở nên chậm chạp, không
bắt kịp và phản ứng kịp với các thay đổi trên thị trường. Ngược lại, một nền kinh tế có
một tỷ lệ thích hợp các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ trở nên “nhanh nhẹn” hơn, phản ứng
kịp thời hơn. Tính hiệu quả của nền kinh tế sẽ được nâng cao.
f. Cải thiện mối quan hệ giữa cỏc khu vực kinh tế khỏc nhau
g. Phát huy và tận dụng các nguồn lực địa phương, góp phần tăng trưởng kinh tế
Một nền kinh tế bao giờ cũng cú “vựng biờn giới”, “vùng sâu”, “vùng xa”. Đó là
các khu vực địa lý hoặc cỏc thị trường có quy mô nhỏ, kém phát triển, hoặc là xa tuyến
giao thông, thiếu tài nguyên... Các công ty lớn thường bỏ qua các khu vực đó vỡ cho rằng
nguồn lợi thu được từ đó không lớn bằng nguồn lợi thu được từ nơi khác với cùng một chi
phí bỏ ra, nói cách khác là chi phí cơ hội của vùng đó cao. Nếu một nền kinh tế chỉ có các
doanh nghiệp lớn thỡ điều này sẽ dẫn đến một sự phát triển không đều giữa các vùng,
không tận dụng hết tài nguyên và giảm hiệu quả hoạt động của nền kinh tế cũng như gây ra
các thiệt hại tiềm tàng cho nền kinh tế. Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thỡ
chi phớ cơ hội của các vùng này là chấp nhận được, xứng đáng với nguồn lợi thu lại. Vỡ
vậy họ sẵn sàng hoạt động ở đây nếu có các chính sách ưu đói thớch hợp của chớnh quyền
địa phương.
h. Giữ gỡn và phỏt huy cỏc ngành nghề truyền thống, thể hiện bản sắc dõn tộc
Trong quỏ trỡnh hiện đại hoá, công nghiệp hoá các ngành nghề truyền thống đang
đứng trước sự cạnh tranh khốc liệt, giữa chế tạo sản phẩm thủ công với sản xuất dây
chuyền hàng loạt. Một ví dụ như: thợ đóng giày có thể đóng những đôi giày rất bền dùng
được hàng năm không hỏng . Nhưng trong thời hiện đại phải đối mặt với các xí nghiệp
sản xuất giày có sản phẩm không bền lắm, đổi mới theo mùa và giá rẻ hơn so với giày
thủ công. Một thợ thủ công hay vài người thỡ khụng thể đương đầu được với các doanh
nghiệp lớn đó. Muốn tồn tại được các thợ thủ công phải hợp nhau lại thành lập doanh
nghiệp, sau đó quảng cáo xa rộng để tỡm đến các khách hàng tiềm năng của các sản
phẩm thủ công. Trong xó hội luụn tồn tại nhu cầu đối với các sản phẩm truyền thống, vấn
đề là phải làm cho những khách hàng đó biết đến sản phẩm của mỡnh.
Loại hỡnh doanh nghiệp vừa và nhỏ cú thể núi là rất thích hợp cho sản xuất thủ
công. Các ngành nghề truyền thống có thể dựa vào đó để sản xuất, kinh doanh, quảng
cáo. Bên cạnh đó công nghệ tiên tiến cũng sẽ dần tiếp cận vào các ngành nghề này. Và đó
cũng là một điều cần phải xẩy ra trong thời đại công nghiệp.
Cụ thể hơn ta hóy hỡnh dung một cảnh như sau: một số thợ đóng giày hợp nhau lại
thành một doanh nghiệp. Trong thành phố địa phương của họ chỉ có một số nhỏ khách
hàng ưa thích loại giày đóng thủ công và sẵn sàng trả giá (dù là cao) để đi loại giầy này
cầu nhỏ. Doanh nghiệp đó đáp ứng được nhu cầu đó. Sau đó doanh nghiệp tiến hành
một chiến dịch quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng và trên Internet. Sau
một thời gian các khách hàng có nhu cầu tương tự ở tại các thành phố khác trong cả nước
liên lạc đặt mua. Tiếp sau nữa là các khách hàng nước ngoài ưa thích kiểu dáng giày
quảng cáo trên Internet cũng liên lạc đặt mua. Bên cạnh đó các nghệ nhân cũng sử dụng
thêm một số công nghệ mới để hỗ trợ thêm cho việc chế tạo giày như là dùng máy tính
để tạo hỡnh sản phẩm trước,... Trong quá trỡnh phỏt triển đó họ tiếp cận và làm quen với
các kỹ thuật và công nghệ mới. Tuy khách hàng địa phương của họ không nhiều nhưng
khách hàng trên toàn cầu chiếm một lượng đủ để họ tồn tại được trước thách thức của
những đôi giày hiện đại giá rẻ rất mốt được sản xuất hàng loạt kia.
