Phan Văn Bình – Gamba.V0210
BÀI KIỂM TRA HẾT MÔN
Họ và tên: Phan Văn Bình
Lớp : Gamba. V0210
Môn học: Kinh tế quản lý
--------------------------Mục tiêu của doanh nghiệp là gì và làm thế nào để đạt được mục tiêu đề ra?
BÀI LÀM
Doanh nghiệp là một tổ chức phối hợp và tổ chức các nguồn lực để sản xuất
ra hàng hoá hoặc dịch vụ để bán. Trong các lý thuyết kinh tế truyền thống, doanh
nghiệp thường được giả định là có mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Tuy nhiên chúng
ta có thể thấy các mục tiêu khác của doanh nghiệp như tối đa hoá doanh thu, tối
đa hoá lợi ích quản lý,…. Khi theo đuổi các mục tiêu khác nhau, doanh nghiệp sẽ
có hành vi khác nhau:
1. Mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận: Chất lượng và số lượng sản phẩm, sự
mở rộng hay thu hẹp chủng loại của nó; chi phí và mức giá có thể bán được của
mỗi loại sản phẩm thường là những yếu tố có mối liên hệ hữu cơ với nhau và sẽ
quyết định mức độ lợi nhuận mà doanh nghiệp có thể thu được.
Trong ngắn hạn, mục tiêu của doạnh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận.
Nhưng như chúng ta biết, ngắn hạn là một thời kỳ trong đó doanh nghiệp bị hạn
chế bởi số lượng nhất định về nhà máy và thiết bị và có các chi phí cố định mà
doanh nghiệp phải chịu cho dù có sản xuất hay không.
Trong dài hạn, mục tiêu của doanh nghiệp là tối đa hoá của cải của các cổ
đông hay giá trị của doanh nghiệp, giá trị này được xác định bằng giá trị chiết
khấu của các khoản lợi nhuận (luồng tiền ròng) của doanh nghiệp. Trong trường
hợp này doanh nghiệp có hai loại quyết định. Thứ nhất, doanh nghiệp phải ra
quyết định dài hạn (quyết định đầu tư) về năng lực sản xuất là loại hình nhà máy
mà doanh nghiệp muốn lắp đặt. Thứ hai, doanh nghiệp phải quyết định việc sử
dụng hiệu quả nhất các máy móc và thiết bị sẵn có.
Nếu như lợi nhuận của mỗi thời kỳ độc lập với nhau, thì mô hình một thời
kỳ và nhiều thời kỳ sẽ nhất quán với nhau. Tuy nhiên, lợi nhuận kiếm được tại
thời kỳ này có ảnh hưởng đến lợi nhuận sẽ kiếm được trong tương lai, vì rằng
trong trường hợp này có thể giá trị của doanh nghiệp sẽ tối đa hoá bằng cách hy
sinh lợi nhuận ngắn hạn (thí dụ, một doanh nghiệp độc quyền có thể thu được lợi
nhuận tối đa rất cao trong ngắn hạn. Tuy nhiên, điều đó có thể lôi kéo các doanh
nghiệp khác vào ngành và có thể là đối tượng điều tiết của chính phủ. Do vậy, giá
trị của doanh nghiệp có thể sẽ tối đa nếu như doanh nghiệp không tối đa hoá lợi
nhuận ngắn hạn).
Theo mô hình này, giả định doanh nghiệp là nhà sản xuất biết được:
- Chi phí và sản lượng: doanh nghiệp được giả định sản xuất một loại sản
phẩm tiêu chuẩn hoá và các chi phí sản xuất biết trước theo hình chữ U. Chi phí
1
Phan Văn Bình – Gamba.V0210
bình quân giảm xuống trong khoảng từ A tới B, vì chi phí cố định được chia nhỏ
cho lượng sản phẩm tăng lên, và bắt đầu tăng lên ngoài điểm B khi mà quy luật
hiệu suất giảm dần làm tăng chi phí biến đổi bình quân (Hình 1).
- Các điều kiện của cầu: Giả định doanh nghiệp biết được thông tin về sản
lượng sản phẩm mà doanh nghiệp có thể bán ở tại mỗi mức giá. Cầu phụ thuộc
vào 2 nhóm nhân tố ảnh hưởng. Thứ nhất, phụ thuộc vào hành vi của người tiêu
dùng, họ sẽ xác định tổng cầu đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Thứ hai, cầu
phụ thuộc vào cơ cấu ngành của doanh nghiệp hoạt động và hành vi của các đối
thủ cạnh tranh.
