Công tác xã hội với người nghiện ma túy
I.
Tổng quan về tình hình nghiện ma túy
1.
Tình hình nghiện ma túy trên thế giới
Việc lạm dụng chất gây nghiện trong đó có ma túy đã và đang làm gia tăng
mối lo ngại về sức khỏe và xã hội cho nhiều quốc gia trên thế giới. Ma túy và lạm
dụng chất gây nghiện này được xem là vấn đề mang tính toàn cầu gây ra nhiều tổn
thất về nguồn lực xã hội như kinh tế, con người, rối loạn an ninh trật tự an toàn xã
hội và làm giảm giá trị và chất lượng cuộc sống. Theo Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO) trong Báo cáo hàng năm về ma túy, năm 1985 trên thế giới có 48 triệu
người nghiện ma túy, đến năm 1995 tăng lên 60 triệu người và đến cuối những
năm của thập kỷ 90 là 180 triệu người, đến năm 2004/2005 có đến 200 triệu người
và đến năm 2009/2010 ước tính từ khoảng 141 triệu đến 272 triệu chiếm 6,1 %
tổng dân số trong độ tuổi từ 15 đến 60. Trong đó có từ 125 đến 203 triệu người hút
cần sa, 14,2 đến 20,5 triệu người nghiện côcain, từ 14 đến 57 triệu người sử dụng
amphetamine, từ 12 đến 14 triệu người nghiện hêroin. Bảng dưới đây cho thấy số
lượng người sử dụng các chất ma túy độ tuổi từ 15 đến 64 phân chia theo khu vực
năm 2009 của Tổ chức Y tế Thế giới. Những số liệu cho thấy số người nghiện ở
khu vực Châu Á nhiều nhất, sau đó đến Châu Mỹ, Châu Phi, Châu Âu và Châu
Đại dương.
Nghiện ma túy gây tổn hại rất nhiều đến đời sống của con người. Thứ nhất là
ảnh hưởng to lớn đến sức khỏe. Theo WHO, năm 2009 Tỷ lệ người nhiễm HIV
trong số những người nghiện là 17,9% tương đương với 2.8 triệu người lạm dụng
ma túy dương tính với HIV. Bên cạnh đó việc sử dụng chung bơm kim tiêm của
người nghiện cũng làm gia tăng tỷ lệ mắc viêm gan C với tỷ lệ khoảng 50% tương
tương với 8 triệu người. Số người chết liên quan đến sử dụng ma túy trái phép ước
tính lên đến từ 104.000 đến 263.000 người mỗi năm trong đó có khoảng một nửa
chết do sử dụng ma túy quá liều. Bên cạnh đó ma túy còn gây mất trật tự xã hội
với tệ nạn buôn bán ma túy của các băng đảng tội phạm. Sử dụng ma túy cũng gây
tổn thất lớn về kinh tế. Đơn cử như ở Anh năm 2010 có có hơn 13 nghìn người
nghiện ma túy, đa phần là nghiện heroin, tiêu phí khoảng 15 tỷ bảng Anh/năm.
Hơn 50% vụ phạm tội ở Anh có liên quan đến ma túy. Chưa kể đến việc những
thành viên khác trong gia đình, cộng đồng và xã hội cũng chịu hậu quả của nghiện
ma túy làm cho chất lượng cuộc sống nói chung bị suy giảm. Tại diễn đàn Liên
Hợp quốc, ngài Boutros Gali - nguyên Tổng Thư ký Liên Hợp quốc đã đánh giá:
"Trong những năm gần đây, tình trạng nghiện hút ma tuý đã trở thành hiểm hoạ
của toàn nhân loại. Không một quốc gia, dân tộc nào thoát ra khỏi ngoài vòng
xoáy khủng khiếp của nó để tránh khỏi những hậu quả do nghiện hút và buôn lậu
ma tuý gây ra. Ma tuý đang làm gia tăng tội phạm, bạo lực, tham nhũng, vắt cạn
kiệt nhân lực, tài chính, huỷ diệt những tiềm năng quí báu khác mà lẽ ra phải được
huy động cho việc phát triển kinh tế - xã hội, đem lại ấm no, hạnh phúc cho mọi
người. Ma tuý đang làm suy thoái nhân cách, phẩm giá, tàn phá cuộc sống yên vui
gia đình, gây xói mòn đạo lý, kinh tế, xã hội... Nghiêm trọng hơn, ma tuý còn là
tác nhân chủ yếu thúc đẩy căn bệnh thế kỷ HIV/DS...''
2.
Tình hình sử dụng ma túy tại Việt nam
Tại Việt Nam, tại Hội nghị Tổng kết 10 năm công tác phòng chống Aids và tệ
nạn ma túy, mại dâm vào tháng 1 năm 2011, đánh giá trong 10 năm trở lại đây,
tình hình sử dụng chất ma túy ở trong nước vẫn diễn biến hết sức phức tạp, số
người nghiện ma túy tăng mạnh từ năm 2000 đến 2007 (khoảng 178.305 người),
từ năm 2007 đến nay, số người nghiện ma túy có xu hướng giảm (khoảng 146.731
người). Đến năm 2010 tại 63 tỉnh, thành đã có 146.731 người nghiện ma tuý có hồ
sơ quản lý, giảm 26.872 người (15,47%) so với năm 2008. Trong đó người nghiện
ma tuý là cán bộ, công nhân viên chức là 1.386 người; 2.058 người là học sinh,
sinh viên; người nghiện là nam giới chiếm 96,17% nữ giới là 3,83%.
Đến cuối tháng 6/2011, cả nước có 149.900 người nghiện ma túy. So với
cuối năm 1994, số người nghiện ma túy đã tăng khoảng 2,7 lần với mức tăng xấp
xỉ 6.000 người nghiện mỗi năm. Mức độ lan rộng của lạm dụng may túy phủ khắp
các tỉnh thành trong cả nước. Người nghiện ma túy đã có ở 63/63 tỉnh, thành phố,
trong đó có 52 tỉnh, thành có người nghiện tăng, khoảng 90% quận, huyện, thị xã
và gần 60% xã, phường, thị trấn trên cả nước. Độ tuổi của người nghiện ngày càng
"trẻ hóa": Năm 1995 tỷ lệ người nghiện ma túy dưới 30 tuổi chiếm khoảng 42%,
đến năm 2001 là 57,7%, năm 2009 là 68,3% và cuối năm 2010 đã gần 70%. Người
nghiện là phụ nữ tăng từ 2% năm 2005 lên đến 5% vào thời điểm hiện nay. Đa số
người nghiện ma túy có trình độ văn hóa thấp, khoảng 10% không biết chữ, 59%
có trình độ văn hóa từ tiểu học tới trung học cơ sở, Có khoảng 2/3 số người nghiện
chưa từng được đào tạo nghề; gần 20% đã được học nghề nhưng không được cấp
bằng, chứng chỉ; khoảng 12% được đào tạo nghề một cách chính quy, được cấp
bằng, chứng chỉ tốt nghiệp. Đa số người nghiện ma túy không có nghề nghiệp ổn
định, sống chủ yếu từ nguồn hỗ trợ của gia đình, thu nhập hợp pháp chỉ bằng 1/3
số
tiền
chi
cho
ma
túy.
Loại ma túy được sử dụng và hình thức sử dụng ma túy cũng có nhiều thay đổi
phức tạp. Thay cho thuốc phiện trong hơn 10 năm trước đây, heroin hiện là loại ma
túy được sử dụng chủ yếu ở Việt Nam, có tới 95% người nghiện thường xuyên sử
dụng heroin trước khi tham gia cai nghiện. Cách thức sử dụng ma túy cũng có
nhiều thay đổi. Nếu như năm 1995 chỉ có chưa đến 8% số người nghiện tiêm chích
ma túy và hơn 88% chủ yếu hút, hít thì tới cuối năm 2009, số người chích ma túy
chiếm hơn 75% tổng số người nghiện ma túy của cả nước. Người nghiện chích ma
túy cũng là nhóm đối tượng chiếm tỷ lệ cao nhất trong số những người nhiễm HIV
ở Việt Nam, chiếm 41,1%. Bên cạnh đó, xấp xỉ 50% số người nghiện được khảo
sát năm 2009 cho biết họ đã gặp những vấn đề về sức khỏe tâm thần như lo lắng,
trầm cảm, mất ngủ, ảo giác, căng thẳng thần kinh trong 12 tháng trước khi tham
gia cai nghiện, trong đó 11,4% thường xuyên hoặc luôn luôn gặp những vấn đề
như vậy.
