Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

ôn thi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.11 KB, 20 trang )

1.Các loại hình CTXH với nhóm
-

Nhóm giải trí : rèn luyện và phát triển nhân cách. Mỗi hình thức và nội dung được
NVXH lựa chọn đều có mục đích xã hội.
Mục đích là cung cấp các hoạt động vui chơi giải trí có mục đích cho các
thành viên trong nhóm, qua các hoạt động vui chơi trong nhóm, các thành viên
giúp nhau xây dựng những tính cách cần thiết. Ví dụ: Tổ chức sinh hoạt hè cho
thanh thiếu niên, tại đây có các hoạt động nhằm phát triển nhân cách, đồng thời
qua hoạt động hè nhằm ngăn chặn những hành vi sai trái có thể có…

-

Nhóm giáo dục : Kiến thức và kỹ năng
Nhằm truyền đạt những kiến thức hay kỹ năng trong một lĩnh vực nào đó. Ví
dụ như: Kỹ năng đọc sách và tài liệu, Kiến thức chăn nuôi bò….

-

Nhóm tự giúp
Nhóm tự giúp là những nhóm nhỏ có tính chất tình nguyện với mục đích hỗ
trợ qua lại lẫn nhau để hoàn thành mục đích cụ thể, nhóm này thường được thành
lập bởi những người cùng cảnh ngộ tập hợp lại nhau để giúp đỡ lẫn nhau cùng đáp
ứng những nhu cầu chung, giúp nhau vượt qua những khó khăn của cuộc sống và
tạo ra những thay đổi cá nhân hay xã hội cần thiết. Việc giúp đỡ những người có
hoàn cảnh khó khăn trong nhóm là một phần thưởng tâm lý, niềm an ủi, động viên
đối với họ. Qua việc giúp đỡ người khác cảm nhận về hoàn cảnh của mình và ít bi
quan hơn từ đó cuộc sống của họ trở nên có giá trị. Ví dụ: nhóm những bố mẹ có
con bị chậm khôn…Người điều động trong nhóm này là những thành viên trong
nhóm có cùng cảnh ngộ. Vai trò của nhân viên công tác xã hội là tạo điều kiện để
tập hợp và hoạt động thông qua sinh hoạt nhóm.




-

Nhóm với mục đích xã hội hóa
Mục đích là để tăng cường khả năng quan hệ xã hội của cá nhân, từ đó thay
đổi thái độ, hành vi của cá nhân theo hướng tích cực. Ví dụ: nhóm nâng cao khả
năng giao tiếp xã hội, tính tự tin, khả năng đề ra kế hoạch cho tương lai… Ở đây
người điều động nhóm cần có kỹ năng kiến thức về hành vi con người và cách tác
động nhóm.

-

Nhóm trị liệu
Mục đích của loại hình nhóm này là giúp cho cá nhân chia sẻ những cảm xúc
với các thành viên khác từ đó hiểu rõ vấn đề tình cảm của mình và đưa ra kế hoạch
giải quyết các vấn đề mắc phải. Ví dụ: nhóm đồng đẳng để trị liệu về vấn đề
HIV/AIDS, mai dâm, tội phạm…Người điều động nhóm cần phải có sự hiểu biết
về cơ chế tâm sinh lý xã hội và hành vi con người, có kỹ năng tham vấn nhóm,
năng động nhóm, cần sử dụng các kỹ thuật trị liệu đồng bộ để giúp đối tượng giải
quyết những vấn đề tình cảm cá nhân.

-

Nhóm trợ giúp
Mục đích là tạo điều kiện để cá nhân nhìn nhận lại bản thân và tăng cường
khả năng đồng cảm với người khác nhằm phát triển các mối tương tác có hiệu quả
hơn. Loại hình nhóm này đòi hỏi sự thân mật tin tưởng, hiểu biết lẫn nhau giữa các
thành viên trong nhóm. Trong công tác xã hội các nhân viên công tác xã hội
thường sử dụng loại hình nhóm này để cùng nhau chia sẻ những kinh nghiệm,

những cảm nhận trong các trường hợp khó xử, loại hình nhóm này đặc biệt được
dùng trong những nhóm huấn luyện các nhà tư vấn chuyên nghiệp giúp họ tăng
cường khả năng đồng cảm khi làm việc với đối tượng.
CTXH phải nhắm vào người bình thường cũng như những người có vấn đề
nhưng ở mức độ vừa phải. NVXH giúp TC sáng tỏ và có sức mạnh nội tâm để giải


quyết vấn đề của mình bên cạnh đó, NVXH còn phải giúp TC vận dụng những
nguồn tài nguyên trong xã hội như tìm công ăn việc làm, nắm vững luật BHXH,
biết cách xin trợ cấp,... Trong CTXH nhóm không chỉ thảo luận trao đổi mà còn
cần đến nhiều loại hình sinh hoạt khác như thể dục thể thao, ca hát,...
2. Các giai đoạn phát triển của nhóm
Các giai đoạn phát triển của nhóm
2.6.1 Giai đoạn hình thành:

 Nhóm chưa phải là một nhóm đúng nghĩa mà là tập hợp các cá nhân
 Nhiều cá nhân còn e dè, ít chia sẻ, thiếu thống nhất, thăm dò nhau
 Cá nhân muốn khẳng định cá tính và muốn gây ấn tượng trong nhóm
 Sự tham gia bị hạn chế vì các cá nhân còn bận rộn làm quen với môi
trường chung quanh, với người tổ chức nhóm và những người xung quanh

 Các cá nhân bắt tay vào công việc trước mắt và thảo luận mục đích
của các công việc

 Nhóm tham gia xây dựng những quy định cơ bản mà sau này sẽ dựa
vào đó trở thành nội quy.
2.6.2 Giai đoạn bão tố - Cạnh tranh và liên kết:

 Nhóm chú trọng vào công việc, mối quan hệ bắt đầu tăng lên
 Nhóm viên tìm cách đóng góp cho nhóm và thích nghi

 Bắt đầu xuất hiện các mâu thuẫn nội bộ, thiếu thống nhất trong nhóm,
có cạnh tranh để thiết lập vị trí và vai trò của mình trong nhóm, tranh cãi có thể xảy ra, cá
nhân bộc lộ cá tính và có ý đồ riêng

 Hình thành các quy định và phương pháp làm việc mới và mối liên kết
giữa các thành viên tương hợp (cơ cấu nhóm phi chính thức)

 Vai trò lãnh đạo là giúp các thành viên tương tác tích cực, tái lập sự cân
bằng, giải quyết mâu thuẫn. Nếu thành công, các nhóm viên sẽ tin tưởng nhau hơn, nhóm
tiến đến bối cảnh mới trong đó mục tiêu, thủ tục và quy chuẩn mới thực tế hơn.