6. Phỏp luật chi phối doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Bảng : Hệ thống các nhóm văn bản luật pháp trực tiếp liên quan
doanh nghiệp vừa và nhỏ
Tờn của luật và
Luật bị thay thế
Nội dung chớnh
chớnh sỏch
Nghị định số 90/NĐNghị định đưa ra một chính sách đặc biệt
CP về chính sách trợ
đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, là chính
giúp phát triển các
sách hỗ trợ bổ sung cho phát triển doanh
doanh nghiệp nhỏ và
nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam
vừa (2001)
Luật Doanh nghiệp Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp 1999 và Nghị định số
(1999)
Luật
Doanh 02/2000 hướng dẫn việc thực thi Luật
nghiệp tư nhân Doanh nghiệp, đưa ra khuôn khổ pháp lý
(21-12-1990),
hiện đại đầu tiên cho tất cả các doanh
Nghị định số nghiệp đăng ký kinh doanh trong nước:
66/HĐBT ngày 2- Luật quy định việc thành lập các công ty
3-1992 cho các qua việc đăng ký kinh doanh tự giỏc, hơn
hộ kinh doanh cá là thông qua phê chuẩn và cấp phép của
thể
chính phủ.
Luật Phỏ sản Doanh
Luật quy định cơ sở để đánh giá các doanh
nghiệp (1993)
nghiệp bị phá sản, các thủ tục yêu cầu và
tuyên bố phá sản doanh nghiệp
Luật Thuế giá trị gia
Luật Thuế doanh Luật này xác định mức thuế giá trị gia tăng,
tăng
thu
là mức thuế tính trên giá trị hàng hoá và
dịch vụ trong quỏ trỡnh sản xuất, lưu thông
và tiêu dùng.
Luật Thuế thu nhập Luật Thuế lợi tức Các đối tượng chịu thuế thu nhập của
doanh nghiệp (1999)
doanh nghiệp được quy định bởi luật này là
thu nhập của tổ chức và cá nhân có hoạt
động sản xuất và kinh doanh. Tỷ lệ thuế
thu nhập của doanh nghiệp theo quy định
của Luật là 32 % ngoại trừ một số trường
hợp đặc biệt.
Bộ luật Lao động
Bộ luật Lao động điều chỉnh các mối quan
(1999), Nghị định
hệ lao động tại doanh nghiệp. Mức lương
77/2000/NĐ-CP
có
tối thiểu trong các doanh nghiệp ở Việt
hiệu lực từ ngày 1-1Nam là 210 000 VNĐ
2001
Luật khuyến khích đầu
Xác định những ưu đói đầu tư trong nước
tư trong nước (1994)
vào các vùng có khó khăn về kinh tế-xó hội
và cỏc hoạt động kinh tế chiến lược, bao
gồm về đầu tư tạo nhiều việc làm mới.
Luật Thương mại
Văn bản luật pháp quy định hoạt động
(1997)
thương mại tại Việt Nam
Sắc lệnh về hợp tác
Khuôn khổ pháp lý đầu tiên cho hoạt động
chuyển giao công nghệ
chuyển giao công nghệ, quy định những
(1998). Nghị định
chi tiết của việc chuyển giao công nghệ.
45/1998/NĐ-CP
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ TẠI VIỆT NAM
I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CÁC DNVVN TẠI VIỆT NAM
Quá trình hình thành và phát triển các DNVVN ở Việt nam diễn ra từ khá lâu, trải
qua nhiều giai đoạn với những đặc điểm khác nhau, môi trường khác nhau mà nhìn
chung là chịu sự ảnh hưởng của hai nhóm nhân tố chính là cuộc trường kỳ kháng chiến
kéo dài gần một thế kỷ và những quan điểm chính trị thời kỳ hậu chiến tranh.