Sau khi có các thông tin về điều kiện cầu, chi phí và sản lượng chúng ta có
thể xây dựng mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận theo phương pháp toán tối ưu, như
sau:
Mục tiêu: Tối đa hoá lợi nhuận π(q) -> max
trong đó:
π(q) = TR(q) - TC(q)
trong đó:
π(q) - Lợi nhuận;
TR(q) - Tổng doanh thu;
TC(q) - Tổng chi phí;
q - Sản lượng bán ra.
Điều kiện thoả mãn:
Điều kiện 1: dπ/dq = dTR/dq - dTC/dq = 0 hoặc dTR/dq - dTC/dq
Điều kiện 2: d2TR/dq2 < d2TC/dq2
Đó chính là nguyên tắc tối đa hoá lợi nhuận: sản xuất tại một mức sản
lượng tại đó doanh thu cận biên bằng chi phí cận biên và độ dốc của đường chi
phí cận biên lớn hơn độ dốc của đường doanh thu cận biên.
Chi phí
P
ATC
MC
A
P*
B
D
Sản lượng
Hình 1
*
Q
MR
Q
Hình 2
Trong hình biểu diễn, mức sản lượng tối đa hoá lợi nhuận là Q * và giá tối
đa hoá lợi nhuận là P*. Trong mô hình, chúng ta thấy rằng sản lượng mà doanh
nghiệp sản xuất và bán được giả định là như nhau. Nếu không có sự thay đổi về
điều kiện của cầu thì doanh nghiệp không có xu hướng thay đổi giá hay sản
lượng. Doanh nghiệp trong trạng thái cân bằng ngắn hạn (Hình 2).
2
Phan Văn Bình – Gamba.V0210
2. Mục tiêu tối đa hoá doanh thu: Doanh nghiệp có thể tăng được doanh
số bán, mở rộng được thị trường hay không sẽ tuỳ thuộc rất lớn vào khả năng
thâm nhập thị trường, mở rộng chủng loại sản phẩm của doanh nghiệp. Doanh
nghiệp đó có thể lôi kéo được khách hàng về phía mình hay không, phần lớn tuỳ
thuộc vào uy tín sản phẩm, chất lượng, thương hiệu của doanh nghiệp đối với họ.
Mô hình mục tiêu này do William Baumol (1958) đề xuất. Trong mô hình
này, tiền lương của các giám đốc, địa vị của họ và các khoản tiền thưởng thường
có quan hệ với quy mô của doanh nghiệp mà họ quản lý. Quy mô này được đo
bằng doanh thu bán hàng chứ không phải là lợi nhuận. Trong trường hợp đó, các
nhà quản lý sẽ quan tâm tới việc tăng doanh số bán hàng chứ không phải là tăng
lợi nhuận, và như vậy mục tiêu của doanh nghiệp sẽ là tối đa hoá tổng doanh thu
chứ không phải là tối đa hoá lợi nhuận.
Xét theo nhiều khía cạnh, mô hình mục tiêu này cũng chia sẻ các đặc điểm
cơ bản so với mô hình chuẩn. Đó cũng là một mô hình tối ưu hoá trong đó một
doanh nghiệp sản xuất một mặt hàng có mục tiêu duy nhất, có thông tin hoàn hảo
và biết được các điều kiện của cầu và chi phí.
Một doanh nghiệp mục tiêu tối đa hoá doanh thu sẽ luôn sản xuất nhiều
hơn và đặt giá thấp hơn so với một doanh nghiệp tối đa hoá lợi nhuận khi có cùng
điều kiện về chi phí và cầu vì:
- Để tối đa hoá tổng doanh thu, doanh thu cận biên bằng không (MR=0);
- Để tối đa hoá lợi nhuận, doanh thu cận biên bằng chi phí cận biên
(MR=MC);
- Vì chi phí cận biên lớn hơn không, do đó đối với doanh nghiệp tối đa hoá
lợi nhuận doanh thu cận biên phải lớn hơn không;
- Do đó doanh thu cận biên của doanh nghiệp tối đa hoá lợi nhuận phải lớn
hơn doanh thu cận biên của doanh thu cận biên của doanh nghiệp tối đa hoá
doanh thu;
- Vì doanh thu cận biên là đường nghiêng xuống, sản lượng cân bằng của
doanh nghiệp tối đa hoá doanh thu phải lớn hơn sản lượng cân bằng của doanh
nghiệp tối đa hoá lợi nhuận.