2.6.3 Giai đoạn ổn định - Lập quy chuẩn mới:

• Thể hiện qua bầu không khí nhóm thân thiện, lắng nghe nhau, chấp nhận nhóm và chấp
nhận tính cách của nhau

• Phát triển liên kết nhóm trong đó các quy chuẩn và các cách tiến hành được thiết lập
• Nhóm viên đồng hóa mình với nhóm, lòng trung thành với nhóm được phát triển và phấn
đấu để duy trì lòng trung thành này

• Phát triển tinh thần nhóm, sự hài hoà trở thành một yếu tố quan trọng.
2.6.4 Giai đoạn trưởng thành – Phát huy tối đa năng suất:

• Thể hiện qua sự trưởng thành toàn diện và năng suất tối đa
• Chỉ có thể đạt được bằng sự hoàn tất ba giai đoạn trên
• Nhận các vai trò để hoàn thành hoạt động của nhóm, lúc này họ biết cách phối hợp với
nhau

• Các vai trò trở nên linh hoạt và theo chức năng nhiệm vụ, thành viên cảm thấy tự do thể

hiện nhân cách của mình

• Năng lượng của nhóm tập trung vào các công việc đề ra
• Thông tin nội bộ cao và bình đẳng
• Xuất hiện những cách nhìn và cách giải quyết mới.
2.6.5 Giai đoạn kết thúc:

• Nhóm hoàn thành mục tiêu công tác
• Nhóm viên cảm thấy khó khăn khi phải chia tay, chống lại sự tan rã
• Nếu nhóm muốn duy trì hoạt động thì phải đề ra mục tiêu mới.
3.Trình bày tóm tắt các bước trong tiến trình CTXH nhóm
CHƯƠNG 3. TIẾN TRÌNH CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM
Tiến trình công tác xã hội nhóm là quá trình tương tác giữa các thành viên trong nhóm
được diễn ra trong suốt thời gian tồn tại của nhóm, mà trong đó có các bước được thực
hiện một cách trình tự nhằm giúp các thành viên đạt được mục tiêu của mình đề ra hay


hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Có nhiều cách chia các giai đoạn trong tiến trình
CTXH nhóm. Tài liệu này trình bày tiến trình CTXH nhóm theo 4 bước cơ bản sau: 1)
chuẩn bị và thành lập nhóm, (2) nhóm bắt đầu hoạt động; (3) can thiệp/ thực hiện nhiệm
vụ và (4) kết thúc.
GIAI ĐOẠN 1: CHUẨN BỊ VÀ THÀNH LẬP NHÓM
1. Xác định mục đích hỗ trợ nhóm
Xác định mục đích hỗ trợ nhóm là chỉ ra được mô hình của nhóm nhằm để hỗ trợ trị
liệu/ phục hồi, phòng ngừa hay giúp thành viên nhóm phát triển. Việc xác định mục đích
hỗ trợ nhóm là điều rất cần thiết trước khi sử dụng phương pháp CTXH nhóm. Liệu rằng
với nhóm đối tượng đó, phương pháp công tác xã hội nhóm thực sự hiệu quả hay không?
Nếu việc thành lập nhóm là cần thiết thực sự thì mục đích cuối cùng của nhóm là gì? Khi
đã có được mục đích hỗ trợ , nhân viên xã hội sẽ quyết định chọn lựa loại nhóm phù hợp.
Xác định mục đích hỗ trợ nhóm cần dựa vào những đánh giá ban đầu thông qua các

hồ sơ ghi chép, các lần tiếp xúc gặp gỡ thành viên tiềm năng. Mục đích cần được xác
định một cách rõ ràng, cẩn thận dựa trên tôn chỉ đạo đức và đặc biệt phải phù hợp với
mong muốn và vì lợi ích tốt nhất cho đối tượng.
2. Đánh giá khả năng thành lập nhóm
2.1. Đánh giá khả năng tài trợ cho hoạt động nhóm
Đây là điều hết sức cần thiết với các nhóm được thành lập trong hệ thống dịch vụ xã
hội như các trung tâm bảo trợ xã hội, các trung tâm giáo dục lao động - xã hội, các nhà
mở. Nhân viên xã hội cần có những tìm hiểu nghiên cứu về nhiệm vụ, chức năng, cơ chế
làm việc và những định hướng trọng tâm trong việc hỗ trợ thân chủ, cơ sở vật chất và các
nguồn lực khác.
2.2. Đánh giá khả năng tham gia của các thành viên
Để đảm bảo cho việc tham gia đều đặn sau này của các thành viên nhóm, trước khi
thành lập nhóm cần phải xem xét khả năng tham gia của các thành viên tiềm năng. Đó là
những yếu tố liên quan đến:
- Nhu cầu,


- Sức khỏe,
- Điều kiện vật chất
Đây là những yếu tố tối thiểu cần rà soát để có thể đảm bảo được sự tham gia của họ
sau này. Ngoài ra, cần xem xét đến các yếu tố khác, chẳng hạn như:
- Mục đích tham gia
Khi mục đích của họ phù hợp với mục đích tôn chỉ của nhóm đề ra thì sẽ đảm bảo cho
việc tham gia lâu dài của họ cũng như sự đóng góp tích cực sau này cho mục tiêu nhóm.
Việc đánh giá này có thể được thực hiện qua những buổi tiếp xúc, qua sự dò hỏi từ
các thành viên hoặc từ những người có liên quan khác, cũng có thể qua việc thăm dò từ
các phiếu hỏi, điều tra.
- Những cản trở khác đối với sự tham gia của nhóm
Mỗi thành viên khi tham gia vào nhóm đều có thể gặp phải những cản trở nhất định.
Ngoài việc tìm hiểu về sức khỏe, điều kiện vật chất, những cản trở khách quan cũng là