Giai đoạn trước năm 1945, khi mà Việt nam còn nằm trong ách thống trị của thực
dân Pháp thì cũng đã tồn tại một số lượng đáng kể các doanh nghiệp mà lúc đó là các cơ
sở, các xưởng sản xuất nhỏ chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực nông nghiệp, các nghề thủ
công truyền thống. Các mặt hàng giai đoạn nay phần lớn vẫn ở dạng nguyên sơ nhưng
cũng đáp ứng được nhu cầu củ nhân dân trong hoàn cảnh rất đặc biệt của thời kỳ đô hộ,
thậm chí nhiều hàng còn được gửi đi triển lãm ở một số nước phương Tây thời bấy giờ.
Trong giai đoạn từ cuộc cách mạng tháng 8/1945 thành công và cả nước bước vào
giai đoạn kháng chiến chống pháp. Các DNVVN lúc này tồn tại cả ở vùng ta và vùng
địch, đáng chú ý là các DNVVN ở vùng căn cứ đã đóng góp vai trò đáng kể, vừa phục vụ
nhu cầu thời chiến của nhân dân, vừa đáp ứng nhu cầu hậu cần cho kháng chiến lâu dài.
Sau thắng lợi Điện Biên Phủ lừng lẫy, cả miền bắc bắt tay vào xây dựng lại đất
nước trên con đường xây dựng CNXH. Các DNVVN ra đời rất nhanh và nhiều trong giai
đoạn này, lúc này chịu sự chi phối của đường lối chính trị hình thức hợp tác xã, tổ hợp
tác kinh doanh được khuyến khích phát triển, còn các DNVVN dưới hình thức sở hữu tư
nhân thì bị loại trừ, trong khi đó loại hình DNVVN tư nhân ở miền Nam lúc đó lại rất
phát triển.
Sau khi thống nhất đất nước năm 1975 và đến trước đại hội VIII. Điểm đáng lưu
ý trong các DNVVN ở giai đoạn này là ở Miền nam, kinh tế tư nhân là hình thức bị kỳ
thị và các DNVVN dưới hình thức sở hữu tư nhân buộc phải quốc hữu hoá, DNVVN của
tư nhân bị cải tạo, xoá bỏ, không khuyến khích phát triển. Nếu muốn tồn tại thì phải tồn
tại dưới dạng khác như dưới hình thức hộ gia đình, tổ hợp tác, hợp tác xã, công tư hợp
danh.
Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt nam năm 1986 thực sự là một bước ngoặt,
Đại hội VI đã đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thừa
nhận sự tồn tại lâu dài của các hình thức sử hữu khác nhau, thay đổi quan điểm với kinh
tế tư nhân, từ kỳ thị chuyển sang coi trọng. Chủ trương này đã tạo điều kiện thuận lợi cho
hàng loạt cơ sở sản xuất tư nhân, cá thể, hộ gia đình kinh doanh ngành công nghiệp, dịch
vụ, thương mại ra đời và phát triển.
Bên cạnh đó, từ năm 1986 đến nay, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp
quy, quy định chế độ chính sách đối với hộ gia đình, hộ cá thể, doanh nghiệp tư nhân,
hợp tác xã, doanh nghiệp Nhà nước. Đáng chú ý là Nghị quyết 16 của Bộ chính trị Đảng
cộng sản Việt Nam (1988); Nghị định 27, 28, 29 /HĐBT (1988) về kinh tế cá thể, kinh tế
hợp tác và hộ gia đình; Nghị định 66/HĐBT về nhóm kinh doanh dưới vốn pháp định,
Công văn số 681/CP-KTN ngày 20/6/98 về định hướng chiến lược và chính sách phát
triển DNVVN và một loạt các Luật như: Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân mà nay
hai Luật này đã được gộp lại thành Luật doanh nghiệp (1999), Luật hợp tác xã, Luật
doanh nghiệp Nhà nước, Luật khuyến khích đầu tư trong nước(1994), Luật đầu tư nước
ngoài(1989) đã tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển.