Số lượng các vụ vi phạm pháp luật về buôn bán ma túy trong 10 năm qua mà
các lực lượng chức năng đã phát hiện và triệt phá là hơn 122 nghìn vụ án với gần
200 nghìn đối tượng phạm tội về ma túy, thu giữ gần 1,9 tấn heroin, hơn 2,5 tấn
thuốc phiện, 800 nghìn viên ma túy tổng hợp…Việc thực hiện các chủ trương, giải
pháp về phòng chống ma tuý đã có những kết quả cao, đã bắt giữ 14.237
vụ/21.086 đối tượng phạm tội về ma tuý; sổ lượng ma tuý thu giữ là heroin tăng
27%, ma tuý tổng hợp tăng 11 lần. Các hoạt động phòng chống ma túy đã và đang
được Chính phủ và các cơ quan đoàn thể đẩy mạnh. Cụ thể công tác tuyên truyền,
giáo dục, phòng chóng ma tuý, tổ chức cai nghiên và quản lý nghiện sau cai cũng
đạt được nhiều kết cao (Theo Ủy ban quốc gia về phòng chống AIDS và phòng
chống tệ nạn ma túy, mại dâm (UBQG), 2011). Tháng 6 năm 2011 được chọn là
tháng hành động phòng chống ma túy trên cả nước. Trong 6 tháng năm 2011, cả
nước đã thực hiện xây dựng mới 695 xã, phường lành mạnh không có tệ nạn mai
dâm, nghiện ma túy (51/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; và đạt gần 70%
kế hoạch năm 2011 đã đăng ký). Xây dựng mới 124 Đội hoạt động xã hội tình
nguyện cấp xã về phòng chống mại dâm, cai nghiện và quản lý sau cai, đạt
41,34% kế hoạch năm 2011.
3.
-
Khái niệm ma tuý và một số khái niệm có liên quan
Khái niệm ma tuý
Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về ma tuý. Mỗi quốc gia, mỗi tổ
chức quốc tế có liên quan đều đưa ra khái niệm về ma tuý của mình. Theo tổ chức
Y tế thế giới (WHO): ma tuý là thực thể hoá học hoặc thực thể hỗn hợp; khác với
tất cả những cái được đòi hỏi để duy trì tình trạng bình thường của cơ thể người,
việc sử dụng những chất đó sẽ làm thay đổi chức năng sinh học của con người.
Chương trình kiểm soát ma tuý Quốc tế Liên hợp quốc (UNDCP): ma tuý là
chất có nguồn gốc tự nhiên hay tổng hợp khi thâm nhập vào cơ thể con người, sẽ
gây tác dụng làm thay đổi trạng thái, ý thức, trí tuệ, tâm trạng của người đó. Nếu
dùng lặp lại nhiều lần sẽ làm cho người đó bị lệ thuộc vào nó, lúc đó gây tổn
thương và nguy hại cho cá nhân và cộng đồng. Ma tuý theo gốc Hán Việt có nghĩa
là “làm mê mẩn” hoặc “say tuý luý”, trước đây để chỉ các chất có nguồn gốc từ
cây thuốc phiện, có tác dụng gây ngủ và làm giảm đau, ngày nay, dùng để chỉ tất
cả các chất từ nguồn gốc tự nhiên hay tổng hợp có khả năng gây nghiện. Theo từ
điển tiếng Việt (từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng Trung tâm Từ điển học 1996,
trang 583) thì Ma tuý là tên gọi chung các chất có tác dụng gây trạng thái ngây
ngất, đờ đẫn, dùng quen thành nghiện.
Bộ luật Hình sự được quốc hội thông qua ngày 21-12-1999, đã quy định các
tội phạm về ma tuý. Theo đó, ma tuý bao gồm nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa, cao
côca, lá hoa, quả cây cần sa, lá cô ca, quả thuốc phiện khô, quả thuốc phiện tươi,
hêrôin, côcain, các chất ma tuý khác ở thể lỏng, các chất ma tuý khác ở thể rắn.
Luật Phòng, chống ma tuý được Quốc hội thông qua ngày 9/12/2000 quy
định (điều 2) Chất ma tuý là các chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định
trong các danh mục do Chính phủ ban hành.
Như vậy, chất ma tuý được xác định và có tên gọi riêng trong khoa học.
Danh mục các chất ma tuý, tiền chất và các chất hoá học dùng để điều chế các chất
ma tuý (bao gồm danh mục quy định trong Công ước 1961, 1971, 1988 của Liên
Hợp quốc về kiểm soát ma tuý) gồm 225 chất ma tuý và 22 tiền chất. Để xác định
có phải là chất ma tuý hay không, hoặc là chất ma tuý gì thì phải trưng cầu giám
định.
Từ quy định của Liên Hợp quốc và pháp luật Việt Nam chúng ta có thể hiểu:
Ma tuý là các chất có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp, khi được đưa vào cơ thể
con người, nó có tác dụng làm thay đổi trạng thái ý thức và sinh lý của người đó.
Nếu lạm dụng ma tuý, con người sẽ lệ thuộc vào nó, khi đó gây tổn thương và
nguy hại cho người sử dụng và cộng đồng
-
Một số khái niệm có liên quan
+ Chất gây nghiện: là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh đễ gây tình trạng
nghiện đối với người sử dụng.
+ Người nghiện ma túy:là người sử dụng chất ma túy, thuốc gây nghiện,
thuốc hướng thần và lệ thuộc vào chất này ( Luật phòng, chống ma túy 23/2000/
QH 10)
-
Khái niệm chất gây nghiện: Bất kỳ một chất hóa học nào khi đưa vào cơ thể
làm biến đổi chức năng thực thể và tâm lý (Theo: Tổ chức y tế thế giới
WHO)
Phân loại ma tuý
Hiện nay có nhiều cách phân loại ma tuý nhưng tất cả các cách phân loại chỉ
mang tính chất tương đối.
-
Phân loại theo nguồn gốc
+ Ma tuý có nguồn gốc tự nhiên (thảo mộc): Thuốc phiện và các chất khác
được điều chế từ thuốc phiện như herroin, Dolargan, Morphin; cây bồ đà; cô ca;
cây lá khát; cây cà độc dược; cây dầu gai; một số loại nấm, xương rồng…
+ Các loại tân được gây nghiện
Dolargan, Promedol, Pethidie, Lemoran, Pentanyl…
+ Ma tuý có nguồn gốc tổng hợp
Methadone
-
Phân loại theo tác động dược lý
+ Chất kích thích bao gồm nicotine (có trong thuốc lá), caffeine (có trong cà
phê và chè xanh), amphetamines và cocaine: có tác dụng làm gia tăng các hoạt
động của hệ TKTƯ.