yếu tố hết sức quan trọng cần quan tâm, chẳng hạn như sự chuyển dời trong thời gian
sinh hoạt nhóm, hoặc sự được phép của người bảo hộ hoặc nuôi dưỡng. Nhân viên xã hội
cần có các lưu ý với cụ thể từng vấn đề để có thể lên kế hoạch giải quyết dự phòng ngay
từ ban đầu.
Làm tốt được điều này sẽ tránh được những khó khăn cho nhóm trong việc triển
khai các hoạt động trong tương lai.
2.3. Đánh giá khả năng các nguồn lực khác
Ngoài các nguồn lực của tổ chức cơ quan, khả năng tham gia của các thành viên, việc
đánh giá về khả năng các nguồn lực khác trong việc hỗ trợ nhóm làm việc sau này là yếu
tố hết sức cần thiết.
Với bối cảnh hiện nay, sự vào cuộc của nhiều tổ chức xã hội để hỗ trợ cho một nhóm
đối tượng hay sự giao thoa về nhiệm vụ của các tổ chức cơ quan xã hội là điều không
tránh khỏi. Do vậy, việc tìm hiểu khả năng nguồn lực từ các tổ chức này nhằm hỗ trợ cho
nhóm đối tượng là điều hoàn toàn khả thi và sẽ trợ giúp giảm các chi tiêu cho tổ chức, cơ
quan.


Việc tìm kiếm nguồn lực này chính là việc mở rộng sự hợp tác trong hoạt động hỗ trợ
nhóm đối tượng.
Để làm tốt điều này, nhân viên xã hội cần phải tìm hiểu vể các nguồn lực mà các tổ
chức hiện đang có, xem xét đối chiếu mục đích của nhóm với các chương trình dịch vụ và
chính sách của tổ chức đó. Khi mục đích thành lập nhóm phù hợp với kế hoạch chương
trình hoạt động của họ, thì việc đề xuất sự hỗ trợ về tài chính hay kỹ thuật có thể được sự
nhất trí.
Ví dụ: Nếu NVXH dự định lên kế hoạch trợ giúp cho một nhóm đối tượng trẻ em bị
nhiễm HIV và ảnh hưởng do HIV, các tổ chức mà nhân viên xã hội cần hướng tới như là
những đơn vị tiềm năng có thể hỗ trợ cho hoạt động mở rộng của nhóm sau này hoặc duy
trì lâu dài đó là tổ chức CRS, tổ chức Actionaid, Save the Children, Care, Plan…
3. Tuyển chọn thành viên
Đây là hoạt động không thể bỏ qua cho việc hình thành nhóm. Việc tuyển chọn này

cần được rà soát lại lần cuối khả năng đáp ứng của nhóm với cá nhân và của cá nhân với
nhóm.
Đó chính là khả năng tham gia nhóm về thời gian, tình trạng sức khỏe, mục đích cá
nhân. Đặc biệt, với nhóm nhiệm vụ, cần xem xét đến năng lực đóng góp để giúp nhóm
hoàn thành nhiệm vụ. Do vậy cần chú ý việc tuyển chọn thành viên đáp ứng được mục
đích nhóm.
Có nhiều hình thức tuyển chọn thành viên. Có thể thực hiện việc tuyển chọn qua
phương tiện thông tin đại chúng, qua việc chuyển thư tín hoặc qua thư giới thiệu với các
tổ chức, qua điện thoại hoặc qua làm việc trực tiếp. Việc tuyển chọn thành viên trực tiếp
được đánh giá là hiệu quả nhất vì thông qua việc gặp mặt trực tiếp, các thắc mắc và
những băn khoăn cả 2 bên đều (người tuyển chọn và thành viên tiềm năng) có thể được
giải đáp một cách nhanh chóng thông qua việc quan sát trực tiếp và phát vấn những câu
hỏi nhằm xác định thái độ, ý nghĩ hay quan điểm của họ. Và như vậy, việc cân nhắc lựa
chọn giữa các thành viên tiềm năng sẽ dễ đi đến quyết định hơn. Phương pháp này sẽ đặc
biệt hữu ích cho việc tuyển chọn thành viên cho loại nhóm nhiệm vụ.


Trong thực tiễn hiện nay, việc tuyển chọn thành viên nhóm CTXH thường thông qua
sự giới thiệu của những cá nhân trong mối quen biết với những người mà nhân viên xã
hội giao tiếp thường xuyên, hoặc cũng có thể từ các nhóm có sẵn tại cơ sở.
Khi lựa chọn phương pháp CTXH nhóm để trợ giúp nhóm đối tượng tại các cơ quan
tổ chức xã hội, việc tuyển chọn thành viên nhóm đơn giản hơn. Đó là việc tìm hiểu những
thành viên có mong muốn được tham gia nhóm, phân loại các nhu cầu của họ để có thể
xác định loại nhóm mà họ có thể hoặc nên tham gia. Chẳng hạn, khi được yêu cầu sinh
hoạt nhóm CTXH đối với những người già tại một trung tâm dưỡng lão, NVXH có thể
bắt đầu bằng việc tìm hiểu xem các cụ có mong muốn gì để cải thiện đời sống tinh thần
tính cảm, sẽ có nhiều cụ thích được tham gia vào hội thơ, có các cụ thích được tập thể
dục dưỡng sinh, lại có các cụ thích được tham gia vào nhóm lễ chùa….. với các mong
muốn của các cụ, NVXH có thể sắp xếp các cụ thành các nhóm phù hợp với mong muốn
của các cụ. Như vậy, dang sách thành viên của nhóm đã có.

Cũng có thể nhân viên xã hội không được phép tuyển chọn thành viên cho nhóm vì
các thành viên này đã được chỉ định từ phía tổ chức và nhân viên xã hội sẽ chỉ việc thừa
hành, đó là xây dựng kế hoạch trợ giúp. Trong tình huống này, NVXH phải tìm được các
nhu cầu chung của các thành viên để xây dựng kế hoạch hoạt động cho nhóm.
Việc tuyển chọn thành viên cũng cần quan tâm đến số lượng thành viên sao cho phù
hợp với loại hình nhóm và mục đích của nhóm:
- Nếu là nhóm nhiệm vụ, số lượng thành viên cần đủ để đáp ứng nhu cầu khối lượng
công việc.
- Với nhóm can thiệp, nhân viên xã hội cần lưu ý đến số lượng sao để đảm bảo hiệu
quả khi làm việc và hiệu quả chi phí khi sinh hoạt nhóm.
- Nhóm trị liệu là loại nhóm nên có số lượng thành viên ít để các thành viên có cơ hội
tương tác với nhau và với trưởng nhóm nhiều nhất.
- Với loại nhóm giáo dục, nhóm phát triển hay nhóm giải trí, quy mô nhóm có thể lớn
hơn.


