Đề bài: Phân tích nhân vật nàng Xi-ta trong đoạn trích Ra-ma buộc
tội (trích sử thi Ra-ma-ya-na của Ấn Độ)
Bài làm
Xi-ta là một người phụ nữ được lí tưởng hóa: thông minh, chung
thủy, giàu lòng tự trọng, tự tin và vô cùng can đảm.
Phẩm chất thông minh ở nàng thể hiện trước hết ở sự linh cảm.
Nóng lòng đến gặp chồng sau khi được chồng cứu thoát khỏi bàn
tay nhơ bẩn của quỷ vương Ra-va-na, nhưng "Gia-na-ki mở tròn đôi
mắt đẫm lệ" nhìn Ra-ma không chỉ là vì thất vọng (cái mà Xi-ta chờ
ở chồng là sự âu yếm của cuộc đoàn viên). Sự mẫn cảm ở Xi-ta
dường như mách bảo điều gì ghê gớm, rất hệ trọng với nàng sắp
sửa diễn ra. Một cơn bão chỉ giây phút nữa thôi sẽ bất ngờ đổ ập
xuống mà dấu hiệu của nó lúc này là sự im lặng rất đáng nghi ngơ.
Tai Xi-ta nghe Ra-ma nói mà trí tuệ nàng đã đọc ra những ý nghĩa ở
ngoài lời. Bao nhiêu những dấu hiệu không lành giúp cho Xi-ta nhận
biết. Nào là chính chàng đã cứu thoát cho nàng. Điều này đã quá rõ
ràng nên thật là khó hiểu. Bởi thật ra cứu vợ tai qua nạn khỏi là
nghĩa vụ muôn đời của mọi người đàn ông chân chính, chưa nói là
người quyền quý như Ra-ma. Vậy mục đích của nó là gì? Nào là tại
sao gặp nàng, đối thoại với nàng. Ra-ma chỉ nhắc đến những nhân
vật không quan trọng (so với bản thân nàng) là Ha-nu-man và Viphi-sa-na? Cũng là còn chưa nói đến sự lảng tránh của chính Rama trong đôi mắt có phần thảng thốt của chàng lúc nhìn Xi-ta (mà
người dẫn truyện nhận thấy và miêu tả: "lòng Ra-ma đau như dao
cắt"), hoặc cách xưng hô bằng cách các đại từ nhân xưng trang
trọng là "phu nhân cao quý" nữa,...
Chỉ người vợ yêu chồng mới cảm nhận được nỗi đau khi tình yêu
của mình bị chính người chồng làm thương tổn. "Đôi mắt đẫm lệ"
của Xi-ta nhìn chồng là đôi mắt bi thương. Bởi lẽ với Xi-ta, điều cao
quý và thiêng liêng nhất là tình yêu với chồng. Ngay cả vẻ đẹp thể
chất của nàng mà trời phú cho cũng là vì tình yêu ấy. Và bây giờ vẻ
đẹp ấy đang sáng lên, đang chờ đợi như một lần trước đây chờ đợi.
