Tải bản đầy đủ (.docx) (89 trang)

Thực trạng nhiễm, kiến thức và thực hành phòng bệnh giun xoắn ở người của người dân tại huyện Mường Lát tỉnh Thanh Hóa năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.63 KB, 89 trang )

1

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học Y Hà Nội,
Ban Lãnh đạo Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế Công cộng, Phòng quản
lý đào tạo Sau đại học Trường Đại học Y Hà Nội, Phòng Đào tạo Sau đại học
Viện đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng, Bộ môn Sức khỏe môi
trường đã tạo mọi điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập,
nghiên cứu để tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự hợp tác triển khai nghiên cứu của 4 xã
của huyện Mường Lát – tỉnh Thanh Hóa và sự tham gia nghiên cứu của các
đối tượng nghiên.
Với tất cả sự kính trọng và biết ơn sâu sắc của người học trò, tôi xin
bày tỏ lòng biết ơn tới TS Lê Thị Hoàn – Giảng viên bộ môn Sức khỏe Môi
trường – Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế công cộng, là người Thầy kính
mến đã dạy dỗ, tận tình chỉ bảo, định hướng và giúp đỡ tôi hoàn thành luận
văn này.
Và cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với gia đình, bạn
bè đã luôn bên cạnh dành cho tôi mọi sự động viên, khích lệ và hỗ trợ để tôi
vượt qua mọi khó khăn trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Hà nội, ngày 04 tháng 07 năm 2016
Học viên

Nguyễn Đức Giang


2

LỜI CAM ĐOAN
Kính gửi:
• Phòng Quản lý Đào tạo Sau đạo học trường Đại học Y Hà Nội


• Viện Đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng
• Phòng Đào tạo, Nghiên cứu khoa học Viện Đào tạo Y học dự phòng và
Y tế công cộng
• Bộ môn Sức khỏe Môi trường - Viện đào tạo Y học dự phòng và Y tế
công cộng.
• Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu,
cách xử lý, phân tích số liệu là hoàn toàn trung thực và khách quan. Các kết
quả nghiên cứu này chưa được công bố ở trong bất kỳ tài liệu nào.
Nếu có sai sót tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà nội, ngày 04 tháng 07 năm 2016
Học viên

Nguyễn Đức Giang


3

MỤC LỤC


4

DANH MỤC BẢNG


5

DANH MỤC BIỂU ĐỒ



6

ĐẶT VẤN ĐỀ

Giun xoắn (Trichinella spp.) thuộc ngành giun tròn, lớp Nematoda, bộ
Enoplida, họ Trichinellidae. Vòng đời của giun xoắn phát triển trực tiếp trong
một vật chủ và không có vật chủ trung gian bao gồm hai giai đoạn: giai đoạn
ấu trùng trong đường tiêu hóa và giai đoạn ấu trùng trong cơ. Trên người triệu
chứng chính trong giai đoạn ấu trùng trong đường tiêu hóa là đau bụng và ỉa
chảy, còn trong giai đoạn trong cơ là các biểu hiện như sốt, đau cơ, cơ hàm
cứng, phù mặt nhất là phù vùng mắt. Ngoài các biểu hiện lâm sàng, kiểm tra
bạch cầu ái toan có thể đạt ở mức >1.000 tế bào/µL [1].
Bệnh giun xoắn thường lây truyền giữa các loài động vật khác nhau và
người. Động vật hoang dã như: gấu, hải mã, hải cẩu, cá sấu..., động vật chăn
nuôi, gần nhà như: lợn, chuột... Bệnh xảy ra liên quan đến những tập quán,
thói quen trong sinh hoạt như: ăn thịt sống hoặc tái; việc giết mổ gia súc tại
nhà hoặc lò mổ tư nhân không được kiểm tra, giám sát về an toàn vệ sinh thực
phẩm, phương thức chăn nuôi gia súc theo hình thức thả rông là những yếu tố
quan trọng trong quá trình lây truyền bệnh [2], [3].
Cho đến nay bệnh giun xoắn phân bố rộng trên hầu hết các vùng trên
thế giới như: châu Âu, châu Mỹ, châu Phi và châu Á. Bệnh giun xoắn được
phát hiện tại các nước Đông Nam Á từ năm 1962. Các ổ dịch giun xoắn đã
phát hiện trên người (5 nước), trên lợn (5 nước) và động vật hoang dã (2
nước). Tại Đông Nam Á, các ổ dịch trên người phần lớn tập trung ở Lào, Thái
Lan và Việt Nam, nơi tập quán ăn thịt sống và tái khá phổ biến [4].
Tại Việt Nam, chúng ta mới chỉ có các thống kê các ca bệnh giun xoắn,
số người chết và số súc vật bị nhiễm bệnh khi có dịch xảy ra tại địa bàn trong
thời điểm dịch. Đặc biệt, tháng 2 năm 2012 tại Mường Lát, Thanh Hóa có một



7

vụ dịch giun xoắn: có trên 27 người mắc bệnh, trong đó có 6 bệnh nhân
chuyển về Hà Nội và 2 bệnh nhân sinh thiết có ấu trùng trong cơ.
Đến nay, vẫn chưa có những nghiên cứu về dịch tễ học tìm hiểu về sự
lưu hành hay diễn biến của bệnh giun xoắn trong cộng đồng. Sau các vụ dịch
tại địa phương chưa có các biện pháp phòng chống hiệu quả giun xoắn trên
người tại cộng đồng [5], [6]. Xuất phát từ nhu cầu đó, chúng tôi thực hiện đề
tài “Thực trạng nhiễm, kiến thức và thực hành phòng bệnh giun xoắn ở
người của người dân tại huyện Mường Lát tỉnh Thanh Hóa năm 2015”.
Mục tiêu đề tài:
1. Mô tả thực trạng nhiễm giun xoắn ở người dân tại huyện Mường Lát,
tỉnh Thanh Hóa năm 2015.
2. Mô tả kiến thức - thực hành và một số yếu tố liên quan đến kiến thức thực hành về phòng bệnh giun xoắn ở người của người dân tại huyện
Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa năm 2015.