Tính đồng nhất của nhóm cũng có thể là một yếu tố phải quan tâm vì liên quan đến
tâm lý nhóm hay khả năng tham gia của các thành viên trong quá trình tham gia hoạt
động nhóm, đặc biệt với nhóm trị liệu.
4. Thống nhất nhóm
Để giúp các thành viên có định hướng tốt trước khi thực hiện các hoạt động nhóm,
NVXH cần có sự thống nhất trong nhóm về: Mục đích, tiến trình, thời gian thực hiện và
các thỏa thuận khác.
- Mặc dù mục đích, thời gian hoạt động nhóm đã được thông tin tới thành viên
trong phần phỏng vấn hoặc tìm kiếm thành viên, tổ chức việc thông báo về mục đích và
tiến trình hoạt động của nhóm sẽ làm cho các thành viên rõ ràng hình dung ra tiến trình
công việc, giải quyết những băn khoăn vướng mắc của các thành viên.
- Ngoài ra, nhóm cần phải thống nhất những nội quy và quy định liên quan đến
nhóm và cách thức làm việc của nhóm, gồm:
+ Số buổi sinh hoạt;

+ Thời gian địa điểm sinh hoạt;
+ Các yêu cầu về trách nhiệm của người trưởng nhóm (việc chuẩn bị cho điều phối
buổi sinh hoat, hoặc việc tham gia vào giải quyết xung đột hoặc sự cộng tác với các nhà
trị liệu…)
+ Mục tiêu cá nhân và mục đích hỗ trợ chung của cả nhóm.
5. Đề xuất thành lập nhóm
Đề xuất nhóm là việc chính thức xin phép chính thức bằng văn bản với tổ chức, cơ
quan hoặc chính quyền địa phương để nhóm được hoạt động. Ngoài ra, đề xuất nhóm
cũng nhằm đưa ra các đề xuất hỗ trợ kinh phí ngân sách tài trợ cho các hoạt động của
nhóm từ các tổ chức cơ quan mà nó hướng tới.
Trong để xuất, cần thiết phải chỉ ra mục đích, mục tiêu, đối tượng hưởng lợi, phương
pháp thực hiện, kết quả đạt được sau khi nhóm hoàn thành nhiệm vụ. Một điểm hết sức
quan trọng là cần thuyết phục được tính cấp thiết của việc thành lập nhóm và khả năng
đảm bảo việc đạt mục tiêu của những người thực hiện kế hoạch hành động. Để bản đề


xuất được phê duyệt, việc cung cấp đầy đủ thông tin về nhóm cũng như cách viết cô đọng
mạch lạc sẽ có sức thuyết phục lớn tới cơ quan tổ chức và nhà tài trợ.
Một số nội dung chính trong bản đề xuất nhóm

1 Loại hình nhóm: Cần xác định rõ đây là loại nhóm nhiệm vụ hay nhóm can thiệp.
Nếu là nhóm nhiệm vụ, mục đích của nó là để hỗ trợ cộng đồng hay tổ chức hay
nhóm đối tượng? Nếu là nhóm can thiệp, cần chỉ ra đó là loai nhóm trị liệu hay
phát triển năng lực cho cá nhân. Hoạt động nhóm dài hạn hay ngắn hạn?

2 Lý do thành lập nhóm: Cần nêu tính cấp thiết khi thành lập nhóm, đối tượng tham
gia nhóm là ai, đặc điểm của thành viên nhóm. Qua đó, tính cấp thiết sẽ liên quan
đến tình trạng khẩn cấp cần hỗ trợ của thành viên nhóm, mức độ ảnh hưởng tiêu
cực của nhóm tới các cộng đồng nếu không có sự can thiệp và tác động tích cực
của nhóm tới cộng đồng sau khi can thiệp vào nhóm.


3 Mục đích thành lập nhóm : cần chỉ ra vấn đề/nhu cầu của thành viên khi tham gia
vào nhóm, trên cơ sở đó sẽ nêu mục đích trọng tâm của nhóm cũng như các mục
tiêu ngắn hạn

4 Cơ cấu nhóm:
- Thành viên nhóm: số lượng là bao nhiêu thì giúp nhóm hoạt động hiệu quả
nhất? Cách thức tuyển chọn thành viên như thế nào?

- Thành viên mới được chuẩn bị gì trước khi tham gia vào nhóm?
-

Dự kiến nhóm trưởng, người điều phối là ai?,

- Có cần cơ cấu các nhóm nhỏ không? Nếu có, thì cơ cấu như thế nào?
5 Khả năng nguồn lực: Trình bày về nguồn lực hiện có từ phía cá nhân, tổ chức, cơ
quan của mình. Nguồn lực từ cá nhân thành viên và khả năng hỗ trợ của gia đình
cũng như cộng đồng. chú ý cả nguồn lực chuyên môn, kinh phí và các nguồn lực
khác.

6 Cách thức triển khai tổ chức nhóm: cách thức tổ chức, điều hành, sự phối kết hợp
và các quy định khi triển khai hoạt động. Cách thức giám sát các rủi ro có thể xảy
ra, cách thức đánh giá kế hoạch, theo dõi tiến trình?


7 Những chủ đề (nội dung) gì sẽ được nhóm cố gắng khám phá trong quá trình sinh
hoạt?

8 Các khó khăn/ trở ngại có thể gặp phải và cách đối phó: chỉ ra những khó khăn trở
ngại khi triển khai hoạt động nhóm, với các khó khăn trở ngại đó, cách giải quyết

như thế nào?

9 Các đề xuất hỗ trợ: Trình bày về những đề xuất liên quan đến ngân sách, hỗ
trợ kĩ thuật từ các đối tác mà đề xuất hướng tới. Lưu ý cần tìm hiểu kĩ các nguồn lực
này trước khi đưa vào đề xuất.