Chỉ có điều lúc này nó trở nên lạc lõng biết bao. Nó đã là một nghịch
cảnh thật trớ trêu khi tình yêu ở chàng đã hết. Nhưng điều đó đầu
tiên mới chỉ là cảm giác thoáng qua. Chỉ sau khi nghe hết lời luận tội
của Ra-ma, Xi-ta "đau đớn đến nghẹt thở, như một cái dây leo bị vòi
voi quật nát". Tác giả đã sử dụng phép so sánh để đặc tả nỗiđau
của Xi-ta. Rồi cả một trường đoạn tiếp theo như những con sóng ào
ạt miêu tả cảnh xô đẩy dập vùi. Mỗi lời nói của Ra-ma nhằm vào Xita như những mũi tên trúng đích. Nàng bị săn đuổi đến cùng: "nghe
những lời tố cáo chưa từng có, trước mặt đông đủ mọi người, Giana-ki xấu hổ cho số kiếp của nàng. Nàng muốn tựchôn vùi cả hình
hài thân xác của mình..." Rồi sau đó, lời biện minh của Xi-ta một
phần dựa vào lí lẽ, nhưng đến hai phần lại dựa vào tình yêu. Cái lí lẽ
ấy thuộc về hoàn cảnh khách quan, bị động (Ra-va-na bắt cóc khi
Xi-ta sợ chết khiếp mà ngất đi).Còn tình yêu của nàng thì chưa bao
giờ thay đổi. Đó mới là vũ khí, là sức mạnh của nàng để qủy vương
không sao chiếm đoạt nổi: "chỉ có số mệnh của thiếp là đáng bị chê
trách, nhưng những gì nằm trong vòng kiểm soát của thiếp, tức trái
tim thiếp đây là thuộc về chàng". Thật đáng kiêu hãnh, tự hào khi
người phụ nữ có trái tim son sắt ấy!
Trong mối tương quan, Xi-ta ở vào một cái thế không ngang bằng
với Ra-ma.
Nàng đang bị phán xét và trước mắt Ra-ma, nàng là người mắc
trọng tội (tội không chung thủy), nhưng chưa một lúc nào Xi-ta cảm
thấy mình đuối sức để cần đến một sự cầu xin. Có hai niềm tin mà
Xi-ta dựa vào. Một là nguồn gốc xuất thân cao quý của nàng cũng y
hệt như Ra-ma. Thứ hai, nàng tin vào trái tim của mình như tin vào
hi vọng. Lòng tin ấy dõng dạc cất lên: "Hỡi Đức vua! Như một người
thấp hèn bị cơn giận giày vò, Người đang nghĩ về thiếp như một phụ
nữ tầm thường. Tên thiếp là Gia-na-ki, bởi vì thiếp có liên quan đêía
lễ tế sinh của nhà vua Gia-na-ka... Vì không thể suy xét cho đúng
đắn, chàng đã không hiểu được bản chất của thiếp... Tình yêu của
thiếp, lòng trung thành của thiếp nay xem ra hoàn toàn vô ích!". Nói
đến điều này, Xi-ta òa khóc như một người chịu oan ức. Nàng mới là
kẻ đáng thương chứ không phải Ra-ma là kẻ đáng thương.
Hành xử cuối cùng của Xi-ta là bước vào giàn lửa.
Trong tín ngưỡng của đạo Bà La Môn thì thần lửa A-nhi giữ vai trò
phán xét tối cao. Lấy cái chết để giải oan là một mô típ nghệ thuật
trong văn học bác học và văn học dân gian nhiều nước, nhất là các
nước phương Đông. Nhưng có điều trong lời khấn thần linh, nhận ra
hai giải pháp sóng đôi: nếu trong sạch thì thế này còn nếu không thì
thế khác. Biết rất rõ tấm lòng mình là một dạ kiên trinh, Xi-ta cần đến
thần Lửa A-nhi như một sự bao dung, che chở chứ không phải là sự
phán xét đúng, sai. Tâm thế của Xi-ta vì thế mà bình tĩnh đến lạ
lùng. Trong lúc ấy, mọi người lại đinh ninh là nàng sẽ chết, vì oan ức
mà chết. Chính sự so le của hai thế giới quan (một thần thoại và một
hiện thực) đã làm cho hành vi tử vì đạo của Xi-ta đột ngột thăng hoa
trong sự cao cả tuyệt vời. Một chấn động tinh thần ghê gớm của
những người chứng kiến đã xảy ra không gì kiềm giữ nổi cũng là
một lẽ đương nhiên khi tiễn biệt một tâm hồn cao cả về với thần linh
vĩnh viễn. Nhưng thần Lửa A-nhi đã giải thoát cho nàng. Kết thúc
đầy chất lãng mạn này là sự gửi gắm một niềm tin, niềm hi vọng của
con người.