8

Chương I:
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.

Lịch sử bệnh giun xoắn
Người mắc bệnh do ăn thịt sống hoặc tái chứa ấu trùng giun xoắn. Đây

cũng là một nhóm các bệnh truyền nhiễm bị lãng quên (Neglected Tropical
Disease - NTD) đang được cộng đồng y tế thế giới quan tâm [7] và được xếp
vào danh mục B theo Tổ chức Thú y Thế giới (OIE, 2013).

Bệnh giun xoắn được phát hiện đầu tiên trên người tại Anh vào năm
1835 do sinh viên y khoa Jame Paget. Sau đó bệnh được tìm thấy trên lợn tại
Mỹ năm 1846 bởi nhà khoa học Joseph Leidy. Hiện nay trên thế giới đã phát
hiện ra 8 loài giun xoắn (T. spiralis, T. nativa, T. britovi, T. murrelli, T.
nelsoni, T. pseudospiralis, T. papure và T. zimbabwensis) và 4 kiểu gen giun
xoắn (T6, T8, T9, T12). Tất cả các loài và các kiển gen được phân loại làm 2
nhóm chính dựa trên hình thái ấu trùng có và không có lớp nang kén bao bọc
xung quanh khi cư trú trong cơ [4].
Vòng đời của giun xoắn phát triển trực tiếp trong một vật chủ và không
có vật chủ trung gian bao gồm cả giai đoạn ấu trùng trong đường tiêu hóa và
giai đoạn ấu trùng trong cơ. Trên người, triệu chứng chính của giai đoạn ấu
trùng trong đường tiêu hóa là đau bụng và ỉa chảy; giai đoạn trong cơ là các
biểu hiện như sốt, đau cơ, cơ hàm cứng, phù vùng mặt nhất là vùng mắt.
Ngoài các biểu hiện triệu chứng lâm sàng, số lượng bạch cầu ái toan trong
máu tăng cao cũng hay gặp [1].
Cho đến nay bệnh giun xoắn phân bố rộng rãi trên hầu hết các vùng
trên thế giới như châu Âu, châu Mỹ, châu Phi và châu Á. Bệnh xảy ra liên
quan đến sự thiếu hiểu biết của con người, thói quen ăn thịt sống hoặc chưa
nấu chín; ngoài ra công tác kiểm soát giết mổ chưa phù hợp, phương thức


9

chăn nuôi động vật theo hình thức thả rông là những yếu tố quan trọng trong
quá trình lây truyền bệnh [8]. Theo những tài liệu đã được công bố, bệnh giun
xoắn được phát hiện trên người tại 55 quốc gia [9], trên vật nuôi (chủ yếu là
lợn) là 43 quốc gia và ở 66 quốc gia có thói quen ăn thịt sống hoặc thịt tái.
Trong thời gian từ năm 1986 - 2009, trên thế giới đã phát hiện 65.818 người
nhiễm và nhiều trường hợp tử vong. Trong các ca nhiễm, tuổi mắc bệnh giun
xoắn là tuổi trung niên và không có sự khác biệt có ý nghĩa về tỷ lệ nhiễm

bệnh giữa nam và nữ.
Bệnh giun xoắn thường truyền lây giữa các loài động vật khác nhau và
người. Trên động vật, các loài thường mắc bệnh như: động vật hoang dã, lợn,
chuột, chim, cá sấu,... chuột được coi là nguồn lưu trữ và reo rắc mầm bệnh.
Ấu trùng giun xoắn có thể tồn tại trong cơ thể người tới 40 năm và trên động
vật khoảng 20 năm [10].
Bệnh giun xoắn được phát hiện tại các nước Đông Nam Á từ năm 1962.
Các ổ dịch giun xoắn đã được phát hiện trên người (5 nước), trên lợn (5 nước)
và động vật hoang dã (2 nước). Lợn nuôi và lợn rừng là nguồn lây bệnh chủ
yếu trên người. Các ổ dịch trên người phần lớn tập trung ở Lào, Thái Lan và
Việt Nam nơi mà tập quán ăn thịt sống và thịt tái phổ biến [4].
Tại Việt Nam, các điều tra nghiên cứu liên quan đến Kiến thức - Thực
hành với cộng đồng dân cư đối với bệnh nhiễm giun xoắn còn chưa được
thường xuyên. Ý thức của người dân, đặc biệt là người dân ở vùng sâu, vùng
xa, đồng bào người dân tộc còn chưa nhận thức được những tác hại của bệnh
giun xoắn cũng như cách phòng tránh.
1.2.