10Viễn cảnh sau khi hoạt động nhóm kết thúc: Đây chính là việc trình bày về
mục đích dài hạn của việc thành lập nhóm cũng như mong muốn ảnh hưởng tích cực
của nhóm với các cá nhân khác và tới cộng đồng, yếu tố phát triển bền vững của
nhóm được nhấn mạnh để thuyết phục những nhà tài trợ, đối tác tiềm năng.
Việc viết đề xuất nhóm sẽ giúp cho nhân viên xã hội hướng tới nguồn lực từ bên
ngoài đồng thời cũng nhằm tạo hành lang pháp lý để nhân viên xã hội có thể tổ chức
các buổi sinh hoạt với nhóm. Đây chính là việc xin phép chính thức với các cơ quan,
tổ chức và các cấp chính quyền địa phương cho nhóm được hoạt động. Tuy nhiên,
trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam đang ở trong giai đoạn đầu của phát triển nghề
Công tác Xã hội, nhiều nhóm đã ra đời mà không bắt đầu bằng những đề xuất. Đó là
những nhóm xuất hiện một cách tự phát và ban đầu không đặt mong đợi sự hỗ trợ
kinh phí từ một tổ chức hay cơ quan nào khác mà bằng chính nguồn lực của các thành
viên nhóm. Để tránh được những trắc trở sau này có thể xảy ra trong quá trình triển
khai hoat động, đồng thời có được sự hỗ trợ từ bên ngoài, nhân viên xã hội luôn được
khuyến khích xây dựng đề xuất nhóm như một bước quan trọng của hoạt động công
tác xã hội nhóm của mình.


GIAI ĐOẠN 2: NHÓM BẮT ĐẦU HOẠT ĐỘNG
1. Giới thiệu các thành viên
Tuy việc tuyển chọn thành viên được diễn ra tương đối kỹ lưỡng, lâu dài, và cũng có
thể một số thành viên trong nhóm đã biết nhau, việc giới thiệu các thành viên trong nhóm
với nhau là rất cần thiết trong buổi sinh hoạt đầu tiên của nhóm. Vì thông qua giới thiệu,
các thành viên sẽ có cơ hội bộc lộ bản thân mình, có được cảm giác thuộc về nhóm và

thấy mình chính thức có tiếng nói cũng như sự hiển diện của bản thân trong nhóm. Đồng
thời, việc giới thiệu thành viên nhóm cũng giúp các thành viên và nhân viên xã hội có cái
nhìn tổng thể về nhóm viên.
Cách thức giới thiệu thành viên nhóm đa dạng phong phú và phụ thuộc vào đặc điểm
của nhóm để có các cách giới thiệu hiệu quả nhất.
- Có thể sử dụng việc chuyền bóng để giới thiệu thành viên trong các nhóm có các
thành viên có trạng thái tâm lý ổn định.
- Có thể chia nhóm thành các nhóm nhỏ thông qua việc chắp nối các hình ảnh hay câu
thơ tục ngữ ca dao. Các thành viên có chung các mảnh ghép của câu thơ hay hình ảnh sẽ
là một nhóm, và các thành viên đó sẽ chia sẻ với nhau về bản thân, sau đó sẽ cử người
trình bày trước nhóm lớn. Cách giới thiệu này sẽ hiệu quả khi trong nhóm có một số
thành viên còn quá rụt rè trình bày trước đám đông và cũng giúp các thành viên nhanh có
cảm nhận về sự gắn bó.
Cần lưu ý, nhân viên xã hội không quá lo lắng về việc lãng phí thời gian mà tỏ thái độ
hoặc hành vi không thoải mái, cắt ngang khi có một thành viên giới thiệu. Điều này khiến
các thành viên chưa tự tin rụt rè sẽ co mình và không dám chia sẻ.
2. Xây dựng mục tiêu nhóm
Dựa vào mục đích của nhóm đã được xây dựng, trong các buổi sinh hoạt đầu tiên cần
thực hiện việc xây dựng mục tiêu của nhóm.
Mục đích là cái đích cuối cùng mà nhóm hướng tới, Mục tiêu là những kết quả cần
phải đạt được trong một khoảng thời gian nhất định và phải cụ thể.
Ví dụ, nếu mục đích của nhóm tự giúp của những phụ nữ chưa có kiến thức về làm
kinh tế gia đình là: xây dựng được mô hình phụ nữ làm kinh tế gia đình bằng nghề trồng


hoa của thôn A trong thời gian 2 năm, các mục tiêu cụ thể có thể là: 90 % phụ nữ trong
nhóm biết cách trồng giống hoa mới; 90 % phụ nữ trong nhóm được đi thăm quan làng
hoa của thôn B; 80 % các thành viên nhóm có thể hướng dẫn trồng hoa cho các thành
viên mới
Việc xây dựng mục tiêu cần được thực hiện bởi chính các thành viên nhóm dưới sự

điều phối của người trưởng nhóm. Xây dựng mục tiêu cũng cần chú ý vào đánh giá các
nhu cầu cá nhân của nhóm, những yếu tố ảnh hưởng từ các thành viên cá nhân và từ môi
trường, cũng cần đánh giá về những trải nghiệm hoặc những trở ngại có thể xảy ra từ
nhiều phía.
3. Thảo luận các nội quy và nguyên tắc nhóm
Để nhóm hoạt động hiệu quả, giảm tối đa những xung đột và tổn hại về nguồn lực có
thể diễn ra trong quá trình sinh hoạt nhóm, việc thảo luận về các nội quy và các nguyên
tắc bảo mật nhóm cần được thực hiện một cách nghiêm túc ngay trong những buổi đầu
tiên.
Các nội quy hay các chuẩn mực nhóm thường liên quan đến những điều nên hay
không nên thực hiện và không được phép xảy ra trong quá trình sinh hoạt nhóm. Cũng
giống như phần trên đã trình bày, các nội quy này là các quy định về giờ giấc, sự tham
gia, trách nhiệm với nhóm và các nhiệm vụ được giao, thái độ ứng xử của các thành viên
nhóm với người điều phối và ngược lại.
Nguyên tắc bảo mật thông tin là nguyên tắc quan trọng trong công tác xã hội, đặc biệt
khi làm việc với đối tượng là những người yếu thế. Bảo mật thông tin không chỉ yêu cầu
đối với cán bộ xã hội mà cần phải được nhận thức và thực hiện bởi các thành viên nhóm.
Do vậy, việc thỏa thuận các nguyên tắc bảo mật thông tin được thực hiện bởi các thành
viên nhóm. Các thông tin cần được bảo mật trong nhóm có thể liên quan tới đời sống cá
nhân thành viên nhóm, cũng có thể là các thông tin liên quan đến kế hoạch làm việc của
nhóm.
Với những nhóm can thiệp, vấn đề bảo mật thông tin thường liên quan tới vấn đề cá
nhân. Với các nhóm nhiệm vụ, các thông tin cần được bảo mật thường liên quan đến kế
hoạch nhiệm vụ của nhóm.