+ Các chất an thần bao gồm ethanol (có trong các loại đồ uống có cồn),
morphine, heroin, và diazepam: làm chậm hoạt động của hệ TKTƯ
+ Các chất ảo giác bao gồm cần sa (cannabis) và LSD (lysergic acid
diethylamide) có thể gây ra nhiều thay đổi về giác quan (nhìn, nghe, ngửi) và dẫn
tới thay đổi tâm trạng và suy nghĩ của người sử dụng
-
Phân loại theo pháp luật
+ Loại ma tuý cấm dùng: theo nghị định của Chính phủ ban hành danh mục
các chất ma tuý và tiền chất, ví dụ: một số loại ma tuý thông dụng như: thuốc
phiện và các chế phẩm từ thuốc phiện; coocain, cần sa; LSD; ATS…
+ Các loại thuốc có chất ma tuý hoặc có tính chất gây nghiện như ma tuý
nhưng dùng để chữa bệnh phải được cơ sở y tế khám, bác sỹ cho đơn dùng như:
Thuốc giảm đâu( morphin, dorlagan); thuốc giảm lo âu( sedusen); methadol; các
loại chất độc theo quy định của Bộ y tế; một số loại ma tuý bất hợp pháp có ở Việt
Nam; hoa, quả nhựa cây thuốc phiện; cần sa; cocain; Amphetamin;
Methamphetamin; ATS…
Khái niệm nghiện ma tuý
Một số người cho rằng: nghiện ma tuý cũng như nghiện thuốc lá, nghiện
rượu là do thói quen. Về mặt sinh học cho rằng, nghiện ma tuý là một trạng thái
nhiễm độc với cơ thể con người do người đó sử dụng một chất tự nhiên hay tổng
hợp, gọi là chất ma tuý.
Theo quan điểm phòng chống tệ nạn xã hội, nghiện ma tuý là một tệ nạn xã
hội làm tổn hại đến sức khoẻ, nhân cách, ảnh hưởng xấu đến đời sống và trật tự an
toàn xã hội.
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO): nghiện ma tuý là tình trạng lệ thuộc về
mặt tâm thần, thể chất hoặc cả hai. Có nghĩa là, khi một người dùng lặp lại nhiều
lần hoặc kéo dài một hay nhiều thứ thuốc sẽ bị lệ thuộc vào nó, tạo sự thèm muốn
không cưỡng lại được, nếu không đáp ứng kịp thời sẽ bị vật vã, đau đớn.
Theo tổ chức DAYTOP quốc tế (tổ chức áp dụng phương pháp cai nghiện
phục hồi theo nguyên lý cộng đồng trị liệu): nghiện ma tuý là trạng thái rối loạn
toàn bộ cơ thể người nghiện, bao gồm sự rối loạn về sinh lý, tâm lý- nhận thức và
rối loạn hành vi.
Theo tổ chức sức khoẻ gia đình quốc tế (FHI): nghiện ma tuý là một rối loạn
mãn tính, tái diễn, được biểu hiện bằng hành vi bắt buộc phải tìm kiếm và sử dụng
ma túy bất chấp những hậu quả bất lợi của việc sử dụng.
II.
Đặc điểm tâm lý người nghiện ma túy
1.
Đặc điểm sinh, tâm lý và xã hội của nhóm đối tượng
Nghiện ma túy thường kèm theo các rối loạn tâm thần đặc biệt là các rối loạn
nhân cách, do đó, để kiểm soát và điều trị nghiện ma túy cần phải có cách can
thiệp điều trị kết hợp. Kết quả nghiên cứu Những người nghiện heroine thường có
các rối loạn tâm thần đi kèm, điển hình là rối loạn nhân cách chống đối xã hội và
trầm cảm. Các đặc điểm nhân cách thường thấy nhất ở những người nghiện
heroine là nhân cách chống đối xã hội (25%), trầm cảm (20%), hưng cảm nhẹ
(13,75%), nghi bệnh (10%), nhân cách phân ly (10%), lo âu (7,5%) và nhân cách
tâm thần phân liệt (6,25%). Các đặc điểm chống đối xã hội thường gặp ở nhóm
những người nghiện dưới 30 tuổi (80%), trong khi các đặc điểm trầm cảm thường
gặp ở nhóm trên 30 tuổi (68,75%). Trong số những người nghiện độc thân, nhân
cách chống đối xã hội chiếm 60%, những người nghiện đã kết hôn hoặc ly hôn/ly
thân thường có trầm cảm, lần lượt là 37,5% và 50%.
Dấu hiệu chung
- Không thích giao tiếp
- Không để ý đến bề ngoài: quần, áo...
- Quan trọng hóa qui chế xã hội.
- Thay đổi bạn.
- Thay đổi nhiều về cảm xúc (trầm nhược, hung hãn..)
- Mất hứng thú đối với thể thao.
- Thay đổi tính tình.
- Cười vô cớ.
- Hành vi dễ thương, nói dối.
- Mùi thơm khác thường, dấu vết trên thân thể, quần áo...
Những khó khăn mà người nghiện ma tuý đang phải đối mặt
- Người nghiện ma tuý bị xã hội kỳ thị, bị phân biệt đối xử, không được
cộng đồng chấp nhận
- Người nghiện ma tuý thường bị coi là tội phạm, là đồ bỏ đi và là mục tiêu
để xã hội trút bỏ sự giận dữ
- Cộng đồng luôn cho rằng nghiện ma tuý là vô phương cứu chữa, những
người nghiện ma tuý là yếu kém về đạo đức; những người sử dụng ma tuý là
những người nghiện ma tuý; nghiện ma tuý là tội phạm….
-
Bản thân người nghiện ma tuý luôn tự kỳ thị, lo lắng cho tương lai
-
Họ lo sợ bị người khác nói về việc sử dụng ma tuý
-
Họ không có cơ hội nhiều trong việc tiếp cận các dịch vụ trợ giúp
-
Những người nghiện có H thường rất khó khăn được chăm sóc khi ốm
đau
III.
Chính sách, luật pháp của Việt Nam với người nghiện ma túy
Các văn bản của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác
phòng chống tệ nạn xã hội trong các năm qua:
- Chỉ thị số 33/CT-TW ngày 1/4/1994 về lãnh đạo phòng chống các tệ nạn xã
hội
Chỉ thị số 64-CT/TW ngày 25/12/1995 về tăng cường lãnh đạo, quản lý, lập lại trật
tự, kỷ cương trong các hoạt động văn hoá và dịch vụ văn hoá, đẩy mạnh bài trừ
một số tệ nạn xã hội nghiêm trọng.
- Chỉ thị số 06/CT-TW ngày 30/11/1996 về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo
công tác phòng chống và khảo sát ma tuý.
- Các Nghị quyết Trung ương 5; Trung ương 6 (lần 2) quy định 55/QĐ-TW
về 19 điều cán bộ, đảng viên không được làm, trong đó có nhiều nội dung liên
quan đến phòng chống tệ nạn xã hội, đó là thể hiện sự lãnh đạo kiên quyết, thường
xuyên của Đảng, góp phần xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nâng cao phẩm chất, uy tín của tổ chức
Đảng.
Qui định của các văn bản pháp qui nhà nước:
- Hiến pháp 1992, điều 61 “Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán,
tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện và các chất ma tuý khác. Nhà nước quy
định chế độ bắt buộc cai nghiện và chữa bệnh xã hội nguy hiểm”.
- Luật Bảo vệ sức khoẻ nhân dân cũng qui định chế độ bắt buộc chữa bệnh
đối với người nghiện ma tuý, điều 29 “Các cơ sở y tế phải tiến hành các biện pháp
bắt buộc chữa bệnh đối với người mắc bệnh tâm thần thể nặng, bệnh lao, phong
đang thời kỳ lây truyền, bệnh lây nhiễm qua đường tình dục, bệnh nghiện ma tuý,
bệnh SIDA và một số bệnh truyền nhiễm khác có thể gây nguy hại cho xã hội.
- Nghị quyết 06/CP ra ngày 29/1/1993 của Chính phủ về “Tăng cường chỉ
đạo công tác phòng chống và kiểm soát ma tuý” đề ra các nhiệm vụ đấu tranh
phòng chống tệ nạn ma tuý là:
- Cần phải đấu tranh kiên quyết chống các tệ nạn này bằng các biện pháp
tuyên truyền, vận động, giáo dục, kinh tế, xử lý hành chính và hình sự.
- Đối với người nghiện, tổ chức cai nghiện thuốc phiện và các chất ma tuý,
coi là biện pháp bắt buộc, như đã ghi tại Điều 29 Luật bảo vệ sức khoẻ nhân dân.
Tuỳ theo tình hình thực tế từng nơi và từng loại đối tượng mà áp dụng các biện
pháp cai nghiện tại các trung tâm y tế của nhà nước, tại các cơ sở y tế tư nhân hoặc
cai nghiện tại nhà, đồng thời với dạy nghề, tạo việc làm và giải quyết các vấn đề
xã hội có liên quan.