Dịch tễ bệnh giun xoắn

1.2.1. Tác nhân gây bệnh
1.2.1.1. Vị trí phân loại


10

Giới (Kingdom)

Animalia


Ngành (Phylum)

Nematodes

Lớp (Class)

Nematoda

Bộ (Order)

Enoplida

Họ (Family)

Trichinellidea

Giống (Genus)

Trichinella

Loài (Species)

8 loài

Hiện nay, 8 loài và 4 kiểu gen của Trichinella được phân loại dựa trên
dữ liệu di truyền, sinh hóa và sinh học. Bảng dưới đây mô tả về sự phân bố,
vật chủ chứa chính, khả năng lây nhiễm và sự đề kháng với đông lạnh của 8
loài Trichinella spp [7], [11], [12], [13].
Bảng 1. Đặc điểm của các loài Trichinella spp [7].
Tính

Loài

Phân bố

Vật chủ

lây
nhiễm

Kháng sự
đông lạnh

T. spiralis

Toàn thế giới

Lợn, chuột,...

Cao

Không

T. nativa

Bắc cực

Gấu, ngựa,...

Vừa


Cao

T. britovi

Ôn đới

Lợn rừng

Thấp

Không

T.

Toàn thế giới

Chim, lợn,...

Thấp

Không

Vừa

Thấp

Thấp

Không


Thấp

Không

pseudospiralis
T. murrelli

Ôn đới, Bắc Gấu
cực

T. nelsoni

Nhiệt đới

Lợn rừng Châu
Phi

T. papuae

Papua
Guinea

New Lợn rừng Châu
Phi


11

T.


Trung phi

Cá sấu

zimbabwensis

Không

Không



Hình 1.1. Hình thể Trichinella spiralis (Nguồn: cnia.inta.gov.ar)
1.2.1.2. Chu kỳ phát triển giun xoắn
Ấu trùng giun xoắn tồn tại ở 1 trong 2 chu trình chính: Chu trình vòng
đời có sự tham gia của động vật nuôi và chu trình có sự tham gia của động vật
hoang dã. Người có thể nhiễm bệnh giun xoắn từ hai chu trình trên. Lợn là
động vật liên quan phổ biến nhất với bệnh giun xoắn. Tùy thuộc khu vực, các
loài động vật khác như hải mã, hải cẩu, gấu, gấu Bắc cực, mèo, gấu trúc bắc
Mỹ, chó sói, cáo,... cũng có thể bị nhiễm bệnh [14].
Vòng đời phát triển của giun xoắn chia làm 2 giai đoạn:
− Giai đoạn trong đường tiêu hóa: Khi vật chủ ăn thịt sống hoặc tái có chứa ấu
trùng giun xoắn, trong môi trường dịch dạ dày của vật chủ, ấu trùng sẽ được
giải phóng tự do di chuyển vào ruột non và xâm nhập niêm mạc ruột. Sau 4
lần biến đổi (rụng lông, thay lông) trong khoảng thời gian từ 30 - 36 giờ,
chúng phát triển thành giun trưởng thành. Con đực trưởng thành có kích
thước 1,5 x 0,05 mm, con cái trưởng thành có kích thước 3,5 x 0,06 mm. Sau
khi giao phối 5 - 6 ngày, con cái đẻ ấu trùng non (giai đoạn L1). Một con cái



12

trưởng thành có thể đẻ 500 – 1.500 ấu trùng non [15]. Số lượng ấu trùng non
được sinh ra tùy thuộc vào tình trạng miễn dịch của vật chủ, loài mắc bệnh và
loài giun xoắn nhiễm phải [16], [17]
− Giai đoạn trong cơ: Ấu trùng mới sau khi được sản sinh xâm nhập vào hệ
thống bạch huyết và tuần hoàn máu, di chuyển đến các cơ vân có nhiều mạch
máu - nơi được cấp máu đầy đủ nhất. Ký sinh trùng có ái tính với hầu hết các
nhóm cơ hoạt động chuyển hóa tích cực như cơ lưỡi, cơ hoành, cơ nhai, cơ
liên sườn, cơ thanh quản, cơ ngoại chuyển mắt, cơ vùng gáy, cơ ngực, cơ
delta, cơ mông, cơ bắp tay, cơ chân. Trong các mô khác ngoài cơ vân, như cơ
tim và não, các ấu trùng này bị tan ra, gây hiện tượng viêm dữ dội, sau đó
được tái hấp thu. Tại các cơ vân, ấu trùng tiếp tục phát triển trong vòng 2 - 3
tuần tiếp theo cho đến khi chúng đạt đến giai đoạn phát triển đầy đủ (giai
đoạn lây nhiễm LI) và tăng kích cỡ lên gấp 10 lần. Ấu trùng này cuộn lại và ở
1 số loài nang kén sẽ hình thành giai đoạn này (ngoại trừ T. pseudospiralis, T.
papuae và T. zimbabwensis). Chu trình hoàn thành mất 17-21 ngày. Chu kỳ
sống này hoàn tất khi một vật chủ khác ăn thịt bị nhiễm ấu trùng giun xoắn
[14].