Việc bảo mật thông tin cá nhân trong nhóm can thiệp sẽ giúp cho đối tượng cảm thấy
an toàn yên tâm hơn trong việc chia sẻ trao đổi thông tin và duy trì sự tham gia. việc bảo
mật thông tin trong các nhóm nhiệm vụ sẽ giúp nhóm nhiệm vụ tránh sự tổn hại về kinh
tế do mất đi nguồn lực khi để thông tin rò rỉ ra ngoài.

4. Dự đoán các trở ngại
Để nhóm bắt đầu hoạt động được thuận buồm xuôi gió, việc lường trước những khó
khăn trở ngại là hết sức cần thiết. Khó khăn trở ngại này có thể ở góc độ cá nhân thành
viên nhóm và cũng có thể ở phía môi trường hay bối cảnh nhóm hoạt động. Do vậy, để có
thể thấy được các khó khăn tiềm ẩn có thể xuất phát từ phía cá nhân thành viên nhóm,
người điều hành nhóm cần tạo được không khí cởi mở chân thành để các thành viên nói
ra những lo lắng về những trở ngại mà họ sẽ có thể gặp trong quá trình tham gia nhóm.
Đó có thể là những khó khăn từ cá nhân họ khi chưa tin tưởng mình sẽ có thể đạt được
mục tiêu đề ra, cũng có thể đó là các khó khăn bất thường mà theo họ có thể sẽ xảy ra do
các sự kiện trong bản thân và gia đình họ, chẳng hạn như dự đoán sẽ có sự thay đổi vì có
người đi xa, có người sinh con hoặc có những trường hợp bị thay đổi hoặc mất việc làm.
Những sự kiện này sẽ ảnh hưởng tới đời sống sinh hoạt của thành viên nhóm. Việc lắng
nghe và chia sẻ để hỗ trợ họ giải pháp khắc phục sẽ tăng cường hơn sự cam kết của thành
viên cũng như tính ổn định của nhóm.
Khó khăn rào cản từ góc độ môi trường bối cảnh mà nhóm đang hoạt động phải được
nhìn nhận trước tiên từ phía người điều phối nhóm và nhân viên xã hội. Nó có thể liên
quan tới sự thay đổi của các thành viên, sự cố bất thường xảy ra do các yếu tố môi trường
gây ra liên quan tới tài chính, nguồn lực khác cho các hoạt động của nhóm.
Sau khi đã nhìn nhận thấy những khó khăn trở ngại có thể xảy ra này, nhân viên xã
hội cần giúp điều phối thảo luận về cách thức đối phó với các khó khăn trở ngại đó trong
tương lai, hoặc đưa ra các giải pháp dự phòng cho tình huống xảy ra. Làm tốt điều này sẽ
giúp tiến trình nhóm được thực hiện một cách thông suốt, giảm đi những yếu tố có thể sẽ
làm nản chí theo đuổi mục đích của thành viên nhóm trong tương lai khi sự cố xảy ra nếu
không được sẵn sàng đối phó.


Trong tất cả các hoạt động được triển khai ở giai đoạn II này, yêu cầu nhân viên xã
hội hay người điều phối nhóm phải đảm bảo việc thúc đẩy yếu tố tình cảm và nhiệm vụ
của các thành viên nhóm, luôn khích lệ động cơ thực hiện mục tiêu đề ra của các thành
viên và đặc biệt phải giúp cho các thành viên luôn có cảm nhận mình là thành viên của

nhóm.
GIAI ĐOẠN 3: CAN THIỆP – THỰC HIỆN NHIỆM VỤ
Sau khi đã thành lập nhóm và hoàn tất về việc giới thiệu về thành viên nhóm, xây
dựng mục tiêu nhóm, thỏa thuận về công việc, trách nhiệm và các nguyên tắc bảo mật
cũng như các trở ngại có thể xảy ra, nhân viên xã hội bắt đầu triển khai các hoạt động can
thiệp (với các nhóm can thiệp) và thực hiện nhiệm vụ (với các nhóm nhiệm vụ).
Các hoạt động được thực hiện trong bước này được tiến hành trong nhiều buổi tùy
theo kế hoạch của nhóm nhằm hoàn thành mục tiêu nhóm đề ra. Với những nhóm hành
động vì cộng đồng, đây chính là những buổi mà thành viên nhóm sẽ triển khai tại địa
phương hoặc các hoạt động với các cơ quan đơn vị và cá nhân có liên quan. Phần trình
bày dưới đây sẽ giới thiệu chung về các hoạt động cũng như yêu cầu cần phải làm với
nhân viên xã hội khi triển khai hoạt động trợ giúp, tuy nhiên, với các loại nhóm đặc biệt,
tài liệu sẽ có những điểm nhấn mạnh để giúp làm rõ hơn các kĩ thuật.
1. Chuẩn bị các buổi trị liệu/làm việc nhóm
Trước khi triển khai các buổi trị liệu/ làm việc nhóm, nhân viên xã hội luôn phải
chuẩn bị tốt cho các hoạt động này.
- Xác định mục tiêu của buổi trị liệu/hoạt động một cách cụ thể, cần dựa trên các ghi
chép của buổi sinh hoạt trước.
- Sắp xếp hậu cần: phòng họp, không gian phù hợp, vị trí ngồi cho các thành viên đảm
bảo đạt mục đích trị liệu, tài liệu phát tay…với các hoạt động tại cơ sở, nhân viên xã hội
cần chuẩn bị phương tiện đi lại, các trang thiết bị cần thiết khác.
- Phương pháp thực hiện: Lựa chọn phương pháp triển khai buổi sinh hoạt/hoạt động đạt
hiệu quả nhất: Phù hợp với thành viên, đặt lợi ích của thành viên nhóm lên trên hết và
phát huy điểm mạnh của người điều phối;


