Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Đề cương bai giảng ma túy mại dâm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.98 KB, 10 trang )

Công tác xã hội với người có HIV
I.

Giới thiệu chung về tình hình HIV/AIDS

1.

Tình hình HIV/AIDS trên thế giới và ở Việt Nam

Theo báo cáo của tổ chức y tế thế giới (WHO) và chương trình phối hợp
phòng chống AIDS của liên hiệp quốc (UNAIDS), đến cuối năm 2004 trên toàn
cầu có khoảng 35,9-44,3 triệu người nhiễm HIV còn sống và khoảng hơn 30 triệu
người đã tử vong do AIDS. Mỗi năm, trên toàn cầu có khoảng 5 triệu người nhiễm
HIV và khoảng hơn 3 triệu người chết vì AIDS. Mỗi ngày có khoảng 140 nghìn
người nhiễm HIV, trong đó 95% số người nhiễm này thuộc các nước đang phát
triển. Cho đến nay, số người nhiễm virus HIV trên thế giới đứng ở mức ổn định,
song với số lượng rất lớn. Thống kê năm 2007 trên toàn thế giới có 33 triệu người
sống chung vơi HIV (UNAIDS, 2007).
Ở Việt Nam, trường hợp nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện cuối tháng 12
năm 1990 tại thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay dịch HIV/AIDS đã xuất hiện ở 64
tỉnh, thành phố với hơn 93% số huyện đã có người nhiễm HIV/AIDS. Một số tỉnh
thành đã có 100% số xã, phường có người nhiễm HIV/AIDS. Năm 2005, toàn
quốc phát hiện gần 96 nghìn người nhiễm HIV trong đó hơn 15 nghìn người
nhiễm HIV đã diễn biến thành AIDS và 9000 bệnh nhân đã tử vong. Số liệu mới
nhất tính đến ngày 30/9/2010, cả nước đã có 180 nghìn người nhiễm HIV/AIDS
đang còn sống được báo cáo, trong đó có 42 nghìn bệnh nhân AIDS và tổng số
người chết do AIDS đã được báo cáo là 48.368 người. Cho đến nay, đã có trên
74% số xã, phường và 97,8% số quận/huyện trong toàn quốc đã có báo cáo về
người nhiễm HIV/AIDS. Thành phố Hồ Chí Minh vẫn là địa phương có số người
nhiễm HIV/AIDS được báo cáo cao nhất, chiếm khoảng 23% số người nhiễm
HIV/AIDS được báo cáo của cả nước. Kế đến là Hà Nội với 15.528 người nhiễm


HIV hiện còn sống, Hải Phòng 6.540 người, Sơn La 5.183 người, Thái Nguyên
5.122 người, Nghệ An 3.711 người, An Giang 3.667 người và Bà Rịa – Vũng Tàu
3.427 người. Tuy nhiên số liệu báo cáo này không phản ánh được đầy đủ số người


bị nhiễm HIV/AIDS vì nhiễm HIV/AIDS rất phức tạp về biểu hiện, đa dạng về
đường lây truyền và có thời kỳ cửa sổ bệnh kéo dài không có triệu chứng, do vậy
số người bị nhiễm HIV trên thực tế cao hơn nhiều.
Tuổi nhiễm HIV chủ yếu tập trung trong nhóm tuổi từ 20-29 tuổi chiếm hơn
50%, tuy nhiên trong vài năm trở lại đây, nhiễm HIV trong nhóm tuổi 30-39 tuổi
có xu hướng tăng hơn so với các năm trước tăng từ 30% năm 2008 lên đến 41%
trong năm 2009. Hình thái lây nhiễm HIV trên toàn quốc chủ yếu qua đường máu
(do tiêm chích ma túy không an toàn), tuy nhiên hình thái có sự khác biệt giữa các
vùng miền. Khu vực miền Bắc, miền núi phía Bắc chủ yếu do tiêm chích ma túy
nhưng các tỉnh duyên hải miền Trung, miền Tây Nam bộ chủ yếu các trường hợp
nhiễm HIV được phát hiện do quan hệ tình dục. Tại Trà Vinh số nhiễm HIV qua
quan hệ tình dục trong tổng số các trường hợp nhiễm HIV phát hiện lên tới 80,7%,
Quảng Bình 73,2%, Cà Mau 69,4%, Quảng Trị 62,0%, An Giang 55,8%, Thừa
Thiên Huế 50,8%.
Phân bố theo giới: đa phần các trường hợp nhiễm HIV được phát hiện là nam
giới, toàn quốc chiếm 79%. Tỷ lệ nhiễm giữa nam và nữ đã có sự thay đổi qua các
năm gần đây với tỷ lệ nữ giới bắt đầu tăng từ 15% năm 2005 lên tới 23% năm
2009 và vẫn có xu hướng tăng lên. Hiện nay nhiễm HIV không chỉ tập trung trong
nhóm có hành vi nguy cơ cao như nghiện chích ma tuý, gái mại dâm mà rất đa
dạng về ngành, nghề như lao động tự do, công nhân, nông dân, bộ đội, công an,
học sinh, sinh viên, nhân viên hành chính, phạm nhân và trẻ em. Điều này cũng
phù hợp về hình thái lây truyền, khi lây truyền qua quan hệ tình dục gia tăng làm
đa dạng hơn về ngành nghề của đối tượng nhiễm và nguy cơ lây nhiễm HIV ra
cộng đồng sẽ cao hơn.
Đánh giá chung về tình hình dịch năm 2008 cho thấy HIV/AIDS đã có xu