Giá chi phí
B
E
TC
TR
PC3
PC2
PC1
C
D
H A
Q
Hình 3
3
Phan Văn Bình – Gamba.V0210
Trong hình biểu diễn trên (Hình 3), doanh nghiệp sẽ chọn mức sản lượng
A, với mức tổng doanh thu B và lợi nhuận C (đó là mức sản lượng cao hơn và
mức giá thấp hơn so với mức tối đa hoá lợi nhuận sản lượng D và tổng doanh thu
E). Khi tối đa hoá doanh thu, doanh nghiệp cũng thu được một lượng lợi nhuận
nhất định. Tuy nhiên, mức lợi nhuận đó có thể chưa đủ để thoả mãn các cổ đông
và trong nhiều trường hợp tối đa hoá doanh thu còn gây ra thua lỗ cho doanh
nghiệp. Do đó, mục tiêu tối đa hoá doanh thu đơn giản là không đủ mà phải kèm
theo ràng buộc về mức lợi nhuận tối thiểu phải đạt được.
3. Mục tiêu tối đa hoá lợi ích quản lý: Oliver Williamson đưa ra khái
niệm "sự ưa thích chi tiêu" để xây dựng mô hình tối đa hoá lợi ích quản lý. Theo
Williamson, mục tiêu của người quản lý là tối đa hoá lợi ích của chính họ và
người quản lý đạt được điều đó bằng cách chi tiêu cho những việc không cần thiết
cho công việc nhưng lại thoả mãn mục đích riêng tư. Williamson xác định 3 loại
chi tiêu cơ bản sau:
- Chi tiêu để tuyển thêm biên chế vượt quá mức cần thiết để vận hành
doanh nghiệp (S). Điều này làm tăng quyền lực, uy tín và ích lợi của người quản
lý khi họ cho là quản lý nhiều người sẽ thích hơn.
- Chi thêm tiền "bổng lộc" cho người quản lý (M). Đó là việc tiêu dùng xa
xỉ như ô tô sang trọng, quần áo, tiệc tùng,...
- Lợi nhuận tự do, là lợi nhuận sau thuế cao hơn lượng tối thiểu cần thiết
cho các cổ đông. Phần đó sẵn có để người quản lý chi tiêu cho các hoạt động
nhằm mục tiêu riêng tư của họ.
4. Mục tiêu an toàn: Chính sách sản phẩm bảo đảm cho doanh nghiệp một
sự tiêu thụ chắc chắn, tránh cho doanh nghiệp khỏi những rủi ro, tổn thất trong
kinh doanh. Điều đó liên quan chặt chẽ với chính sách đa dạng hoá sản phẩm theo
kiểu "không nên bỏ trứng vào một lọ" của doanh nghiệp.
Trong thực tế, việc nghiên cứu mục tiêu, và mục tiêu cuối cùng của doanh
nghiệp là rất có ý nghĩa cho hoạt động phân tích cơ bản, bởi đối tượng của phân
tích cơ bản hay phân tích tài chính là hoạt động của doanh nghiệp được dẫn dắt
bởi chính sách của các nhà quản lý. Nếu thấu hiểu mục tiêu của các nhà quản lý
theo đuổi, chúng ta dễ dàng hơn trong việc luận giải và phân tích hành vi của
doanh nghiệp.
Phần lớn mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp dường như luôn được nói
tới là tối đa hoá lợi nhuận. Tuy nhiên, rủi ro càng lớn, lợi nhuận càng cao. Theo
cách hiểu đó, tối đa hoá lợi nhuận đồng nghĩa với tối đa hoá rủi ro và chắc chắn
chủ sở hữu doanh nghiệp không cho phép các nhà quản trị doanh nghiệp thực hiện
điều đó. Vậy mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là gì?