- Bộ luật Hình sự hiện hành (được Quốc hội khoá X thông qua ngày
21/12/1999) có dành một chương XVIII “Các tội phạm về ma tuý”. Trong đó có 4
điều (197, 198, 199, 200) về các tội sử dụng trái phép chất ma tuý, tổ chức, chứa
chấp và cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma tuý. Khung hình
phạt các tội này thấp nhất là 2 năm, cao nhất có thể tử hình. Riêng điều 199 qui
định tội sử dụng trái phép chất ma tuý trong trường hợp người sử dụng trái phép
chất ma tuý đã được giáo dục nhiều lần và đã bị xử lý hành chính bằng biện pháp
đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc mà còn tái phạm, tiếp tục sử dụng trái phép chấ
ma tuý. Khung hình phạt tội này từ 3 tháng tới 5 năm
- Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (ngày 2/7/2002) đã qui định các biện
pháp xử lý hành chính đối với người nghiện ma tuý như giáo dục tại xã, phường,
thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng (người từ 12 tuổi tới dưới 18 tuổi); đưa vào cơ
sở chữa bệnh
- Các Nghị định 53/CP (ngày 28/6/1994) , 87/CP (12/12/1995) và 88/CP
(14/12/1995), 49/CP (15/8/1996), 19/CP và 20/CP (4/1996), 34/NĐCP
(28/3/2002), 56/NĐCP (15/5/2002) đều có những qui định cụ thể về xử phạt hành
chính đối với người nghiện ma tuý.
- Luật Phòng, chống ma túy là đạo luật mang số 23/2000/QH10 do được
Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 8 thông
qua ngày 09 tháng 12 năm 2000 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 6 năm
2001 với nội dung quy định về phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh chống tệ nạn ma
tuý, kiểm soát các hoạt động hợp pháp liên quan đến ma tuý, trách nhiệm của cá
nhân, gia đình, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống ma tuý. Luật đã được sửa đổi
vào năm 2008.
Các văn bản quy định cai nghiện tại gia đình và cộng đồng.
- Nghị định số 56/2002/NĐ-CP, ngày 15/05/2002 của Chính phủ về tổ chức
cai nghiện tại gia đình và cộng đồng (GĐ&CĐ): cho người nghiện ma tuý đăng ký
cai nghiện tại GĐ&CĐ, không thuộc đối tượng đưa vào CSCB bắt buộc hoặc đang
giáo dục tại xã phường (Nghị định 163/2003/NĐ-CP ngày 19/12/2003 quy định
chi tiết biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn); trường giáo dưỡng (Nghị định
142/2003/ NĐ-CP ngày 24/11/2003 của Chính phủ quy định áp dụng biện pháp
xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng); CSGD (Nghị định 76/2003/NĐ-CP,
ngày 27/06/2003 quy định và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào
cơ sở giáo dục), hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Thông tư liên tịch số 01/2003/TTLT/BLĐTBXH-BYT-BCA, ngày
24/01/2003 hướng dẫn một số điều Nghị định 56. Trong đó thành lập tổ công tác
giúp Chủ tịch UBND xã, phường tổ chức tiếp nhận cai nghiện ma tuý cho người
nghiện tại gia đình và cộng đồng, theo một quy trình biểu mẫu thống nhất.
Văn bản quy định các cơ sở khác về cai nghiện ma tuý:
- Nghị định số 147/2003/NĐ-CP ngày 02/12/2003 của Chính phủ quy định
về điều kiện, thủ tục cấp giấy phép và quản lý hoạt động của các cơ sở cai nghiện
ma tuý tự nguyện để cai nghiện cho người nghiện ma tuý tự nguyện. Quy định các
điều kiện được cấp giấy phép hoạt động cai nghiện ma túy; thẩm quyền cấp giấy
phép là Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; Quyền, trách nhiệm của cơ sở cai
nghiện và người cai nghiện được quy định rõ và trách nhiệm của các cơ quan quản
lý nhà nước.
- Các văn bản quy định cai nghiện ma tuý tại các Cơ sở cai nghiện bắt buộc.
- Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, thông qua ngày 02/07/2002, có hiệu
lực ngày 01/10/2002, quy định: hình thức, biện pháp, thẩm quyền, thủ tục áp dụng
các biện pháp xử lý hành chính bao gồm các biện pháp:
- Giáo dục tại xã, phường, thị trấn (UBND xã, phường, thị trấn).
- Đưa vào trường giáo dưỡng (Công an).
- Đưa vào trường giáo dục (Công an).
- Đưa vào CSCB (LĐ-TB&XH, thuộc UBND tỉnh, thành phố).
- Quản chế hành chính (UBND xã, phường, thị trấn).
- Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào CSCB: Người nghiện ma tuý từ 1
năm đến 2 năm (24 tháng).
- Nghị định 20/CP (13/04/1996) ban hành quy chế về CSCB quy định: Thủ
tục, chế độ đưa người vào CSCB, tổ chức CSCB và trách nhiệm của các cơ quan
Nhà nước; Ngành LĐ-TB&XH ở địa phương quản lý mạng lưới cơ sở này (Chuẩn
bị có văn bản thay thế).
Lĩnh vực cai nghiện, phục hồi:
- Thông tư 30/1999/TTLT/BLĐTBXH-BYT ngày 25/12/1999 hướng dẫn
quản lý các hoạt động y tế ở các Cơ sở chữa bệnh thuộc ngành LĐTBXH.
- Thông tư 31/1999/TTLT/BLĐTBXH-BYT ngày 20/12/1999 hướng dẫn quy
trình cai nghiện, phục hồi sức khoẻ, nhân cách cho người nghiện.
Lĩnh vực tài chính:
- Nghị định số 10/2002/NĐ-CP (16/01/2002) về chế độ tài chính áp dụng cho
các đơn vị sự nghiệp có thu và Thông tư 25/2002/TT-BTC (21/03/2002) của
Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị định số 10/2002/NĐ-CP.
- Thông tư số 45/2002/TTLT-BTC-LĐTBXH (16/05/2002) hướng dẫn quản
lý tài chính đối với các CSCB.
Lĩnh vực chế độ, chính sách:
- Quyết định số 25/2002/QĐ-TTg (01/02/2002) về một số chế độ, chính sách
đối với cán bộ làm việc tại các cơ sở chữa bệnh.
- Thông tư liên tịch số 12/2002/TTLT-BLĐTBXH-BTC (12/07/2002) hướng
dẫn chế độ, chính sách đối với cán bộ làm việc tại CSCB.
IV.
Các hoạt động dịch vụ trợ giúp người nghiện ma tuý
Hiện nay tại Việt Nam đã có những hoạt động hỗ trợ người nghiện ma túy
thông qua nhiều hoạt động và mô hình giúp đỡ khác nhau. Hoạt động đã và đang
hỗ trợ, giải quyết vấn đề cho người nghiện ma tuý là:
Thiết lập và tổ chức thực hiện các chương trình kiểm soát, phòng ngừa và
chữa trị/ giảm tác hại.
Đối với người nghiện ma túy
- Hỗ trợ tổ chức và triển khai chương trình cai nghiện tại gia đình, tại cộng
đồng(ngoại trú).
- Đưa người nghiện đến các trung tâm cai nghiện cho họ điều trị cắt cơn,
tham gia các chương trình giáo dục, dạy nghề ở trung tâm.
- Cung cấp dịch vụ điều trị ma tuý bằng thuốc thay thế, các chương trình
giảm tác hại
- Cung cấp các dịch vụ tham vấn tâm lý xã hội cho đối tượng để họ có
quyết tâm cai, vượt qua những rối loạn về tâm lý, thần kinh và chỉnh sửa hành vi
ứng xử trước, trong và sau quá trình cai nghiện.
-
Tổ chức các lớp học kỹ năng giúp đối tượng có thể kiểm soát được căng
thẳng thần kinh (stress), kiểm soát sự giận giữ nhằm tránh gây ra những tổn
thương cho người thân và gia đình.