Trong thời gian qua, nhiều cơ quan khoa học, cơ quan quản lý và nhiều địa
phương nghiên cứu về DNVVN như: Bộ kế hoạch và đầu tư (MPI), Viện nghiên cứu
quản lý kinh tế trung ương(CIEM), Phòng thương mại và công nghiệp Việt nam (VCCI),
Hội đồng liên minh các hợp tác xã Việt Nam(VCA), Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh; nhiều cuộc hội thảo trong nước và quốc tế bàn về
chính sách hỗ trợ DNVVN đã được tổ chức, và cũng đã có nhiều tổ chức quốc tế, các dự
án hỗ trợ về tài chính và khoa học cho DNVVN, trong đó có Viện Friedrich Ebert (FES)
của CHLB Đức, Ngân hàng hợp tác và phát triển Nhật bản (JBIC), Tổ chức hợp tác kỹ
thuật Đức (GTZ), Dự án hỗ trợ của phòng hợp tác quốc tế Nhật bản (JICA), Chương
trình phát triển dự án Mekong về DNVVN (MPDF). Bên cạnh đó, Cũng có rất nhiều
trung tâm ra đời với mục đích hỗ trợ các DNVVN, đó là Trung tâm xúc tiến DNVVN
thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt nam (SME PC/VCCI) ở số 9 Đào Duy
Anh, Trung tâm hỗ trợ DNVVN thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất lượng
(SMEDEC) ở số 8 Hoàng Quốc Việt, Trung tâm dịch vụ và hỗ trợ DNVVN (BPSC) ở số
7 Nguyễn Thái Học, Câu lạc bộ DNVVN Hà nội( HASMEC) ở số 418 Bạch Mai…
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của mình, DNVVN vẫn gặp không ít những
khó khăn, vướng mắc, và nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế của đất nước,
chính phủ đã có Nghị định 90/2001/CP-ND ngày 23/11/2001 về chính sách trợ giúp,
phát triển DNVVN trong đó quy định rõ khái niệm, tiêu chí xác định DNVVN ở Việt
Nam, khẳng định tầm quan trọng của DNVVN trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội
của đất nước và các biện pháp, các chính sách hỗ trợ DNVVN phát triển. Chính phủ còn
giao cho MPI đứng lên làm đầu mối phối hợp các Bộ, các ngành và địa phương tiếp tục
nghiên cứu hoàn chỉnh dự thảo “Chiến lược và chính sách phát triển DNVVN”, đề xuất
giải pháp thực hiện để chính phủ xem xét và phê duyệt .
Nghị định cũng quy định việc thành lập “Cục Phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ” trực thuộc Bộ Kế hoạch - Đầu tư, để giúp Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư thực
hiện chức năng quản lý Nhà nước về xúc tiến phát triển DNVVN; thành lập “Hội đồng
khuyến khích phát triển DNVVN” làm nhiệm vụ tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ về cơ
chế, chính sách khuyến khích phát triển DNVVN; thành lập “Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật
DNVVN” thuộc các cơ quan, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp,
nhằm thực hiện các chương trình trợ giúp một cách thiết thực và có hiệu quả; khuyến
khích, tạo điều kiện để các DNVVN tham gia các hiệp hội doanh nghiệp đã có và thành
lập các hiệp hội, câu lạc bộ doanh nghiệp, nhằm triển khai các hoạt động kể cả thu hút
các nguồn lực từ nước ngoài để trợ giúp một cách thiết thực, trực tiếp cho DNVVN , các
dịch vụ về thông tin, tiếp thị mở rộng thị trường, đào tạo, công nghệ... nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh của các DNVVN.
Trong thời kỳ từ đổi mới đến hiện nay, số lượng doanh nghiệp của các thành phần
kinh tế có sự biến động rất lớn. Trong khi số lượng DNVVN trong khu vực Nhà nước
giảm liên tục, thì số lượng DNVVN trong khu vực tư nhân trong công nghiệp (doanh
nghiệp và công ty) tăng nhanh, số lượng lao động trên tổng số, đóng góp cho GDP và tỷ
trọng trong tổng đầu tư xã hội cũng tăng nhanh (Xem bảng 5). Quan niệm về kinh tế tư
nhân cũng có nhiều đổi mới, không còn cái nhìn kỳ thị như trong giai đoạn bao cấp, với
tư tưởng giáo điều và tả khuynh, coi kinh tế tư nhân là một loại hình kinh tế tiêu cực, là
tàn dư của chế độ cũ, là bóc lột, ăn bám…, Đến nay, kinh tế tư nhân thực sự đã được coi
là “một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế Việt nam”.