13

Hình 1.3. Chu kỳ phát triển của Trichinella (Nguồn: CDC)
1.2.2. Tác hại của bệnh
− Bệnh nhân bị nhiễm ấu trùng nhẹ thường không triệu chứng. Những người có
triệu chứng nhẹ sẽ được cải thiện trong 2 - 3 tuần. Triệu chứng liên quan
nhiễm nặng ấu trùng có thể tồn tại tới 2 - 3 tháng.
− Bệnh có tỷ lệ tử vong thấp. Tỷ lệ mắc thường phát hiện trong các vụ dịch giun
xoắn ở người với số người mắc bệnh liên quan nhóm người ăn thịt sống hoặc

thịt tái có chứa ấu trùng giun xoắn.
− Mức độ biểu hiện bệnh phụ thuộc vào loài gây bệnh, số lượng ấu trùng khi ăn
phải cũng như các yếu tố về giới tính, độ tuổi, và tình trạng miễn dịch. Trong
một số trường hợp nhiễm T. spiralis, nếu bệnh nhân không kịp thời sẽ dẫn đến
kiệt sức, viêm phổi, nghẽn mạch phổi, viêm não, suy tim hoặc loạn nhịp tim.


14

Tử vong do bệnh giun xoắn thường xảy ra trong 4 - 8 tuần nhưng có thể xảy
ra sớm hơn 2 - 3 tuần [8].
1.2.3. Các yếu tố nguy cơ gây bệnh giun xoắn
− Phương pháp bảo quản thực phẩm và chế biến thịt lợn tái, sống.
− Thói quen ăn uống: thích ăn tái hoặc ăn sống.
− Đặc điểm dịch tễ: Bệnh thường xảy tại một số tỉnh miền núi phía Bắc, dân tộc
Thái vào các ngày lễ hội, nơi tập trung ăn uống nhiều người.
− Giới tính: Không có tỷ lệ khác biệt mắc bệnh do giun xoắn giữa nam và nữ.
− Hiểu biết của con người về bệnh còn hạn chế.
− Phương thức chăn nuôi thả rông hoặc bán thả rông.
− Cơ địa đặc biệt: Triệu chứng bệnh giun xoắn ở thai phụ nhẹ hơn với những
người không mang thai; tuy nhiên có ghi nhận về trường hợp sẩy thai hoặc
thai chết lưu; các triệu chứng của bệnh giun xoắn nặng nề một cách điển hình
ở các phụ nữ đang cho con bú hơn là phụ nữ không cho con bú.
− Tuổi: Trẻ em có khả năng đề kháng với nhiễm giun xoắn hơn; tuy nhiên các
triệu chứng của chúng có thể nặng nề hơn. Trẻ em cũng có ít biến chứng và
phục hồi nhanh chóng.
− Hành vi con người: Sở thích ăn thịt thú rừng, tình trạng săn bắn và mua bán
thú rừng không qua kiểm soát. Trong quá trình săn bắn bỏ các sản phẩm thịt
thừa ra môi trường [16], [18].
1.2.4. Tình hình bệnh giun xoắn ở trong nước và trên thế giới

1.2.4.1.

Trên thế giới

Bệnh giun xoắn ở người đã được phát hiện ở 55 nước trên thế giới
(27,8%) như Tây Ban Nha, Đan Mạch, Thụy Điển, Hà Lan, Liên Xô, Anh,
Đức, Bungairi, Rumani, Ấn Độ, Trung Quốc, Thái Lan, Lào, Indonesia,
Hawai, Nhật Bản, New Zealand, Mỹ, Canada, Tanzania và Nam Phi [8], [19].


15

Giun xoắn được phát hiện ở động vật nuôi trong nhà (chủ yếu là lợn) ở 43
nước chiếm 21,9% và khoảng 66 nước phát hiện ở động vật hoang dã (33,3%)
[19]. Tại khu vực Đông Nam Á, có nhiều báo cáo dịch bệnh, đặc biệt ở Thái
Lan (Khumjui, 2008; Kusolsuk, 2010) và Lào (Barennes, 2008; Sayason,
2006). Tại Mỹ có 129 ca chết trong tổng số 7.415 ca nhiễm trong giai đoạn
năm 1947 – 1981và 72 trường hợp nhiễm giun xoắn giai đoạn năm 1997 –
2001 đã được báo về Trung tâm Phòng chống và kiểm soát dịch bệnh (CDC).
Hầu hết các trường hợp liên quan đến việc ăn thịt động vật hoang dã (43%)
mặc dù 17% liên quan đến các sản phẩm thịt lợn thương mại và 13% trường
hợp khác liên quan đến sản phẩm thịt heo nhà. Tỷ lệ thịt lợn nội địa bị nhiễm
bệnh tại Hoa Kỳ là 0,001%. Tuy nhiên một tài liệu khám nghiệm tử thi nghiên
cứu một tỷ lệ mới mắc 4% do nhiễm giun xoắn cũ. Dữ liệu cũng cho thấy sự
hiện diện T. murrelli ở gấu trúc Bắc Mỹ (raccoons) và chó sói Bắc Mỹ
(coyotes) [16]. Tại Châu Mỹ Latinh và Châu Á, thịt lợn nội địa là nguồn lây
nhiễm chính, tỷ lệ nhiễm Trichinella khoảng 20%. Tại Trung Quốc, 566 vụ
dịch đã được phát hiện từ năm 1964 - 2002, số bệnh nhân lên tới 25.685 và số
người chết do giun xoắn là 241 [20]. Tại Thái Lan trong vòng 27 năm qua đã
có 120 vụ dịch được ghi nhận, khoảng 67.000 người nhiễm và 97 người tử

vong. Ngoài ra trung tâm phòng chống và kiểm soát dịch bệnh châu Âu và cơ
quan có thẩm quyền về an toàn châu Âu đã báo cáo có 779 người mắc bệnh
giun xoắn ở Liên minh châu Âu được tìm thấy trong các động vật trang trại và
động vật hoang dã, đặc biệt là động vật hoang dã.
1.2.4.2. Trong nước
Trong thời gian từ 1970 - 2013, theo báo cáo của Viện Sốt rét - Ký sinh
trùng - Côn trùng Trung ương, tại các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, có
năm vụ dịch bùng phát của bệnh giun xoắn trên người. Các vụ dịch tập trung
tại tỉnh Yên Bái, Sơn La, Điện Biên và Thanh Hóa [6], [21]. Nguyên nhân do