- Phân công nhiệm vụ cho các thành viên; với nhóm nhiệm vụ, việc phân công rõ ràng cụ
thể và phù hợp với khả năng với thành viên là hết sức quan trọng vì nó quyết định trực
tiếp tới thành công của hoạt động.
- Thông báo cho mọi người về nội dung chương trình khái quát và thời cần thiết để thực

hiện để mọi người chuẩn bị tâm thế tốt.
2. Tổ chức các bước can thiệp/ thực hiện nhiệm vụ
Với nhóm nhiệm vụ, sau khi đã có sự chuẩn bị từ buổi họp trước, nhân viên xã hội
hay người điều phối nhóm tiến hành triển khai công việc.
Khi tổ chức thực hiện cần có các hoạt động giám sát hỗ trợ của người điều hành
nhóm một cách thường xuyên nhằm đảm bảo rằng các thành viên đang thực hiện tốt công
việc mình được giao phó. Đồng thời, nhân viên xã hội hay người điều phối nhóm cũng
phải quan tâm tới vấn đề tình cảm tâm lý của các thành viên để kịp thời khích lệ khi các
thành viên gặp khó khăn, để chắc chắn rằng họ sẽ vẫn tiếp tục duy trì mục tiêu cá nhân đề
ra cũng như hoàn thành mục tiêu nhóm.
Với nhóm can thiệp, việc triển khai các buổi sinh hoạt cần đảm bảo việc hướng tới
trọng tâm của can thiệp. Tuy nhiên, trọng tâm của các buổi sinh hoạt nhóm có thể có
những thay đổi khi nhận thấy có sự thay đổi trong nhu cầu các thành viên hoặc khi nhân
viên xã hội nhận ra việc đưa ra mục tiêu trong buổi sinh hoạt đó là chưa phù hợp với đối
tượng, có thể là quá cao hoặc có thể ở dưới khả năng thực tế thành viên nhóm có thể đạt
được. Chẳng hạn, khi nhận thấy mục tiêu cung cấp kiến thức về sử dụng bao cao su cho
nhóm thanh niên trong sinh hoạt nhóm “tăng cường kiến thức về sức khỏe giới tính” là
không cần thiết vì họ đã được học ở nhà trường và nắm vững, việc hướng trọng tâm buổi
sinh hoạt có thể sẽ chuyển sang nội dung khác như là dấu hiệu của những căn bệnh liên
quan đến tình dục.
Như vậy, việc triển khai các hoạt động cho nhóm đối tượng không chỉ dừng ở một
buổi mà có thể diễn ra ở nhiều buổi với mục tiêu của các buổi khác nhau. Trong quá trình
triển khai các hoạt động trị liệu này, cũng tương tự với nhóm nhiệm vụ, nhân viên xã hội ,
hay người điều hành nhóm cần quan tâm tới yếu tố tình cảm của các thành viên, thu hút


sự tham gia tối đa của các thành viên và ý thức việc tăng cường năng lực cho cá nhân
thành viên cũng như khích lệ động viên họ kịp thời để họ không lùi bước trước khó khăn.
Thông qua đó sẽ hỗ trợ thành viên thực hiện mục tiêu của cá nhân mình cũng như mục
tiêu của nhóm. Trong quá trình triển khai các hoạt động, nhân viên xã hội là phải luôn

giám sát tiến độ của nhóm.
Với nhóm nhiệm vụ, giám sát tiến độ là việc theo dõi thường xuyên diễn tiến của
các hoạt động đã được xây dựng trong kế hoạch hoạt động nhóm, với các mốc thời gian
và kết quả đầu ra tương ứng.
Với nhóm can thiệp, cụ thể hơn trong việc theo dõi diễn tiến các hoạt động đã
được xây dựng, việc giám sát này sẽ được thực hiện thường xuyên trong những buổi sinh
hoạt nhóm. Việc ghi chép theo dõi những thay đổi trong các mối tương tác, việc điều
hành của nhóm trưởng với các nội dung và phương pháp đề ra sẽ là những yếu tố cần
được giám sát. Công cụ giám sát của nhóm can thiệp còn có thể là các sơ đồ tương tác
hay những trang nhật kí của cá nhân đối tượng bên cạnh các nội dung hoạt động đã được
thực hiện và có đánh giá của thành viên nhóm.
Việc giám sát tiến độ nhóm dù ở loại nhóm nào cũng cần được công khai với các
thành viên nhóm và được làm một cách đều đặn thường xuyên. Làm tốt điều này sẽ giúp
người điều hành nhóm có những khen thưởng khích lệ thành viên kịp thời hoặc các điều
chỉnh cần thiết cho các hoạt động sau đó để có thể giúp nhóm đạt được mục tiêu của
mình.
GIAI ĐOẠN 4: KẾT THÚC
1. Lượng giá
Lượng giá là hoạt động diễn ra thường xuyên, đồng hành với giám sát và khi chuẩn bị
kết thúc sinh hoạt nhóm. Lượng giá nhằm nâng cao chất lượng hoạt động chuyên môn,
nâng cao năng lực của nhân viên xã hội và hướng tới phát triển nghề nghiệp. Thông qua
lượng giá, nhân viên xã hội sẽ xem xét đánh giá lại tính hiệu quả của các phương pháp
thực hiện, các mô hình trợ giúp, điều hành nhóm. Với các hoạt động và phương pháp
chưa hiệu quả sẽ được phân tích tìm ra ly do đích thực, trên cơ sở đó sẽ có những điều


chỉnh cho các hoạt động tiếp theo. Cũng dựa vào hiệu quả về phương pháp đã thực hiện,
nhân viên xã hội có thể điều chỉnh để đáp ứng phù hợp cho các nhóm đối tượng khác sau
đó. Thông qua lượng giá sẽ gợi mở cho việc quyết định sử dụng loại hình nhóm hay
phương pháp can thiệp nào hiệu quả nhất.