Các DNVVN ở Việt nam, mà đại diện tiêu biểu là khu vực kinh tế tư nhân và hộ
cá thể, đã trải qua 2 bước ngoặt tính từ giai đoạn đổi mới. Bước ngoặt thứ nhất có thể
xem như cởi trói cho doanh nghiệp là vào cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 khi nhà
nước ban hành Luật Đầu tư nước ngoài(1989), Luật khuyến khích đầu tư trong
nước(1994), Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty(1990), tạo cơ sở pháp lý cho sự ra
đời của nhiều loại hình doanh nghiệp. Theo VCCI thì trong giai đoạn 1991-1999, mỗi
năm nền kinh tế Việt nam tăng thêm 3.388 doanh nghiệp.
Có thể xem xét tình hình tổng hợp của khu vực kinh tế tư nhân (đại diện cho các
DNVVN) qua một số các chỉ tiêu chính như số lượng các doanh nghiệp tư nhân, số lượng
và tỷ lệ lao động so với xã hội, mức đóng góp vào tổng sản phẩm quốc nội (GPP), đầu tư
phát triển mức độ đóng góp vào đầu tư phát triển cả nước trong vài năm gần đây theo
bảng dưới đây. Trong khi mà chưa có một nguồn nào cung cấp số liệu thống kê chính
thức riêng cho khu vực DNVVN thì các số liệu thống kê về khu vực kinh tế tư nhân có
thể xem như đại diện cho các DNVVN, vì như nói từ phần đặc điểm các DNVVN tại
Việt nam, khi nói đến các DNVVN tại Việt nam là chủ yếu nói đến các doanh nghiệp
thuộc khu vực ngoài quốc doanh.
Bảng : Số liệu kinh tế về khu vực kinh tế tư nhân
(Đại diện cho các DNVVN).
Số liệu về khu vực kinh tế tư nhân
évt
1996
1997
1998
1999
2000
DN
20.272
21.032
20.578
22.767
29.519
- Cụng nghiệp
DN
5.832
6.073
5.927
6.049
6.979
- Thương nghiệp dịch vụ
DN
12.695
13.010
12.494
14.234
17.506
- Cỏc ngành khỏc
DN
1.745
1.949
2.157
2.484
5.034
1. Số lượng đơn vị
1.1.Doanh nghiệp của tư
nhân
1.2. Hộ cỏ thể
hộ 2.016.259 1.949.836 1.981.306 2.054.178 2.137.713
- Cụng nghiệp
hộ
- Thương nghiệp dịch vụ
- Cỏc ngành khỏc
616.855
608.250
583.352
608.314
645.801
hộ 1.102.619 1.022.385 1.058.542 1.088.606 1.109.293
hộ
296.785
319.201
339.412
357.258
382.619
2. Lao động
- Tổng số
- Tỷ lệ so với tổng lao động
ngườ
i
10,3
10,3
10,9
12
DN 354.328
395.705
435.907
539.533
841.787
DN 233.078
252.657
273.819
322.496
498.847
- Thương nghiệp dịch vụ
DN
60.936
63.050
62.470
96.720
151.433
- Cỏc ngành khỏc
DN
60.314
79.998
99.618
120.317
191.507
xó hội
2.1.Doanh nghiệp của tư
nhân
- Cụng nghiệp
%
3.865.163 3.666.825 3.816.942 4.097.455 4.643.844
11,2
2.2 Hộ cỏ thể
DN 3.510.835 3.271.120 3.381.035 3.557.922 3.802.057
- Cụng nghiệp
DN 1.524.708 1.403.205 1.350.152 1.464.013 1.622.381
- Thương nghiệp dịch vụ
DN 1.531.638 1.388.701 1.455.351 1.501.636 1.584.391
- Cỏc ngành khỏc
DN 454.489
479.214
575.532
592.273
595.285
272.036
313.623
361.017
399.943
444.140
77.481
87.475
98.625
106.029
119.337
3. Tổng sản phẩm trong
nước (GDP)
- Tổng số toàn quốc
Trong đó doanh nghiệp của
tỉ
đồng
tỉ
tư nhân và cá thể