16

hầu hết người dân và cán bộ y tế tuyến cơ sở chưa có kiến thức đầy đủ về
bệnh giun xoắn và thiếu trang thiết bị để chẩn đoán tại bệnh viện tuyến tỉnh và
huyện.
Tại Việt Nam, bệnh giun xoắn do Trichinella spiralis gây nên đã được
phát hiện ít nhất 6 ổ bệnh với trên 126 bệnh nhân và 8 người tử vong. Tháng 2
năm 2012, tại huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa có trên 27 người mắc bệnh,
trong đó có 6 bệnh nhân chuyển về Hà Nội và 2 bệnh nhân sinh thiết có ấu
trùng trong cơ. Xét nghiệm huyết thanh học (ELISA phát hiện kháng thể
kháng giun xoắn) cho kết quả dương tính 7,4% (18/242 người xét nghiệm).
Người ăn thịt lợn có chứa ấu trùng giun xoắn chưa nấu chín tại địa phương
nên bị mắc bệnh giun xoắn. Điều tra trên lợn tại địa phương có mang ấu trùng
giun xoắn. Tỷ lệ lợn dương tính với kháng thể kháng giun xoắn bằng phương
pháp ELISA là 6,7% (3/45 lợn xét nghiệm). Phát hiện lợn dương tính với giun
xoắn tại bản Suối Phái, nơi lợn mắc bệnh bị xẻ thịt đem bán và cả bản lân cận
là Poọng - xã Tam Dương, cho thấy nguồn bệnh vẫn tồn tại ở các khu vực này
và còn có thể lan rộng hơn (báo cáo của Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn
trùng Trung ương).

Tất cả các vụ dịch bệnh giun xoắn xảy ra tại Việt Nam đều lẻ tẻ, mang
tính địa phương, liên quan đến các món ăn lạp, chạo, nem, món ăn truyền
thống của địa phương. Những người ăn có triệu chứng giống nhau là co rút cơ
và nhiễm độc. Do được chẩn đoán muộn nên khi nhập viện thường trong tình
trạng nặng. Bệnh giun xoắn có tính chất ổ bệnh tự nhiên ở miền núi, dân tộc,
nếu có những hiểu biết về bệnh trong cộng đồng và nhân viên y tế thì sẽ tránh
được những vụ dịch và tử vong ở địa phương. Cần có một nghiên cứu đầy đủ
về thực trạng nhiễm bệnh trên người, lợn chuột và một số vật khác để có kế
hoạch phòng chống bệnh hiệu quả, bảo vệ sức khỏe cộng đồng cho các vùng
nguy cơ cao trong thời gian tới.


17

1.3. Chẩn đoán bệnh giun xoắn
1.3.1. Triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng lâm sàng của bệnh liên quan đến sự di hành và cư trú của
ấu trùng trong giai đoạn phát triển của vòng đời như sau:
− Giai đoạn ở ruột: Thường xuất hiện các triệu chứng bệnh vào đầu tuần.
− Giai đoạn xâm nhập vào cơ: Giai đoạn này xảy ra ở tuần thứ 2 sau khi nhiễm
bệnh. Các dấu hiệu liên quan tới hệ tim mạch gồm tăng huyết áp, tăng áp lực
tĩnh mạch. Các triệu chứng xảy ra suốt tuần thứ 3 của bệnh với tỷ lệ tử vong
0,1%, thường xảy ra suốt từ tuần thứ 4 tới tuần thứ 8 của bệnh. Tử vong có
thể do suy tim xung huyết hoặc rối loạn nhịp tim [8], [15].
1.3.2. Triệu chứng cận lâm sàng
1.3.2.1. Công thức máu
+ Tăng bạch cầu 65% bệnh nhân lên tới 24.000/µL. Tăng bạch cầu ái
toan, thường tăng trong vòng 10 ngày sau khi nhiễm ký sinh trùng.
Đỉnh cao trong 3-4 tuần và giảm trong vài tháng sau.
+ Gần như tất cả các bệnh nhân mắc bệnh giun xoắn, có hoặc không

triệu chứng, biểu hiện tăng bạch cầu ái toan. Ngoại lệ, có trường
hợp nhiễm cường độ nặng, số lượng bạch cầu ái toan có thể bị ức
chế, lúc này bạch cầu ái toan không tăng mà còn thấp. Trường hợp
này bệnh nhân có tỷ lệ tử vong cao.
− Tỷ lệ máu lắng thường trong giới hạn bình thường [8], [15].
1.3.2.2. Hóa sinh
Nồng độ creatinekinase (CK tăng lên đến 17.000 U/L; CK tăng cao có
thể biểu thị liên quan tới cơ tim. Tuy nhiên, chừng 35% bệnh nhân không liên
quan tới tim có thể tăng nồng độ CK; Nồng độ các thể lactate dehydrogenase
isoenzymatic tăng cao ở 50% bệnh nhân.