- Tìm kiếm và kết nối đối tượng với các nguồn lực giành cho đối tượng ví
dụ như chương trình học nghề miễn phí.
- Hỗ trợ chương trình tái hòa nhập cộng đồng cho đối tượng như hỗ trợ tìm
kiếm việc làm, hay vay vốn tập trung sản xuất tăng thu nhập đảm bảo ổn định cuộc
sống.
- Tổ chức các nhóm tự giúp trong và sau quá trình cai nghiện để đối tượng
có cơ hội chia sẻ, học hỏi và cùng giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn.
Đối với gia đình người nghiện
- Cung cấp kiến thức vể ma túy, cách thức chăm sóc, hỗ trợ người nghiện
ma túy
- Tham vấn gia đình có người nghiện để họ vượt qua khó khăn và cùng hợp
tác hỗ trợ tích cực người nghiện trước, trong và sau khi cai nghiện.
- Tập huấn những kỹ năng chăm sóc sức khỏe, tâm lý, tình cảm cho thành
viên gia đình để họ cùng tham gia vào quá trình giúp đỡ đối tượng
- Tìm kiếm, kết nối gia đình với các nguồn lực bên trong và bên ngoài giúp
gia đình ổn định, yên tâm giúp đỡ người nghiện. Ví dụ như trong nhiều trường
hợp, gia đình người nghiện ma túy có khó khăn về kinh tế, không thể hỗ trợ được
người nghiện, nhân viên xã hội có thể giúp họ kết nối với các nguồn lực vay vốn,
học cách kinh doanh, sản xuất nâng cao đời sống gia đình để từ đó phần nào yên
tâm về kinh tế và hợp tác hỗ trợ đối tượng.
- Giúp gia đình chuẩn bị tâm thế đón nhận và hỗ trợ đối tượng hồi gia, tái
hòa nhập cộng đồng.
Đối với cộng đồng
- Thực hiện các chương trình giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của mọi
người trong cộng đồng, tại các trường học, công sở về vấn đề ma tuý và những hệ
luỵ của ma tuý đối với người nghiện và người xung quanh;
- Hỗ trợ, vận động cộng đồng hiểu biết về vấn đề sử dụng các chất gây
nghiện, không có hành vi kỳ thị, phân biệt đối xử với người nghiện.
Đối với xã hội
- Thực hiện vận động chính sách cho người nghiện nhằm đáp ứng nhu cầu
hỗ trợ của đối tượng và gia đình
- Góp phần xây dựng các chính sách xã hội và pháp luật liên quan đến hỗ trợ
người nghiện và gia đình.
V.
Những can thiệp công tác xã hội hiệu quả
1.
Trị liệu cá nhân
Can thiệp động lực là một loại can thiệp đặc thù được thiết kế để tăng cường
tính cam kết của người sử dụng ma túy trong việc hạn chế sử dụng ma túy. Đào
tạo tự kiểm soát hành vi (BSCT) là một phương pháp điều trị có thể được sử dụng
cho mục tiêu kiêng nhịn hoặc sử dụng có điều độ. Đào tạo tự kiểm soát hành vi
bao gồm việc điều chỉnh giới hạn việc sử dụng, giám sát và phát triển các kỹ năng
đối phó để quản lý các tình huống.
2.
Trị liệu nhóm
Đối với vấn đề ma tuý, nghiên cứu chỉ ra rằng kết quả những nhóm trị liệu
tập trung chuyên sâu (năm buổi/tuần, mỗi buổi 120 phút) sẽ có hiệu quả cao hơn
so với nhóm điều trị tiêu chuẩn (2buổi/tuần, mỗi buổi 90 phút) – việc bổ sung trị
liệu cá nhân hoặc trị liệu gia đình cho các nhóm điều trị tiêu chuẩn cũng có hiệu
ứng này.
Dự phòng tái nghiện thường có trong các hình thức của trị liệu nhóm. Thành
phần của nó bao gồm kỹ năng tự kiểm soát việc uống rượu hoặc sử dụng ma tuý
hay kêu gọi sử dụng ma tuý, kiểm soát các tình huống nguy cơ cao, đánh giá kỹ
năng đối phó hiện tại của khách hàng và huy động nguồn lực hiệu quả, phát triển
các chiến lược đối phó và kế hoạch quản lý các tình huống nguy cơ cao, và phát
triển hoặc tăng cường lối sống cân bằng với sự quan tâm tới việc nên làm và ý
muốn.
Đối phó và đào tạo kỹ năng xã hội (CSST) thường bao gồm các kỹ năng quản
lý sự tương tác và kỹ năng quản lý tâm trạng , đặc biệt là khi chúng liên quan đến
việc sử dụng. Chủ đề có thể bao gồm việc đối phó với cơn thèm nhớ và uống rượu
hoặc ma túy liên quan đến suy nghĩ, giải quyết vấn đề, quản lý sự tức giận, quyết
đoán, cho và nhận những lời chỉ trích, lập kế hoạch cho trường hợp khẩn cấp, đối
phó với sai sót, và quản lý suy nghĩ tiêu cực
3.
Can thiệp cấp độ cộng đồng
Can thiệp cấp độ cộng đồng có thể là từ việc can thiệp sử dụng những thành
tố trong môi trường bên ngoài để điều trị cá nhân hoặc các nhóm nhỏ cho đến
việc huy động toàn bộ cộng đồng để can thiệp.
Cách tiếp cận củng cố dựa vào cộng đồng (CRA) là một phương pháp
điều trị hành vi sử dụng những củng cố từ môi trường (xã hội, giải trí, dạy
nghề, gia đình) để can thiệp vào các vấn đề nghiện ma tuý.
Chiến lược điều trị được lựa chọn từ 1 lĩnh vực rộng lớn bao gồm cả đào
tạo kỹ năng đối phó, đào tạo việc làm, câu lạc bộ xã hội, liệu pháp hôn nhân,
dự phòng tái nghiện, và tư vấn xã hội và giải trí, phụ thuộc vào đánh giá của
các tiền sử sử dụng và hậu quả của việc sử dụng ma tuý của một cá nhân.
4. Dự phòng
Can thiệp dự phòng có thể nhằm hướng tới nhiều cấp độ, từ cá nhân và gia
đình, đến các can thiệp thực hành trực tiếp cho cộng đồng. Có thể thấy những can
thiệp này trong các chương trình phối hợp cộng đồng, và toàn bộ một quốc gia.
Các can thiệp công cộng. Chính sách về ma túy thường được chia thành hai
loại chính: giảm cung và giảm cầu.
Cộng đồng, giáo dục, và xây dựng kỹ năng can thiệp.
Công tác xã hội với người mại dâm
I.
Tổng quan về tình hình mại dâm
1.
Tình hình mại dâm trên Thế giới
Ở một số quốc gia mại dâm tuy không được pháp luật thừa nhận như một
nghề, nhưng chế tài lại không đề cập đến như một hành vi vi phạm pháp luật mà
còn được các nhà chức trách làm ngơ cho hoạt động này. Ví dụ tại Thái Lan, mại
dâm bị luật pháp nghiêm cấm, nhưng các nhà chứa vẫn hoạt động công khai dưới
sự làm ngơ của chính quyền, đến nỗi nhiều người lầm tưởng mại dâm ở Thái Lan
là hoàn toàn hợp pháp. Nhìn qua bề ngoài quy củ của các phố đèn đỏ, nhiều người
nước ngoài cho rằng chính phủ Thái Lan đã tổ chức tốt mại dâm và điều đó sẽ làm
giảm tác hại mà mại dâm gây ra (như hối lộ, bảo kê, ma túy...). Nhưng thực tế,
những góc khuất ẩn sau các khu đèn đỏ này khác xa so với những người này vẫn
tưởng. Cuộc đời của người bán dâm tại Thái Lan thực tế luôn đầy rẫy hiểm nguy,
bệnh tật, cũng như phải chịu sự kì thị của cộng đồng. Một lo ngại là gái mại dâm ở
Thái Lan có đến 40% là trẻ em
Một số quôc gia khác lại hà khắc trong việc trừng trị người làm nghề mại
dâm, đưa vào hệ thống chính sách pháp luật nghiêm cấm hoạt động này. Ví dụ:
Năm 1999, Thụy Điển là nước đầu tiên đã đưa ra một luật định nhằm phạt những
hành vi mua dâm, qua đó từng bước xóa bỏ tệ nạn mại dâm đang lan tràn. tại Thụy
Điển người mua dâm là tội phạm chứ không phải người bán dâm. Nhà nước Thụy
Điển tiếp tục cung cấp các khoản phúc lợi lớn và dịch vụ chuyên môn giúp phụ nữ
thoát khỏi tệ nạn mại dâm, cũng như giáo dục ý thức để công dân tẩy chay nạn mại
dâm. Năm 2009, Na Uy và Iceland đã học theo mô hình này.