Muốn biết điều này, cần phân tích động cơ cổ đông của doanh nghiệp, bởi họ là
chủ sở hữu thực sự của doanh nghiệp. Quyền lợi của cổ đông bao gồm: cổ tức
được phân phối hàng năm; lợi nhuận để lại tái đầu tư và làm tăng giá cổ phiếu;
quyền kiểm soát công ty. Nói chung, không phải tất cả cổ đông quan tâm tới
4
Phan Văn Bình – Gamba.V0210
quyền kiểm soát, hay chính xác hơn, phần lớn cổ đông không quan tâm đến quyền
lợi này. Song nhìn chung, các cổ đông đều mong muốn thu nhập của họ tăng càng
nhiều càng tốt, hay nói cách khác, cổ đông luôn muốn tăng tối đa giá trị tài sản
của họ. Đây là nguyện vọng chính đáng của cổ đông mà các nhà quản lý cần phải
tôn trọng.
Mục tiêu trên không phải là tất cả. Những nhà quản trị công ty, các sáng lập
viên do phải nắm giữ các cổ phiếu lâu dài nên họ dường như không quan tâm đến
sự tăng giá trong ngắn hạn. Họ là những nhà đầu tư không muốn nhận cổ tức với
lý do không phải họ quá giàu, mà là động cơ tránh thuế (giữ lợi nhuận tái đầu tư
chưa phải đóng thuế thu nhập từ cổ tức). Muốn có cổ tức cao, tăng giá cổ phiếu
lớn, công ty phải đầu tư vào các dự án có mức sinh lời cao. Khi công ty có lợi
nhuận cao, các nhà quản lý cũng không được nhiều hơn các cổ đông khác, do
chính sách phân phối "phổ thông đầu phiếu" - thu nhập của mỗi cổ phiếu là như
nhau. Song lợi nhuận cao cũng đi kèm với rủi ro lớn. Khi mất giá, các nhà quản lý
sẽ mất nhiều hơn các cổ đông khác. Đây là vấn đề luôn tồn tại trong các doanh
nghiệp. Do vậy, có thể nói, mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là duy trì tốc độ
tăng trưởng ổn định thị giá cổ phiếu trên thị trường.
Trong phạm vi môn học và qua thực tế nghiên cứu một số doanh nghiệp
tại địa bàn tỉnh Nghệ An, tôi trình bày mục tiêu ngắn hạn (trước mắt) của Công ty
Cổ phần thực phẩm sữa TH, một công ty mới thành lập cuối năm 2009, với nội
dung “Mở rộng thị phần tiêu thụ sản phẩm trong nước”.
I. THÔNG TIN DOANH NGHIỆP
1. Tên doanh nghiệp: CÔNG TY CỔ PHẦN THỰC PHẨM SỮA TH
2. Tên tiếng anh: TH MILK FOOD JOINT STOCK COMPANY
3 . T ê n v i ế t t ắ t : T H M I L K F O OD
4. Loại hình:Công ty cổ phần
5. Logo:
6. Địa chỉ: Xã Nghĩa Sơn - Huyện Nghĩa Đàn - Tỉnh Nghệ An
7. Ngày thành lập: 8/09/2009
8. Nhà đầu tư: Ngân hàng TMCP Bắc Á
9. Lĩnh vực hoạt động: - Mua bán, chế biến sữa, sữa đậu nành và các sản
phẩm từ sữa; - Mua bán, chế biến nước hoa quả và đồ uống; - Mua bán
nguyên liệu, hương liệu, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh ngành sữa
và thực phẩm; - Chăn nuôi bò sữa, vùng nguyên liệu.
5
Phan Văn Bình – Gamba.V0210
II. MỤC TIÊU DÀI HẠN: Trở thành nhà sản xuất hàng đầu trong ngành hàng
sữa có nguồn gốc từ thiên nhiên.
III. NỘI DUNG:
1. Tình hình chung về ngành sữa Việt Nam:
Hiện nay, thị phần sản phẩm sữa sản xuất trong nước chiếm khoảng trên
80%, riêng thị phần mặt hàng sữa bột sản xuất trong nước hiện chỉ chiếm khoảng
gần 40%. Còn lại 60% thị phần thuộc về hàng nhập khẩu, trong đó tập trung chủ
yếu ở một số hãng sữa lớn như Abbott, Mead Johnson…
Theo thống kê của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc
(FAO), hiện nay, châu Á đang dẫn đầu thế giới về mức tăng trưởng tiêu thụ sữa.