18

1.3.2.3. Điện tâm đồ
Khoảng PR kéo dài, phức hợp QRS nhỏ với block trong thất, sóng T
dẹt hoặc nghịch đảo, đặc biệt ở chuyển đạo II và chuyển đạo tới tim. Điện tâm
đồ có thể hữu ích trong chẩn đoán bị nhiễm ký sinh trùng ở mức từ vừa đến
nặng, nhưng không phải dữ liệu đặc hiệu. Kết quả thử nghiệm có thể cho thấy
viêm cơ cấp hoặc rối loạn chức năng bệnh lý cơ tim lan tỏa.
1.3.2.4. Xét nghiệm miễn dịch
− Kỹ thuật Anti-ELISA: Có độ nhạy cao sau tuần thứ 2 - 3 bị nhiễm ký sinh
trùng. Kháng thể kháng giun xoắn có thể tồn tại vài năm sau khi nhiễm. Nồng
độ kháng thể trong huyết thanh không tương quan với độ nặng của bệnh hoặc
quá trình diễn tiến lâm sàng. Một kết quả dương tính thường biểu thị giai
đoạn nhiễm ký sinh trùng sớm [3], [22], [23].
− Kỹ thuật Western Blot: Là phương pháp chẩn đoán huyết thanh học, thường
khuyến cáo dùng xác minh, chẩn đoán lại những trường hợp dương tính với
Anti-ELISA. Nhằm loại trừ những trường hợp dương tính giả do phản ứng
chéo [24].

− Miễn dịch huỳnh quang gián tiếp: Kết quả ngưng kết Latex thường không
hiển thị sau hơn 1 năm bị nhiễm ký sinh trùng.
1.3.2.5. Chẩn đoán hình ảnh
Ở bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng liên quan đến hệ thần kinh trung
ương, việc chụp cắt lợp vi tính và MRI có thể phát hiện ra các tổn thương nốt
hoặc dạng vòng tròn 3 - 8 mm.
1.3.2.6. Các xét nghiệm khác
− Các kỹ thuật sinh học phân tử (PCR) được áp dụng để xác định loài gây bệnh
[7]. Kỹ thuật PCR có thể được sử dụng phát hiện các các đoạn gen đặc hiệu
của ký sinh trùng. Tuy nhiên, phương pháp này có độ nhạy thấp, chi phí tốn


19

kém và không thực tế để kiểm tra thường xuyên. Xác định các loài hoặc kiểu
gen của Trichinella thu hồi từ các mô cơ là có ý nghĩa trong việc tìm hiểu về
dịch tễ học và đánh giá các nguy cơ nhiễm bệnh. Cặp mồi đặc biệt đã được
phát triển cho phép xác định ấu trùng thu thập từ mô cơ ở mức độ loài và kiểu
gen của Trichinella có thể được thực hiện thông qua các phòng thí nghiệm
tham chiếu quốc tế [25].
− Chọc dò tủy sống.
+ Kết quả bình thường 50% - 75% bệnh nhân.
+ Tìm thấy ấu trùng 8% - 24 % bệnh nhân.
+ Có thể viêm não tăng bạch cầu ái toan.
− Sinh thiết cơ: Cung cấp một chẩn đoán xác định. Phương pháp này gây đau
cho bệnh nhân và độ nhạy không cao.
Lấy mẫu cơ chứng 0,5 - 1g từ cơ bắp delta hoặc cơ cẳng chân vì những
cơ này dễ sinh thiết nhất. Tỷ lệ (+) tăng lên nếu vị trí sinh thiết bị sưng hoặc
đau. Nhuộm mẫu sinh thiết với hematoxylin và eosin, kiểm tra nhiều phần.
Thỉnh thoảng ấu trùng có thể tìm thấy sau khi cơ bắp đã bị tiêu hóa do các

enzym.
Nếu sinh thiết được thực hiện trước khi ấu trùng cuộn lại, mô của giun
có thể bị nhầm lẫn với tế bào cơ.
Một kết quả sinh thiết (-) không nhất thiết loại trừ nhiễm ký sinh trùng.
1.3.2.7. Các dữ liệu về mô học
Xét nghiệm mô học có thể phát hiện sự phá hủy các cơ vân, gồm thoái
hóa ưa bazo của các sợi cơ được quan sát trên các phần nhuộm hematoxylin
và eosin. Có thể thấy được các ký sinh trùng chết không có nang kén. Các tế
bào cơ có những chấm xuất huyết nhỏ và các thế bào viêm tụ tập. Kết quả của
một kiểm tra mô học ở cơ tim phù hợp với một phản ứng trung gian miễn
dịch. Ký sinh trùng di chuyển qua cơ tim nhưng không hình thành nang kén;


20

tuy nhiên một phản ứng viêm mạnh mẽ xảy ra với nhiều bạch cầu ái toan,
hồng cầu đọng lại trong fibrin và cơ tim hoại tử từng điểm. Có thể tràn dịch
màng tim từ nhẹ tới vừa. Quanh mạch máu ở hệ thần kinh trung ương có sự tụ
tập bạch cầu ái toan, tế bào lympho, các đại thực bào và bạch cầu đa nhân
phát triển trong hệ thần kinh trung ương và liên quan tới các khu vực thiếu
máu cục bộ. Các tế bào hình sao và các vi bào đệm có thể bọc xung quanh ấu
trùng [11].
1.3.3. Chẩn đoán phân biệt
Cần phân biệt giun xoắn với một số bệnh sau: Phù mạch; Viêm da - cơ;
Ngộ độc thực phẩm; Viêm dạ dày - ruột do virus; Viêm cầu thận cấp; Bệnh do
giun móc; Cúm; Viêm đa động mạch có nút; Sốt do thấp khớp; Bệnh sán
máng; Bệnh giun lươn; Bệnh thương hàn.
1.3.4. Chẩn đoán xác định
Định nghĩa ca bệnh giun xoắn trên người, theo trung tâm kiểm soát
dịch bệnh quốc gia của Mỹ, một người có ít nhất 3 triệu chứng trong nhóm