Tại Nhật bản, Năm 2012, để nâng cao hiệu quả của công tác phòng chống
mại dâm, chính phủ Nhật Bản đã ra luật thưởng 900 USD tiền mặt cho những ai
cung cấp thông tin cho cơ quan chức năng về các đường dây môi giới mại dâm.
Tại Úc, hiện nay, có hàng trăm nhà thổ hợp pháp hoạt động trên khắp nước
Úc, trong đó không ít chủ chứa liên quan đến nạn buôn người. Một số thiếu nữ trẻ
châu Á khi du học Úc đã rơi vào bẫy của những đường dây buôn người dưới danh
nghĩa các trung tâm môi giới và bị ép bán dâm để trả nợ. Các chủ chứa của nhà thổ
bắt họ làm việc tới 15 tiếng/ngày suốt cả tuần. Họ bị đối xử tàn tệ, bị xâm hại tình
dục, đánh đập và đe dọa tính mạng. Một số người còn bị ép dùng ma túy để có thể
tiếp khách cả ngày. Không những thế, mỗi ca làm việc họ phải phục vụ tới 10
người đàn ông với các động tác kích dục thô bạo. Những kỳ vọng của chính phủ
Úc về việc "hợp pháp hóa mại dâm để kiểm soát" đã thất bại, số trường hợp vi
phạm bị phát hiện và xử lý là rất ít.
Trên danh nghĩa, tại các nước này, các dịch vụ tình dục do nhà nước quản lý,
người bán dâm được khám sức khỏe, có bảo hiểm y tế, nhưng thực tế đằng sau các
dịch vụ tình dục thường là các thế lực Mafia. Đó thực sự mới là những người kiểm
soát các dịch vụ tình dục ở khắp thế giới, nhà nước hầu như không thể nhúng tay
dù mại dâm có được hợp pháp hóa đi chăng nữa. Phải tiếp khách suốt ngày và với
giá cả tương đối cao nhưng số tiền thực sự người bán dâm nhận được rất ít, số tiền
thuế mà nhà nước thu được cũng rất ít. Phần lớn số tiền thu được từ các khách
làng chơi lại chui vào túi các ông chủ dịch vụ, cho các thế lực “xã hội đen” đứng
bảo kê đằng sau. Nhà nghiên cứu Maxwell (2000) đã công bố các bằng chứng về
sự móc nối chặt chẽ giữa mại dâm với buôn ma túy, cùng sự tham gia của các
dạng tội phạm khác, đặc biệt là cướp tài sản, buôn người và rửa tiền. Việc hợp
pháp hóa một dạng tệ nạn đã kéo theo sự lan tràn của các loại tệ nạn khác vốn còn
nguy hiểm hơn.
2. Tình hình mại dâm tại Việt Nam
Đánh giá tại Hội nghị tổng kết 5 năm thực hiện chương trình phòng, chống
mại dâm giai đoạn 2006 - 2010 của Việt Nam cho thấy: trên cả nước ước tính có
gần 31.000 người bán dâm; gái bán dâm ngày càng trẻ hóa, từ 16 - 18 tuổi chiếm
15,3%, từ 25 - 35 tuổi chiếm 35% và đông nhất là lứa tuổi rất trẻ: từ 18 - 25 tuổi
chiếm 42%, đa số có trình độ học vấn thấp.
Khảo sát của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội cho biết, vào đầu năm
2012, thu nhập trung bình của gái mại dâm đạt 10,6 triệu đồng/tháng, chưa kể các
khoản phụ khác, cao gấp 2,5 lần thu nhập trung bình của nhóm 20% người có thu
nhập cao ở Việt Nam. Trên 50% đã thú nhận nguyên nhân chủ yếu khiến họ bán
dâm là do thu nhập cao, trong khi bản thân họ lười lao động lại thích hưởng thụ,
trong đó có cả những cô gái nhà khá giả nhưng bị cha mẹ quản lý tiền chặt chẽ,
muốn có tiền ăn chơi nên tự bước vào nghề mại dâm. Một bộ phận khác bán dâm
đơn giản chỉ để có tiền thỏa mãn cơn nghiện ma túy. 34,9% muốn tiếp tục bán dâm
trong khoảng 3 năm tới vì muốn duy trì khoản thu nhập cao này
Một nghiên cứu của Viện Phát triển xã hội năm 2011, kết quả cho thấy Thu
nhập của nghề này cao nhưng bấp bênh, tùy từng loại dịch vụ, khách hàng…
người mại dâm có thu nhập thấp nhất 3triệu và cao nhất là 45triệu/tháng
Nguồn: Nhóm nghiên cứu Viện Nghiên cứu Phát triển xã hội, 2011
Theo số liệu báo cáo, thống kê của cơ quan chức năng, hiện nay trong toàn
quốc có khoảng 53.000 nữ nhân viên phục vụ tại các cơ sở kinh doanh dịch vụ.
Trong đó có 3.500 cơ sở và 6.983 nữ nhân viên nghi hoạt động mại dâm; lập hồ sơ
quản lý 1.353 đối tượng có biểu hiện chứa mại dâm, 932 đối tượng có biểu hiện
môi giới mại dâm và 2.065 gái bán dâm.
Cả nước hiện có trên 83.000 cơ sở kinh doanh dịch vụ có điều kiện. Trong
đó, khách sạn là 4.284, nhà nghỉ: 9.527, nhà trọ: 37.852, nhà hàng: 719, vũ trường:
70; karaoke: 6.060, cà phê giải khát: 4.533; cơ sở mát xa: 1.883, còn lại là cơ sở
kinh doanh dịch vụ khác (tăng 18.000 cơ sở so với năm 2009). Thành phố Hà Nội
hiện nay đã xác định có 264 cơ sở có điều kiện nhạy cảm liên quan đến hoạt động
mại dâm; lập hồ sơ quản lý 172 đối tượng có biểu hiện chứa, môi giới mại dâm.
Thành phố Hồ Chí Minh có 25.000 cơ sở kinh doanh dịch vụ, ước tính có trên
20.000 nữ tiếp viên. Trong đó có 50% là các cô gái địa phương khác đến. Hà Tĩnh
hiện có khoảng 96 cơ sở có biểu hiện hoạt động mại dâm trong tổng số trên 1.202
cơ sở kinh doanh dịch vụ có điều kiện nhạy cảm liên quan đến hoạt động mại dâm;
lập hồ sơ quản lý 112 đối tượng có biểu hiện chứa, môi giới mại dâm.
Trên tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc và Việt Nam - Campuchia lực
lượng biên phòng đã đưa vào diện quản lý trên 200 nhà hàng có biểu hiện hoạt
động mại dâm, buôn bán phụ nữ trẻ em ra nước ngoài hoạt động mại dâm. (Đánh
giá tại chương trình hành động phòng, chống mại dâm giai đoạn 2011-2015)
3
Khái niệm mại dâm và một số khái niệm liên quan
Mại dâm tiếng Latinh là “prostituere” có nghĩa là “bày ra để bán”, chỉ việc
bán thân một cách tùy tiện, không thích thú. Trong Xã hội học và Tội phạm học,
theo nghĩa rộng, mại dâm có thể được định nghĩa như việc trao đổi sự thỏa mãn
tình dục lấy tiền hoặc bất cứ một giá trị vật chất nào.