Trong đó, mức tiêu thụ các sản phẩm từ sữa bình quân của người Việt Nam hiện
nay là 14 lít/người/năm (do quan niệm sữa chỉ dành cho trẻ em, người già, người
ốm), còn thấp hơn so với Thái Lan (23 lít/người/năm) và Trung Quốc (25
lít/người/năm). Khoảng chênh lệch này cùng với xu thế tăng đồ uống ở các lứa
tuổi người Việt Nam trong cơ cấu tiêu dùng thực phẩm là cơ hội tốt cho các doanh
nghiệp ngành Sữa phát triển
Nguồn: Euromonitor Internatinal
6
Phan Văn Bình – Gamba.V0210
Trên thị trường nước ta có khoảng 200 doanh nghiệp nhập khẩu sữa
nguyên liệu và sữa thành phẩm. Đây là một con số không nhỏ để tạo ra một thị
trường cạnh tranh lành mạnh trong ngành sữa. Nhưng trong khi giá sữa nguyên
liệu trên thế giới liên tục giảm thì giá sữa trong nước vẫn tăng cao, đặc biệt là đối
với các loại sữa bột nguyên hộp nhập khẩu.
Cuộc khảo sát về giá sữa bột nguyên hộp nhập khẩu của các hãng như
Abbott, Mead Johnson, Nestle, Dumex, XO… tại nước ta với các nhãn sữa cùng
loại được bày bán tại nhiều nước trên thế giới và trong khu vực là Thái Lan,
Malaysia, Indonexia, Singapore, Hàn Quốc, Hà Lan, Úc, New Zealand, Anh, Mỹ,
mới đây đã cho thấy: so với các nước đang phát triển như Thái Lan, Malaysia,
Indonexia, giá sữa nhập khẩu của Việt Nam nhìn chung là cao hơn từ 20-60%, cá
biệt có trường hợp còn cao hơn từ 100-150%.
Giá sữa bán lẻ của Việt Nam cao hơn so với giá sữa trung bình thế giới.
Mức giá sữa bán lẻ cho người tiêu dùng tại Việt Nam hiện ở mức khoảng 1,1
USD/lít, cao gần tương đương so với các nước có mức thu nhập bình quân đầu
người cao như khu vực Bắc Mỹ, Châu Đại Dương và cao hơn hẳn so với các nước
có thu nhập bình quân đầu người tương tự như Việt Nam.
Nguồn: Jaccar, BVSC
Nhìn chung ngành sản xuất sữa tại Việt Nam có mức sinh lời khá cao, tuy
nhiên mức sinh lời giữa các nhóm sản phẩm có sự khác biệt khá lớn. Sản phẩm
sữa bột trung và cao cấp hiện đang là nhóm sản phẩm dẫn đầu về hiệu quả sinh
lời, với mức sinh lời đạt khoảng 40%/giá bán lẻ, sữa nước và sữa chua có mức
sinh lời đạt khoảng 30%/giá bán lẻ.
Theo số liệu thống kê ngày 01/10/2010 do Tổng cục Thống kê công bố,
Ngành sữa Việt Nam sản xuất trong nước đạt 306.000 tấn sữa tươi nguyên liệu,
tăng 10,2% so với năm 2009. Sản lượng sữa này tính trên tổng đàn bò sữa 128,5
nghìn con tăng 11,3% so với năm 2009. Theo số liệu của Cục Chăn nuôi, Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tiêu dùng sữa và sản phẩm sữa trung bình ở
nước ta là 14,5 kg/người/năm. Do đó, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu khoảng 75%
sữa (chủ yếu là sữa bột) phục vụ nhu cầu tiêu dùng sữa và các phẩm sữa trong
nước ngày càng tăng do gia tăng dân số, đô thị hoá, thu nhập và nhận thức ngày
càng cao của người tiêu dùng về tầm quan trọng dinh dưỡng của sữa đối với con
người, đặc biệt là trẻ em và người già.
7
Phan Văn Bình – Gamba.V0210
Năm 2010, nước ta đã nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa trị giá 708 triệu
USD, tăng 37,3% so với năm 2009 (516 triệu USD).