hướng giảm và chậm lại. Số trường hợp nhiễm HIV phát hiện giảm mới 14,3%
(giảm 2.048 trường hợp), số bệnh nhân AIDS mới phát hiện giảm 11,1% (giảm
563 trường hợp) và số trường hợp tử vong do AIDS giảm 27,5% (giảm 599 trường
hợp). Trong năm 2009 có 44 tỉnh/thành phố có số nhiễm HIV giảm so với cùng kỳ
năm 2008 (9 tháng đầu năm), trong đó có 8 tỉnh/thành phố có là (Hà Nội, Đồng
Nai, Đồng Tháp, Cần Thơ, Yên Bái, An Giang, Bình Phước, Sơn La), còn lại 19
tỉnh/thành phố tăng, đứng đầu vẫn là TP Hồ Chí Minh với 373 trường hợp, kế đến


là Điện Biên, Hải Phòng, Lào Cai, Bắc Ninh, Phú Thọ. Các số liệu về giám sát
trọng điểm cho thấy tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong các nhóm như nghiện chích ma
túy, gái mại dâm đã có xu hướng giảm trong một vài năm trở lại đây.

2.

Khái niệm

Khái niệm về HIV: HIV là virút gây suy giảm miễn dịch ở người, viết tắt từ
tiếng Anh: Human Immunodeficiency Viruts. Có hai type Virus là HIV1 và HIV2,
cả 2 đều gây bệnh cho người.
Người mang HIV trong máu thường được gọi là người nhiễm HIV (hiện nay
để tránh kỳ thị người ta gọi là người có HIV).
- Khái niệm về AIDS : Là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải, do virus
HIV gây ra
AIDS viết tắt từ tiếng Anh: Acquired Immuno Deficiency Syndrom
II.

Đặc điểm tâm lý người nhiễm HIV/AIDS
-


Đến nay y học chưa tìm ra vawcxin để phòng ngừa HIV và thuốc bệnh

AIDS. Do đó, hầu hết các trường hợp khi đã chuyển sang giai đoạn AIDS thì
thường dẫn đến cái chết vì thế người bị chuẩn đoán đã nhiễm virus HIV sẽ có
những phản ứng tâm lý tiêu cực. Diễn biến tâm lý của một người bắt đầu từ khi
biết tin mình đã nhiễm HIV xảy ra các trạng thái sau
- Sốc: Trạng thái này thường xảy ra ở ngay thời điểm biết mình bị nhiễm
virus HIV. Sốc thường có biểu hiện như im lặng, tê cóng người, không tin rằng
điều đang xảy ra là sự thực.
- Lo lắng: Là trạng thái căng thẳng và sợ hãi xảy ra khi đã hoàn toàn hiểu
rằng bản thân mình đã nhiễm HIV. Trạng thái này biểu hiện trong hành vi và sự
thay đổi thể chất. Thế chất: Tăng áp lực máu, căng cơ, đau bụng, thay đổi khẩu vị,
đi tiểu nhiều lần, đau đầu căng thẳng… Hành vi: Giảm năng suất hoạt động, khó
tập trung, sử dụng chất kích thích nhiều hơn, mất hứng thú với các hoạt động hàng
ngày, bỏ bê công việc…


- Phủ nhận: Phủ nhận sự thực là một cách tự đối phó của những người biết
mình đã nhiễm HIV. Họ coi việc phủ nhận như một “cứu cánh” để tạm thời giúp
bản thân mình thoát khỏi trạng thái lo lắng quá mức, đồng thời cũng để tránh khỏi
bị người khác phát hiện ra tình trạng của mình.
- Tức giận: Giận dữ là cách thức mà người biết mình đã bị nhiễm HIV phóng
chiếu những cảm xúc bất an trong lòng ra bên ngoài. Lúc này người nhiễm HIV
thường cảm thấy bất yên, đi đi lại lại hoặc im lặng một cách bất thường, tránh nhìn
mọi người, tự hành hạ mình.
- Họ tự trách mình: đã gây nhiễm cho người yêu, vợ, chồng hoặc con cái,
hoặc làm khổ gia đình. Họ còn thấy tức giận với người đã lây nhiễm HIV cho
mình. Đối với những người sống chung với HIV đã tiết lộ trạng thái bệnh của
mình với mọi người xung quanh, họ còn có thể tức giận với những hành vi, cử chỉ
của người khác tạo cho mình cảm giác bị kỳ thị

- Cảm giác tội lỗi: Sau khi trải qua trạng thái tức giận, một số trường hợp biết
mình đã bị nhiễm HIV do các hành vi không đúng đắn trong quá khứ thường xuất
hiện cảm giác tội lỗi. Họ cảm thấy có lỗi với bản thân, có lỗi với gia đình vì mình
sống buông thả hoặc không cẩn thận. Lúc này họ thường có biểu hiện trầm, ít nói
chuyện, ngại tiếp xúc và đôi khi khóc thầm một mình do cảm thấy ăn năn hối hận.
- Trầm uất: Trầm uất và cô đơn thường bắt đầu khi các triệu chứng bắt đầu
biểu hiện rõ hoặc khi bạn tình hoặc vợ, chồng của mình chết vì AIDS. Trạng thái
cô đơn xuất hiện khi người có HIV cảm thấy là không ai chia sẻ những khó khăn,
trăn trở của mình hoặc không ai hiểu mình. Người có HIV lúc đó thường cảm thấy
cô đơn và vô vọng.
- Nỗ lực tìm cách tự cứu mình: Nỗ lực tìm cách tự cứu mình là trạng thái
điển hình khi các biểu hiện của bệnh đã rõ ràng hơn, và họ cũng hiểu được kết cục
sẽ là cái chết. Khi này họ thường nghĩ đến một sức mạnh thần kỳ có thể làm thay
đổi được thực tại. Họ có thể tìm phương thuốc cứu chữa cho mình bằng việc lễ
bái, cầu nguyện hoặc tìm đến các thầy cúng.
- Chấp nhận: Chấp nhận thường là trạng thái của người bệnh khi đã hiểu rằng
mọi phương thuốc không thể giúp họ hoàn toàn khỏi bệnh mà chỉ có thể chấp nhận
chung sống với HIV. Chuyển qua giai đoạn chấp nhận, người bệnh sẽ giảm bớt sự


lo lắng và áp lực để tìm cách sống chung với HIV môt cách tốt nhất và làm những
điều có ích nhất cho bản thân và xã hội trong khả năng của bản thân.
III.
1.

Chính sách và luật pháp Việt Nam và Quố tế với người có H
Chính sách và luật pháp trên Quốc tế

1.1. Phản ứng toàn cầu về HIV/AIDS:
- Chương trình toàn cầu của WHO về AIDS năm 1987 đã mở ra thập kỷ đầu

tiên về những nỗ lực của quốc tế để chống lại HIV.
- UNAIDS thành lập vào năm 1996, tên đầy đủ là - Chương trình Phối hợp
của Liên Hợp Quốc về HIV/AIDS nhằm mục đích phối hợp các nỗ lực của các
nước trên thế giới trong công cuộc ứng phó với đại dịch AIDS trên toàn thế giới.
Theo thời gian, nguồn kinh phí của tổ chức tăng lên đáng kể, một số hoạt động
mới được tiến hành:
- Năm 2000, tất cả các quốc gia đã tham gia mục tiêu toàn cầu về HIV đến
năm 2015 nhằm ngăn chặn và đẩy lùi sự lây lan của HIV, đây được coi như 1 nội
dung của Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc (MDGs). Vào thời
gian này, Ngân hàng Thế giới phát động chương trình Quốc gia Multi-AIDS
(MAP)
- Năm 2001, Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc có phiên họp đặc biệt về
HIV/AIDS (UNGASS). Tại cuộc họp này đã thành lập Quỹ Toàn cầu. Vào năm
2006, UNAIDS đã phát động chiến dịch phổ cập về điều trị, chăm sóc đến năm
2010.
- Tổng chi tiêu toàn cầu về HIV năm 1996 là 300 triệu USD đã tăng lên 15,9 tỷ
vào năm 2009. Trong năm 2009, các nhà tài trợ quốc tế cam kết ủng hộ 8,7 tỷ
USD để giải quyết các vấn đề về HIV tại các nước đang phát triển. Các nước đang
phát triển đã cung cấp nguồn lực đáng kể đẻ giải quyết dịch bệnh của chính họ.
Hơn 100 quốc gia và 12 khu vực tư nhân đã đóng góp 11 tỷ USD cho Quỹ Toàn
cầu; cho đến nay các tập đoàn cũng đóng 1 vai trò quan trọng cho việc tài trợ bổ
sung cung cấp kinh phí cho Quỹ Toàn cầu, đặc biệt Bill và Melinda Foundation
Gates đã cam kết 2,2 tỷ USD. Mặc dù có những năm, theo UNAIDS nhu cầu thực
tế cao hơn nhiều (khoảng 25,1 tỷ USD trong năm 2010), chính điều này đã tạo nên
khoảng cách đáng kể. Mỗi quốc gia đều cam kết và nhằm đáp ứng các Mục tiêu


Thiên niên kỷ, đặc biệt Mục tiêu số 6 là để “chống HIV và AIDS, sốt rét và các
bệnh khac”, nhằm mục tiêu ngăn chặn và chấm dứt sự lây lan của HIV và AIDS
vào năm 2015.

1.2. Chiến lược năm 2011 đến năm 2015:
- Trong tuyên bố của “Cam kết về HIV/AIDS” được thông qua tại Phiên họp
đặc biệt của Đại hội đồng Liên hợp quốc về HIV/AIDS đã công nhận nhu cầu và
vai trò đặc biệt quan trọng của những người trẻ tuổi trong việc ngăn chặn và chấm
dứt sự lây lan của HIV/AIDS; điều này được nhắc lại trong kỳ họp đặc biệt của
Đại hội đồng Liên hợp quốc về trẻ em vào tháng 5 năm 2002.
-

Ba hướng chiến lược cho một đáp ứng mới về HIV toàn cầu:
Cuộc cách mạng phòng chống HIV:
+ Giảm tỷ lệ nhiễm HIV
+ Xác định các điểm nóng về lây lan HIV
+ Nâng cao vai trò, trách nhiệm của giới trẻ
+ Tập trung các chương trình vào dân số để giảm các ca nhiễm mới.

Kế hoạch về chăm sóc, hỗ trợ và điều trị:
+ Tiếp cận và điều trị kháng virus cho những người có HIV
+ Giảm môt nửa tỷ lệ tử vong do những người có HIV bị mắc bệnh lao
+ Chính sách quốc gia nhằm quan tâm đến những người có HIV và các hộ
gia đình bị ảnh hưởng bởi HIV.
+ Tạo điều kiện cho những người có HIV được chăm sóc, hỗ trợ khi cần
thiết.
Thúc đẩy nhân quyền và bình đẳng giới để ứng phó với HIV.
Thúc đẩy nhân quyền và bình đẳng giới để ứng phó với HIV là: Chấm dứt
tình trạng bị phân biệt đối xử, bạo lực đối với trẻ em gái và phụ nữ dễ bị tổn
thương và có nguy cơ nhiễm HIV cao. Tạo điều kiện cho họ được hưởng các dịch
vụ chăm sóc, hỗ trợ


+ Các nước xây dựng hệ thống pháp luật về việc lây nhiễm HIV, mại dâm và

ma túy.
+ Hạn chế tình trạng nhập cư trái phép ở một số quốc gia.
+ Không cho phép bạo lực về giới.
2.

Chính sách và luật pháp Việt Nam

Bộ luật về phòng, chống HIV/AIDS được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam thông qua vào ngày 29 tháng 6 năm 2006.
- Nghị định 108/2007/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 26/6/2007 hướng
dẫn thi hành Luật Phòng, chống HIV/AIDS.
- Thông tư liên Bộ Tài chính – Bộ Y tế số 147/2007/TTLT/BTC-BYT mới ban
hành ngày 12/12/2007 quản lý và sử dụng kinh phí thực hiện Chương trình mục
tiêu quốc gia phòng, chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và
HIV/AIDS giai đoạn 2006-2010 với nhiều điều chỉnh cơ bản, tạo điều kiện cho
việc thực hiện các nội dung hoạt động của Chiến lược Quốc gia.
- Quyết định 29/2007/QD-TTg về Quản lý, Chăm sóc và Hỗ trợ, Điều trị và
Tư vấn cho người sống với HIV tại các cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, các
trung tâm điều trị phục hồi, trại giam, nhà tù và các trung tâm chăm sóc xã hội.
- Quyết định 60/2007/QD-TTg; Quyết định 96/2007/QD-TTg; Quyết
định67/2007/QD-TTg quy định về hỗ trợ đối với người lớn và trẻ em sống với
HIV
- Quyết định về tập huấn chuẩn bị cho công nhân đi lao động ở nước ngoài về
phòng chống HIV; Quyết định của Chính phủ về Phòng, chống HIV/AIDS qua
biên giới.
-

Chỉ thị 54 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

- Ngoài ra còn có các chương trình hành động thực hiện Chiến lược quốc gia

phòng chống HIV/AIDS đã được xây dựng và phê duyệt, cùng với sự giúp đỡ của
các tổ chức quốc tế.
- Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cam kết thực hiện một loạt các thỏa thuận, sáng
kiến và tuyên bố của quốc tế, đó là: Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs);


Tuyên bố Cam kết về Phòng chống HIV (UNGASS); Tiếp cận Phổ cập; Chủ
chương Ba Thống Nhất; Tuyên Bố Hà Nội về việc sử dụng có hiệu quả viện trợ
nước ngoài; Tuyên bố các Bộ Trưởng Châu Á-Thái Bình Dương về Lãnh đạo
trong Phòng chống HIV/AIDS và Phát Triển; Kêu gọi Hà Nội về Trẻ em và AIDS;
Chiến lược khu vực các nước tiểu vùng sông Mê–kông về Di biến động và Giảm
nguy lây nhiễm HIV; Tuyên bố ASEAN về Bảo vệ và Tăng cường các Quyền của
Công nhân nhập cư.
IV.

Chương trình và dịch vụ, nguồn lực

1.

Các chương trình các dịch vụ ở Việt Nam

-

Chương Trình Truyền thông Thay đổi Hành vi (BCC)

-

Chương Trình Can thiệp Giảm thiểu tác hại: chủ yếu tập trung vào việc cung
cấp thông tin, bao cao su và bơm kim tiêm sạch, chuyển gửi tới dịch vụ
TVXNTN dành cho người TCMT, PNMD và các nhóm dân di biến động.


-

Chương trình khuyến khích sử dụng bao cao su

-

Phân phát Bơm kim tiêm

-

Dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con (PLTMC)

-

Tư vấn và Xét nghiệm HIV tự nguyện (TVXNTN)

-

An toàn truyền máu

-

Chương trình Quản lý các nhiễm khuẩn lây qua đường tình dục (STI)

-

Điều trị HIV, chăm sóc và hỗ trợ (Chương trình Hành động số 3 & 5)

2.