Mại dâm là một công việc kinh doanh nhằm cung cấp sự thỏa mãn tình dục
cho cá nhân ngoài phạm vi vợ chồng. Mại dâm là một hiện tượng xã hội, biểu hiện
của sự sai lệch về chuẩn mực xã hội; bởi vậy theo nhà bác học Pháp nổi tiếng E.D.
Kheim thì tệ nạn mại dâm cũng giống như nạn tự sát, là dấu hiệu của một xã hội rối
loạn kỷ cương.
Liên Hiệp Quốc trong Công ước ngăn chặn nạn khai thác mại dâm quy định
những hoạt động mua dâm, ép buộc người khác bán dâm là tội ác. Các quốc gia
tham gia Công ước đã ra tuyên bố chung "Mại dâm và các dạng tội ác khác đi
kèm là hành vi chà đạp lên phẩm giá và giá trị của con người". Báo cáo năm 2009
của Liên Hiệp Quốc cho thấy 79% nạn nhân của bọn buôn người là để phục vụ
mại dâm, và mại dâm đã được coi là "chế độ nô lệ lớn nhất trong lịch sử"
Các tổ chức nữ quyền luôn phản đối mại dâm và không bao giờ muốn thỏa
hiệp với loại tệ nạn này. Họ xem nó là điển hình của sự bóc lột, chà đạp nhân
phẩm phụ nữ và thể hiện sự thống trị của nam giới với phụ nữ, là kết quả của các
trật tự xã hội gia trưởng, trong đó phụ nữ bị coi như những công cụ thỏa mãn dục
vọng cho nam giới. Tổ chức vận động phụ nữ châu Âu, tổ chức liên hiệp phụ nữ
lớn nhất Liên minh Châu Âu (EU), phụ trách các chương trình thúc đẩy quyền
bình đẳng cho phụ nữ - đã lên án tệ nạn mại dâm là "một hình thức không thể chấp
nhận của bạo lực chống lại phụ nữ"
Mại dâm: là hoạt động dùng các dịch vụ tình dục ngoài hôn nhân giữa người
mua dâm và người bán dâm để trao đổi với tiền bạc, vật chất hay quyền lợi. Đây là
một hoạt động bất hợp pháp ở rất nhiều quốc gia trên thế giới.
Pháp lệnh Phòng chống mại dâm do Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Cộng
Hòa xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ban hành ngày 14/03/2003 đã định nghĩa một số
khái niệm liên quan đến mại dâm như sau:
Bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền
hoặc lợi ích vật chất khác.
Mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho
người bán dâm để được giao cấu
Mại dâm: Là hành vi mua dâm, bán dâm
Chứa mại dâm là hành vi sử dụng, thuê, cho thuê hoặc mượn, cho mượn địa
điểm, phương tiện để thực hiện việc mua dâm, bán dâm.
Tổ chức hoạt động mại dâm là hành vi bố trí, sắp xếp để thực hiện việc mua
dâm, bán dâm.
Cưỡng bức bán dâm là hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc dùng
thủ đoạn buộc người khác phải thực hiện việc bán dâm.
Môi giới mại dâm là hành vi dụ dỗ hoặc dẫn dắt của người làm trung gian để
các bên thực hiện việc mua dâm, bán dâm.
Bảo kê mại dâm là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín hoặc dùng vũ
lực, đe doạ dùng vũ lực để bảo vệ, duy trì hoạt động mại dâm.
Mại dâm là một hoạt động bất hợp pháp ở Việt nam. Điều 4 Pháp lệnh Phòng
chống mại dâm nghiêm cấm các hành vi mua dâm, bán dâm và những hành vi
khác như chứa mại dâm, tổ chức hoạt động mại dâm,cưỡng bức bán dâm, môi giới
mại dâm, bảo kê mại dâm, lợi dụng kinh doanh dịch vụ để hoạt động mại dâm và
các hành vi liên quan khác. (Quốc Hội VN 2003, Pháp lệnh phòng chống mại
dâm)
II.
Đặc điểm và nhu cầu của người mại dâm
1.
Một vài đặc điểm của người mại dâm
Người làm nghề mại dâm trong cách nhìn của người dân cộng đồng thì họ là
những người không nghề nghiệp, ngủ ngày làm đêm, phấn son và lăng nhăng. Còn
những người trong cuộc lại là lý do để giải quyết những vấn đề trong cuộc sống
(Cần tiền vì gia đình nghèo khó, chồng nghiện con thơ,..) Số khác, do dòng đời xô
đẩy, thất nghiệp…
Mối quan hệ giữa thu nhập và chất lượng sống của họ không đảm bảo:
Không ai có BHXH và BHYT. Bị gia đình và người thân xa lánh kỳ thị, không
dám nuôi con hoặc giấu con công việc của mình. Không có nhiều bạn bè thân,
thường chỉ chơi với những người cùng nghề Sự mặc cảm và nỗi hổ thẹn vì công
việc và dường như họ cũng có chung những đặc điểm cơ bản và nhu cầu như sau
- Mối quan hệ và hiểu biết xã hội có hạn nên tầm nhìn bị hạn chế, suy nghĩ
nông cạn, hời hợt, ý thức được việc mình làm nhưng không quan tâm đến hậu quả
cũng như tác hại của việc họ làm
- Đa số có trình độ thấp, không nghề nghiệp hoặc có nhưng thu nhập bấp
bênh
- Về mặt ý chí nhóm người mại dâm thường thiếu nghị lực, thiếu tự tin. tình
cảm mất cân bằng, không ổn định, hay nổi nóng
- Tự đánh giá bản thân của người mại dâm thường không chính xác nên dễ
có hành vi lệch chuẩn
- Người mại dâm coi việc bán dâm là phương tiện hoạt động để kiếm tiền
nên sự phát triển tâm lý, nhân cách theo chiều hướng lệch chuẩn xã hội. Bất chấp
dư luận, chuẩn mực đạo đức và pháp luật
- Quan niệm cuộc đời và định hướng giá trị của người mại dâm mang tính
chất tiêu cực
- Quan hệ liên nhân cách của người mại dâm dễ bị những người xung quanh
điều khiển rủ rê, lôi kéo, thiếu tính quyết đoán và không tự hành động theo bản
thân
Có những người có lúc đã muốn từ bỏ nghề nhưng những rào cản từ phía gia
đình và xã hội khiến họ lo ngại và khó hòa nhập cuộc sống bình thường. Về phía
bản thân họ cũng lo lắng về công việc mới, về thu nhập…
2. Nhu cầu của người làm nghề mại dâm
- Đối với người hành nghề mại dâm thì tiền là giá trị sống cơ bản: Họ cần có
tiền để nuôi con, nuôi chồng, nuôi thân, nuôi gia đình và để hoàn lương
- Họ có nhu cầu được chăm sóc sức khỏe
- Mong muốn nhận được sự cảm thông từ phía gia đình và cộng đồng xã hội
- Có nhu cầu tìm kiếm được việc làm ổn định và thu nhập đủ để trang trải
cuộc sống gia đình
- Nói chung nhu cầu của NMD xoay quanh vấn đề mưu sinh, chăm sóc sức
khỏe và ổn định cuộc sống.
- Người làm nghề mại dâm thường bị nhìn nhận là những người hư hỏng,
ham vật chất thích hưởng thụ, bị coi rẻ…Cho dù họ có cải tạo tốt, đã hoàn lương
nhưng vẫn khó khăn để được cộng đồng xã hội chấp nhận như người bình thường
khác, khó khăn trong tiếp cận việc làm, y tế…Điều đó đã làm họ khó hòa nhập và
có thể không có cơ hội bộc lộ bản thân và phát triển.
III. Các chính sách và luật pháp cho nhóm đối tượng mại dâm
1.
Một số điều ước quốc tế
1.1. Công ước về xoá bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ
Công ước của Liên hợp quốc về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử đối với
phụ nữ được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 18/12/1979 và có hiệu lực
vào ngày 03/9/1981, hiện có 183 Quốc gia thành viên. Việt Nam ký Công ước này
ngày 29/7/1980 và phê chuẩn ngày 17/02/1982.