Sau đây là một số nội dung cần được lượng giá:
Thứ nhất: tính hiệu quả của hoạt động trợ giúp. Tính hiệu quả này dựa trên việc đạt mục
tiêu của các thành viên nhóm và mục đích đề ra của nhóm; Yếu tố thứ hai: sự tiến bộ của
các thành viên, của người điều hành nhóm: đã có sự thay đổi gì về năng lực, nhận thức,
các chuyển biến tích cực trong các thành viên là gì?; Yếu tố lượng giá thứ ba là về cách
thức làm việc và hỗ trợ của nhân viên xã hội. Lượng giá cho yếu tố này cần sự tế nhị từ
phía nhân viên xã hội để có thể lắng nghe được tiếng nói chân thành của các thành viên
nhóm. Vì thế, có thể sử dụng các hình thức như viết qua phiếu góp ý hoặc hình thức mà
thành viên nhóm thấy thoải mái nhất. Ngoài ra, việc tạo một không khí thoải mái, có ý
thức xây dựng khi triển khai hoạt động lượng giá cũng là điều mà nhân viên xã hội cần ý
thức được.
Ngoài cách thức lượng giá vừa kể trên, nhân viên xã hội có thể thực hiện lượng
giá qua hình thức điền vào phiếu hỏi với những câu hỏi có sẵn về đánh giá các nội dung
được kể trên, hoặc có thể sử dụng các hình ảnh nói về cảm xúc để thành viên nhóm nói
lên mức độ hài lòng của mình với những hoạt động đã được triển khai, sau đó bằng cách
khích lệ, nhân viên xã hội sẽ giúp thành viên nhóm có thể nói ra quan điểm và cách điều
chỉnh của mình với những hoạt động mà anh (chị) cho là cần cải thiện.
Lượng giá cũng có thể thực hiện một cách trực tiếp thông qua phỏng vấn những cá
nhân mà nhân viên xã hội nhận thấy sẽ chia sẻ trung thực. Tuy nhiên, với các nhóm đối
tượng và nhiệm vụ khác nhau, với các đặc điểm tâm sinh lý khác nhau việc lựa chọn
phương pháp lượng giá cần phải được lưu ý.
2. Kết thúc
2.1 Giải quyết cảm xúc và giảm sự phụ thuộc của các thành viên
Chuẩn bị cho kết thúc nhóm, các thành viên có thể có những cảm xúc khác nhau. Có
thể đó là những cảm xúc hãnh diện tự hào vì đã hoàn thành công việc và đạt được mục


tiêu. Đồng thời, cũng có những thành viên có cảm xúc tiêu cực như là buồn bã, lo lắng sợ
hãi….
Một khi nhóm tồn tại và phát triển đến giai đoạn này thì tình cảm của các thành viên

đã rất gắn bó. Sẽ có những cá nhân thấy khó khăn để vượt qua được cảm xúc sợ hãi lo
lắng và buồn bã khi phải chia tay nhóm, chia tay các thành viên mà họ có nhiều kỉ niệm
trong thời gian sinh hoạt nhóm. Giúp các thành viên vượt qua được các cảm xúc này là
điều hết sức cần thiết để đảm bảo rằng họ có thể tiếp tục duy trì được các cảm xúc tích
cực có được trong thời gian tham gia nhóm vừa qua.
Để giải quyết cảm xúc của các thành viên nhóm, nhân viên xã hội cần hỗ trợ để các
thành viên có thể chia sẻ những cảm xúc thực sự của mình trong giai đoạn kết thúc này.
Đồng thời, nhân viên xã hội cũng khích lệ họ thông qua việc nhắc lại những khó khăn
mà họ đã vượt qua. Cũng có thể, nhân viên xã hội hướng dẫn thành viên nhóm sử dụng
các kỹ thuật như lưu giữ kỉ vật của bạn thân, lưu bút, hoặc các hộp tình cảm…làm như
vậy sẽ giúp đối tượng có được những chia sẻ gián tiếp trong những ngày đầu của sự chia
tay.
Với nhóm nhiệm vụ, sự sợ hãi của các thành viên khi phải chia tay có thể bắt nguồn
từ việc lo lắng không biết có thực hiện được công việc sắp tới khi không có thành viên
nhóm bên cạnh không. Trong trường hợp này, việc tăng cường nâng cao năng lực giải
quyết vấn đề cần được nhân viên xã hội quan tâm.
2.2. Duy trì và phát huy những nỗ lực thay đổi
Giai đoạn kết thúc là lúc mà các thành viên chuẩn bị phải chia tay để hòa nhập với
cộng đồng hoặc để thực hiện nhiệm vụ tiếp theo. Tuy nhiên, không phải thành viên nào
cũng có cảm giác và khả năng tiếp tục phát huy những gì họ đã làm được khi tham gia
nhóm. Đặc biệt khi môi trường bên ngoài lại có thể là thách thức lớn đối với thành viên
của nhóm can thiệp. Do vậy, việc hỗ trợ các thành viên nhóm trị liệu làm quen với các
tình huống khó khăn có thể xảy ra khi họ tái hòa nhập cộng đồng là hết sức cần thiết.
2.3. Lập kế hoạch hành động cho tương lai
Dù là thành viên nhóm nhiệm vụ hay nhóm can thiệp cũng cần được hỗ trợ lập kế
hoạch hành động cho tương lai.


Việc lập kế hoạch này sẽ giúp cho thành viên có được cơ hội tiếp tục những nỗ lực
của mình để có thể thực hiện mục tiêu của mình trong tương lai.

Nội dung của kế hoạch là chỉ ra được các công việc cụ thể sẽ làm, thời gian thực
hiện cũng như những khó khăn trở ngại có thể xảy ra. Ngoài việc hỗ trợ xây dựng kế
hoạch, nhân viên xã hội cần kết nối, chuyển giao những nguồn lực cho thành viên nhóm
để họ có thể tự triển khai kế hoạch của bản thân.
*những yếu tố để trở thành NV CTXH trường học:
- thừa nhận giá trị của tính riêng biệt và tính đa dạng của công tác xã hội trường học nh ư m ột lĩnh
vực thực hành chuyên biệt và vừa khẳng định giá trị của công tác xã hội trường học trong vi ệc nâng
cao năng lực học sinh để đạt được những lợi ích cao nhất từ việc học tập.
- cam kết với những giá trị và đạo đức của nghề công tác xã hội và sẽ sử dụng nguyên tắc đạo đức
của ngành làm tiêu chuẩn hướng dẫn cho việc ra quyết định liên quan đến đạo đức.
- phải sắp xếp thời gian, công sức, và khối lượng công việc để hoàn thành trách nhi ệm và công vi ệc
được giao theo vị trí của mình, bằng cách ưu tiên thích đáng đối với nhiệm vụ này trong s ố rất nhiều
nhiệm vụ của họ
- tham vấn cho các cán bộ của tổ chức giáo dục địa phương, các thành viên trong h ội đồng nhà
trường, và đại diện cộng đồng để tăng cường hiểu biết và sử dung hiệu quả các dịch vụ công tác xã
hội trường học.
- đảm bảo rằng học sinh và gia đình của họ được cung cấp những dịch vụ trong bối cảnh đa v ăn
hóa và năng lực để tăng cường sự hỗ trợ của gia đình cho quá trình học tập của h ọc sinh.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×