các triệu chứng lâm sàng và ít nhất 1 dấu hiệu cận lâm sàng, cùng với có ít
nhất 1 tiêu chuẩn dịch tễ học [26], [27].
− Các triệu chứng lâm sàng: sốt, đau nhức, đau cơ bắp, phù mặt, tiêu chảy, dấu
hiệu thần kinh, dấu hiệu tim mạch, viêm kết mạc, võng mạc, xuất huyết ở
dưới móng tay và phát ban ở dưới da.
− Các triệu chứng cận lâm sàng:
+ Tăng bạch cầu ái toan hoặc tăng nồng độ IgE toàn bộ, tăng nồng độ
các enzym cơ vân
+ Xét nghiệm miễn dịch: Có sự hiện diện ấu trùng Trichinella trong
mô qua sinh thiết cơ bắp hoặc có sự hiện diện đáp ứng kháng thể


21

đặc hiệu Trichinella qua xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang gián
tiếp, ELISA, Western Blot.
− Các tiêu chuẩn dịch tễ học:
+ Ăn thịt bị nhiễm ký sinh trùng được phòng thí nghiệm xác định
+ Tiêu thụ các sản phẩm có khả năng bị nhiễm ký sinh trùng từ 1
động vật bị nhiễm được phòng xét nghiệm xác định
+ Liên hệ dịch tễ học với 1 trường hợp bệnh ở người được phòng thí
nghiệm xác nhận bằng tiếp xúc cùng một nguồn chung.
1.4.

Điều trị và phòng chống
1.4.1. Điều trị
Điều trị đặc hiệu bằng albendazol, mebendazol và thiabendazol diệt
được giun xoắn trưởng thành, ấu trùng non di cư và ấu trùng trong cơ bắp
chưa nang hóa. Tuy nhiên, thiabendazol dung nạp kém và còn ít được sử
dụng. Chưa có thử nghiệm lâm sàng so sánh hiệu quả điều trị giữa

albendazole với mebendazol. Mebendazol không hiệu quả chống lại ấu trùng
trong cơ; albendazol cũng có thể không hiệu quả trong giai đoạn về sau của
bệnh [28].
Điều trị triệu chứng: bù nước, điện giải, hạ sốt, corticoid,...
Trong các trường hợp nhiễm Trichinella từ vừa đến nặng, mục tiêu là
ngăn chặn sự xâm nhập của ấu trùng vào cơ vân của vật chủ. Trong 1 tuần đầu
ăn phải thịt bị nhiễm giun, dùng albendazole (5mg/kg/ngày x 1 tuần);
mebendazole (5mg/kg/ngày x 8 - 14 ngày), thiabendazole (25mg/kg/ngày x 8
- 14 ngày). Các phương thức điều trị hỗ trợ: thuốc giảm đau, hạ sốt và nghỉ
ngơi tại giường.
Prednisone 50mg/ngày có thể dừng trong các trường hợp nhiễm ký sinh
trùng nặng, đặc biệt nếu huyết động không ổn định hoặc bệnh liên quan tới hệ


22

thần kinh trung ương, tim, phổi. Steroids khác có thể làm giảm hiện tượng
viêm nhưng cũng có thể cản trở việc diệt giun trưởng thành dẫn đến việc sinh
sản ấu trùng kéo dài.
1.4.2. Phòng chống
− Thực hiện tốt công tác kiểm soát sát sinh.
− Chăn nuôi hợp vệ sinh.
− Diệt các loại gặm nhấm xung quanh chuồng.
− Xử lý tốt các sản phẩm săn bắn.
− Nấu chín thức ăn và các phương pháp đông lạnh thịt để phòng bị nhiễm ký
sinh trùng.
− Biện pháp hiệu quả nhất để tiêu diệt các loài Trichinella là nấu chín thức ăn để
diệt ký sinh trùng.
+ Khuyến cáo hiện nay là đun nóng 71°C để phòng tất cả các bệnh
lây truyền qua thực phẩm. Loài Trichinella thường có thể bị diệt

bằng cách đun đến 60°C trong 2 phút hoặc 55°C trong 6 phút.
+ Không còn thấy dấu vết màu hồng trong chất lỏng hoặc thịt thì đã
đạt được nhiệt độ chín.
− Đông lạnh cũng là một phương pháp hiệu quả để diệt hầu hết các loài
Trichinella. Với một miếng thịt 15cm, nhiệt độ được đề nghị để diệt ấu trùng
như sau:
+ Âm 15°C trong 20 ngày.
+ Âm 23°C trong 10 ngày.
+ Âm 29°C trong 6 ngày.
− Thịt ướp muối, xông khói, hoặc làm khô thịt sẽ không tiêu diệt được nang kén
[8], [11].
1.5.