Tỷ lệ trong tổng GDP toàn
quốc
3.1 Doanh nghiệp
- Cụng nghiệp
- Thương nghiệp dịch vụ
- Cỏc ngành khỏc
- Tỷ lệ trong tổng GDP
3.2 Cỏ thể
- Cụng nghiệp
- Thương nghiệp dịch vụ
- Cỏc ngành khỏc
- Tỷ lệ trong tổng GDP
đồng
%
28,48
27,89
27,32
26,51
26,87
19.602
21.920
25.304
27.975
31.733
4.609
5.278
6.367
7.179
8.626
7.565
8.564
10.238
11.203
12.397
7.428
8.078
8.699
9.593
10.710
7,21
6,44
7,01
6,99
7,14
57.879
65.555
73.321
78.054
87.604
9.261
10.658
11.804
12.662
15.491
17.381
19.728
22.878
24.865
27.393
31.237
35.169
38.639
40.527
44.720
21,28
20,90
20,31
19,52
19,72
131.171
147.633
31.542
35.894
24,05
24,31
5.628
6.627
%
4.29
4.49
tỉ
25.914
29.267
tỉ
đồng
tỉ
đồng
tỉ
đồng
tỉ
đồng
%
tỉ
đồng
tỉ
đồng
tỉ
đồng
tỉ
đồng
%
4. Vốn đầu tư phát triển
- Tổng số toàn xó hội
tỉ
đồng
Trong đó: Doanh nghiệp
tỉ
của tư nhân và cá thể
đồng
Tỷ lệ trọng tổng số toàn xó
hội
%
4.1 Doanh nghiệp của tư
tỉ
nhân
đồng
% Trong tổng số toàn xó
hội
4.2. Cỏ thể
đồng
Tỷ lệ trong tổng số toàn xó
hội
%
19,76
19,82
Nguồn: Tổng cục Thống kờ
Bước ngoặt thứ hai bắt đầu kể từ khi Luật doanh nghiệp được ban hành
vào1/1/2000. Trong vòng một năm kể từ khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực có 14.417
doanh nghiệp mới được thành lập với tổng vốn đăng ký đến hơn 24.000 tỷ (tương đương
với 1,65 tỷ USD, trong đó 17.000 là vốn đăng ký mới và 7000 là vốn đăng ký bổ sung
của các doanh nghiệp đang hoạt động, tức là tăng hơn ba lần nếu xét về số lượng doanh
nghiệp và hộ kinh doanh, và tăng hơn năm lần nếu xét về số vốn so với năm 1999. Năm
2001, có thêm hơn 21.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động theo Luật doanh nghiệp, tăng
1,46 lần so với năm 2000, tổng số vốn huy động được của các doanh nghiệp đạt khoảng
35.000, tăng gấp 1,78 lần so với cùng kỳ năm 2000. Có thể thấy tình hình năm 2001 như
sau:
Bảng : Tổng hợp số doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân dến
năm 2001
Đên 31/12/2000
Loại DN
31/12/98 31/12/99 Tổng số
đăng ký
Đang
hoạt
động
Báo nghỉ
KD
Đến 30/9/2001
Tổng
Đang
số đăng
hoạt
ký
động
Báo nghỉ
KD
Cty TNHH
9.375
13.850
21.031 20.255
776
29.160 28.356
804
Cty cổ phần
582
933
1.718
50
2.986
58
DNTN
18.751
22.794
28.719 27.277
1.442
33.925 32.459
1.466
Tổng số
28.708
37.577
51.468 49.200
2.268
66.071 63.743
2.328
1.668
2.928
Nguồn: Bộ Tài chính
Về cơ cấu của các DNVVN hiện nay, xuất phát từ điều kiện lịch sử kinh tế xã hội,
DNVVN ở Việt Nam có mặt ở hầu hết các ngành kinh tế, trong đó phần lớn tập trung
trong ba lĩnh vực chính: các DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp, các DNVVN trong
thương mại dịch vụ và các DNVVN hoạt động ở khu vực nông thôn. Sau đây sẽ nghiên
cứu cụ thể các doanh nghiệp trong từng lĩnh vực kể trên.
1. DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp