Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

Công tác xã hội với cá nhân tai trung tâm bảo trợ xã hội đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.73 KB, 49 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian vừa qua với yêu cầu của môn Thực hành Công tác xã hội với cá
nhân em đã tiến hành thực tập tại Trung tâm Bảo trợ xã hội Đà Nẵng. Thời gian kéo dài
năm tuần, từ ngày 13/4/2016 đến 14/5/2016 với số buổi là ba buổi một tuần, mỗi buổi kéo
dài 90 phút. Tất nhiên, không ai có thể tồn tại mà chỉ có một mình, càng không ai có thể
làm tốt, làm thành công một việc gì đó mà không cần tới bất cứ sự giúp đỡ của ai, nhất là
lại đầu tiên nữa.Bản thân em cũng không ngoại lệ trong quá trình thực tập môn học “Thực
hành công tác xã hội cá nhân”, bên cạnh sự nỗ lực, cố gắng của bản thân, em nhận được sự
giúp đỡ, động viên của gia đình, bạn bè và thầy cô.
Để hoàn thành đợi thực tập này, trước hết em xin gởi lời cảm ơn chân thành đến các
cán bộ ở Trung tâm Bảo trợ xã hội Đà Nẵng
Đồng thời, em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến cô Nguyễn Hằng Phương –
giảng viên môn ”Công tác xã hội cá nhân” và thầy Bùi ĐìnhTuân cùng cô Trịnh Thị
Nguyệt – giảng viên kiểm huấn tại cơ sở đã ủng hộ, động viên, tháo gỡ những thắc mắc,
giúp đỡ cũng như tạo những điều kiện tốt nhất để em hoàn thành tốt đợt thực tập này
Vì thời gian và kinh nghiệm còn hạn chế nên trong quá trình thực tập không thể
tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được những được những ý kiến đóng góp của
thầy cô.
Chúc mọi người sức khỏe và hạnh phúc


LỜI MỞ ĐẦU
Trong cuộc sống xưa và nay mỗi con người chúng ta luôn gặp phải những khó khăn
và những vấn đề phức tạp mà có khi ta không tự giải quyết được. Vấn đề mà con người gặp
phải rất đa dạng và vô định hình, không giống như nghèo đói hay bệnh tật… Mà điều quan
trọng nhất ở đây là khi gặp khó khăn cần phải làm gì, giải quyết như thế nào và có khả
năng giải quyết nó hay không? Thông thường những lúc gặp vấn đề chúng ta thường rơi
vào trạng thái bối rối, mất bình tỉnh, thiếu tự chủ để vượt qua vấn đề đó hoặc tự giải quyết
theo sự chủ quan của mình để rồi lún sâu vào bế tắc. Chính vì vậy nghề công tác xã hội ra
đời và được xem là nghề giúp đỡ.
Công tác xã hội là một chuyên ngành hoạt động thực tiễn mang tính tổng hợp cao.


Nó là sự vận dụng về lý thuyết khoa học, hành vi con người và hệ thống xã hội nhằm xây
dựng và thúc đẩy sự liên quan đến vị trí, địa lý, vai trò của các cá nhân và nhóm, cộng
đồng người yếu thế tiến tới bình đẳng và tiến bộ xã hội. Đối tượng phục vụ - thân chủ của
công tác xã hội là những nhóm, cá nhân yếu thế được nhân viên Công tác xã hội vận dụng
chuyên môn nghiệp vụ của mình sẽ giúp thân chủ phục hồi các chức năng, khơi dậy các
khả năng tiềm ẩn của bản thân thân chủ để họ tự giải quyết vấn đề gặp phải. Nhân viên
công tác xã hội không “ làm hộ, làm cho, làm thay” mà chỉ làm cùng, làm với thân chủ.
Như vậy trên cơ sở đó ta có thể nhận định rằng: “ Công tác xã hội tuy là một ngành khoa
học mới, một nghề mới nhưng là một ngành, một nghề có tính nhân văn sâu sắc, nghề của
tình thương, trách nhiệm và lòng nhân ái”.
Giá trị của công tác xã hội dựa trên cở sở tôn trọng quyền lợi, bình đẳng, giá trị của
mỗi cá nhân,nhóm và cộng đồng. Giá trị được thể hiện trong các nguyên tắc hoạt động
cũng như trong các quy điều đạo đức trong công tác xã hội.
Và thực hành công tác xã hội cá nhân là một vẫn đề quan trọng trong quá trình đào
tạo cũng như học công tác xã hội. Thông qua quá trình thực hành, sinh viên được rèn luyện
kĩ năng,vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn.
Thực hành công tác xã hội cá nhân sẽ giúp cho sinh viên, học viên thấy được vai trò,
vị trí trách nhiệm của công tác xã hội đối với cá nhân , nhóm , gia đình và cộng đồng. Và
công tác xã hội không tự mình giải quyết được các vấn đề trong xã hội mà cần đến sự phối
hợp của các ngành các cấp khác trong hệ thống an sinh xã hội. Chính vì vậy mà khoa Tâm
lý giáo dục đã tổ chức cho lớp 14 CTXH có cơ hội được đi thực hành ở các cơ sở xã hội,
lớp em chia làm 3 nhóm và nhóm của em gồm 24 sinh viên, và nơi mà chúng em được thực


hành là Trung tâm Bảo trợ xã hội Đà Nẵng. Nơi mà nhóm chúng em đặt chân đến là nơi tỏa
ra hơi ấm tình người


PHẦN I : CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.Đặt vấn đề

- Trên một thế kỉ hình thành và phát triển như một nghề chuyên nghiệp trên thế giới,
Công tác xã hội đã và đang có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển nhân loại,
phấn đấu xây dựng xã hội công bằng, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, đặc
biệt với những người yếu thế trong xã hội. Trước nhu cầu cấp bách của xã hội về các dịch
vụ Công tác xã hội, Công tác xã hội Việt Nam đang trong quá trình hình thành và phát
triển. Mặc dù còn đang trong quá trình hướng tới mục tiêu chính thức được công nhận là
một nghề chuyên nghiệp, nhưng các dịch vụ mang hình thái Công tác xã hội đã hiện diện
trong xã hội từ rất lâu và đang có những đóng góp tích cực trong việc hỗ trợ và giải quyết
các vấn đề xã hội nảy sinh gây ra những khó khăn cho cuộc sống người dân nói chung và
đặc biệt là những người bị tổn thương và yếu thế tại Việt Nam
- Chính vì đây là một nghành, nghề mới ở Việt Nam. Do vậy, nhận thức của mọi
người về Công tác xã hội vẫn còn hạn chế. Thứ nhất, nhiều người nhầm lẫn công tác xã hội
với làm từ thiện,ban ơn, ban phát hoặc nhầm lẫn công tác xã hội với các hoạt động xã hội
của các tổ chức, đoàn thể... Thứ hai, vai trò và vị thế cũng như tính chất chuyên nghiệp của
công tác xã hội ở Việt Nam chưa được khẳng định. Do vậy, để phát triển công tác xã hội ở
Việt Nam cần có sự quan tâm của Đảng và Nhà nước có sự liên kết giữa các cơ sở đào tạo
và cơ sở thực hành công tác xã hội chuyên nghiệp. Bởi vì , công tác xã hội là một hệ thống
liên kết các giá trị,lý thuyết và thực hành.công tác xã hội là trung tâm, tổng hợp, kết nối và
trực tiếp tham gia vào đảm bảo an sinh xã hội
- Ở mọi lứa tuổi đều có thể nảy sinh vấn đề cần người trợ giúp, người cao tuổi cũng
không ngoại lệ. Với sự gia tăng của tuổi thọ và sự phát triển của xã hội mỗi chúng ta đều
có thể được tận hưởng cuộc sống tốt đẹp hơn, lâu dài hơn và hạnh phúc hơn nhưng vẫn có
những con người đang đương đầu với những khó khăn chồng chất một cách rất khổ sở,
nhất là đối với những người cao tuổi. Họ không có nơi nương tựa không có một mái ấm
nào để dựa dẫm, họ bơ vơ, cô đơn giữa dòng đời một cách lạc lỏng. Trong những trường
hợp như vậy không có bất cứ một cá nhân nào có thể giúp đỡ họ lâu dài, chỉ có thể nhờ đến
sự can thiệp của những Trung tâm Bảo trợ xã hội và Trung tâm Bảo trợ xã hội Đà Nẵng là
một trong những Trung tâm được thành lập nên nhằm cưu mang những mảnh đời bất hạnh
này. Khi vào đây, chưa hẳn là các cụ đã cảm thấy an toàn và ấm áp tuyệt đối vì có quá
nhiều đối tượng họ chỉ có thể chăm sóc tốt về việc ăn, mặc, đau ốm,...nhưng vấn đề về việc

các cụ suy nghĩ gì, tâm lý như thế nào thì chưa thể làm tốt được. Công tác xã hội ra đời để


giúp đỡ những trường hợp như vậy. Và trong đợt thực tế vừa rồi em đã có dịp gặp, trò
chuyện và giúp đỡ thân chủ của mình là cụ Nguyễn Thị Thức, 84 tuổi bị tổn thương về tâm
lý.
2.Mục tiêu
a. Cá nhân NVXH:
- Áp dụng được những kiến thức liên quan đến hành vi con người và môi trường xã
hội cũng như các phương pháp tiếp cận CTXH trong việc giúp đỡ cá nhân.
- Thực hành các nguyên tắc,quy chuẩn đạo đức và các giá trị trong CTXH khi làm
việc với thân chủ.
- Thực hiện các kĩ năng chuyên môn: thiết lập mối quan hệ, thu thập dữ liệu, lắng
nghe,thấu cảm,vấn đàm, đánh giá điểm mạnh của thân chủ, phân tích và nhận diện
vấn đề...
- Tạo sự tự tin và khả năng làm việc với thân chủ.
- Nhận thức được mối quan hệ của NVXH với thân chủ.
- Tăng khả năng vấn đàm và tìm cách đối phó với thân chủ trong khi làm việc.
- Làm quen và kết hợp lý thuyết vào thực hành.
- Rèn luyện thái độ tích cực và luôn có động lực hướng đến học tập.
- Tôn trọng các nguyên tắc, giá trị,văn hóa và quy chuẩn đạo đức trong CTXH.
- Rút ra được bài học cho bản thân.
b. Đối với thân chủ:
- Giúp thân chủ nhìn nhận được vấn đề của mình.
- Tạo cảm giác thoải mái, vui vẻ khi làm việc với NVXH.
- Tạo động lực, niềm tin để thân chủ có niềm tin vào cuộc sống.
- Giúp thân chủ ổn định tâm lý.
- Giúp cho thân chủ có nhiều mối quan hệ tốt.
- Tháo gỡ rào cản mặc cảm của thân chủ với mọi người xung quanh.
3.Phương pháp và kĩ thuật thu nhập dữ liệu:

- Trong thời gian kiến tập, để hoàn thành báo cáo, tôi đã thực hiện các phương pháp
sau:
-

Tạo mối quan hệ với các thân chủ và các thầy cô trong cơ sở.
Chấp nhận thân chủ và giữ bí mật thông tin của thân chủ.
Không phán xét và tôn trọng thông tin của cá nhân thân chủ
Phân tích và đánh giá thông tin.
Quan sát nhằm mục đích thu thập thông tin về trẻ qua các lĩnh vực cụ thể như: hành
vi, nhận thức, giao tiếp hòa nhập xã hội…Phát hiện mặt tích cực và khó khăn của
thân chủ, đánh giá khả năng của thân chủ, từ đó lập kế hoạch giúp đỡ thân chủ phát

triển.
- Lắng nghe những ý kiến, những gì thân chủ nói trong quá trình giao tiếp để biết
được nhu cầu của người cao tuổi…muốn gì và làm gì.
- Phỏng vấn để hiểu một cách đơn giản đó chính là đàm thoại, vấn đáp nhằm mục
đích tìm kiếm thông tin về trẻ.Qua phỏng vấn có thể thu thập những thông tin sâu


kín bên trong của thân chủ như: ý nghĩ, tình cảm, quan điểm, thái độ…mà bằng quan
sát không thể biết được
- Áp dụng phương của CTXH cá nhân trong làm việc với thân chủ là người già
4.Lý thuyết áp dụng:
a. Lý thuyết hệ thống:
-Thuyết hệ thống là một trong những lý thuyết quan trọng được vân dụng trong công tác xã
hội khi thực hiện một tiến trình giúp đỡ cá nhân không thể thiếu được.
-Khái niệm hệ thống : Hệ thống là một tập hợp nhiều yếu tố,đơn vị cùng loại hoặc cùng
chức năng, có quan hệ hoặc liên hệ với nhau chặt chẽ, làm thành một thể thống nhất.(Từ
điển Tiếng Việt, 2004, NXB Đà Nẵng, trang 434)
Góc độ CTXH: “Hệ thống là một tập thể các thành tố được sắp xếp có trật tự và liên hệ với

nhau có hoạt động thống nhất. Con người phụ thuộc vào hệ thống trong môi trường xã hội
nhằm đáp ứng nhu cầu trực tiếp của mình trong cuộc sống”. Các quan điểm trong hệ thống
công tác xã hội có nguồn gốc từ lý thuyết hệ thống tổng quát của Bertalanffy. Đây là một lý
thuyết sinh học cho rằng “ mọi tổ chức hữu cơ đều là những hệ thống được tạo nên từ các
tiểu hệ thống và ngược lại cũng là một phần của hệ thống lớn. Do đó con người là một bộ
phận của xã hội và được tạo nên từ các phân tử,mà được tạo dựng từ các nguyên tử nhỏ
hơn.
-Sau này, lý thuyết hệ thống được các nhà khoa học khác nghiên cứu: Hanson(1995),
Mancoske(1981), Siporin(1980)...và phát triển.
Người có công đưa lý thuyết hệ thống áp dụng vào thực tiễn công tác xã hội phải kể đến
công lao của Pincus và Minahan cùng các đồng sự khác. Tiếp đến là Germain và Giterman.
Hệ thống
Là tập hợp những thành tố được sắp xếp theo một trình tự và quy luật theo một thể thống
nhất.
Tiểu hệ thống
Là hệ thống thứ cấp hoặc hệ thống hỗ trợ. Các tiểu hệ thống tạo nên hệ thống lớn hơn.
Có 3 loại hệ thống thỏa mãn cuộc sống của con người:
• Hệ thống chính thức: tổ chức công đoàn, cộng đồng...
• Hệ thống phi chính thức: bạn bè,gia đình...
• Hệ thống xã hội: bệnh viện,nhà trường...
Lý thuyết hệ thống đã chỉ ra các mối liên kết tất yếu trong mạng xã hội giữa cá nhân với
cá nhân. Trong CTXH không thể không chú ý tới sự ảnh hưởng qua lại đó. Tạo dựng và


phát huy những tiềm năng sức mạnh của hệ thống sẽ tạo nên những thế lợi trong thực hành
CTXH.
Trong tiến trình can thiệp giải quyết vấn đề của thân chủ, NVXH sẽ phải vận dụng lý
thuyết hệ thống bao gồm:

Cá nhân


Nhân viên
CTXH
Gia đình

Xã hội

b. Thuyết trị liệu nhận thức:
Trị liệu nhận thức là phương pháp tác động vào thân chủ, làm thay đổi nhận thức tiêu
cực của họ. Phương pháp này sư dụng kĩ thuật “ chuyển cơ cấu tư duy” trong hoạt động
giúp đối tương. Bao gồm các yếu tố sau:
+ Giúp thân chủ nhận thức được các suy nghĩ sai lầm đã có ảnh hưởng đến các hoạt
động chức năng của thân chủ.
+ Xóa bỏ những suy nghĩ sai lầm và thay vào là nhữn tư duy xác thực và hành động
có tính chất tích cực để tăng cường hoạt động chức năng của thân chủ.
+ Một số ứng dụng có ảnh hưởng về hình thức trị liệu nhận thức chính là chương
trình “lí luận và phục hồi” được sử dụng theo chương trình dịch vụ về quán chế và
những môi trường tư pháp khác..
+ Tái tạo nhận thức là hình thức nổi tiếng của trị liệu nhận thức.
+ Hình thức trị liệu nhận thức cấu trúc có liên quan đến 3 cấu trúc trong ý thức của
thân chủ.
+ Một số phương thức trị liệu nhận thức đã được kết hợp với phương thức thay đổi
hành vi để trị liệu các vấn đề liên quan đến tâm lý như lo lắng, sợ hãi...


c. Thuyết nhu cầu của MASLOW:
-Theo thuyết A. Maslow, nhu cầu tự nhiên của con người chia thành các thang bậc khác
nhau từ “đáy” lên “đỉnh”, phản ánh mức độ “cơ bản” của nó đối với sự phát triển và tồn
tại của con người vừa là một sinh vật tự nhiên vừa là một thực thể xã hội.
Bậc thang nhu cầu của Maslow

Mức cao

- Nhu cầu tự khẳng định mình: nhu cầu hoàn thiện,phát
triển trí tuệ được thể hiện qua khả năng và tiềm lực của
mình.
- Nhu cầu được coi trọng: được chấp nhận có một vị trí
trong một nhóm người,.
- Nhu cầu xã hội: được hội nhập nhu cầu quan hệ như quan
hệ giữa người với người, quan hệ giữa con người với tổ
chức xã hội hay giữa con người với tự nhiên.
- Nhu cầu được an toàn xã hội: tình yêu thương, nhà ở,
trường học...
Mức thấp
Nhu cầu về vật chất: ăn, ở,mặc,học hành...
Lý thuyết nhu cầu là cơ sở để căn cứ xác định nhu cầu cần thiết của thân chủ. Đó là
nhu cầu được học tập, vui chơi, giải trí,nhu cầu về an toàn xã hội, nhu cầu được coi
trọng...từ đó đưa ra kế hoạch can thiệp.
d. Thuyết hành vi và ứng dụng trong công tác xã hội cá nhân
- Quan điểm hành vi bắt nguồn từ cơ sở của tâm lí cho rằng: con người có phản ứng
do có một sự thay đổi của môi trường, gọi là tác nhân kích thích.Phản ứng của con người là
nhằm thích nghi với các tác nhân kích thích này.Theo thuyết này, hành vi của chúng ta
không phải là tự có mà do chúng ta học, hoặc chúng ta được củng cố hành vi đó.Theo lập
luận này, chúng ta có thể học được những hành vi khác để thay thế những hành vi không
mong muốn, không thích nghi.
-Thuyết hành vi cổ điển đặt cơ sở trên lập luận và nhấn mạnh đến việc tạo ra những
hành vi mong muốn thông qua tăng cường các củng cố tích cực đối với những hành vi này
và ngược lại. Biểu diễn dưới dạng mô hình:
S

R


B

Trong đó:
S (subject): Tác nhân kích thích
R (reflexion): Phản ứng của con người
B (behavior): Kết quả hành vi
+ Khi có một tác nhân kích thích (S) sẽ có rất nhiều khả năng phản ứng(R) của con
người. Nhưng dần dần sẽ có một phản ứng R1 có xu hướng lặp đị lặp lại do chúng ta được
học hoặc được củng cố.Như vậy, hành vi của chúng ta không phải là tự có mà do chúng ta


học, hoặc chúng ta củng cố nó.Theo lập luận này, chúng ta có thể học được những hành vi
khác để thay thế những hành vi không mong muốn, không thích nghi.
+Thuyết hành vi được phát triển thành ba nhánh cơ bản, trong đó nhánh hành vi cổ
điển và nhận thức – hành vi được đề cập đến nhiều hơn trong công tác xã hội.
- Kết luận ứng dụng trong công tác xã hội cá nhân
+Ứng dụng thuyết hành vi trong làm việc với cá nhân hướng đến việc giúp các cá
nhân thay đổi thông qua việc học tập những hành vi mới tích cực
+Cách giải quyết vấn đề theo mô hình này tập trung vào tiến trình lập kế hoạch thay
đổi hành vi thông qua việc tạo ra môi trường cho cá nhân tăng cường hành vi tốt và hạn
chế hành vi chưa tốt.
+Phương pháp này được đánh giá là hiệu quả nếu áp dụng cho những đối tượng cần
thay đổi hành vi cũ.Ví dụ như trẻ em vi phạm pháp luật, khi đó nhân viên xã hội tạo môi
trường để trẻ em học tập hành vi mới có ích cho bản thân trẻ và những người xung quanh.
+Tuy nhiên, để thực hiện một cách hiệu quả các củng cố tích cực và tiêu cực, nhân
viên xã hội càn phải thực hiện việc thưởng (củng cố tích cực) và phạt (củng cố tiêu cực)
một cách nghiêm khắc trong suốt quá trình thực hiện hỗ trợ thân chủ thay đổi hành vi.
e.Quan điểm sinh thái trong công tác xã hội cá nhân
- Quan điểm sinh thái có nguồn gốc từ quan niệm của Lewinian (1936) rằng hành vi là

một hoạt động của con người có sự tương tác với môi trường của họ.Đề cập đến các tương
tác tương hỗ, phức tạp và rộng lớn giữa cơ thể sống và môi trường xung quanh.
- Đây là một lí thuyết rất quan trọng trong nền tảng triết lí của ngành Công tác xã hội
nó nói len sự liên hệ giữa các hệ thống (các tổ chức nhóm) và vai trò của cá nhân trong môi
trường sống. Được gọi là lí thuyết sinh thái (Ecological theory).
-Lý thuyết môi trường sinh thái này có ảnh hưởng rất nhiều đến các phương thức thực
hành như: tư vấn, xử lý ca, phát triển cộng đồng và thiết kế cộng đồng…
- Quan điểm sinh thái nhìn nhận hành vi và sự phát triển của mỗi cá nhân trong bối
cảnh của một chuỗi hệ thống cac mối quan hệ tạo nên môi trường sinh thái của con người
ấy.Quan điểm này chỉ ra các lớp cắt của môi trường sinh thái, bao gồm ba cấp độ: vi mô,
trung mô và vĩ mô.Sự thay đổi, hoặc xung đột trong bất kì lớp cắt nào của môi trường cũng
có thể gây ảnh hưởng đến các lớp khác.
Môi trương gồm 3 cấp độ:
(1) Cấp độ vi mô: là các quan hệ trực tiếp của từng cá nhân, hay nói cách khác, nó
chính là cuộc sống của cá nhân mỗi con người.Ví dụ: gia đình là nơi cá nhân sinh ra và lớn


lên có ảnh hưởng trực tiếp, lớp học là nơi cá nhân tham gia hằng ngày để thu thập kiến
thức kĩ năng, cơ quan là nơi cá nhân cống hiến sức lao động và sự sáng tạo để khẳng định
mình…
(2) Cấp độ trung mô bao gồm 2 loại: cấp trung mô nội sinh là sự tương tác giữa hai hệ
thống ở cấp vi mô mà có ảnh hưởng trực tiếp lên đối tượng.Ví dụ mối liên lạc giữa gia đình
và nhà trường gây nên sự ảnh hưởng trực tiếp tới sinh viên.Cấp trung mô ngoại sinh là là
môi trường mà đối tượng không nằm trong đó, tuy nhiên môi trường này có ảnh hưởng tới
họ.
(3) Cấp độ vĩ mô: là những yếu tố là bản chất hay quy định của xã hội, cộng đồng có
ảnh hưởng đến cá nhân nằm trong đó.Nói cách khác, tổng thể đó được xem xét trên các
lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn hóa tác động tới cuộc sống các thành viên.
-Gia đình
-Lớp học

-Cơ quan

Cấp độ vi mô

-Bạn bè
-Trung mô nội sinh
-Trung mô ngoại sinh

Cấp độ trung mô

-Văn hóa
-Tôn giáo
-Các đặc điểm của cộng đồng,Cấp độ vĩ mô
dân tộc
-Các chính sách pháp luật
- Xã hội là một chỉnh thể toàn vẹn có cơ cấu phức tạp, được kết cấu bởi toàn bộ các cá
nhân của xã hội trong mối quan hệ tương tác lẫn nhau và tương tác với tự nhiên.
- Từ cách nhìn nhận này, nhân viên xã hội thay vì tập trung sửa chữa các “sai lầm”
của cá nhân, họ sẽ pháy huy vai trò biện hộ để cải tạo môi trường sinh thái nhằm đem lại
các mối quan hệ tốt hơn cho con người sống trong đó.

PHÂN II: BÁO CÁO THỰC HÀNH
A.GIỚI THIỆU VỀ CƠ SỞ XÃ HỘI


Tên gọi của cơ sở: TRUNG TÂM BẢO TRỢ XÃ HỘI ĐÀ NẴNG
Địa chỉ: Tổ 137 Đà Sơn, Phường Hòa Khánh Nam, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.
Tên cơ quan chủ quan của cơ sở: Sở Lao động – Thương binh và xã hội thành phố Đà
Nẵng.
Điện thoại liên hệ: (0511) 3842475

1.Lịch sử hình thành
- Trung tâm thành lập năm 1996
- Được thành lập theo ý tưởng của Bác Nguyễn Bá Thanh
- TTBTXH Thành phố Đà Nẵng là đơn vị trực thuộc Sở LĐ – TBXH TP Đà Nẵng. Thực
hiện chức năng tiếp nhận, quản lí nuôi dưỡng, giáo dục các đối tượng xã hội theo nghị
1định số 68/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ ban hành quy chế thành lập và
hoạt động của trung tâm bảo trợ xã hội
- Diện tích đất tự nhiên: 20.000 m2
-Bình quân/đối tượng: 117 m2/đối tượng
- Diện tích đã xây dựng: 2.687 m2
- Diện tích bình quân phòng ở của đối tượng: 07 m2/đối tượng
-Trong Trung tâm hiện nay có
Tổng số đối tượng đang quản lý: 165 đối tượng/82 nữ (23/11/2015)
Trong đó:
- Nuôi dưỡng lâu dài: 148 đối tượng/78 nữ;
- Thu gom: 17 đối tượng/ 04 nữ, trong đó:
+ Đà Nẵng: 07 đối tượng/03 nữ;
+ Phía Nam: 04 đối tượng/0 nữ;
+ Phía Bắc: 04 đối tượng/0 nữ;
+ Không rõ: 02 đối tượng/01 nữ
* Trong đó chế độ áp dụng cho các nhóm đối tượng
- Trẻ em từ 1- 4 tuổi: 1.350.000 đ/tháng/cháu;
- Trẻ em từ 4 - 16 tuổi và người 60 tuổi trở lên: 1.050.000 đ/tháng/người;


- Người từ 16 đến 60 tuổi: 810.000 đ/tháng/người;
- Người lang thang xin ăn trên địa bàn: 750.000 đ/tháng/người.
2. Chức năng nhiệm vụ
- Lúc đầu chỉ quản lý các thanh niên nghiện hút
- Trong một năm thực hiện 3 nhiệm vụ

+ Tiếp nhận những đối tượng lang thang cơ nhỡ
+ Thu gom những đối tượng xin ăn và các tổ chức xin ăn , kiểm tra đủ điều kiện thì đưa
vào Trung tâm, không đủ thì bảo lãnh về
+ Xử lí những trường hợp khẩn cấp : Những người yếu thế bị gặp chuyện, chính quyền địa
phương đưa vào để làm công tác tư tưởng, chăm sóc, tham vấn tâm lí
Mục đích của cơ sở:
- Phối kết hợp với cộng đồng tạo một môi trường hỗ trợ toàn diện, chung tay góp sức
nâng cao chất lượng cuộc sống và tăng cường trách nhiệm xã hội, nhằm tạo điều kiện
thuận lợi nhất để đảm bảo việc chăm sóc người già cô đơn không nơi nương tựa, trẻ em
mồ côi, khuyết tật, người tâm thần… được hưởng những phúc lợi tốt nhất với sự quan
tâm của cộng đồng xã hội.
- Góp phần giải quyết các vấn đề an sinh xã hội đồng thời giúp cho các đối tượng có điều
kiện sống và sinh hoạt tốt hơn, đảm bảo về mặt sức khỏe và tinh thần cho đối tượng.
- Phát huy giá trị thực tiễn trong thực hiện nhiệm vụ chính trị mà Đảng, Nhà nước giao
cho.
- Thể hiện tinh thần nhân văn, giá trị truyền thống trong cộng đồng giúp đỡ những người
-

có hoàn cảnh không may trong cuộc sống.
Ổn định tình hình kinh tế xã hội.
Phát triển và cải thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội.
Là cầu nối giữa các đối tượng và cộng đồng.
Bảo vệ về mặt pháp lí cho các đối tượng được quy định theo chức năng.
Cung cấp dịch vụ chăm sóc kịp thời, an toàn cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
Cung cấp thông tin, kiến nghị cần thiết đến cơ quan quản lí, cơ quan chức năng, chính

quyền vì lợi ích tốt nhất của các đối tượng.
- Thực thi chức năng, nhiệm vụ được giao.
-


Chăm sóc khẩn cấp, chức năng này mới được hình thành sau khi nghiên cứu các

nước về công tác xã hội.
3. Đối tượng chính của cơ sở phục vụ:


- Trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi.
- Người khuyết tật không nơi nương tựa, không có khả năng tìm kiếm thu nhập.
- Người cao tuổi cô đơn.
- Người bị tâm thần đã thuyên giảm.
- Những người lang thang xin ăn cơ nhỡ.
* Phần lớn các đối tượng lang thang xin ăn đều tập trung vào trung tâm này. Trung tâm
tiếp nhận, giải quyết đối tượng lang thang xin ăn, cơ nhỡ như: trẻ em bỏ nhà đi, người đi
ăn xin chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp.
+ Nhóm 1 - Trẻ em bỏ nhà đi: Được trung tâm nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh,
phục hồi chức năng. Qua thời gian nếu đối tượng phục hồi và có nguyện vọng sẽ
được trung tâm cho hòa nhập cộng đồng.
+ Nhóm 2 - Người ăn xin chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp: Được trung tâm lập
hồ sơ, xác minh, giáo dục để họ nhận thức. Những đối tượng khó khăn ở nhóm này
sẽ được chuyển sang nhóm 1, những đối tượng còn khả năng thì trung tâm sẽ xác
minh, giáo dục vận động gia đình, chuyển về địa phương.
4. Cơ cấu tổ chức
a. Ban điều hành:
* Họ và tên Giám đốc: Hệ Thị Thanh Hương,
Điện thoại: Di động: 0935165919, Email:
• Các Phó Giám đốc:
+ Trần Công Be .

Di động: 0905080586


+ Nguyễn Ngọc Cần.

Di động: 0905107289

+ Lê Văn Hai.

Di động: 01225771301

∗ Trách nhiệm của Giám đốc:
- Giám đốc là chủ tài khoản trực tiếp quyết định các vấn đề về quản lí sử dụng tài chính,
tài sản theo quy định của Nhà nước.
- Giám đốc trung tâm là thủ trưởng đơn vị có trách nhiệm quản lí điều hành toàn diện hoạt
động của trung tâm. Chịu trách nhiệm trước lãnh đạo cấp trên và pháp luật Nhà nước
trong việc chỉ đạo các hoạt động quản lí nghiệp vụ chuyên môn tại đơn vị mình.
- Quản lí công tác tổ chức cán bộ, thi đua khen thưởng, hành chính.


- Tổ chức thực hiện các quy định của Nhà nước về bảo vệ môi trường, an ninh, trật tự xã
hội và đảm bảo an toàn, bí mật quốc gia trong hoạt động đơn vị, thực hiện nghĩa vụ đối
với nhà nước, chính sách ưu đãi đối với các đối tượng chính sách.
- Tổ chức thực hiện quản lí, sử dụng cán bộ, viên chức theo quy định của pháp luật; đảm
bảo các chế độ, quyền lợi về tiền lương, tiền công, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.
∗ Trách nhiệm của các Phó giám đốc:
- Phó Giám đốc trung tâm là người hỗ trợ, giúp đỡ cho Giám đốc, thực hiện nhiệm vụ
theo sự phân công của giám đốc, chịu trách nhiệm trước giám đốc và pháp luật về kết
quả thực hiện các nhiệm vụ được phân công.
- Trực tiếp phụ trách công tác quản lí, giáo dục, hướng nghiệp, dạy nghề…
- Tổ chức chỉ đạo thực hiện các đề án, kế hoạch, chương trình công tác, tổ chức trao đổi
nghiệp vụ chuyên môn để nâng cao trình độ chuyên môn cho các cán bộ viên chức thuộc
lĩnh vực mình phụ trách, kể cả việc mình thi hành công vụ cho cán bộ viên chức thuộc

quyền.
- Các phó giám đốc có trách nhiệm báo cáo với giám đốc kết quả thực hiện những công
việc được Giám đốc ủy quyền, được phân công phụ trách.
b. Các bộ phận trong tổ chức:
- Phòng Tổng hợp - hành chính – kế toán:
+ Thực hiện trình tự, thủ tục tiếp nhận, phân loại đối tượng để có biện pháp hỗ trợ
theo quy định.
+ Đề xuất, xây dựng chương trình kế hoạch công tác, theo dõi các hoạt động của cơ
quan, tổng hợp báo cáo theo quy định của Sở LĐ-TBXH.
+ Tiếp nhận công văn, thực hiện tốt công tác lưu trữ, quản lú hồ sơ đối tượng và
phát hành các loại công văn theo đúng quy định của pháp luật.
+ Phối hợp xây dựng kế hoạch và phát động, hướng dẫn các phong trào thi đua, theo
dõi và tham mưu sơ, tổng kết, đề xuất khen thưởng theo đúng quy định.
+ Quản lí, sử dụng và thanh quyết toán các nguồn kinh phí, thực hiện các chế độ về
tài chính theo đúng quy định của nhà nước, thực hiện các chế độ về tiền lương, bảo
hiểm xã hội. Tham mưu xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch kinh phí, dự toán các
nguồn kinh phí hàng năm của trung tâm.
+ Kiểm tra, giám sát việc sử dụng các nguồn kinh phí đúng mục đích, tiết kiệm và
hiệu quả.
- Phòng quản lý và tư vấn:
+ Tham mưu cho Giám đốc trung tâm trong việc phân loại đối tượng mới đưa vào
để giải quyết đúng theo quy định.


+ Tổ chức công tác tuyên truyền vận động, truyền thông về các quy định của pháp
luật về phòng chống tệ nạn xã hội.
+ Tổ chức cho đối tượng hòa nhập về cộng đồng khi có đủ điều kiện.
- Phòng y tế và phục hồi chức năng:
+ Phối hợp với ngành y tế khám sức khỏe cho đối tượng mới vào trung tâm để xác
định trình trạng sức khỏe, bệnh tật và lập hồ sơ ban đầu, tổ chức chữa trị theo phác

đồ của ngành y tế; phục hồi sức khỏe cho từng đối tượng đúng theo quy định của
pháp luật; giúp đối tượng phát triển lành mạnh về thể chất, tinh thần, có đủ điều kiện
tái hòa nhập cộng đồng.
+ Tổ chức chăm sóc sức khỏe các đối tượng, hướng dẫn phòng và điều trị.
+ Giữ gìn bảo quản tốt thuốc điều trị, dụng cụ và trang thiết bị y tế, xuất nhập thuốc
đúng theo quy định.
+ Đảm bảo công tác an toàn vệ sinh thực phẩm, vệ sinh phòng đối tượng, nhà ăn,
nguồn nước sinh hoạt.
5.Tình hình về cán bộ, nhân viên ở cơ sở:
a. Tổng số cán bộ, công nhân viên: 31 người
Trong đó: Nữ: 17 người
b. Trình độ đào tạo
Số
lượng

Số
TT

Trình độ đào tạo

Số lượng đào tạo chuyên
Trong

ngành phù hợp với công tác

(người đó nữ
)

xã hội (công tác xã hội, tâm
lý, xã hội học, giáo dục đặc

biệt…)

1

Trên đại học

2

Đại học

3

Cao đẳng

4

Trung cấp

8

5

Sơ cấp, công nhân kĩ thuật

3

6

Điều dưỡng viên trung cấp


7

Điều dưỡng viên sơ cấp

13


8

Chưa qua đào tạo

7

c. Định biên cán bộ theo vị trí công việc (chức danh) của cán bộ viên chức tại cơ sở:
Số TT

Chức danh

Số lượng

Trong đó nữ

(người)
1

Giám đốc

01

01


2

Phó giám đốc

03

3

Trưởng/phó phòng (ban)

03

4

Nhân viên chăm sóc trực tiếp các đối tượng

11

08

5

Nhân viên làm công tác dinh dưỡng (tiếp

03

03

03


02

phẩm, nấu ăn)
6

Kỹ thuật viên phục hồi chức năng

7

Y tá, bác sỹ

8

Giáo viên dạy văn hoá, dạy nghề

9

Nhân viên hành chính, văn thư

03

02

10

Kế toán

01


01

11

Lái xe

01

12

Nhân viên phụ trách điện, nước

01

13

Bảo vệ

01

14

Nhân viên khác, cụ thể:
Tổng cộng

31

17

6. Các hoạt động chăm sóc đối tượng:

a. Mục tiêu hoạt động của Trung tâm:
- Xã hội hóa là mục tiêu hàng đầu của trung tâm như làm công tác tư tưởng, liên lạc với
các gia đình của đối tượng để nhận nuôi, tạo điều kiện để các đối tượng được trở về với
xã hội, với gia đình.
- Nhằm giảm những đối tượng sống lang thang cơ nhỡ, những người già không có nơi
nương tựa, những người ăn xin, có hoàn cảnh khó khăn, người tàn tật, không có khả


năng lao động…, cho họ một mái ấm tình thương, một nơi ăn ở để họ có một cuộc sống
tốt hơn. Giảm tối thiểu những vấn đề xã hội xảy ra với những đối tượng này.
- Bảo đảm an toàn an ninh xã hội, tạo điều kiện để những đối tượng yếu thế nhận được
những nguồn giúp đỡ từ xã hội.
- Chăm sóc, bảo vệ, nuôi dưỡng trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi, phục hồi chức năng cho trẻ em
khuyết tật, giúp đỡ những em nạn nhân chất độc da cam, những người bị tâm thần, thiểu
năng trí tuệ…
- Tổ chức tiếp nhận, hỗ trợ, chăm sóc ban đầu, quản lý, giáo dục và tổ chức lao động cho
đối tượng lang thang, ăn xin; tạo điều kiện cho họ có cuộc sống ổn định tái hòa nhập
cộng đồng; góp phần xóa bỏ lang thang, ăn xin ảnh hưởng đến đời sống an ninh trật tự
của Thành phố.
- Tổ chức hoạt động phục hồi chức năng, lao động sản xuất, trợ giúp các đối tượng trong
các hoạt động tự quản, văn hóa, thể thao và các hoạt động khác phù hợp với lứa tuổi và
sức khỏe của từng nhóm đối tượng.
- UBND Thành phố đã đưa ra các Quyết định về chính sách trợ giúp các đối tượng
bảo trợ xã hội trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng để Trung tâm thực hiện tốt mục tiêu và
nhiệm vụ của mình.
b. Các hoạt động chăm sóc đối tượng ( hệ thống quản lý ca )
* Về công tác chăm sóc nuôi dưỡng và y tế
- Công tác nuôi dưỡng đối tượng được thực hiện chu đáo, ngoài chế độ
theo quy định của nhà nước, đơn vị còn chủ động cải thiện tăng thêm thông qua công
tác sản xuất trồng rau màu tại chỗ, đồng thời thu hút, kêu gọi các tổ chức, cá nhân từ

thiện đến tặng quà, hỗ trợ cải thiện bữa ăn cho đối tượng, nhất là đối với người già và
trẻ em. Thực hiện tốt khâu chế biến thực phẩm phù hợp với những người bị bệnh tim
mạch, cao huyết áp... Nhà bếp, nhà ăn, khu chế biến thực phẩm luôn gọn gàng, sạch sẽ.
Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm được chú trọng, cử cán bộ cấp dưỡng tập huấn lớp
bồi dưỡng kiến thức vệ sinh an toàn thực phẩm. việc lấy và lưu mẫu thức ăn thực hiện
đúng quy trình quy định, không để xảy ra trường hợp ngộ độc hay dịch bệnh do ăn
uống.
-Khi vào trung tâm các đối tượng trên đều được mua bảo hiểm y tế,được
chăm sóc sức khỏe Trung tâm có từng hoạt động riêng cho từng loại đối tượng
-Đối với những người già,họ được chăm sóc đầy đủ, ăn uống và được chia sẻ, tâm
sự với những người đồng cảnh ngộ, xóa đi phần nào những nỗi khổ khi không có con
cháu, người thân bên cạnh để chăm sóc.


-Đối với những người mắc bệnh tâm thần, qua các hoạt động sinh hoạt hằng ngày,
trung tâm phân biệt mức độ nặng nhẹ, từ đó có biện pháp trị liệu. Những người mắc
tâm thần nhẹ, trung tâm sử dụng lao động trị liệu để điều trị và tạo điều kiện cho họ
tiếp xúc với những người bình thường để họ có -khả năng học tập và thích ứng với
sinh hoạt bình thường và dần dần phục hồi. Những người mắc tâm thần nặng thì được
trung tâm chuyển giao đến các trại tâm thần để chữa bệnh.ối với trẻ em thì cũng được
trung tâm chăm sóc, giáo dục, những em tự nuôi sống bản thân.
-Đối với người khuyết tật thì trước đây có khu vực luyện tập và có một nhân viên
phục hồi chức năng nhưng đã chuyển đi nơi khác. Giờ đây thì một tuần có 3 lần thì có
một nhân viên đến tập luyện tập cho người khuyết tật. Người khuyết tật là những đối
tượng mà trung tâm tập trung chăm sóc nhiều nhất. Và trong thời gian gần đây, có một
nhóm sinh viên Mỹ, mỗi buổi sáng đều đến luyện tập cho họ và chế tạo những thiết bị
để giúp họ có thể đi lại.
-Đối với người lang thang, xin ăn thì họ được bảo vệ, che chở, được ăn uống đầy
đủ và có chỗ ở ổn định. Họ được chia sẻ, tâm sự với những người cùng hoàn cảnh,
phần nào vơi đi những nỗi buồn mà họ đã nếm trải.

*Về công tác quản lý, giáo dục và tổ chức lao động sản xuất
-Tiếp nhận đối tượng do chính quyền địa phương và cơ quan chức năng tập trung
chuyển giao trong các đợt cao điểm theo tinh thần Chỉ thị 43-CT/TU của Thành ủy
Đà Nẵng. Đơn vị đã thành lập khu tiếp nhận nhằm quản lý chặt chẽ số đối tượng mới
vào và một số đối tượng hay vi phạm Nội qui đơn vị. Thường xuyên giáo dục pháp
luật, chính sách của Nhà nước, Qui chế đơn vị, trật tự nội vụ...nhằm giúp đối tượng
hiểu rõ và sống có tổ chức theo qui trình, qui định của Trung tâm.
-Hàng tháng tổ chức họp bà con đối tượng để nghe phản ánh tâm tư nguyện vọng
và những kiến nghị, đề xuất của bà con, cũng như việc quán triệt thực hiện nghiêm
túc nội quy, quy định của đơn vị
-Tổ chức cho đối tượng còn sức khỏe lao động trồng rau xanh đã thu nhập hàng
trăm kg rau các loại bổ sung vào bếp ăn tập thể góp phần cải thiện tăng thêm bửa ăn


cho đối tượng. Qua đó là một trong những phương pháp giáo dục, lao động trị liệu,
rèn luyện sức khỏe cho đối tượng. Đồng thời qua công tác tổ chức lao động đã thực
hiện tốt công tác chăm sóc vườn hoa cây cảnh, trồng cây xanh, cây bóng mát, cây ăn
quả xây dựng cảnh quan môi trường ngày càng xanh - sạch – đẹp.
7.Nhận xét của sinh viên về các hoạt động của sơ sở:
- Sau chuyến tham quan thực tế chắc chắn rằng mỗi chúng ta sẽ có những đánh giá về cơ
sở mà chúng ta đã đến. Em cũng có những nhận xét, đánh giá của chính bản thân đối với
cơ sở dưới góc độ là một người đang học tập về công tác xã hội và phát triển cộng đồng.
- TTBTXH là một trung tâm rất có ý nghĩa, đã giúp cho các đối tượng có một cuộc sống
tốt hơn. Từ khi thành lập đến nay Trung tâm đã thực hiện tốt vai trò và trách nhiệm của
mình. Trung tâm đã tiếp nhận rất nhiều đối tượng, sẽ rất phức tạp trong việc quản lí và
đảm bảo việc chấp hành nội quy của các đối tượng. Song trung tâm đã đưa ra nhiều biện
pháp để các đối tượng chấp hành nghiêm chỉnh nội quy. Về các dịch vụ chăm sóc như y
tế, ăn uống cho các đối tượng ở đây cũng khá tốt.
- Qua thời gian tìm hiểu trung tâm, em nhận thấy trung tâm có những thuận lợi và khó
khăn:

∗ Thuận lợi:
+ Là TTBTXH công lập, được sự chỉ đạo – lãnh đạo của Sở LĐ-TBXH, các chế độ,
chi phí sinh hoạt được Nhà nước cấp.
+ Được nhiều cá nhân, tổ chức từ thiện quan tâm, giúp đỡ.
+ Các đối tượng ở trung tâm được hưởng các chế độ nuôi dưỡng, chăm sóc, có bảo
hiểm y tế và được mai táng khi chết.
+ Đội ngũ cán bộ - viên chức ở trung tâm nhiệt tình, tận tâm, tận tụy trong việc nuôi
dưỡng, chăm sóc các đối tượng và có tâm huyết với nghề.
∗ Khó khăn:
+ Tuy được Nhà nước trợ cấp cho các đối tượng tại trung tâm nhưng mức định mức
về chi tiêu trong công tác nuôi dưỡng từ nguồn Ngân sách Nhà nước cấp cho các đối
tượng hiện nay còn khá thấp đã gây rất nhiều khó khăn cho việc chi tiêu của cơ sở và
ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của các đối tượng được bảo trợ.
+ Thiếu các trang thiết bị kỹ thuật phục vụ nhiệm vụ chuyên môn; cơ sở vật chất
thiếu thốn, xuống cấp; chưa đáp ứng được tiêu chuẩn nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục và phục hồi chức năng cho đối tượng.
+ Tuy tận tình trong công việc nhưng đội ngũ cán bộ chăm sóc ở trung tâm còn hạn
chế bởi trình độ học vấn và chuyên môn do chưa được đào tạo bài bản, lại thiếu
chính sách đào tạo và bồi dưỡng.


+ Lương và các chế độ đãi ngộ dành cho các cán bộ - nhân viên còn thấp, không
đảm bảo bù đắp sức lao động và chi phí cho cuộc sống bản thân. Điều này đã dẫn tới
việc rất khó thu hút và tuyển dụng nhân viên vào các cơ sở bảo trợ xã hội.
 Để khắc phục những khó khăn nêu trên,nhóm chúng em nghĩ việc đảm bảo các điều kiện
tối thiểu về cơ sở vật chất, con người là những yếu tố quyết định đến chất lượng chăm
sóc các đối tượng tại trung tâm. Muốn vậy, cần tăng cường đào tạo và bồi dưỡng nâng
cao năng lực cho đội ngũ cán bộ, nhân viên đang làm công tác này theo hướng chuyên
nghiệp, đồng thời có chế độ đãi ngộ thỏa đáng để họ yên tâm làm việc.
 Cần đổi mới nội dung hoạt động của trung tâm để các đối tượng còn khả năng có thể tự

chăm sóc mình, tự quản lí lấy các điều kiện vật chất mà Nhà nước đã đầu tư, tự giác
tham gia các hoạt động lao động, liệu pháp để có thêm sản phẩm… để phục vụ cho
chính mình, cải thiện và nâng cao đời sống, khắc phục tình trạng còn hạn hẹp trong chế
độ trợ cấp xã hội.
 Nhà nước cần điều chỉnh chế độ nuôi dưỡng hiện nay cho phù hợp với tình hình thực
tiễn; đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa ở trung tâm, thu hút sự tham gia của các tổ chức phi
Chính phủ, tổ chức từ thiện và các nhà hảo tâm trong và ngoài nước.


B.TIẾN TRÌNH THỰC HÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI
CÁ NHÂN
1.Bối cảnh chọn thân chủ
- Vào lúc 15 giờ ngày 18/4/2016 tại Trung tâm Bảo trợ xã hội Đà Nẵng, hôm nay đã
là buổi thứ 3 em đi thực hành tại Trung tâm, 2 buổi đầu tiên em đã đi tham quan khắp
các khu trong đây, ngày hôm nay em đi vào khu người già, các cụ trong đây rất niềm
nở, nói chuyện rất vui, hài hước, hầu như tất cả đều cảm thấy thoải mái với sự có mặt
của em nhưng duy chỉ có một cụ bà dường như chẳng mảy may quan tâm đến sự xuất
hiện của em, cụ ngồi thu mình trong góc giường, mắt buồn nhìn xa xăm, chẳng quan
tâm đến mọi việc xung quanh. Thấy lạ,em đã đến gần bên, chào cụ hai lần, hỏi cụ hơn
một làn nhưng cụ vẫn ngồi im và mặc kệ em.Khi em ngồi xuống bên cạnh cụ thì cụ
xích ra, hành động này của cụ làm em cảm thấy có chút tổn thương, em chưa bao giờ
rơi vô hoàn cảnh như vậy,cảm giác như bị hất hủi,xa lánh nhưng suy nghĩ lại, em
nhận ra chắc chắn là cụ đã và đang gặp một chuyện gì đó rất đáng sốc nên mới khiến
tâm lí của cụ đã thay đổi.Điều này đã khiến em muốn tìm hiểu và giúp đỡ cụ. Và em
đã chọn cụ làm thân chủ, mặc dù biết sẽ không dễ dàng.
2.Hồ sơ xã hội của thân chủ
Họ và tên : Nguyễn Thị Thức


Phái tính : Nữ

Ngày tháng năm sinh : 1932
Nơi sinh : Điện Phước, Điện Bàn, Quảng Nam
Hiện cư ngụ tại : Trung tâm Bảo trợ xã hội thành phố Đà Nẵng

MẪU MỞ HỒ SƠ CÔNG TÁC XÃ HỘI CÁ NHÂN
1. Tiếp nhận đối tượng:
Thông qua (Điện thoại/Trung tâm/gặp mặt trực tiếp) : gặp mặt trực tiếp
Thời gian : 15h, ngày 18/04/2016
Địa điểm : Trung tâm Bảo trợ xã hội Đà Nẵng
2. Thông tin cá nhân nhân viên Công Tác xã hội
Trường: Đại học sư phạm Đà Nẵng
Tên

: Huỳnh Thị Hiếu

Ngày, tháng, năm sinh: 01/04/1996
Lớp: 14CTXH
Khoa:Tâm lí – Giáo dục
Nơi sinh: Duy Xuyên - Quảng Nam
Hiện cư ngụ tại: Câu Lâu Đông, Duy Phước-Duy Xuyên-Quảng Nam
3. Thông tin cá nhân thân chủ
Chỗ ở hiện tại:

: Trung tâm Bảo trợ xã hội Đà Nẵng

Họ và tên

: N.T.T

Phái tính


: Nữ

Ngày, tháng, năm sinh : 1932
Nơi sinh

: Điện Phước, Điện Bàn-Quảng Nam

4. Đặc điểm của đối tượng : Bình thường
-Nguồn thông tin cung cấp : Nhân viên, cán bộ ở Trung tâm
-Những đánh giá ban đầu về đối tượng : thân chủ it tiếp xúc với người mọi
người xung quanh
5. Ghi chép nhiệm vụ :Đánh giá - kết luận của nhân viên xã hội :
+Nhân viên xã hội có gắng đặt mình vào vị trí của đối tượng như :những trải
nghiệm thực


tế, những khó khăn mà thân chủ hay gặp phải, vấn đề gia đình, bạn bè…
+Tìm hiểu và cố gắng xác định những cảm xúc hiện tại, các mối quan hệ của
thân chủ.
-Những biện pháp khẩn cấp ban đầu đã cung cấp cho đối tượng (nếu có )