Giá trị và tăng trưởng nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa từ 10 nước xuất
khẩu hàng đầu.
Giá trị nhập khẩu
Tăng/giảm
Thị phần (%)
STT
(1.000 USD)
Nước
2010/2009
(%)
2009
2010
2009
2010
1 Niu Di-lân
141.500 181.740
27,4
25,7
28,4
2 Mỹ
45.690 141.099
8,9
19,9
208,8
3 Hà Lan
71.812 87.563
13,9
12,4
21,9
4 Thái Lan
34.073 37.382
6,6
5,3
9,7
5 Ô-xtrây-li-a
19.521 26.257
3,8
3,7
34,5
6 Ba Lan
20.412 25.877
4,0
3,7
26,8
7 Pháp
10.115 17.560
2,0
2,5
73,6
8 Đan Mạch
44.715 14.377
8,7
2,0
-67,8
9 Ma-lai-xi-a
27.077 11.639
5,3
1,6
-57,0
10 Đức
4.840
9.923
0,9
1,4
105,0
Tổng
515.77 708.289 100,0 100,0
Nguồn:
Sữa và sản phẩm sữa được nhập khẩu chủ yếu từ 10 nước đứng đầu nhập
xuất khẩu sữa và sản phẩm sữa sang Việt Nam, Căn cứ vào tăng trưởng tiêu dùng
sữa nội địa và giá sữa bột nhập khẩu trên thị trường quốc tế, năm 2011 Việt Nam
sẽ phải nhập khẩu sữa và sản phẩm sữa khoảng 1 triệu USD để thoả mãn nhu cầu
tiêu dùng trong nước ngày càng tăng cao.
2. Mục tiêu “mở rộng thị phần tiêu thụ sản phẩm trong nước” trong ngắn
hạn của Công ty Cổ phần thực phẩm sữa TH
Với việc tung ra thị trường sản phẩm sữa sạch TH True Milk từ ngày
26.12.2010, Công ty Cổ phần Sữa TH đã chính thức bước vào cuộc cạnh tranh với
sản phẩm cùng loại của các công ty sữa khác.
Sản phẩm trong lần ra mắt lần này, thương hiệu sữa tươi sạch TH True MILK
giới thiệu bốn dòng sản phẩm gồm sữa tươi tiệt trùng nguyên chất được làm từ
100% sữa bò tươi, sữa tươi tiệt trùng ít đường, sữa tươi tiệt trùng có đường, sữa
tươi tiệt trùng hương dâu. Để dòng sữa TH True MILK đến tay người tiêu dùng
trong tình trạng đảm bảo chất lượng tươi ngon và tiện lợi nhất, chuỗi cửa hàng
bán lẻ TH true mart cũng được Tập đoàn TH xây dựng, trước mắt có gần 20 điểm
tại Hà Nội và Nghệ An được đầu tư cơ sở vật chất hiện đại và ứng dụng những
phương pháp bảo quản sản phẩm tốt nhất.
Không chỉ góp mặt trên thị trường với sản phẩm sữa sạch TH True Milk, TH
Milk còn thể hiện sức tấn công mạnh mẽ bằng dự án xây dựng nhà máy sữa có
vốn đầu tư 1,2 tỉ USD (tương đương 24.000 tỉ đồng), do Ngân hàng Bắc Á đầu tư
8
Phan Văn Bình – Gamba.V0210
chính. Nhà máy của TH Milk được xây dựng trên tổng diện tích 22 ha, sử dụng
bao bì của Tetra Pak, tập đoàn Thụy Điển chuyên sản xuất bao bì bằng giấy carton
(hiện Nestlé, Coca-Cola, Vinamilk, Unif... đều sử dụng bao bì Tetra Pak cho các
sản phẩm bán tại Việt Nam). TH Milk đã phát triển đàn bò gồm hơn 10.000 con
và dự kiến đạt 137.000 con vào năm 2017. Cũng vào năm này, nhà máy chế biến
của Công ty sẽ đạt công suất 500 triệu lít/năm, có thể đáp ứng được 50% nhu cầu
sản phẩm sữa của thị trường trong nước.