1.2. Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia
Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia
(sau đây gọi tắt là Công ước TOC) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua
ngày 15/11/2000 và có hiệu lực ngày 29/9/2003, có 147 nước ký và hiện có 133
Quốc gia thành viên,Việt Nam đã ký Công ước này ngày 13/12/2000 nhưng hiện
chưa phê chuẩn.
Mục tiêu của Công ước này là thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia nhằm ngăn
ngừa và chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia một cách hiệu quả hơn. Bổ
sung cho Công ước này có ba Nghị định thư
Nghị định thư về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị việc buôn bán người,
đặc biệt là phụ nữ và trẻ em;
-
Nghị định thư về chống đưa người di cư trái pháp luật bằng đường bộ,
đường biển và đường không;
-
-
2.
Nghị định thư về chống sản xuất và buôn bán trái phép vũ khí vũ khí nhẹ.
Pháp luật Việt Nam về phòng, chống Mại dâm
2.1. Hiến pháp:
Các điều khoản liên quan chủ yếu:
-
Điều 63 quy định về quyền bình đẳng của công dân, bình đẳng giữa nam
và nữ, nghiêm cấm phân biệt đối xử;
-
Điều 65 quy định về quyền được chăm sóc, bảo vệ của trẻ em;
-
Điều 71 quy định về quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm của công dân…
Luật phòng, chống tội phạm mua bán người đã được Quốc Hội thông qua sẽ
có hiệu lự vào năm 2012
2.2. Pháp luật về hôn nhân gia đình:
Luật hôn nhân và gia đình: Luật này được Quốc hội thông qua ngày
9/6/2000, thay thế Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986.
Các điều khoản liên quan chủ yếu:
-
Điều 34 quy định về nghĩa vụ và quyền của cha mẹ. Theo đó, cha mẹ có
nghĩa vụ và quyền thương yêu, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của con…Cha mẹ không được phân biệt đối xử giữa các con,
ngược đãi, hành hạ, xúc phạm con; không được lạm dụng sức lao động của con
chưa thành niên; không được xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật,
trái đạo đức xã hội.
-
Điều 38 về nghĩa vụ và quyền của bố dượng, mẹ kế và con riêng của vợ
hoặc của chồng quy định bố dượng, mẹ kế có nghĩa vụ và quyền trông nom, nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục con riêng cùng sống chung với mình... Bố dượng, mẹ
kế và con riêng của vợ hoặc của chồng không được ngược đãi, hành hạ, xúc phạm
nhau.
Điều 67 về nuôi con nuôi quy định nghiêm cấm lợi dụng việc nuôi con
nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì mục
đích trục lợi khác".
-
- Nghị định số 68/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài:
“Nghiêm cấm lợi dụng việc kết hôn, nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi
nhằm mục đích mua bán, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục đối với phụ nữ
và trẻ em hoặc vì mục đích trục lợi khác; “nghiêm cấm hoạt động kinh doanh môi
giới kết hôn, nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi nhằm mục đích kiếm lời dưới mọi
hình thức” (Điều 2 Nghị định).
- Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 SĐ, bổ sung một số điều
của Nghị định số 68/2002/NĐ-CP:
Một số nội dung sửa đổi cơ bản nhằm chống buôn bán người thông qua
việc lợi dụng các quy định về hôn nhân, gia đình có yếu tố nước ngoài:
+ Quy định bắt buộc phỏng vấn trực tiếp tại Sở Tư pháp đối với hai bên
nam, nữ khi đăng kỳ kết hôn để làm rõ về sự tự nguyện kết hôn, về khả năng giao
tiếp, hiểu biết nhau thông qua ngôn ngữ chung, về mức độ hiểu biết hoàn cảnh của
nhau (SĐ, BS khoản 1 Điều 16) ;
+ Quy định "Việc đăng ký kết hôn cũng bị từ chối, nếu kết quả phỏng vấn,
thẩm tra, xác minh cho thấy việc kết hôn thông qua môi giới bất hợp phá ; kết hôn
giả tạo không nhằm mục đích xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh
phúc, bền vững ; kết hôn không phù hợp với thuần phong, mỹ tục của dân tộc ; lợi
dụng việc kết hôn để mua bán phụ nữ, xâm phạm tình dục đối với phụ nữ hoặc vì
mục đích trục lợi khác" (SĐ, BS khoản 2 Điều 18).
- Chỉ thị số 03/2005/CT-TTg ngày 25/02/2005 của Thủ tướng Chính phủ
về tăng cường quản lý hôn nhân gia đình có yếu tố nước ngoài:
Chỉ thị số 03/2005/CT-TTg ngày 25/02/2005 về tăng cường quản lý hôn
nhân gia đình có yếu tố nước ngoài nhấn mạnh đến việc các cơ quan chức năng,
chính quyền địa phương phải tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động này. Đặc
biệt, theo Chỉ thị này thì Bộ Công an có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan Công an các
tỉnh, thành phố trọng điểm mở các đợt cao điểm rà soát, xoá bỏ các điểm giới thiệu
cô dâu VN cho người nước ngoài xem mặt bất hợp pháp, xử lý nghiêm những
trường hợp môi giới kết hôn bất hợp pháp nhằm mục đích trục lợi. Tăng cường các
biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cô dâu VN ở nước ngoài.
Kiểm tra, phát hiện và xử lý những doanh nghiệp vi phạm quy định cấm kinh
doanh dịch vụ môi giới kết hôn có yếu tố nước ngoài theo Nghị định
125/2004/NĐ-CP. Chủ tịch UBND phải chịu trách nhiệm nếu để xảy ra hoạt động
môi giới kết hôn bất hợp pháp tại địa phương. Bộ Tư pháp có trách nhiệm chỉ đạo
việc đăng ký khai sinh cho trẻ em là con của nạn nhân bị buôn bán hoặc lấy chồng
nước ngoài khi theo mẹ về cư trú trong nước, tăng cường tuyên truyền, nâng cao
nhận thức phòng ngừa nguy cơ buôn bán PNTE.
Ngoài ra, còn nhiều văn bản pháp luật khác trong các lĩnh vực pháp luật
khác nhau chứa đựng các quy định về bảo vệ các quyền con người, quyền của phụ
nữ, trẻ em, phòng ngừa các nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh dẫn đến buôn bán
người và hoạt động mại dâm
2.3. Chỉ thị 766/CT-TTg ngày 17/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ :
Trong Chỉ thị này, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị cho các ngành, các cấp như
Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, Bộ Tư pháp,
Bộ Thương mại, Tổng cục Du lịch, Bộ Văn hoá - Thông tin, Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân các tỉnh, Thành phố, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt nam, Uỷ ban Chăm sóc và
Bảo vệ trẻ em Việt nam, theo chức năng của mình và phối hợp với các cơ quan có
liên quan, tăng cường thực hiện các biện pháp để nhằm phát hiện, ngăn chặn và
triệt phá các tổ chức chuyên mua bán phụ nữ và trẻ em để đưa ra nước ngoài, phối
hợp với Cảnh sát quốc tế và các nước láng giềng trong công tác này, tăng cường
tuyên truyền để nâng cao nhận thức của nhân dân về nguy cơ này, hỗ trợ việc làm,
ổn định đời sống cho các phụ nữ và trẻ em là nạn nhân...
QĐ 679/QĐ-TTg ngày 10 tháng 05 năm 2011 của Chính Phủ phê duyệt
chương trình hành động phòng, chống mại dâm giai đoạn 2011 – 2015
Quan điểm chỉ đạo của Chương trình hành động là:
Lấy công tác phòng ngừa làm trọng tâm của Chương trình hành động phòng,
chống mại dâm giai đoạn 2011 - 2015, tập trung giải quyết tệ nạn mại dâm tại
những tỉnh, địa bàn trọng điểm. Tập trung vào biện pháp tuyên truyền, giáo dục,