-Các thông tin khác về thân chủ
+Cụ Thức năm nay 84 tuổi,cụ sinh ra và lớn lên ở xã Điện Phước, huyện Điện Bàn,
tỉnh Quảng Nam, cuộc đời cụ là những chuỗi ngày dài vất vả. Chỉ sống với ba mẹ
được một thời gian thì họ mất do chiến tranh, cụ còn chưa có một người em nào thì
ba mẹ đã đi xa rồi, đau buồn nhưng rồi cụ phải tự bương chải kiếm cái ăn để sống
trong thời buổi loạn lạc đó, rồi trên đường rong rủi cụ gặp được người thương, vì cả
hai bên không còn cha mẹ nên đã quyết định về sống với nhau và không tổ chức một
lễ cưới như bao nhiêu người khác, hai vợ chồng sinh sống rất hạnh phúc, nhưng cũng

chỉ được một thời gian, khi cụ vừa sinh người con thứ hai được vài tuổi thì cụ ông
mất. Cụ đã rất đau buồn, nhưng rồi nhận ra bản thân mình phải mạnh mẽ để các con
có chỗ dựa. Cụ đã quyết định đưa hài cốt của chồng mình về quê nhà cụ chôn cất.
Chồng mất sớm, cụ một mình nuôi hai con khôn lớn. Cụ đã làm nhiều nghề, nhiều
công việc khác nhau để kiếm tiền nuôi con, từ việc đi nhặt ve chai, rồi đi làm công
cho người ta,....Với những đồng lương ít ỏi đó thì bà cùng các con phải sống cuộc
sống rất chật vật.Tiết kiệm, chắt chiu lắm mới đủ cho con ăn học. Các con ngày càng
lớn, nhu cầu mức sống ngày càng cao, cụ nhận ra với chừng ấy tiền lương thì cụ
không thể lo cho con được , sẵn có người hàng xóm mách nước là nên bán bánh mì,
cụ suy nghĩ một thời gian rồi quyết định làm, cụ đã phải vay mượn rất nhiều chỗ để
có đủ vốn mở xe bánh mì, đúng là ông trời không phụ lòng người, cụ buôn bán rất
đắt, không mấy chốc, cụ đã được số nợ mình mượn và còn dư dả chút ít. Các con cụ


cũng có đời sống tốt hơn,thấy các con lớn lên khỏe mạnh, bình an cụ vui lắm. Số tiền
để dành ngày càng nhiều hơn, cụ nghĩ tới việc sẽ mở rộng công việc làm ăn, và cụ đã
mở lò bánh mì, thuê người làm, vừa làm bánh mì, vừa bán , vừa phân phối cho các
chỗ khác. Lò bánh mì nhà cụ ngày càng buôn bán được, hai con cụ bây giờ cũng lớn
rồi, họ không muốn đi học nữa, cả hai đều muốn ở nhà phụ mẹ trông coi lò bánh mì
mà mẹ đã dành nhiều tâm huyết vào đó. Không muốn nhưng các con kiên quyết nên
cụ đành cho con nghỉ học để phụ cụ. Ba mẹ con đã cùng nhau trông coi, quán xuyến
mọi việc . Rồi các con cụ lần lược biết yêu, rồi muốn bà dựng vợ, hai con bà vậy là
đã yên bề gia thất. Hai con trai bà và con dâu lớn đều làm ở lò bánh mì, con dâu nhỏ
đi may. Bà có 2 đứa cháu nội, một cháu 23 tuổi, một cháu 20 tuổi. Các cháu bà hiện
đang học Đại học ở Sài Gòn. Những tưởng cuộc sống của gia đình cụ sẽ mãi yên ấm
như vậy, nhưng đời thường không như mong ước, càng sống lâu, trong nhà càng xảy
ra nhiều xích mích, cụ và con dâu lớn thường xuyên cãi nhau, mâu thuẫn ngày lớn
dần, con trai cụ dường như cũng đứng về phía vợ, hay lớn tiếng với mẹ, cằn nhằn
mẹ.Vợ chồng con trai út thấy vậy hay can ngăn, nhưng lại bị anh trai la, lấn áp nên họ
muốn đưa mẹ ra ngoài ở nhưng cụ không chịu vì cụ không muốn sống ở nơi khác

ngoài nhà mình. Không thuyết phục được mẹ nên họ đã dọn ra ngoài ở, để tiện việc
cho vợ đi làm, còn chồng đi xe ôm, vì không hòa thuận với anh trai nên họ cũng ít về
nhà thăm mẹ, chỉ về lúc không có vợ chồng anh trai.
Vì không thể bảo ban được con cái, lại bị con la mắng, nặng nhẹ nên cụ Thức buồn
lắm, đâm ra đau ôm liên miên, nhưng vẫn không được con chăm sóc chu đáo, cô con
dâu còn tỏ vẻ bực mình,...May mà có hàng xóm biết chuyện nên qua hỏi thăm,...
Một thời gian sau, con trai cụ nói là sẽ dọn qua nhà vợ ở nhưng vẫn qua đây làm
việc, không muốn nhưng biết không cản được con nên cụ đành im lặng. Cụ sống một
mình được hơn nữa năm thì con trai cụ qua thuyết phục cụ bán nhà và lò bánh mì,


bán xong sẽ mua nhà mới và đón cụ qua ở, rồi mở quán tạp hóa chứ không bán bán
bánh mì nữa, lúc đầu cụ kiên quyết không chịu nhưng thương con quá cụ đã im lặng
để con tự quyết, con trai nhỏ biết chuyện đã phản đối , 2 anh em đã xảy ra xung đột,
rồi còn đánh nhau, nhưng cô con dâu nhỏ đã không cho chồng tranh cãi nhiều nên
mọi việc đã diễn ra theo tính toán của vai vợ chồng anh trai. Sau khi bán được, họ đã
không quay về tìm mẹ mà để mặc mẹ sống tạm trong cái nhà thờ . Cụ thì ngày ngày
chờ con quay về đón còn con thì bặt vô âm tín, vì sợ con nên cụ không dám đến nhà
tìm, cũng không dám nói với con trai nhỏ vì sợ con lo, hai vợ chồng con trai nhỏ
cũng không biết việc mẹ bị bỏ rơi. Các cháu của cụ cũng ít về thăm nhà, chỉ liên lạc
qua điện thoại với ba mẹ nên cũng không biết tình trạng của bà nội. Sau một thời
gian, dùng hết số tiền mình có, cụ đói, khát, nhận ra mình không thể nhờ hàng xóm
mãi nên cụ đã bỏ đi, đi lang thang xin ăn và bị bắt đưa vào Trung tâm, ở trong đây
được hơn 2 năm rồi. Hai năm ở đây, chỉ có một lần là vợ chồng con trai út vô thăm,
đem cho. cụ ít quà rồi từ đó, không nghe tin tức gì của gia đình cụ nữa
-Tình trạng học vấn, chuyên môn : Vì sinh ra trong chiến tranh, thời buổi loạn lạc,
cái ăn còn chưa có, phải khó khăn lắm mới tồn tại được , nên việc học là chuyện
không tưởng, không phải ai cũng được đến trường, phải là gia đình có điều kiện và
quen biết rộng mới mong được cắp sách,chuyện học ngày đó không giống như bây
giờ,cụ Thức chỉ được học hết lớp 3 thì ba mẹ mất, họ hàng không đủ điều kiện để lo

cho cụ nên cụ nghĩ và tự lo cho bản thân, bắt đầu những chuyến đi xa, đi bôn ba
kiếm miếng ăn. Lúc đi học, cụ gặp không ít khó khăn, sách vở không đủ, áo quần thì
không có mặc, ăn thì đói lên đói xuống, khó khăn chồng chất khó khăn.
-Tình trạng nghề nghiệp : Trước đây cụ cùng các con làm việc tại lò bánh mì ở nhà,
nhưng cách đây 2 năm cụ đã được đưa vào Trung tâm Bảo trợ xã hội Đà Nẵng sinh


×