Kiến thức thực hành của người dân về bệnh giun xoắn


23

1.5.1. Tổng quan về kiến thức, thái độ, thực hành [29], [30].
Kiến thức (Knowledge), Thái độ (Attitude), hành vi (Practice) nói
chung là tập tính, thói quen, cách sống, cách suy nghĩ, hành động của con
người đối với môi trường bên ngoài, đối với bệnh tật. Người ta cho rằng hành
vi con người là một phức hợp của nhiều hành động chịu ảnh hưởng của những
yếu tố: Môi trường, di truyền, kinh tế - xã hội
Các yếu tố quy định nên hành vi con người được tóm tắt như sau:
Kiến thức

Thái độ

Hành động



24

1.5.1.1. Kiến thức [29]
K thức bao gồm những hiểu
T biết của con người, thường khác
P nhau
Kiến
( do khả năng tiếp thu khác nhau ) và thường bắt nguồn từ kinh nghiệm sống
hoặc của nguười khác truyền lại. hiểu biết nhiều khi không tương đồng với
Knowledge
(Attitude)
Practice
kiến thức mà chúng ta tiếp thu được thông qua những thông tin mà thầy cô
Sựcha
hiểu
hoạtkhó
động
giáo,
mẹ, biết
người(phụ
thân, bạnTư
bè,duy,
sáchlập
báotrường,
cung cấp. hiểuCác
biết rất
thaycủa
đổi

yếuthành
tố địnhquan
khithuộc
hiểu saivào
và trở
kiến.điểm

con người

vănĐốihóa,
xã hội,
với sinh
viên y khoa năm thứ nhất, kiến thức vệ sinh răng miệng
tế)là tốt vì có kiến thức văn hóa tốt và tiếp xúc nhiều với những người
nóikinh
chung
có kiến thức về chăm sóc sức khỏe răng miệng. Nhưng do đặc điểm lứa tuổi
vừa mới bước chân vào trường đại học nên những nhận thức về VSRM chưa
sâu sắc, thêm vào đó là sống trong ký túc xá, nhiều khi việc thực hành VSRM
bị ảnh hưởng bởi bạn bèvà điều kiện cung cấp nước của ký túc xá. Tuy nhiên
nếu được trang bị những kiến thức và kỹ năng VSRM cơ bản thì các đối
tượng này sẽ tiếp thu và thực hành một cách đúng đắn, hiệu quả
1.5.1.2. Thái độ [29]
Về thái độ, bao gồm tư duy, lập trường quan điểm của đối tượng. Con
người nói chung và các đối tượng nghiên cứu nói riêng sẽ có quan điểm rõ
ràng, đúng đắn nếu được thiếp thu những kiến thức khoa học và môi trường
lành mạnh, từ đó sẽ có những thái độ đúng đắn.
1.5.1.3. Hành động [29]
Về hành động, xuất phát từ hiểu biết, có kiến thức và thái độ sẽ dẫn đến
hành động của đối tượng. Kiến thức và thái độ đúng sẽ có hành động đúng và

ngược lại.
1.5.2. Kiến thức về bệnh giun xoắn


25

Ấu trùng giun xoắn tồn tại ở 1 trong 2 chu trình chính: Chu trình vòng
đời có sự tham gia của động vật nuôi và chu trình có sự tham gia của động vật
hoang dã. Người có thể nhiễm bệnh giun xoắn từ hai chu trình trên.
Lợn là động vật liên quan phổ biến nhất với bệnh giun xoắn. Tùy thuộc
khu vực, các loài động vật khác như hải mã, hải cẩu, gấu, gấu Bắc cực, mèo,
gấu trúc bắc Mỹ, chó sói, cáo,... cũng có thể bị nhiễm bệnh [14].
1.5.2.1. Tác hại của bệnh
− Bệnh nhân bị nhiễm ấu trùng nhẹ thường không triệu chứng. Những người có
triệu chứng nhẹ sẽ được cải thiện trong 2 - 3 tuần. Triệu chứng liên quan
nhiễm nặng ấu trùng có thể tồn tại tới 2 - 3 tháng.
− Bệnh có tỷ lệ tử vong thấp. Tỷ lệ mắc thường phát hiện trong các vụ dịch giun
xoắn ở người với số người mắc bệnh liên quan nhóm người ăn thịt sống hoặc
thịt tái có chứa ấu trùng giun xoắn.
− Mức độ biểu hiện bệnh phụ thuộc vào loài gây bệnh, số lượng ấu trùng khi ăn
phải cũng như các yếu tố về giới tính, độ tuổi, và tình trạng miễn dịch. Trong
một số trường hợp nhiễm T. spiralis, nếu bệnh nhân không kịp thời sẽ dẫn đến
kiệt sức, viêm phổi, nghẽn mạch phổi, viêm não, suy tim hoặc loạn nhịp tim.
Tử vong do bệnh giun xoắn thường xảy ra trong 4 - 8 tuần nhưng có thể xảy
ra sớm hơn 2 - 3 tuần [8].
1.5.2.2. Các yếu tố nguy cơ gây bệnh giun xoắn
− Phương pháp bảo quản thực phẩm và chế biến thịt lợn tái, sống.
− Thói quen ăn uống: thích ăn tái hoặc ăn sống.
− Đặc điểm dịch tễ: Bệnh thường xảy tại một số tỉnh miền núi phía Bắc, dân tộc
Thái vào các ngày lễ hội, nơi tập trung ăn uống nhiều người.

− Giới tính: Không có tỷ lệ khác biệt mắc bệnh do giun xoắn giữa nam và nữ.
− Hiểu biết của con người về bệnh còn hạn chế.


×