Có thể nói, thị trường sữa tươi Việt Nam vẫn còn rộng mở đối với bất cứ
doanh nghiệp nào. Mức tiêu thụ sữa bình quân của mỗi người Việt Nam chưa cao
trong khi nhu cầu là không hề ít. Cụ thể, năm 2010, một người Việt Nam (chủ yếu
ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP.HCM) tiêu thụ trung bình 9 lít sữa, thấp hơn
so với Thái Lan (23 lít/người) hay Trung Quốc (25 lít/người).
Do Công ty Cổ phần thực phẩm sữa TH mới ra mắt sản phẩm được gần 8
tháng nên chưa thống kê chính thức về hiệu quả kinh doanh. Tuy nhiên, hiện tại
giá bán sữa tươi TH Milk có giá bán cao hơn so với các loại sữa tương đương trên
thị trường, trung bình 26.500 đồng/lốc 4 hộp 180 ml. Trong khi đó, giá bán của
các doanh nghiệp khác là 22.500 đồng/lốc 4 hộp 180 ml, đây là điều cần cân nhắc
điều chỉnh trong kế hoạch kinh doanh ngắn hạn nhằm đạt được mục tiêu dài hạn
đặt ra.
Để tiến tới đạt được mục tiêu dài hạn trong tương lai, trước mắt Công ty Cổ
phần sữa TH cần có những giải pháp nhằm quảng bá sản phẩm, mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm trong nước, cụ thể:
- Về giá bán lẻ sản phẩm, trước mắt cần tối đa hoá doanh thu, mở rộng
chiếm lĩnh thị trường trong nước, thông qua giảm giá bán (thấp hơn hoặc bằng giá
bán lẻ của sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác) và các chính sách khuyến
mãi khuyếch trương sản phẩm tạo niềm tin cho người tiêu dùng.
- Về hệ thống phân phối, ngoài việc xây dựng chuỗi 20 cửa hàng TH True
Mart tại Hà Nội và Nghệ An, các hệ thống bán lẻ lớn như Co.opMart, Big C,
MaxiMark, TH Milk cần phải đầu tư mở rộng thêm nhiều hệ thống bán lẻ trên các
tỉnh, thành phố của toàn quốc.
- Xét đến quy mô nhà máy, sản xuất chính tập trung vào sữa tươi, ngoài ra
cần đa dạng hoá sản phẩm, sản xuất nhiều mặt hàng khác như sữa bột có chất
lượng cao đạt tiêu chuẩn quốc tế, sữa chua, sữa đậu nành, nước giải khát,…. Khai
thác dây chuyền sản xuất hoạt động ổn định với công suất tối đa.
- Về góc độ truyền thông, sử dụng đa dạng phương tiện truyền thông cho
quảng cáo, đặc biệt phát huy ấn phẩm báo chí, đài truyền thanh và kênh truyền
hình; thông qua hệ thống các trường học,…
9
Phan Văn Bình – Gamba.V0210
Ngành sữa là một ngành có tính ổn định cao, ít chịu sự tác động của chu kỳ
kinh tế. Việt Nam đang là quốc gia có tốc độ tăng trưởng về ngành sữa khá cao so
với các nước trong khu vực. Tuy nhiên ngành sữa cũng là một ngành nghề nhạy
cảm do ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cộng đồng. hiện nay công ty đang sản
xuất sản phẩm xâm nhập vào thị trường chiếm tỷ trọng tiêu thụ 32% sản phẩm sữa
tại Việt Nam, đó là một bước đi đúng hướng, ổn định, lâu dài.
Bên cạnh đó, triển vọng từ việc dự án xây dựng trại chăn nuôi bò sữa đạt
137.000 con vào năm 2017, công nghệ vắt sữa, bồn chứa sữa và máy xử lý sữa
theo tiêu chuẩn quốc tế sẽ giúp doanh nghiệp có thể chủ động về mặt nguyên vật
liệu đầu vào cho sản xuất, từ đó, nâng cao hiệu suất kinh doanh.
Hy vọng với mục tiêu mở rộng thị phần trong nước và phát triển thương
hiệu của mình, trong tương lai TH True Milk đạt được mục tiêu dài hạn của công
ty là đơn vị mạnh nhất trong thị trường sữa Việt Nam và Khu vực. Phát triển
thương hiệu và mở rộng thị phần là điều cần thiết hàng đầu đối với 1 công ty kinh
doanh trong thị trường nhạy cảm như sữa.
10