Một số cơ quan, tổ chức làm công tác hỗ trợ người có HIV và bị ảnh
hưởng bởi HIV ở Việt Nam
a. Các cơ quan chính phủ:
Chiến lược Quốc gia Phòng Chống HIV đã phân công nhiệm vụ và trách nhiệm
cho các Bộ và các ngành, gồm 6 Bộ, Ủy ban Nhân dân các tỉnh/thành phố và các
cơ quan truyền thông đại chúng của Nhà nước. Tất cả các Bộ, ban ngành, đoàn thể
quần chúng phải lồng ghép các hoạt động phòng chống HIV vào chiến lược, kế
hoạch và đầu tư ngân sách để thực hiện các hoạt động này. Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, một tổ chức chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam và các đoàn thể quần


chúng cũng được yêu cầu lãnh đạo và huy động các đoàn thể xã hội tham gia thực
hiện công tác phòng chống HIV.
Tại cấp Bộ, phần lớn các Bộ đã đưa công tác phòng chống HIV vào kế hoạch
hoạt động của ngành:
1
+ Tổng Liên đoàn Lao động đã từng bước thực hiện chương trình phòng
chống HIV tại nơi làm việc, nâng cao nhận thức cho chủ lao động và người lao
động tại các cơ sở làm việc.
2
+ Hội liên hiệp phụ nữ VN đã hỗ trợ việc thành lập các CLB đồng cảm và
triển khai dự án GIPA nhằm tăng cường sự tham gia của người có HIV vào các
ứng phó của quốc gia.
3
+ Mặt trận tổ quốc đã xây dựng các tiêu chuẩn về gia đình và cộng đồng
văn hóa không kỳ thị vơi người có HIV.
b. Các tổ chức dân sự xã hội
+ Các nhóm tự lực.
+ Các nhóm tôn giáo khác nhau, như Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Tin Lành,
Cao Đài…

+ Các tổ chức cộng đồng
+ Các tổ chức phi chính phủ địa phương
+ Các tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế hoạt động về HIV, do UNAIDS VN
đóng vai trò thư ký.

V.

Công tác xã hội với người có HIV/AIDS

Cung cấp các dịch vụ tư vấn, qua đó các vấn đề của đối tượng được xem
xét, thảo luận và lên kế hoạch giúp đỡ.
Khi đối tượng có vấn đề, nhân viên CTXH cần khách quan để đánh giá các
tình huống. Nhân viên cũng có thể giúp đối tượng tập trung vào các khía cạnh tích
cực của cuộc sống, ngay cả khi khách hang đang phải đối mặt với những khía cạnh
tiêu cực của HIV/AIDS.
Trợ giúp người có HIV đối phó với cảm giác sợ hãi, tội lỗi, tức giận, trầm
cảm, tuyệt vọng, bị bỏ rơi và bất kỳ cảm xúc khác mà họ phải trải qua.


Nếu sức khỏe bị suy giảm đáng kể, nhân viên CTXH cũng có thể giúp
những người có HIV đối phó với tình trạng bệnh tật.
Nhân viên xã hội giúp một đối tượng tìm hiểu để đối phó với điều chỉnh áp
lực khắc nghiệt bên ngoài bằng cách: Cung cấp thông tin về tiến triển của bệnh,
điều trị bằng thuốc, quản lý căng thẳng, sự lựa chọn lối sống tích cực, và thực
hành tình dục an toàn,can thiệp khủng hoảng, ngắn gọn và giới hạn thời gian điều
trị can thiệp.
Kết nối lại với người khác. Hệ thống hỗ trợ là rất cần thiết và có thể bao gồm
các thành viên trong gia đình, bạn bè, thân mật người khác, và đồng nghiệp.
Tư vấn gia đình, trong đó họ giúp người với HIV/AIDS thảo luận về các vấn đề
với các thành viên khác trong gia đình.

Trợ giúp đối tượng liên kết đến các nguồn lực cần thiết và dịch vụ. Những
người có AIDS có thể cần các dịch vụ liên quan đến sức khỏe, duy trì thu nhập,
nhà ở, chăm sóc sức khỏe tâm thần, pháp lý và hỗ trợ.
Giới thiệu đối tượng có HIV/AIDS tham gia các nhóm, trong đó họ có thể
nói chuyện với những người khác cũng là người có HIV/AIDS và đang gặp vấn đề
tương tự và các vấn đề. Nhân viên xã hội cũng có thể tạo điều kiện hỗ trợ hoặc các
nhóm đồng đẳng bằng cách tham gia như một người quản lý để theo dõi.
Trường hợp quản lý dịch vụ cho những người sống với HIV/AIDS. Một phần
của quản lý trường hợp liên quan đến việc nhân viên CTXH có thể vận động đối
xử công bằng hoặc được tìm nguồn lực giúp đỡ, lên tiếng thay mặt cho đối tượng.



×